Chương 1: Khái quát chung về trái phiếu quốc tế.
1.1 Khái niệm, phân loại và đặc điểm của thị trường trái phiếu quốc tế
1.2. Quy trình phát hành
1.3. Mục tiêu của phát hành trái phiếu trên thị trường quốc tế:
Chương 2: Tác động của phương thức phát hành trái phiếu quốc tế:
2.1. Tác động của phương thức phát hành trái phiếu quốc tế:
2.2. Ưu và nhược điểm của phương thức phát hành trái phiếu quốc tế:
Chương 3: Thực trạng của việc phát hành trái phiếu quốc tế của Việt Nam ra thị trường quốc tế:
3.1. Phát hành trái phiếu quốc tế của Chính phủ:
3.2. Phát hành trái phiếu quốc tế của các doanh nghiệp Việt Nam:
Chương 4: Giải pháp cho vấn đề phát hành trái phiếu quốc trong giai đoạn hiện nay:
LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay nền kinh tế thế giới đang phát triển không ngừng, vị thế của các nước dần thay đổi bởi tốc độ phát triển của các quốc gia mới nổi, nơi mà nền kinh tế hứa hẹn những cơ hội đầu tư tiềm năng. Với những lợi thế chưa được khai thác như nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, nguồn lao động dồi dào đang được đào tạo chuyên nghiệp và hoàn thiện hơn và nhu cầu về vốn đang được đặt lên hàng đầu. Vì vậy, các quốc gia đang phát triển luôn luôn tìm mọi cách để thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn huy động được. Ngoài nguồn vốn huy động trong nước, các quốc gia tìm mọi cách để thú hút nguồn vốn bên ngoài.
Trong khi đó, thị trường cổ phiếu quốc tế thời gian qua đang chao đảo trước sự sụt giảm liên tục của hàng loạt các chỉ số lớn và việc giảm điểm liên tục trong các phiên giao dịch tại các trung tâm giao dịch lớn như New York, Tokyo, Hồng Kông. Bên cạnh đó, cơn bão khủng hoảng tài chính do các biến động trong thị trường tài chính thứ cấp bắt đầu từ Mỹ đã lan ra một số nền kinh tế khác kéo theo chỉ số niềm tin vào thị trường chứng khoán thế giới nói chung sụt giảm nghiêm trọng. Thị trường chứng khoán xuống dốc là một khó khăn cực kỳ to lớn đối với những công ty, những tổ chức tài chính muốn thông qua thị trường này để huy động vốn cho các dự án đầu tư của mình. Phát hành cổ phiếu lúc này trở nên một quyết định nhiều rủi ro khiến các công ty đau đầu. Chính lúc này thì thị trường trái phiếu tỏ ra là một lựa chọn thích hợp, đặc biệt là thị trường trái phiếu quốc tế do những ưu điểm của thị trường này đem lại cho nhà đầu tư và những tồ chức muốn huy động vốn.
Việt nam là một nước đang trên đà phát triển mạnh mẽ nên nhu cầu về vốn để đầu tư phát triển là rất cao. Trong bối cảnh này, phát hành trái phiếu quốc tế là một kênh huy động vốn hiệu quả mà Chính phủ và các doanh nghiệp nên tìm hiểu và tận dụng để phục vụ cho nhu cầu phát triển, nhưng nhìn chung thì loại hình này còn khá mới mẻ do đó thông qua đề tài này hướng mọi người có cái nhìn cận cảnh hơn về các lần phát hành trái phiếu quốc tế của Việt nam và hướng phát triển trong tương lai.
36 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 7498 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Trái phiếu quốc tế, tổng quan, thực trạng và giải pháp tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quốc tế :
Phát hành trái phiếu quốc tế có thể giúp doanh nghiệp huy động được lượng vốn lớn với kỳ hạn dài để tài trợ cho các nhu cầu kinh doanh của mình. Ngoài ra, thông qua đó, doanh nghiệp có thể quảng bá thương hiệu. ra thế giới. Bản thân doanh nghiệp cũng trưởng thành và trở nên hấp dẫn trong mắt nhà đầu tư nhờ việc tuân thủ các chuẩn mực quốc tế. Có thể nói, một doanh nghiệp được các nhà đầu tư quốc tế quan tâm sẽ dễ dàng thu hút sự quan tâm của cộng đồng đầu tư.
Đồng tiền phát hành:
Trái phiếu quốc tế có thể được phát hành bằng nhiều loại tiền khác nhau, nhưng hiện nay, trái phiếu được phát hành bằng đồng USD là phổ biến nhất. Một phần là do đồng tiền có thể lưu chuyển trong bất kỳ quốc gia nào, một phần là do tính ổn định của nó.
Tuy nhiên, đồng tiền phát hành trái phiếu không chỉ được lựa chọn bằng một loại duy nhất, mà có thể là một danh mục các đồng tiền. Hơn nữa, thời hạn trái phiếu là quá dài để có thể chọn ra một đồng tiền nào đó là an toàn, do đó việc chọn một danh mục các đồng tiền có thể làm giảm thiểu rủi ro về sự tăng giảm giá trị của một đồng tiền.
Quyền sử dụng vốn:
Tổ chức phát hành trái phiếu có toàn quyền trong việc sử dụng vốn vay và không chịu sự ràng buộc nào từ phía các nhà đầu tư. Đây là một ưu điểm vượt trội hơn so với việc phát hành cổ phiếu. Nếu như các cổ đông có quyền tham gia vào các quyết định định đầu tư cũng như cách thức sử dụng vốn, và đôi khi vì mâu thuẫn trong lợi ích nhận được từ các quyết định đầu tư mà các cổ đông sẽ ngăn cản, thậm chí bác bỏ các dự án đầu tư mặc dù chúng sẽ đem lại lợi nhuận cho công ty; thì ngược lại, các trái chủ hoàn toàn đứng ngoài các quyết định này.
Quyền quyết định khối lượng và thời hạn của trái phiếu:
Khối lượng vốn huy động và thời hạn của trái phiếu đều do tổ chức phát hành quyết định. Điều này tỏ ra có hiệu quả tốt, nhất là trong các trường hợp phát hành trái phiếu trung và dài hạn.
Chi phí:
Chi phí có thể thấp hơn nếu xét về lâu dài, khi đã có được sự tin tưởng của thị trường thì càng về sau lãi suất huy động có thể giảm. Phát hành trái phiếu quốc tế không chỉ là một phương thức huy động vốn đơn thuần mà nó còn là một cách khẳng định uy tín của tổ chức phát hành trên thị trường vốn quốc tế.
Quan trọng hơn nữa, nếu như các khoản nợ và lãi vay được thanh toán đúng hạn, cũng như vốn vay được sử dụng hiệu quả, đem lại lợi nhuận cao cho công ty thì sẽ làm gia tăng uy tín và kéo theo việc nâng bậc hệ số tín nhiệm, một chỉ số rất quan trọng mà các nhà đầu tư thường tham khảo khi muốn đầu tư vào một công ty. Một khi công ty được đánh giá cao thì lãi suất vay cho những lần phát hành sau sẽ giảm hơn lần trước.
Không cần thế chấp :
Phát hành trái phiếu không đòi hỏi phải có tài sản bảo đảm hay thế chấp. Điều đó giúp các công ty chủ động hơn trong việc sử dụng tài sản của mình trong kinh doanh.
Công cụ quản lý nợ quốc gia :
Đối với những nước có thị trường tài chính phát triển, ngân sách nhà nước thặng dư, trái phiếu quốc tế còn đóng vai trò là công cụ để thực hiện chính sách quản lý nợ quốc gia. Thông qua việc phát hành mới trái phiếu ra thị trường quốc tế, chính phủ có thể chủ động điều tiết danh mục tài sản nợ chính phủ để thực hiện các chính sách tài chính tiền tệ.
Đối với nhà đầu tư :
Về phía các nhà đầu tư, khi mua các trái phiếu quốc tế họ cũng thường tham khảo thêm chỉ số tín nhiệm của tổ chức phát hành do các tổ chức có uy tín lâu năm xếp hạng. Để có thể đưa ra các chỉ số này thì các tổ chức xếp hạng đã phải căn cứ vào rất nhiều yếu tố quan trọng như tình hình tài chính, doanh số, các dự án… của công ty. Điều đó có nghĩa là các tổ chức xếp hạng đã đảm bảo một phần cho sự an toàn khi đầu tư vào trái phiếu của các tổ chức đó.
Nhược điểm của việc phát hành trái phiếu quốc tế :
Bên cạnh những ưu điểm, thì việc phát hành trái phiếu quốc tế vẫn có những nhược điểm sau đây :
Đối với tổ chức phát hành:
Các doanh nghiệp muốn phát hành trái phiếu quốc tế là chi phí tư vấn, minh bạch hóa thông tin và đáp ứng các yêu cầu thủ tục là không nhỏ. Ngoài ra, doanh nghiệp còn chịu rủi ro ngoại hối do vay vốn bằng ngoại tệ trong khi tiền đồng có xu hướng giảm giá. Nếu không có nguồn thu trong tương lai bằng ngoại tệ hoặc thực hiện các công cụ bảo hiểm, doanh nghiệp có thể sẽ bị thua lỗ do biến động tỉ giá.
Phát hành trái phiếu ra thị trường vốn quốc tế hoàn toàn không phải là chuyện đơn giản chút nào. Các tổ chức phát hành phải tuân thủ chặt chẽ các thông lệ quốc tế về trình tự, thủ tục phát hành và cách thức thanh toán trái phiếu. Những thủ tục này tương đối phức tạp, đòi hỏi phải được chuẩn bị chu đáo về cơ sở pháp lý, kinh tế, các kỹ thuật nghiệp vụ phức tạp như lựa chọn thị trường, loại tiền tệ, hình thức phát hành, lựa chọn người bảo lãnh, đại lý thanh toán, tư vấn pháp lý. Tất cả các nghiệp vụ này đều yêu cầu phải được tiến hành thận trọng bởi những chuyên gia có kinh nghiệm.
Trái phiếu quốc tế thường trung hoặc dài hạn mà những trái phiếu càng dài hạn thì rủi ro tiềm ẩn càng cao. Khi đầu tư vào các trái phiếu này các nhà đầu tư đứng trước nguy cơ đối mặt với các rủi ro về khủng hoảng kinh tế, thay đổi lãi suất, tỷ giá hay khả năng thanh toán của tổ chức phát hành. Điều đó buộc các tổ chức phát hành phải có những cam kết vay chặt chẽ với những điều khoản khắt khe hơn để tạo lòng tin nơi các nhà đầu tư.
Để phát hành trái phiếu quốc tế buộc phải có sự xếp hạng tín nhiệm của một công ty xếp hạng uy tín mà chi phí cho việc mời công ty đó thường không rẻ và việc mời các công ty xếp hạng thường là công ty nước ngoài sẽ cần nhiều thời gian để đưa ra xếp hạng.
Nguy cơ là chính phủ và các công ty trong nước sẽ trở nên phụ thuộc quá nhiều vào các khoản vay nước ngoài, để né tránh những quyết định khó khăn hơn nhưng cần thiết để củng cố hệ thống tài chính trong nước. Nếu sử dụng các khoản vay này không hiệu quả thì các doanh nghiệp tiếp cận với thị trường vốn quốc tế thì rủi ro phải trả một cái giá khá đắt cho những khoản vay không mang lại mấy giá trị. Bên cạnh đó, ngay cả trong giai đoạn thị trường thuận lợi thì nhà nước vẫn phải thận trọng trong việc giữ nợ ở mức kiểm soát được để tránh những cú sốc chắc chắn sẽ xảy ra trong tương lai.
Lãi suất trên thị trường tài chính quốc tế sẽ được quyết định theo thị trường quốc tế và sẽ phản ánh mức chi phí vốn thực tế so với các nước khác. Với chính sách kinh tế mở, hội nhập kinh tế quốc tế sản phẩm hàng hóa quốc gia cần phải cạnh tranh trên thị trường thế giới. Lãi suất trái phiếu quốc tế sẽ phản ánh chi phí vốn thực tế của quốc gia trên thị trường và sẽ giúp cho chính phủ cũng như các công ty tính toán đầu tư vào các dự án có hiệu quả, đảm bảo sản phẩm có thể cạnh tranh được trên thị trường. Đây là một bước đi chiến lược đảm bảo tính hiệu quả và cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập.
Lãi suất có thể cao hơn lãi suất danh nghĩa của các khoản vay ưu đãi, tín dụng xuất nhập khẩu và vay qua ngân hàng nước ngoài. Tuy nhiên theo dự đoán nguồn ODA sẽ giảm trong tương lai tín dụng xuất nhập khẩu thường kèm theo các ràng buộc đẩy phí vay lên cao, trong khi hệ thống ngân hàng không đủ đáp ứng nhu cầu vốn trung dài hạn. Huy động vốn bằng phát hành trái phiếu quốc tế sẽ đa dạng hóa các nguồn vốn vay, tạo kênh huy động vốn trung dài hạn, nếu được quản lý thận trọng, hạn chế được những ảnh hưởng tiêu cực đến an ninh tài chính quốc gia, hình thức huy động mới này sẽ tạo động lực thúc đẩy tiến trình tự do hóa, hội nhập kinh tế quốc tế.
Phải xây dựng kế hoạch sử dụng có hiệu quả ngay tiền thu được từ phát hành trái phiếu quốc tế: Với hình thức huy động vốn qua thị trường trái phiếu quốc tế, một lượng vốn lớn sẽ được thu về trong một thời gian ngắn, cho nên, cần có kế hoạch cụ thể để giải ngân ngay cho đầu tư, tránh ứ động vốn sẽ làm tăng chi phí, gây nên lãng phí trong đầu tư.
Có kế hoạch cụ thể trong thanh toán nợ gốc và lãi trái phiếu khi đáo hạn: Chính phủ cần phải có kế hoạch cân đối nguồn thu và chuẩn bị nguồn ngoại tệ đủ để thanh toán lãi và vốn gốc khi đáo hạn. Nếu việc thanh toán không được đảm bảo sẽ ảnh hưởng đến uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế, và đến các đợt phát hành tiếp sau.
Đối với nhà đầu tư :
Trái phiếu quốc tế thường trung hoặc dài hạn mà những trái phiếu càng dài hạn thì rủi ro tiềm ẩn càng cao. Khi đầu tư vào các trái phiếu này các nhà đầu tư đứng trước nguy cơ đối mặt với các rủi ro về khủng hoảng kinh tế, thay đổi lãi suất, tỷ giá hay khả năng thanh toán của tổ chức phát hành.
Từ những phân tich trên ta có thấy rằng phát hành trái phiếu quốc tế có những khó khăn và thuận lợi nhất định, nếu như có phương án phát hành và sử dụng vốn vay hợp lý thì việc làm này sẽ mang lại hiệu quả cho toàn bộ nền kinh tế, kích thích nền kinh tế phát triển mạnh hơn; nếu sử dụng nguồn vốn này không hiệu quả, nó sẽ tác động tiêu cực đến đến nền kinh tế, kìm hãm sự phát triển kinh tế của quốc gia. Do đó, phát hành trái phiếu quốc tế là việc làm cần phải được cân nhắc kỹ lưỡng dựa vào các yếu tố khách quan như điều kiện thị trường tại thời điểm phát hành cũng như các điều kiện chủ quan như tính hấp dẫn của trái phiếu, sự chuẩn bị của doanh nghiệp trong việc đáp ứng yêu cầu của nhà đầu tư quốc tế….
Chương 3: Thực trạng của việc phát hành trái phiếu quốc tế của Việt Nam ra thị trường quốc tế:
Phát hành trái phiếu quốc tế của Chính phủ:
Phát hành trái phiếu quốc tế lần đầu tiên 2005:
Thực trạng phát hành:
Ngày 27-10-2005, Chính phủ Việt Nam lần đầu tiên chính thức phát hành ra thị trường vốn quốc tế trái phiếu quốc tế kỳ hạn 10 năm tại New York. Theo dự định ban đầu, Việt Nam sẽ phát hành ở mức 500 triệu USD với lãi suất 7,5%/năm nhưng do nhà đầu tư đăng ký lên đến 4,5 tỷ USD, Việt Nam đã quyết định phát hành 750 triệu USD, giá bán 98,223% so với mệnh giá với mức lãi suất 7,125% tuy nằm dưới mức định hướng 7,25% lúc đầu nhưng thấp hơn trái phiếu các nước tương đương như Philippines (8,09%) và Indonesia (7,75%) là 90 và 60 điểm và được niêm yết tại thị trường Singapore. Trong số các trái phiếu được phát hành, các quỹ đầu tư tài chính nắm 51%, ngân hàng nắm 25%, các công ty bảo hiểm nắm 17,5% và các tổ chức khác nắm 7% còn lại. Đặc biệt là số trái phiếu này các châu lục bao gồm châu Á nắm giữ 38%, châu Âu nắm giữ 32% và châu Mỹ nắm 30% còn lại ). Điều quan trọng nhất là việc một trái phiếu phát hành từ châu Á có mức lãi suất thấp đã thực sự được phân bổ toàn cầu mà không bị dồn vào các nhà đầu tư châu Á.
Mức lãi suất 7,125%/năm cho trái phiếu thời hạn 10 năm là một mức lãi suất rất có lợi cho Việt Nam bởi nó thấp hơn mức lãi suất trái phiếu của các nước có cùng, thậm chí cao hơn mức xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam như Philippines, Indonesia – những nước có mặt trên thị trường trái phiếu quốc tế từ lâu (Việt Nam có hệ số tín nhiệm lần lượt là B1/BB-/BB- theo Moody’s/Standard & Poors/Fitch; hệ số tín nhiệm của Indonesia là B2/B+/BB- nhưng lãi suất trái phiếu là 7,7%/năm.
Nguyên nhân của sự phát hành thành công là do :
Thứ nhất, các nhà đầu tư quốc tế tin tưởng vào tương lai sáng sủa của nền kinh tế Việt Nam sau khi chứng kiến hơn 10 năm đổi mới trước đó.
Thứ hai, các nhà đầu tư tỏ ra lạc quan với việc Việt Nam được coi là nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao và ổn định thứ hai châu Á, chỉ sau Trung Quốc. Bên cạnh đó, phải kể đến việc sụt giảm lòng tin của nhà đầu tư đối với trái phiếu cùng loại của Indonesia và Phillipines do tình hình kinh tế chính trị các nước này trong khoảng thời gian đó không ổn định lắm.
Thứ ba, đến thời điểm năm 2005, cơ hội phát hành trái phiếu Chính phủ lần đầu tiên ra thị trường vốn quốc tế đã thực sự tốt. Trước hết, các khoản nợ thương mại và Chính phủ quá hạn do yếu tố lịch sử trước đây đã được xử lý dứt điểm thành công thông qua Câu lạc bộ London và Paris. Nợ quốc gia đang ở mức 32% GDP, được đánh giá là an toàn (Phillipines là 72%, Indonesia 80%)
Kết quả phát hành:
Nếu so với mức lãi suất cho vay ngoại tệ trong nước với thời hạn cho vay ngắn, khối lượng cho vay rất hạn chế, thì việc huy động phát hành trái phiếu quốc tế này là có hiệu quả.
Sau 1 năm phát hành, trái phiếu quốc tế của Chính phủ Việt Nam đã được Tạp chí Tài chính quốc tế và các nhà đầu tư khu vực châu Á đánh giá là trái phiếu phát hành thành công nhất của năm 2005. Bên cạnh đó, Ông Jon Pratt – lãnh đạo Thị trường vốn châu Á của Ngân hàng Credit Suisse First Boston (CSFB) nhận định rằng đây là một đợt phát hành trái phiếu quốc tế tạo bước ngoặt đặc biệt và tạo nền tảng quan trọng cho các đợt phát hành sau vì sự thành công của đợt phát hành này đã có ý nghĩa tác động đến các nhà đầu tư quốc tế để họ xây dựng các hạn mức tín dụng đầu tư vào Việt Nam trong tương lai.
Phát hành trái phiếu quốc tế năm 2010:
Thực trạng phát hành:
Ngày 26-01-2010, Việt Nam đã đánh dấu sự trở lại thị trường trái phiếu quốc tế với đợt phát hành 1 tỷ USD trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 10 năm với lãi suất danh nghĩa 6,75%/năm và lợi tức phát hành là 6,95%/năm dưới sự phối hợp của tổ hợp bảo lãnh bao gồm Barclays Capital, Citi, Deutsche Bank.
Trái phiếu này được niêm yết tại Sở Giao dịch Chứng khoán Singapore và đáo hạn vào ngày 29/1/2020. Mặc dù định mức tín nhiệm của Việt Nam cao hơn cả Indonesia và Phillippines một bậc, thế nhưng mức lợi tức của trái phiếu chính phủ Việt Nam (6,95%/năm) cao hơn mức lợi tức của Indonesia và Phillippines phát hành trong tháng 1-2010 đến 1%/năm. Cụ thể là Philippines phát hành 1 tỉ USD trái phiếu ngày 7/1/2010 và đã vay được với lãi suất 5,67%, Indonesia phát hành 2 tỉ USD ngày 13/1/2010, lãi suất cũng chỉ 6%. Năm 2009, tổ chức xếp hạng Moody’s đã xếp hạng tín nhiệm Việt Nam ở mức Ba3 như hai năm trước đó. Mức xếp hạng này tương đương với Philippines và thấp hơn 1 bậc so với Indonesia, nhưng thấp hơn 3 bậc so với mức chuẩn của đầu tư trái phiếu. Theo Standard&Poors, Việt Nam được xếp hạng BB, cao hơn mức BB- của Indonesia và Philippines.
Nguyên nhân của mức lãi suất cao:
Thứ nhất, trong quá trình triển khai đợt phát hành này, Việt Nam phải đối mặt với không ít diễn biễn bất lợi từ tình hình kinh tế thế giới. Do nhu cầu kích thích kinh tế sau khủng hoảng, hàng loạt các quốc gia như: Indonesia, Phillippines, Hy Lạp, Mehico, Ba Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Slovakia.... đã tung ra thị trường quốc tế hàng chục tỉ USD trái phiếu.
Trong khi đó, đối mặt với sự sụp đổ hàng loạt các ngân hàng và tập đoàn kinh tế lớn của Mỹ, Tổng thống Obama đã đề xuất đưa ra một số quy định hạn chế các định chế tài chính nắm giữ các khoản đầu tư rủi ro: Ngân hàng Dự trữ liên bang Mỹ (FED) sẽ được quyền kiểm tra bất cứ tập đoàn ngân hàng và tài chính nào có tài sản lớn hơn 50 tỷ USD; đồng thời có quyền buộc các ngân hàng phải cắt giảm hoặc đình chỉ các hoạt động giao dịch nhiều rủi ro; các tập đoàn tài chính lớn phải ký quỹ 50 tỷ USD dự phòng nhằm giải cứu chính nó khi bị thua lỗ,…Ngoài ra thị trường tài chính quốc tế cũng đang lo ngại về các biện pháp thắt chặt kinh tế của Trung Quốc.
Thứ hai, về phía Việt Nam, dù hơn Indonesia và Philippines một bậc ở Bảng xếp hạng tín nhiệm của S&P, nhưng không được đánh giá cao bằng hai nước này, vì chưa có đà lên hạng: Việt Nam phát hành trái phiếu, khi tình hình lạm phát và sự định giá thấp đồng tiền, khủng hoảng cán cân thanh toán và dự trữ của Việt Nam sụt giảm, ảnh hưởng tới lòng tin của nhà đầu tư trong đợt phát hành lần này. Tóm lại, đó là sự lo ngại của các nhà đầu tư quốc tế về sự ổn định kinh tế vĩ mô trong tương lai của Việt Nam.
Thứ ba, sở dĩ Việt Nam sẵn sàng trả lãi suất cao để vay mượn, đó là vì Việt Nam đang rất cần ngoại tệ vào lúc cán cân thanh toán bị thiếu hụt, thâm thủng mậu dịch tiếp tục đáng ngại. Cụ thể trong năm khủng hoảng kinh tế thế giới, thâm hụt cán cân thương mại 18 tỷ đô la, năm 2009 khoảng 13 tỷ đô la, thời điểm đó chưa thấy có một sự biển chuyển kinh tế để tăng xuất khẩu và giảm nhập khẩu, cho nên nhập siêu vẫn là lớn.
Thứ tư, lợi tức trái phiếu của Việt Nam trong đợt phát hành này còn được căn cứ vào tình hình giao dịch của trái phiếu Việt Nam đáo hạn vào năm 2016 (VN2016), tính thanh khoản của trái phiếu Việt nam ngoài việc phụ thuộc vào tình hình thị trường vốn quốc tế tại thời điểm phát hành, hệ số tín nhiệm quốc gia. Theo đó, lợi tức của VN2016 so với lợi tức TP của Indonesia và Philippines có cùng thời gian đáo hạn (năm 2016) cao hơn từ 1,25 - 1,5%. TP có kỳ hạn còn lại 6 năm có mức chênh lợi tức khá lớn như vậy, nếu tính theo kỳ hạn 10 năm thì khả năng chênh lệch còn lớn hơn. Có hai điều mà bất kỳ một NĐT nào bỏ tiền ra mua TP cũng đặc biệt quan tâm là lợi tức và tính thanh khoản. Trong khi đó, do khối lượng TP Việt Nam giao dịch trên thị trường quốc tế còn mỏng, nên tính thanh khoản còn hạn chế. Do vậy, để có thể thu hút các NĐT, không có sự lựa chọn nào khác là phải dựa vào tỷ lệ lợi tức. Đây là một trong những lý do giải thích tại sao mức lợi tức TP của đợt phát hành lần này cao hơn một số nước có điều kiện phát hành tương đương.
Kết quả phát hành:
Từ những nguyên nhân trên, ta thấy sức cạnh tranh của Trái phiếu quốc tế Việt Nam khó sánh được với TP của các nền kinh tế tương đương trong khu vực.
Tuy nhiên, với nhiều nỗ lực nhằm củng cố uy tín trước khi phát hành trái phiếu trong bối cảnh lạm phát ở Việt Nam có thể ảnh hưởng đến niềm tin của các nhà đầu tư như: tổ chức quảng bá tại các thị trường châu Á (Hồng Kông), châu Âu (London) và châu Mỹ (Boston, New York),…Trái phiểu Chính phủ Việt Nam đã thu hút được sự quan tâm từ những luồng vốn chất lượng. Cụ thể là, 56% giao dịch thuộc về các nhà đầu tư Mỹ, 16% là các nhà đầu tư châu Âu và 28% là châu Á. Có thể nói, đây cũng là một đợt phát hành thành công của TP Việt Nam.
Nhận xét về hai đợt phát hành:
Tác động tích cực:
Phát hành trái phiếu Chính phủ trên thị trường quốc tế là một trong ba cách vay nợ nước ngoài để bù đắp thâm hụt Ngân sách Nhà nước. Việc phát hành thành công trong 2 lần đầu bước đầu sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam tiếp cận thị trường vốn quốc tế và tham gia trực tiếp vào thị trường này trong tương lai.
1 tỷ USD thu về trong lần hai sẽ là một nguồn thu ngoại tệ bổ sung khi nguồn cung ngoại tệ trong nước đang tương đối căng thẳng do khủng hoảng kinh tế trong và ngoài nước tác động đến xuất khẩu, kiều hối cũng như thu ngoại tệ từ du lịch. Có thể nói sự thành công của đợt phát hành 1 tỷ đô la trái phiếu quốc tế là đã đạt được mục tiêu mà chính phủ đề ra. Đó là có thêm nguồn vốn vay nước ngoài để trang trải cho thâm hụt ngân sách và thâm hụt cán cân thanh toán do nhập siêu.
Tác động tiêu cực:
Hiện tại Việt Nam đã phải mượn với lãi suất cao hơn thị trường. Hơn thế nữa, chính cách dùng số tiền vay được là mối quan tâm của giới phân tích, lo ngại rằng việc sử dụng không hợp lý sẽ đè nặng thêm trên nền tài chính Việt Nam vốn đang gặp khó khăn. Nếu như việc sử dụng nguồn vốn vay này là không có hiệu quả thì khi đó áp lực trả nợ gia tăng, làm cho chính phủ phải cắt giảm chi tiêu cho đầu tư. Sự cắt giảm này sẽ làm cho nền kinh tế trở nên trì trệ hơn.
Nợ Chính phủ gia tăng và rủi ro tài chính cao: Bội chi ngân sách trong những năm gần đây luôn duy trì ở mức cao. Mức bội chi trong năm 2009 lên tới 7% GDP, trong đó chưa bao gồm các khoản chi từ nguồn trái phiếu Chính phủ và các khoản Chính phủ vay về cho doanh nghiệp vay lại. Do thường xuyên ở trong tình trạng bội chi ngân sách nên nợ công (mà chủ yếu là nợ Chính phủ) tăng mạnh trong những năm gần đây. Năm 2008, nợ Chính phủ chiếm khoảng 36,5% GDP, năm 2009 ước lên đến 40% GDP và năm 2010 dự kiến khoảng 44% GDP. Nếu không có các biện pháp để giảm bội chi ngân sách thì nợ Chính phủ sẽ tiến dần đến mức giới hạn an toàn là 50% GDP. Điều này sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến an ninh tài chính quốc gia và làm giảm mức độ tín nhiệm của Việt Nam trên thị trường tài chính thế giới. Việc vay thêm 1 tỷ USD bằng ngoại tệ (tương đương 18.000 tỷ VND, ở thời điểm 2010) sẽ làm cho gánh nặng nợ nần càng thêm chồng chất, rủi ro gặp phải sẽ là rủi ro thanh toán và rủi ro tỷ giá. Rủi ro thanh toán là việc khi trái phiếu đáo hạn, Nhà nước sẽ phải dành ra một số lượng tiền tương ứng để thanh toán số tiền gốc đã vay, hơn nữa, hàng năm Việt Nam cũng sẽ phải chi trả lãi coupon tương ứng. Rủi ro tỷ giá do trong thời gian 10 năm cho tới ngày đáo hạn, diễn biến đồng USD cũng như VNĐ rất khó lường đặc biệt trong bối cảnh hiện nay khi phục hồi kinh tế thế giới cũng như sự phát triển của Việt Nam còn nhiều câu hỏi vẫn được bỏ ngỏ.
Đánh giá về việc sử dụng vốn vay:
Phát hành trái phiếu Chính Phủ ra thị trường quốc tế là một kênh huy động vốn hữu hiệu với nền kinh tế các nước đang phát triển. Nguồn vốn huy động được sẽ đáp ứng nhu cầu phát triển, đầu tư của Chính Phủ. Tuy nhiên, nếu không quản lý và sử dụng hiệu quả sẽ gây ra những tác động đảo ngược, tiêu cực và ảnh hưởng tới an ninh tài chính quốc gia cả theo lý thuyết lẫn thực tế Việt Nam hiện nay.
Trước hết, về đợt phát hành 2005, mục đích của đợt phát hành trái phiếu quốc tế này là nhằm cho vay lại đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển của tổng công ty công nghiệp tàu thuỷ Việt nam Vinashin. Toàn bộ 750 triệu USD từ đợt phát hành này, chính phủ cho Vinashin vay lại, thế nhưng tập đòan này đã đầu tư giàn trải và không hiệu quả, cách làm ăn tùy tiện không những thế mà còn dẫn đến nợ nần chồng chất. Đây là kết quả tất yếu từ yếu kém trong thanh tra, giám sát nguồn vốn vay từ việc phát hành trái phiếu.
Còn về đợt phát hành 2010, số tiền này ban đầu dự kiến cho một số dự án lớn, trong đó có Nhà máy lọc dầu Dung Quất vay lại, nhưng sau đó đã điều chuyển và Vinashin được vay 300 triệu USD để trả nợ cho ngân hàng Pháp.
Có thể nói vụ Vinashin sẽ có ảnh hưởng lâu dài và lan rộng, nó làm ảnh hệ số tín nhiệm của Vịệt Nam giảm, điều này khiến cho việc tiếp cận nguồn vốn quốc tế đối với các doanh nghiệp Việt Nam càng khó khăn hơn ( phải trả lãi suất cao hơn so với các công ty, doang nghiệp các nước trong cùng khu vực). Công ty Moody's đặc biệt nhấn mạnh đến nhu cầu vay nợ của Việt Nam trong những thập niên sắp tới. Một nước đang bắt đầu phát triển cần phải xây dựng hạ tầng cơ sở như đường sá, cầu, sân bay, bến cảng, không thể thiếu và không thể chậm được. Muốn vậy, phải vay nợ trên thị trường quốc tế. Ấy vậy, vì vụ Vinashin, nếu như Việt Nam muốn đi vay cho việc xây dựng hạ tầng cơ sở sẽ khó khăn hơn, và tất nhiên khi vay sẽ phải trả lãi suất cao hơn. Vì thế đối diện với vấn đề này, phải chăng Việt Nam có lẽ sẽ chậm trễ trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng ? Hậu quả là cả nền kinh tế sẽ chạy chậm lại, trong khi nhà nước tiếp tục lo trả nợ cho công ty Vinashin.
Phát hành trái phiếu quốc tế của các doanh nghiệp Việt Nam:
Phát hành thành công:
Ngày 17/11/2009, Công ty Cổ phần Vincom phát hành thành công 100 triệu USD trái phiếu chuyển đổi quốc tế và đã niêm yết trái phiếu này tại sàn giao dịch chứng khoán Singapore, trở thành doanh nghiệp Việt Nam đầu tiên phát hành và niêm yết trái phiếu ở thị trường vốn quốc tế. Trái phiếu chuyển đổi Vincom có kỳ hạn 5 năm được phát hành bằng đồng USD, không có tài sản đảm bảo và có lãi suất hàng năm là 6%, thanh toán sáu tháng một lần vào cuối kỳ. được phát hành nhằm đa dạng hóa kênh huy động vốn và cung cấp nguồn vốn dài hạn cho Công ty. Mục đích của việc phát hành trái phiếu đợt này là nhằm huy động vốn phục vụ việc triển khai các dự án bất động sản lớn của Công ty, gồm các tổ hợp BĐS cao cấp quy mô lớn tại Hà Nội: “Royal City” và “Eco City”. Trái phiếu này có thể được chuyển đổi thành cổ phần phổ thông của Vincom. Quyền chọn mua cổ phiếu chính là giá trị gia tăng của loại trái phiếu này, khiến nó trở thành mặt hàng rất hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. Hơn nữa, một yếu tố quan trọng trong thành công của đợt phát hành đó là đơn vị đứng ra bảo lãnh cho Vincom là Credit Suisse.
Trong năm 2007, Deutsche Bank đã tư vấn cho Vinashin phát hành 3.000 tỉ đồng (tương đương 187 triệu USD) trái phiếu trong nước và quốc tế. Báo Nhân Dân ngày 8/5/2007 đưa tin 3.000 tỉ đồng trái phiếu có kỳ hạn 10 năm, lãi suất 9%/năm và được Chính phủ bảo lãnh. Tiền thu về được Vinashin đầu tư xây dựng Nhà máy đóng tàu Cam Ranh, Nhà máy đóng tàu Dung Quất, mở rộng nhà máy đóng tàu 76 và cụm dự án ngành công nghiệp phụ trợ. Tạp chí Marine Money (Asia Edition) số 6 ngày 10/5/2007 cho biết chi tiết 95% người mua trái phiếu Vinashin do Deutsche Bank tư vấn là các ngân hàng nước ngoài, công ty bảo hiểm và các nhà buôn trái phiếu quốc tế.
Ngày 12/5/2011, Công ty Hoàng Anh Gia Lai, mã chứng khoán là HAG, đã chính thức là doanh nghiệp tư nhân đầu tiên của Việt Nam phát hành thành công trái phiếu doanh nghiệp trên thị trường quốc tế bằng cách đánh giá hệ số tín nhiệm mà không có sự bảo lãnh của một tổ chức nào thuộc chính phủ. Trái phiếu có kỳ hạn 5 năm với tổng giá trị 90 triệu USD thanh toán 1 lần vào đáo hạn. Lãi suất danh nghĩa là 9,875%. Giá phát hành ban đầu là 95,76 USD, có lợi suất đáo hạn 11%. Tổ chức Credit Suisse là tổ chức bảo lãnh duy nhất và công ty chứng khoán Sài Gòn là tổ chức tư vấn cho đợt phát hành này. Trước đó, vào cuối tháng 3 vừa qua, Hoàng Anh Gia Lai đã thực hiện niêm yết hơn 24,3 triệu chứng chỉ lưu ký toàn cầu (GDRs) trên Sở Giao dịch Chứng khoán London. Ngày 23-12-2010, Công ty Cổ phần Hoàng Anh Gia Lai đã tổ chức đại hội cổ đông bất thường năm 2010, thông qua phương án huy động vốn quốc tế bằng việc phát hành trái phiếu quốc tế và niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán Singapore (SGX) với tổng giá trị phát hành 200 triệu USD,thời hạn 5 năm với lãi suất sẽ được xác định sau khi Standard & Poor's và Moody's có được hệ số tín nhiệm của tập đoàn, thanh toán 6 tháng một lần cho đến ngày đáo hạn.Trái phiếu quốc tế của HAGL phát hành theo luật New York (Mỹ), doanh nghiệp có quyền mua lại trái phiếu này trong vòng ba năm kể từ ngày phát hành. Số tiền ròng thu về từ việc phát hành trái phiếu quốc tế được dùng để trồng mới và chăm sóc 15.000 ha cao su tại Campuchia, 25.000 ha cao su tại Lào và 11.000 ha cao su tại Việt Nam. Ngoài ra, HAGL cũng dùng nguồn vốn này để xây dựng nhà máy thủy điện Nậm Kông 2 và 3 ở Lào, thủy điện Đắk Srông 3A, 3B và Bá Thước 1, 2 ở Việt Nam.
Phát hành không thành công:
Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), hiện đang triển khai xây dựng 15 dự án điện, với tổng công suất 10.581 MW. Tổng vốn đầu tư cho 15 dự án là 9 tỷ USD. Ngoài ra, EVN còn có 11 dự án trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư, với tổng công suất 7.285 MW và đang thực hiện các thủ tục đầu tư 5 dự án nguồn điện khác, dự kiến khởi công trong giai đoạn 2011 - 2015 gồm 2 nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1&2 (hơn 4.000 MW) và 3 dự án thuỷ điện tích năng (Bắc Ái, Hàm Thuận Bắc, Mộc Châu, tổng công suất 3.600 MW). Với những dự án lớn như vậy, khó có thể chỉ trông chờ vào vốn nội địa. Để đảm bảo nguồn vốn cho các dự án điện, EVN có kế hoạch phát hành 5.000 tỷ đồng trái phiếu trong nước và 1 tỷ USD trái phiếu quốc tế năm 2011. Năm 2010, EVN cũng lên kế hoạch phát hành trái phiếu quốc tế 1 tỷ USD để lo vốn cho các dự án điện nhưng phương án này đã hoãn lại do thị trường không thuận lợi…
Bên cạnh đó, kế hoạch phát hành 1 tỷ USD trái phiếu ra thị trường quốc tế đã được Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) dự kiến phát hành từ năm 2009, nhưng gần 2 năm trôi qua, kế hoạch này vẫn chưa được thực hiện. Thực tế này đã tạo ra áp lực rất lớn lên nguồn vốn phát triển của PVN bởi PVN chỉ tự thu xếp được 30% nguồn vốn. Trong năm 2011, PVN sẽ phải tiếp tục khởi công một loạt dự án nhiệt điện quan trọng như Long Phú 1, Sông Hậu 1, Thái Bình 2, Quảng Trạch 1 và Lọc dầu Nghi Sơn; đồng thời, PVN còn mở rộng đầu tư ở Nga, Hàn Quốc và Nhật Bản. PVN đã có kế hoạch đầu tư khoảng 5-6 tỷ USD cho các dự án trên và mục tiêu hướng tới là không vay ưu đãi mà sẽ phát hành trái phiếu quốc tế để giải quyết nhu cầu về vốn.
Đối với Tập đoàn Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV) cũng vừa trình lên Chính phủ xin phép được tái phát hành 500 triệu USD trái phiếu quốc tế. Thời điểm phát hành trái phiếu quốc tế thuận lợi nhất sẽ là vào khoảng giữa năm 2011 khi các báo cáo quyết toán đã hoàn thiện, nguồn tài chính trên thế giới dồi dào. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) dự kiến sẽ làm việc với các cơ quan Nhà nước để phát hành 500 triệu USD trái phiếu quốc tế, nhằm tăng vốn cấp 2 khi điều kiện thị trường cho phép.
Nhận xét từ kết quả các đợt phát hành của doanh nghiệp:
Việc phát hành trái phiếu quốc tế của các DN ở Việt Nam gặp trục trặc không chỉ do bản thân DN chưa tạo được niềm tin mà còn do nền kinh tế Việt Nam cũng chưa thật sự vững vàng trong mắt các nhà đầu tư quốc tế.
Việc phát hành trái phiếu quốc tế cũng như bất kì loại chứng khoán nào phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện thị trường tại thời điểm phát hành. Thời điềm 2008 – 2009 , các doanh nghiệp chịu ảnh hưởng chung của nền kinh tế . Thời điểm cuối năm 2010, khi các DN lớn dự kiến phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế, thì cũng là lúc với sự cố Vinashin chậm trả nợ tác động “vạ lây” đến các DN khác, khiến các tổ chức tín dụng quốc tế lo ngại, ảnh hưởng tâm lí các nhà đầu tư quốc tế khi đầu tư vào nước ta. Sự đổ vỡ của Vinashin hồi tháng 6/2010 đã ảnh hưởng lớn đến các dự định gọi vốn. TKV bị hạ bậc tín nhiệm từ BB xuống BB- (theo đánh giá của Standard & Poor's), là mức dưới điểm đầu tư, vì tổ chức tư vấn căn cứ vào khả năng Chính phủ hỗ trợ cho TKV cũng như các tập đoàn khác trong việc trả nợ là thấp. Cùng trong thời điểm đó, PVN đã phải bổ sung, đánh giá lại xếp hạng tín dụng (theo chiều hướng thấp đi) do tiếp nhận một số công ty làm ăn thua lỗ từ Vinashin chuyển qua. Năm 2011, huy động vốn quốc tế tiếp tục là đòi hỏi cần thiết nếu Việt Nam muốn phát triển nhanh, mạnh. Vì chỉ có trái phiếu quốc tế mới có khối lượng đủ lớn và thời gian đủ dài với các dự án tầm cỡ.
Hệ số tín nhiệm các DN lẫn hệ số tín nhiệm quốc gia của Việt Nam chưa cao. Do đó, dù trái phiếu phát hành ra thị trường quốc tế của DN Việt Nam thường có lãi suất khá cao (7%-8%/năm) so với trái phiếu của một số nước khác trong khu vực , mức chênh lệch 1%-2%, nhưng cũng chưa hấp dẫn các nhà đầu tư quốc tế. DN VN muốn nâng cao hệ số tín nhiệm trước hết phải thay đổi phong cách quản trị DN và báo cáo tài chính theo những chuẩn mực và thông lệ quốc tế.
Các nhà đầu tư quốc tế săm soi kỹ hơn “sức khỏe” của các DN Việt Nam. Dù là tập đoàn kinh tế lớn nhất Việt Nam nhưng PVN cũng không tự quyết được toàn bộ dòng tiền vào - ra PVN, một phần vốn đầu tư của PVN do ngân sách điều tiết từ doanh số bán dầu mỏ. Còn các dự án của EVN cũng chưa đủ thuyết phục các nhà đầu tư khi giá bán điện còn thấp so với kỳ vọng. Ngành than đá và khoáng sản ở nước ta hiện nay cũng không sáng sủa lắm khi tỷ lệ than xấu còn không ít, than lại đang bị hạn chế xuất khẩu; giá một số khoáng sản cũng đang tuột dốc...
Ta thấy rằng, Doanh nghiệp Việt Nam phải chuẩn bị tất cả các điều kiện phát hành và chờ đến khi thị trường thuận lợi sẽ chớp lấy thời cơ. Phải xác định được nhà đầu tư vào trái phiếu là ai để công bố công khai kế hoạch phát hành, mục đích huy động vốn, tình hình hoạt động... một cách minh bạch. Đây là điều kiện tối cần thiết để đẩy nhanh tiến trình thâm nhập thị trường vốn quốc tế của các DN Việt Nam, từ đó mở đường cho phát hành và niêm yết cổ phiếu quốc tế.
Phải nói rằng việc phát hành trái phiếu quốc tế nếu sử dụng đúng và trọng điểm là môt kênh huy động rất tốt và Việt Nam vay được dễ dàng trên thị trường tài chính quốc tế, nhưng điều quan trọng là cần thận trọng trong cách sử dụng, phải sử dụng nguồn vốn có được vào những công việc gì cho hiệu quả, cũng như thanh tra giám sát nguồn vốn vay ấy thật thực chắt và chặt chẽ. Bên cạnh đó, phải đánh giá nó trong mối quan hệ với vấn đề lạm phát, rủi ro tỷ giá khi thanh toán và nợ chính phủ. Nếu không thực hiện tốt, ắt hẳn Việt nam sẽ phải trả một cái rất đắt như bài học từ cái quốc gia khác.
Chương 4: Giải pháp cho vấn đề phát hành trái phiếu quốc trong giai đoạn hiện nay:
4.1 Phát hành trái phiếu quốc tế dưới gốc độ so sánh với các phương thức huy động vốn khác:
4.1.1. Huy động vốn qua phát hành cổ phiếu trên thị trường quốc tế:
Đây là kênh huy động vốn cũng rất có tiềm năng, nhưng nhìn chung thì vẫn chưa phù hợp với việt nam trong giai đoạn hiện nay khi mà quy mô của các doanh nghiệp Việt Nam còn nhỏ, chưa đáp ứng những điều kiện được niêm yết trên sàn chứng khoán ở các nước( hiện nay chỉ có một số ít công ty được niêm yết trên
Bên cạnh đó, theo hành trình cam kết gia nhập WTO thì các nhà đầu tư nước ngoài còn bị hạn chế về tỷ lệ vốn (<=49%) và tính minh bạch trong các bản cáo tài chính và quy định về công bố thông tin chưa được tuân thủ một cách triệt để.
Hiện tại vấn đề về giao dịch nội gián và giao dịch nội bộ vẫn là vấn đề “nóng nổi” khi mà cơ chế giám sát của cơ quan chức năng còn yếu kém.
Chính vì thế chưa thể thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài, cho nên tính khả thi đối với kênh huy động vốn bằng hình thức này không cao.
4.1.2. Huy động vốn bằng cách tiếp nhận nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức:
Hỗ trợ phát triển chính thức ( Official Development Assistance hay ODA),là một hình thức đầu tư nước ngoài. Các khoản đầu tư này thường là các khoản cho vay không lãi suất hoặc lãi suất thấp (dưới 20%, trung bình từ 0.25%năm) với thời gian cho vay và thời gian ân hạn dài (25-40 năm mới phải hoàn trả và thời gian ân hạn 8-10 năm), đôi khi nó còn được gọi là viện trợ. Nguồn vốn ODA vì mục tiêu danh nghĩa là phát triển kinh tế và nâng cao phúc lợi ở quốc gia được đầu tư, thường là cho Nhà nước vay.
Nguồn vốn ODA có ưu điểm về chi phí sử dụng. Tuy nhiên, các nước giàu khi viện trợ ODA đều gắn với những lợi ích và chiến lược như mở rộng thị trường, mở rộng hợp tác có lợi cho họ, đảm bảo mục tiêu về an ninh - quốc phòng hoặc theo đuổi mục tiêu chính trị... Vì vậy, họ đều có chính sách riêng hướng vào một số lĩnh vực mà họ quan tâm hay họ có lợi thế, họ đều phải tính toán đến những lợi ích mà họ sẽ nhận được từ quốc gia nhận sự hỗ trợ này như:
- Đối với các dự án ODA phải đạt được sự thỏa thuận, đồng ý của nước viện trợ, thông qua hình thức đấu thầu họăc hỗ trợ về chuyên gia, nước viện trợ sẽ gian tiếp tham gia điều hành.
- Với mục đích tăng thêm lợi ích kinh tế của mình, các nước viện trợ sẽ yêu cầu các nước nhận viện trợ từ từ dỡ bỏ các hàng rào thuế quan bảo hộ ngành công nghiệp còn non trẻ trong nước và thuế xuất nhập khẩu hàng hóa của nước tài trợ như Việt Nam mở cửa đối với mặt hàng ôtô của Nhật Bản và Mỹ vào năm 2006, thực hiện cam kết thuế đối với khu vực ASEAN. Ngoài ra các nước nghèo còn phải nhận một khoản ODA dưới hình thức là hàng hóa dịch vụ do các nước viện trợ sản xuất.
- Các khoản chi cho các chuyên gia, cố vấn do các nước viện trợ cử đến trong các dự án ODA thường cao hơn so với việc tự đi thuê các chuyên gia ỏ ngoài khác.
- Tác động của yếu tố tỷ giá hối đoái có thể làm cho giá trị vốn ODA khi hoàn lại tăng thêm.
- Điều đáng lo ngại nhất là phía tiếp nhận nguồn vốn ODA chưa hiểu rõ được bản chất của nguồn vốn này. Một số nơi coi ODA như “bầu sữa” miễn phí được cho không hoặc nếu phải trả lại thì Chính phủ phải là người chịu trách nhiệm. Do vậy, việc tham ô, lãng phí trong khi sử dụng nguồn vốn ODA là không thể tránh khỏi. Hàng lọat vụ bê bối liên quan tới việc bê bối như PMU đã khiến cho các nước viện trở không khỏi băn khoăn khi đặt vấn đề cho những dự án ODA tiếp theo.
- Việc giải ngân chậm trễ luôn được đề cập đến mà nguyên nhân cụ thể là do sự phức tạp của quy trình và thủ tục giữa Việt Nam và các nhà tài trợ; việc chậm trễ trong công tác giải phóng mặt bằng, công tác đấu thầu, năng lực quản lý và giám sát thực hiện dự án của các ban quản lý còn nhiều hạn chế.
Với các lý do nêu trên thì chúng ta thấy rằng ODA không phải là “thiên đường” cho các quốc gia hay công ty, nhất là nếu sử dụng không hiệu quả còn đưa đến tình trạng nợ nần. Tuy ODA là một nguồn vốn có ý nghĩa quan trọng nhưng nó không thể thay thế hoàn toàn nguồn lực bên trong của một quốc gia, chưa kể đến việc nó sẽ bị thu hẹp dần khi mức thu nhập bình quân đầu người ở Việt Nam đạt mức trung bình.
4.1.3. Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI:
Mặc dù Việt Nam đã tích cực cải thiện môi trường đầu tư như sửa đổi Luật đầu tư nước ngoài nhưng dòng vốn FDI vẫn chủ yếu đến từ các nước châu Á và FDI đầu tư vào các vùng không đồng đều mà chỉ Chủ yếu tập trung vào các vùng kinh tế trọng điểm như TP.HCM, Hà Nội, Bình Dương, Đồng Nai do các địa phương này có nhiều lợi thế về vị trí địa lý, dân cư, cơ sở hạ tầng, thị trường tiêu thụ và lao động. Các nguồn vốn đầu tư chủ yếu vào khu vực công nghiệp và xây dựng, khu vực dịch vụ đứng thứ hai trong việc thu hút vốn còn nông-lâm-thủy hải sản lại thu hút ít nhất.
Môi trường đâu tư tại Việt Nam vẫn còn một số hạn chế như: thủ tục hành chính rườm rà, nạn quan liêu tham nhũng lan rộng và các vụ “chạy chức” mới được phát hiện gần đây cũng làm xấu đi hình ảnh của Việt Nam trong mắt các nhà đầu tư.
Các văn bản pháp luật, chính sách còn nhiều hạn chế, chồng chéo lẫn nhau, chưa có sự đồng bộ giữa thuế và kế toán. Khi thu hút đầu tư nước ngoài chúng ta ít nhận thấy những mặt trái của vấn đề là các luồng vốn này sẽ kéo theo các khoản vay không nhỏ, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác cạn kiệt, môi trường ô nhiễm nghiêm trọng và chúng ta trở thành “bãi rác công nghiệp” cho các máy móc công nghệ lỗi thời từ các nước khác đem vào.
4.2 Giải pháp cho vấn đề phát hành trái phiếu quốc tế trong giai đoạn hiện nay:
Từ những phân tích trên chúng ta thấy rằng hình thức huy động vốn lên thị trường quốc tế là một kênh huy động tiềm năng nhưng chúng ta phải biết tận dụng hình thức huy động này một cách hủy quả. Vậy khi nào là Việt nam nên phát hành và phát hành ra sao là vấn đề cần phải xác định rõ ràng và đúng đắn. Sau đây là một số kiến nghị cho những vấn đề trên:
4.2.1. Xây dựng hệ thống tín nhiệm riêng cảu Việt Nam theo chuẩn quốc tế:
Thị trường trái phiếu quốc tế không chỉ dành riêng cho Chính phủ các quốc gia mà đối với các doanh nghiệp đủ tiềm lực thì đây cũng là một nguồn huy động vốn rất tốt,giúp các doanh nghiệp tự mình phát hành tráiphiếu ra thị trường vốn quốc tế. Tuy nhiên, cái khó mà các doanh nghiệp gặp phải là quốc tế biết quá ít về các doanh nghiệp Việt Nam và công tác thống kê của Việt Nam hiện nay còn nhiều hạn chế dẫn đến những thông tin sai lệch như đã đề cập ở trên. Khi các nhà đầu tư cânnhắc có nên đầu tư vào một công ty nào đó thì họ thường tham khảo thêm các thông tin của các công ty xếp hạng tín nhiệm có uy tín trên thế giới. Nhiệm vụ của các công ty này là thu thập, phân tích và làm rõ các chỉ số cũng như tình hình kinh doanh của các công ty để từ đó làm căn cứ xếp hạng tín nhiệm công ty theo các tiêu chí của mình.
Nếu một công ty có được một mức xếp hạng tín nhiệm cao thì họ sẽ gặp rất nhiều thuận lợi khi phát hành trái phiếu như: nhận được sự quan tâm tin tưởng của các nhà đầu tư cho nên mức lãi suất mà họ phải trả cho việc huy động vốn cũng sẽ thấp hơn.
Ngược lại, với một mức xếp hạng thấp hoặc bị các tổ chức xếp hạng đánh giá là “ không có khả năng trả nợ” thì con đường phát hành trái phiếu đã trở nên chông gai hơn rất nhiều.
Tuy nhiên, chi phí cho việc mời một công ty về đánh giá xếp hạng tín nhiệm không hề rẻ chút nào và việc các công ty xếp hạng đều là công ty nước ngoài sẽ khiến họ mất nhiều thời gian để tìm hiểu và nắm rõ các quy luật trong nền kinh tế Việt Nam. Theo tình hình hiện tại do hệ thống pháp lý của Việt Nam đang trong giai đoạn hoàn thiện, các công bố thông báo chưa được công khai hoàn toàn, số liệu chưa đồng bộ nên việc xếp hạng sẽ gặp khó khăn có thể dẫn đến mức xếp hạng tín nhiệm thấp gây bất lợi cho trái phiếu quốc tế về giá và lãi suất khi phát hành. Nên chăng tự thân các doanh nghiệp Việt Nam sẽ cùng nhau thành lập một Trung tâm xếp hạng tín nhiệm riêng dành cho các doanh nghiệp đang hoạt động kinh doanh tại Việt Nam. Trung tâm này sẽ là một đơn vị ngoài quốc doanh, chuyên thu thập các dữ liệu, thông tin về thị trường cũng như các doanh nghiệp. Ưu điểm của trung tâm này là đây là một đơn vị độc lập, không chịu sự chi phối của Nhà nước hay tư nhân và hoạt động dựa trên nguyên tắc công khai, minh bạch và nắm rõ thị trường Việt Nam. Họ là nơi thống kê, phân tích và tổng hợp các số liệu đó và sẽ bán lại cho các nhà đầu tư. Bên cạnh đó, dựa vào các tiêu chí mà các công ty xếp hạng tín nhiệm trên thế giới thường áp dụng, các công ty này cũng sẽ xây dựng một danh mục xếp hạng tín nhiệm các công ty. Danh mục này sẽ rất cần thiết cho bản thân các công ty để họ có thể điều chỉnh, khắc phục những khó khăn, sai sót để được nâng mức xếp hạng. Đối với các nhà đầu tư, danh mục này sẽ là một nguồn thông tin hữu ích cho họ trước khi bỏ tiền đầu tư.
Bên cạnh đó, phương pháp này còn hỗ trợ rất nhiều cho các doanh nghiệp Việt nam để phát triển kênh huy động vốn từ việc phát hành cổ phiếu.
4.2.2. Lựa chọn những tổ chức tư vấn, hỗ trợ phát hành trái phiếu chuyên nghiệp:
Hiện nay trên thế giới có rất nhiều các tổ chức, ngân hàng nhận bảo lãnh phát hành trái phiếu. Việc lựa chọn tổ chức nào là phù hợp, chuyên nghiệp và có chi phí hợp lý là rất quan trọng. Điều đó giúp các doanh nghiệp tiết kiệm được thời gian và chi phí rất nhiều. Do đó, để có thể phát hành trái phiếu ra nước ngòai thành công chúng ta cần chú trọng đến vai trò của các tổ chức tư vấn này trong việc đưa ra những nhận định, những lời khuyên bổ ích. Trên cơ sở đó chúng ta tiến hành lựa chọn những tổ chức bảo lãnh phát hành phù hợp nhất với điều kiện của các doanh nghiệp Việt Nam.
4.2.3. Lựa chọn thị trường phát hành phù hợp:
Hiện nay chúng ta có nhiều lựa chọn cho thị trường phát hành như thị trường châu Á, châu Âu và châu Mỹ. Mỗi thị trường lại có những đặc điểm riêng của mình với những ưu, khuyết khác nhau.Tuy nhiên thị trường trái phiếu châu Âu hiện nay đang chiếm ưu thế và dành được nhiều sự quan tâm của các nhà đầu tư lẫn các tổ chức phát hành do có đặc ưu việt của nó.Trái phiếu châu Âu chiếm hơn 80% của thị trường chứng khoán quốc tế. Hai lý do chính cho việc này xuất phát từ thực trạng là đồng đôla Mỹ là đồng tiền được tìm kiếm nhiều nhất trong tài chính trái phiếu quốc tế.
- Thứ nhất, trái phiếu châu Âu có thể được mang ra thị trường nhanh hơn hơn trái phiếu nước Mỹ bởi vì chúng không phải được cung cấp cho các nhà đầu tư Mỹ và do đó không phái tuân thủ các điểu kiện đăng ký khắt khe của Ủy ban chứng khoán và thị trường chứng khoán Mỹ.
- Thứ hai, trái phiếu châu Âu là những trái phiếu vô danh điển hỉnh cung cấp sự vô danh cho các trái chủ và do vậy cho phép họ tránh bị đánh thuế lên lãi suất nhận được. Nhờ có đặc tính này mà các nhà đầu tư thường sẵn lòng chấp nhận một suất lợi tức của trái phiếu châu Âu thấp hơn khi so sánh với trái phiếu nước Mỹ ở những điều khoản có thể so sánh được, ở những điểm quyền sở hữu được ghi nhận. Đối với tổ chức phát hành trái phiếu thì suất lợi tức thấp hơn nghĩa là chi phí cho khoản nợ cũng thấp hơn. Riêng đối với các doanh nghiệp Việt Nam lần đầu tiên phát hành trái phiếu quốc tế thì nên phát hành tại thị trường châu Á. Thị trường này tuy còn non trẻ nhưng có tốc độ phát triển rất nhanh và có ưu thế là không yêu cầu có phải xếp hạng mức tín nhiệm.
Đây chính là ưu điểm vì đã giúp các doanh nghiệp giảm thiểu thuê công ty định mức xếp hạng tín nhiệm cho mình. Các nhà đầu tư châu Á cũng tỏ ra quan tâm nhiều hơn đến trái phiếu quốc tế của Việt Nam, bằng chứng là trong đợt phát hành trái phiếu quốc tế của chính phủ Việt Nam năm 2005 các nhà đầu tư châu Á nắm giữ 38% tổng số lượng phát hành.
Trong giai đoạn hiện nay và tương lai gần, chính phủ không nên tiếp tục bảo lãnh cho các doanh nghiệp phát hành trái phiếu quốc tế nữa vì các lý do sau:
- Hiệu quả của đợt phát hành trái phiếu bảo lãnh cho vinashin không hiệu quả cho nên tác động không tốt đến các lần phát hành trái phiếu sau này mà trực tiếp tác động đến niềm tin của nhà đầu tư do đó làm tăng lãi suất các đợt phát hành sau.
- Việc phát hành trái phiếu quốc tế có sự bảo lãnh sẽ tạo tiền lệ không tốt cho các doanh nghiệp lẫn các nhà đầu tư, dễ dẫn đến nhận các doanh nghiệp Việt Nam yếu kém, không có khả năng trả nợ nên không thể tự mình phát hành trái phiếu. Về phía các nhà đầu tư, sẽ rất dễ tạo tâm lý e dè, nghi ngại khi mua những đợt trái phiếu không có bảo lãnh vì sợ rủi ro. Còn về phía các doanh nghiệp lại dễ nảy sinh tâm lý ỷ lại, trông chờ vào sự bảo lãnh của chính phủ từ đó dẫn đến việc sử dụng vốn vay không hiệu quả.
4.2.4 Lựa chọn đổng tiền phát hành hiệu quả:
Đôla Mỹ tỏ ra là một lựa chọn hợp lý vì từ trước đến nay người Việt Nam có thói quen sử dụng đồng đôla Mỹ nhiều trong giao dịch mua bán cả trong và ngoài nước. Trên thế giới thì do sự ảnh hưởng của nền kinh tế Mỹ nên đồng đôla Mỹ cũng rất thông dụng trên thị trường mua bán trái phiếu. Tuy nhiên, đó là chuyện quá khứ, hiện tại nền kinh tế Mỹ đang sụt giảm và đồng đôla Mỹ đang bị mất giá bất chấp những nỗ lực của chính phủ Mỹ. Trước tình cảnh đó, nhiều quốc gia đã chuyển sang sử dụng một ngoại tệ khác thay thế để dùng trong trao đổi buôn bán như Euro, bảng Anh… Bên cạnh đó, việc lựa chọn phát hành trái phiếu quốc tế bằng một ngoại tệ khác đôla Mỹ cũng giúp chúng ta đa dạng hóa danh mục ngoại tệ mà mình đang nắm giữ nhằn phân tán rủi ro trong trường hợp đôla Mỹ mất giá khi vay hoặc tăng giá quá cao khi chúng ta phải trả nợ.
4.2.5 Lựa chọn kỳ hạn, khối lượng trái phiếu phát hành:
Việc phát hành lần đầu tiên mang động thái thăm dò nhiều hơn từ cả hai phía nhà đầu tư và người phát hành. Nếu khối lượng lớn thì giá sẽ giảm và lãi suất cao lại phải gánh chịu một khoản nợ cao. Nhưng nếu phát hành quá ít thì không thể thỏa mãn nhu cầu huy động vốn của tổ chức phát hành mặc dù có thể đạt được giá cao và lãi suất thấp do tạo nên tâm lý khan hàng. Căn cứ vào nhu cầu vốn và tình hình thị trường mà các nhà phát hành sẽ quyết định lựa chọn phù hợp, cần phải cân nhắc kỹ vì thành công hay thất bại của đợt phát hành trườc sẽ ảnh hường rất nhiều đến thành công của đợt phát hành sau.
Kỳ hạn của trái phiếu thì nên dài hơn vòng đời của dự án mà số tiền có được từ trái phiếu đầu tư vào để chúng ta có thời gian thu hồi vốn và lên kế hoạch thanh toán trái phiếu hiệu quả nhất. Theo kinh nghiệm của các nhà phát hành thì thường trái phiếu quốc tế là trái phiếu trung và dài hạn vì chúng giúp các nhà vay vồn giảm thiểu được rủi ro. Tuy nhiên, nếu là lần đẩu tiên phát hành trái phiếu quốc tế thì các doanh nghiệp nên lựa chọn kỳ hạn trung hoặc không quá dài vì bước đầu các nhà đầu tư còn e dè trước môt loại trái phiếu mới. Sau đó, khi đã gây dựng được uy tín trên thị trường thì doanh nghiệp có thể phát hành trái phiếu dài hạn.
4.2.6 Sử dụng vốn vay hiệu quả:
Đây là bài toán mà các doanh nghiệp phải đặt ra đầu tiên khi có ý định phát hành trái phiếu quốc tế. Phát hành trái phiếu quốc tế không chỉ đơn thuần là đi vay mà còn là việc quảng bà hình ảnh doanh nghiệp, đất nước ra thế giới. Nếu phát hành thành công và thanh toán trái phiếu đúng hạn thì sẽ là một tiền đề rất tốt cho các hoạt mua bán ký kết hay mở rộng kinh doanh của doanh nghiệp ra thị trường thế giới. Ngược lại, không chỉ uy tín, thương hiệu của công ty giảm sút mà còn làm ành hưởng đến hình ảnh chung của các doanh nghiệp Việt Nam, tạo ấn tượng xấu cho các nhà đầu tư.
Xây dưng một chiến lược kinh doanh hợp lý, dài hơi và chặt chẽ cùng với sự tư vấn của các chuyên gia trong lĩnh vực phát hành trái phiếu quốc tế để tránh những sai sót không đáng có. Đặc biệt, hiểu biết về luật pháp quốc tế thường là điểm yếu của các doanh nghiệp Việt Nam. Do vậy, trước khi phát hành trái phiếu quốc tế, các doanh nghiệp nhất thiết phải có được đội ngũ tư vấn pháp lý chuyên nghiệp.
Do đó, cần phải cân nhắc khi lựa chọn các khoản vay và sử dụng sao cho hiệu quả nhằm tránh tình trạng thất thoát vốn vay và nhất là cần nên tránh tình trạng vay nợ mới để thanh toán nợ cũ. Muốn được như vậy thì phải có sự độc lập trong trong việc thẩm định các dự án vay và khả năng trả nợ của các đối tượng sử dụng nguồn vốn vay đó.
Nên phân bổ nguồn vốn vay hiệu quả, sử dụng nguồn vốn vay này để phát triển các thế mạnh hiện có của đất nước, tránh đầu tư dàn trải, nên tập trung đầu tư vào các ngành có lợi thế về xuất khẩu có hiệu quả, trong đó đẩy mạnh sử dụng lao động để tạo công ăn việc làm giảm tỷ lệ thất nghiệp.
4.2.7. Tạo sức mạnh cho thương hiệu Việt Nam:
Như đã đề cập đến ở trên, uy tín, hình ảnh là một phần rất quan trọng trong việc phát hành trái phiếu, nhất là khi đây là một lĩnn vực còn khá mới mẽ đối với chúng ta và hình ảnh Việt Nam cũng còn xa lạ đối với các nhà đầu tư.
Xây dựng sức mạnh cho thương hiệu Việt Nam không chỉ là việc tuân thủ các nguyên tắc, luật lệ quốc tế, thanh toán trái phiếu đúng hạn mà còn là cách ứng xử lịch thiệp, cư xử có văn hóa và chuyên nghiệp với các đối tác, xây dựng hình ảnh một đất nước Việt Nam thanh bình, ổn định về chính trị, tăng trưởng nhanh và ổn định về kinh tế cùng với môi trường sống và làm việc thân thiện, hiếu khách.
Bên cạnh đó, việc chính phủ cần củng cố hệ thống pháp lý rõ ràng, tạo một môi trường đầu tư minh bạch và hệ thống thông tin rộng khắp cũng như dẹp bỏ được nạn tham ô, hối lộ cũng góp một phần vô cùng quan trọng vào việc xây dựng hình ảnh một nướcViệt Nam hiệu quả trong kinh doanh và lành mạnh, ổn định trong xã hội.
KẾT LUẬN:
Nền kinh tế Việt Nam ngày càng tăng trưởng và phát triển không ngừng. Với xu thế hội nhập, nền kinh tế nước ta ngày càng bay cao, bay xa hòa mình vào những sân chơi lớn. Qúa trình tham gia vào các sân chơi quốc tế lớn đưa đến cho chúng ta những thuận lợi, những tích cực đáng kể cho nền kinh tế.
Bên cạnh đó,quá trình hội nhập sâu rộng ấy cũng mang đến cho chúng ta những khó khăn và thử thách cần phải vượt qua. Thị trường tài chính quốc tế với những chuẩn mực hết sức khắt khe, nhưng nếu các doanh nghiệp Việt Nam chuẩn bị đầy đủ các hành trang cần thiết, có những kế hoạch, chiến lược phát hành trái phiếu quốc tế thật chu đáo và được đầu tư đúng mức thì vẫn có khả năng thành công cao. Phát hành thành công trái phiếu quốc tế sẽ đem lại rất nhiều thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc huy động nguồn vốn có nhiều tính ưu việt này. Đồng thời mang lại những lợi ích to lớn hơn đó là khẳng định uy tín và năng lực mạnh mẽ về tài chính được đánh giá bởi những tổ chức tài chính có chất lượng trên thế giới.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Trái phiếu quốc tế, tổng quan, thực trạng và giải pháp tại Việt Nam.doc