Tranh chấp thương mại và giải quyết tranh chấp thương mại tại Việt Nam

1.1 Khái niệm 4 1.2 Đặc điểm của tranh chấp thương mại 5 1.3 Phân loại tranh chấp thương mại 5 1.3.1 Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận bao gồm 5 1.3.2 Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận. 6 1.3.3 Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty. 6 1.3.4 Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định. 6 1.4 Hình thức giải quyết giải quyết tranh chấp thương mại 6 1.4.1 Các hình thức mang tính tài phán 6 1.4.2 Các hình thức không mang tính tài phán 6 2.1 Thương lượng 7 2.1.1 Khái niệm 7 2.1.2 Đặc trưng 7 2.1.3 Nguyên tắc khi tiến hành thương lượng 8 2.1.4 Cách thức thương lượng 8 2.2 Hòa giải 8 2.2.1 Khái niệm 8 2.2.2 Phân loại 9 Có hai loại hoà giải là hòa giải trong tố tụng và hòa giải ngoài tố tụng. 9 2.2.3 Các nguyên tắc của hòa giải 9 2.2.4 Tiến trình hòa giải 11 2.3 Trọng tài 11 2.3.1 Khái niệm 11 2.3.2 Điều kiện giải quyết bằng hình thức trọng tài 12 2.3.3 Thời hiệu khởi kiện 13 2.3.4 Trình tự giải quyết 13 2.3.5 Quyền yêu cầu hủy quyết định trọng tài 18 2.3.6 Thi hành quyết định trọng tài 20 2.3.7 Giải quyết vụ tranh chấp có yếu tố nước ngoài bằng trọng tài 20 2.4 Tòa án 21 2.4.1 Khái quát về Toà án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại ở nước ta 21 2.4.2 Thẩm quyền các cấp Toà án: 21 2.4.3 Các nguyên tắc trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại toà án 24 2.4.4 Thủ tục giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại toà án 26 2.5 So sánh giữa các hình thức giải quyết tranh chấp thương mại 27 3.1 Nội dung các tranh chấp thương mại ngày càng đa dạng và phức tạp 31 3.2 Lựa chọn các hình thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh và thương mại 32 3.2.1 Hoạt động hoà giải còn thiếu tính chuyên nghiệp 32 ã Nguyên nhân 32 3.2.2 .Trọng tài - một phương thức giải quyết tranh chấp ưu việt 33 3.2.3 Cơ chế hỗ trợ của Toà án đối với giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại ngày càng hoàn thiện 38 3.3 Giải pháp 40 3.3.1 Chuyên nghiệp hoá đội ngũ hoà giải viên 40 3.3.2 Nâng cao cơ chế hỗ trợ của Toà án đối với giải quyết tranh chấp bằng trọng tài 41 Lời nói đầu Với nền kinh tế thị trường đang phát triển như ở Việt Nam hiện nay, các hoạt động thương mại đang ngày càng được đẩy mạnh, hợp tác bền vững lâu dài không chỉ trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam mà còn vươn xa ra thương trường quốc tế. Hoạt động thương mại tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh, mở ra cơ hội cho các nhà đầu tư, nhưng bên cạnh đó cũng không thể né tránh các yếu tố rủi ro phát sinh trong quá trình hợp tác, trao đổi buôn bán. Khi quyền lợi của các bên không được cân bằng trong mối quan hệ này tất yếu sẽ dẫn đến những xung đột, mâu thuẫn do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan. Nội dung các tranh chấp thương mại ngày càng đa dạng, phức tạp khiến các bên tham gia giải quyết tranh chấp cần cân nhắc kĩ các hình thức giải quyết cho phù hợp. Theo điều 317 Luật thương mại 2005 có các hình thức chủ yếu sau đây - Thương lượng giữa các bên - Hoà giải giữa các bên do một cơ quan. tổ chức hoặc cá nhân được các bên thoả thuận chọn làm trung gian hoà giải - Trọng tài thương mại hoặc toà án Trong phạm vi nghiên cứu tiểu luận này, chúng tôi xin trình bày ba phần - Phần thức nhất là các lý luận cơ bản về tranh chấp thương mại - Phần thứ hai bao gồm các hình thức giải quyết tranh chấp theo pháp luật hiện hành - Phần thứ ba nêu lên vấn đề thực trạng về vấn đề tranh chấp thương mại và giải quyết tranh chấp thương mại tại Việt Nam Thông qua việc tìm hiểu nghiên cứu các tài liệu, tổng hợp phân tích và trình bày quan điểm của nhóm, chúng tôi mong muốn mang lại một các nhìn tổng thể về vấn đề này, phục vụ tốt hơn cho môn học Pháp luật thương mại về hàng hoá và dịch vụ.

doc45 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5162 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tranh chấp thương mại và giải quyết tranh chấp thương mại tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ai trò bảo vệ trật tự công cộng, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể kinh doanh và bảo vệ pháp chế XHCN. Thẩm quyền các cấp Toà án: Toà kinh tế toà án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền: Sơ thẩm các vụ án kinh tế theo quy định của pháp luật tố tụng Phúc thẩm những vụ án kinh tế mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của toà án cấp dưới bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng. Uỷ ban thẩm phán toà án cấp tỉnh có thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án kinh tế mà bản án đã có hiệu lực pháp luật của toà án cấp dưới bị kháng nghị. Toà phúc thẩm toà án nhân dân tối cao có thẩm quyền phúc thẩm những vụ án kinh tế mà bản án sơ thẩm của toà án cấp dưới trực tiếp bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng. Toà kinh tế toà án nhân dân tối cao có thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị hkáng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng. Hội đồng thẩm phán toà án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, có thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng. Thẩm quyền theo nội dung tranh chấp Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng kí kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận bao gồm: mua bán hang hoá, cung ứng dịch vụ phân phối, vận chuyển hàng hoá, hành khách mua bán cổ phiếu, trái phiếu, đầu tư, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, thăm dò khai thác. - Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa các cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận. - Tranh chấp giữa các công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhay lien quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty. - Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định chẳng hạn tranh chấp hợp đồng uỷ thác, giám định, đấu thầu, đấu giá … Thẩm quyền theo lãnh thổ : Vấn đề xác định thẩm quyền của toà án theo lãnh thổ chỉ được đặt ra khi các bên tranh chấp có trụ sở hoặc nơi đăng kí ở khác địa phương. Về nguyên tắc các bên không được lựa chọn toà án giải quyết mà pháp luật tố tụng sẽ quy định loại thẩm quyền này. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhất định, pháp luật cho phép các bên được thoả thuận với nhau hoặc nếu không có sự thoả thuận trước đó thì bên nguyên đơn có quyền đơn phương lựa chọn toà án. Điều này nhằm bảo đảm tính khả thi của quyền khởi kiện và giúp quá trình giải quyết tranh chấp được thuận lợi, tiết kiệm thời gian, công sức và tiền bạc cho các bên tham gia. Việc xác định thẩm quyền phải dựa trên các nguyên tắc sau: Xác định thẩm quyền của toà án theo luật định Khi phát sinh tranh chấp, nguyên đơn phải khởi kiện tại toà án có thẩm quyền là : Toà án là nơi cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc là nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về kinh doanh, thương mại. Toà án là nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết những tranh chấp về bất động sản. Xác định thẩm quyền của toà án theo sự lựa chọn của nguyên đơn Nguyên đơn chỉ có quyền lựa chọn toà án giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại khi xảy ra một trong các trường hợp sau : Nếu không biết nơi cư trú, làm việc, trụ sở của bị đơn thì nguyên đơn có thể yêu cầu toà án nơi bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở cuối cùng hoặc nơi bị đơn có tài sản giải quyết. Nếu tranh chấp phát sinh từ hoạt động của chi nhánh tổ chức thì nguyên đơn có thể yêu cầu toà án nơi tổ chức có trụ sở hoặc nơi tổ chức có chi nhánh giải quyết. Nếu bị đơn không có nơi cư trú, làm việc trụ sở ở Việt Nam thì nguyên đơn có thể yêu cầu toà án nơi mình cư trú, làm việc giải quyết. Nếu tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì nguyên đơn có thể yêu cầu toà án nơi mình cư trú, làm việc, có trụ sở hoặc nơi xảy ra việc gây thiệt hại giải quyết. Nếu tranh chấp phát sinh từ quan hệ hợp đồng thì nguyên đơn có thể yêu cầu toá án nơi hợp đồng được thực hiện gải quyết. Nếu các bị đơn cư trú, làm việc ở nhiều nơi khác nhau thì nguyên đơn có thể yêu cầu toà án nơi một trong các bị đơn. Xác định thẩm quyền của toà án theo sự thoả thuận của các bên tranh chấp Các nguyên tắc trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại toà án Nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của đượng sự Nguyên tắc này nhằm đảm bảo quyền tự do kinh doanh, tự do hợp đồng của chủ thể kinh doanh, nhà nước không can thiệp vào những hoạt động kinh doanh đúng pháp luật. Cơ chế thị trường vốn dĩ đã dung nạp nhiều phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại khác nhau như : thương lượng, hoà giải, giả quyuết thong qua trọng tài hoặc theo phương thức tố tụng tại toà án. Các bên tranh chấp có quyền tự do lựa chọn một phương thức giải quyết có lợi cho mình nhất. Toà án chỉ giải quyết khi đương sự có yêu cầu hoặc trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu. Khi tranh chấp xảy ra đượng sự có quyền tự quyết định việc khởi kiện, chủ động đề xuất các yêu cầu, phạm vi mức độ quyền và lợi ích cần được bảo vệ. Ngay cả khi đã đưa vụ án tranh chấp ra giải quyết, các bên vẫn có quyền thay đổi nội dung yêu cầu, tự hoà giải hoặc rút đơn kiện. Các đương sự có quyền cho luật sư hoặc người khác thay mình tham gia tố tụng mà không cần trực tiếp tham gia tố tụng. Nguyên tắc hoà giải Do đặc điểm của tranh chấp kinh doanh, thương mại là phản ánh những vấn đề về lợi ích kinh tế của chủ thể kinh doanh nên hoà giải là biện pháp được ưu tiên áp dụng trước khi các bên tranh chấp phải nhờ tới cơ quan có thẩm quyền tài phán. Nguyên tắc này được xây dựng trước tiên là do yêu cầu của chính doanh nghiệp. Chỉ khi không thể hoà gải được, các chủ thể mới cần sự can thiệp của nhà nước. Tuy vậy, ngay khi đã có yêu cầu của toà án giải quyết, các đương sự vẫn có thể tiến hành hoà giải với sự hướng dẫn và công nhận của toà án. Khi hoà giải, toà án phải tôn trọng sự tự nguyện thoả thuận của các đương sự, không được dùng vũ lực hoặc đe doạ bằng vũ lực, bắt buộc các đượng sự phải thoả thuận không phù hợp với ý chí của mình. Toà án không được hoà giải những vụ án phát sinh từ giao dịch trái pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội. Nếu ở hoàn cảnh không thể tiến hành được hoà giải toà án có quyền xét xử mà không cần thực hiện hoà giải giữa các bên khi: Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ 2 lần mà vẫn cố tình vắng mặt. - Đương sự không thể tham gia hoà giải được vì các lí do chính đáng. Nguyên tắc đương sự có nghĩa vụ chứng minh Khi giải quyết vụ án kinh tế toà án chủ yếu căn cứ vào các chứng cứ mà đương sự đưa ra. Bên nào yêu cầu toà án bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình thì bên đó có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình là căn cứ có hợp pháp. Đương sự phản đối yêu cầu của người khác dối với mình thì phải chứng minh sự phản đối đó là có căn cứ và đưa ra để chứng minh. Các bên có quyền và nghĩa vụ trình bày những gì mà họ cho là cần thiết. Toà án không bắt buộc phải thu thập thêm chứng cứ mà chỉ tiến hành xác minh, thu thập thêm chứng cứ khi thấy cần thiết để đảm bảo giải quyết vụ án được chính xác. Nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự Khi tham gia tố tụng kinh tế, các đương sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong việc thực hiện các hành vi tố tụng. Trước toà án không có sự phân biệt đối xử giữa các bên tranh chấp theo hình thức tổ chức, hình thức sở hữu hay thành phần kinh tế. Các chủ thể có quyền ngang nhau trong việc đưa ra yêu cầu và phản đối yêu cầu của bên kia đều có nghĩa vụ thu thập, cung cấp chứng cứ nhằm bảo vệ quyền lợi của mình. Nguyên tắc đảm bảo quyền bảo vệ của đương sự Đương sự có quyền tự bảo vệ hoặc nhờ luật sư hay người khác có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Trong quá trình gải quyết, đương sự có quyền đưa ra chứng cứ, có quyền đối chất và khi bị kiện thì có quyền yêu cầu phản tố. Toà án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự thực hiện quyền bảo đảm của mình. Trong quá trình giải quyết vụ án, đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự có quyền yêu cầu tào áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khẩn cấp tạm thời để giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ chứng cứ … Người yêu cầu phải hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về yêu cầu đó nếu yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng gây thiệt hại cho người bị áp dụng hợăc cho người thứ ba thì phải bồi thường. Đương sự có quyền khiếu nại, tố cáo những việc làm trái pháp luật của người tiến hành tố tụng dân sự hoặc của bất cứ cá nhân, cơ quan tổ chức nào trong hoạt động tố tụng dân sự. Thủ tục giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại toà án Thủ tục xét xử sơ thẩm Khởi kiện và thụ lí vụ án - Khởi kiện vụ án kinh tế là yêu cầu toà án giải quyết các tranh chấp trong kinh doanh, thương mại. - Thụ lý vụ án kinh tế là một thủ tục pháp lí khẳng định sự chấp nhận của toá án đối với việc giải quyết vụ án. Sau khi nghiên cứu đơn khởi kiện và các tài liệu có lien quan toà án sẽ tiến hành thụ lí vụ án nếu thấy vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của mình. Để tiến hành thụ lí vụ án, Toà án sẽ dự định số tiền tạm ứng án phí và thông báo cho người khởi kiện yêu cầu nộp tiền tạm ứng án phí. Sau khi thụ lí vụ án Toà án phân công một thẩm phán giải quyết vụ án, đồng thời thông báo bằng văn bản cho bị đơn, cá nhân, đơn vị có liên quan và cho viện kiểm sát cùng cấp biết. Khi nộp cho toà án văn bản ghi ý kiến của mình, bị đơn có quyền phản tố trong một số trường hợp: yêu cầu phản tố để bù trừ nghĩa vụ với yêu cầu của nguyên đơn, yêu cầu phản tố được chấp nhận dẫn đến loại trừ việc chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, giữa yêu cầu phản tố và yêu cầu của nguyên đơn có sự liên quan với nhau. Hoà giải và chuẩn bị xét xử Là khoảng thời gian chuẩn bị xét xử được tính từ ngày toà thụ lí vụ án đến ngày toà ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Đây là khoảng thời gian cần thiết để toà án tiến hành lập hồ sơ, xác minh thu thập chứng cứ, hoà giải giữa các bên tranh chấp và xem xét để đưa vụ án ra xét xử. Trong thời hạn chuẩn bị xét xử, tuỳ từng trường hợp toá án có quyết định sau: Công nhận sự thoả thuận của các đương sự. Tạm đình chỉ giải quyết vụ án Đình chỉ gải quyết vụ án. Đưa vụ án ra xét xử. Phiên toà sơ thẩm Thành phần tham dự phiên toà sơ thẩm: Hội đồng xét xử gồm có 1 thẩm phán, 2 hội thẩm nhân dân, trường hợp đặc biệt thì có 2 thẩm phán, 3 hội thẩm nhân dân. Sự có mặt của đương sự tại phiên toà: Đương sự phải có mặt tại phiên toà khi toà án xét xử vụ án. Tuy nhiên, trên thực tế vì một số nguyên nhân khách quan nên họ không thể có mặt tại phiên toà. Trường hợp vắng mặt lần thứ nhất có lí do chính đáng thì toà án phải hoãn phiên toà để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho họ. Khi ấy đương sự phải có đơn đề nghị toà xét xử vắng mặt, hoặc đã có người đại diện hợp pháp tại phiên toà. Tuy nhiên, có trường hợp đương sự cố tình tránh mặt để trốn tránh nghĩa vụ, nên sự vắng mặt lần 2 phải được xem xét cụ thể. Nếu nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 mà vẫn vắng mặt thì bị coi là từ bỏ vụ kiện, toà án quyết định đình chỉ giải quyết vụ án. Trong trường hợp này, nguyên đơn có quyền khởi kiện lại nếu còn thời hiệu khởi kiện. Nếu bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 mà vẫn vắng mặt thì toà án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt họ. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 mà vẫn vắng mặt thì toà án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt họ. Sự có mặt của kiểm sát viên Kiểm sát viên chỉ có bắt buộc phải tham gia phiên toà kinh tế đối với những vụ án do toà án thu thập chứng cứ, mà đương sự có khiếu nại. Trình tự của phiên toà sơ thẩm Thủ tục bắt đầu phiên toà Xét hỏi tại phiên toà. Tranh luận tại phiên toà. Nghị án và tuyên án. Thủ tục xét xử phúc thẩm Khi các bản án sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì Tòa án cấp trên phải xử theo thủ tục tố tụng được quy định. Các hình thức hòa giải và thương lượng không được xem xét nữa. So sánh giữa các hình thức giải quyết tranh chấp thương mại Mục Hòa giải (trung gian) Tòa án Trọng tài Tính chung thấm Tôn trọng sự tự nguyện, quyền tự định đoạt của các bên tranh chấp Phán quyết của trọng tài thường bị kháng cáo Đa số các quyết định của trọng tài không bị kháng cáo. Chỉ có thể dựa vào một vài lí do để khước từ quyết định trọng tài tại tòa án. Sự công nhận quốc tế Đảm tính khách quan, công bằng, hợp lý, không trái pháp luật và không trái các tập quán thương mại quốc tế, được sự công nhận của quốc tê, phù hợp với đạo đức xã hội và phong tục, tập quán. Phán quyết của tòa án thường khó đạt được sự cộng nhận quốc tế. Phán quyết của tòa án được công nhận tại một nước khác thường thông qua một hiệp định song phương hoặc theo các quy tắc rất nghiêm ngặt. Có một số ngoại lệ khu vực( ví dụ các nước thuộc liên minh châu Âu) Quyết định trọng tài được công nhận quốc tế thông qua một loạt công ước Quốc tế và đặc biệt là công ước New York năm 1958 về công nhận và thi hành quyết định trọng tài nước ngoài. Tính trung lập Việc hòa giải có được tiến hành hay không phụ thuộc vào sự nhất trí của các bên, hòa giải viên không có quyền đưa ra một quyết định ràng buộc hay áp đặt bất cứ vấn đề gì đối với các bên tranh chấp thỏa thuận hòa giải không có tính bắt buộc thi hành như phán quyết của trọng tài hay của tòa án. Mặc dù thẩm phán các quốc gia có thể khách quan, họ buộc vẫn phải sử dụng ngôn ngữ và áp dụng quy tắc tố tụng của quốc gia họ. Các nơi có thể bình đẳng về nơi tiến hành trọng tài ( tại một nước trung lập) ngôn ngữ sử dụng, quy tắc tố tụng, quốc tịch của trọng tài viên và đại diện pháp lý. Năng lực chuyên môn và sự kế tục của các cá nhân Không phải tất cả các hòa giải viên đều có năng lực chuyên môn về lĩnh vực nào đó. Không phải tất cả các thẩm phán đều có năng lực chuyên môn về lĩnh vực nào đó. Ví dụ trong tranh chấp bằng sáng chế, ngân hàng, tên miền trong những vụ kiện kéo dài, có thể có nhiều thẩm phán kế tiếp nhau xử vụ kiện. Các bên có thể lựa chọn các trọng tài viên có trình độ chuyên môn cao, miễn là các trọng tài viên độc lập. Thông thường các trọng tài viên theo vụ kiện từ đầu tới cuối. Tính linh hoạt Thủ tục hòa giải được tiến hành nhanh gọn, chi phí thấp, các bên có quyền tự định đoạt, lựa chọn bất kỳ người nào làm trung gian hòa giải cũng như địa điểm tiến hành hòa giải. Họ không bị gò bó về mặt thời gian như trong thủ tục tố tụng tại tòa án. Tòa án quốc gia bị ràng buộc nghiêm ngặt bởi các nguyên tắc tố tụng quốc gia. Đa số các quy tắc tố tụng trọng tài quy định rất linh hoạt việc xác định thủ tục trọng tài, phiên họp giải quyết tranh chấp, địa điểm tổ chức phiên họp giải quyết tranh chấp và nơi các trọng tài viên gặp gỡ, thời gian soạn thảo quyết định trọng tài. Các biện pháp tạm thời Các bên phải nhận lệnh tạm thời thông qua tòa án. Khi cần hoạt động nhanh chóng và hiệu quả để ngăn chặn sự vi phạm, tòa án có thể ra lệnh cưỡng chế khẩn cấp, thậm chí trước khi bắt đầu tố tụng thực chất. Tòa án cũng có thể cưỡng chế đối với bên thứ ba. Trước khi hội đồng trọng tài được thành lập, các bên phải nhận lệnh tạm thời thông qua tòa án, ở hầu hết các hệ thống pháp luật, khi hội đồng trọng tài được thành lập các bên vẫn có thể nhận lệnh của tòa án để ngăn chặn hành vi sai phạm. Theo luật của nhiều nước trọng tài viên cũng có quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Tuy nhiên, trọng tài viên không có quyền cưỡng chế bên thứ ba. Nhân chứng Các hòa giải viên có quyền triệu tập bên thứ ba và nhân chứng. Các tòa án, đại diện chủ quyền quốc gia có quyền triệu tập bên thứ ba và nhân chứng ra trước tòa, đây gọi là quyền cưỡng chế mà trọng tài viên không có. Các trọng tài viên không có quyền triệu tập bên thứ ba khi chưa có sự đồng ý của họ và không có quyền yêu cầu một bên mời nhân chứng đến. Tốc độ Những hòa giải nếu được thực hiện tốt thì rất nhanh chóng về thời gian. Tố tụng có thể bị trì hoãn và kéo dài. Các bên có thể gặp phải một loạt sự kháng cáo kéo dài và tốn kém. Trọng tài nhanh hơn tòa án. Tính bí mật Hòa giải tạo điều kiện cho các bên có tranh chấp giữ gìn bí mật kinh tế, bí quyết kinh doanh, kiểm soát việc nghiên cứu và sử dụng tài liệu, chứng cứ giúp giải quyết tranh chấp. Các phiên xét xử cũng như các phán quyết là công khai. Các phiên họp giải quyết tranh chấp của trọng tà không được tổ chức công khai và chỉ có các bên nhận được các quyết định. Đây là ưu điểm lớn của trọng tài Phí tổn Tiết kiệm được chi phí. Các bên không phải trả thù lao cho thẩm phán, ngoài ra phí hành chính rất hợp lý. Tuy nhiên các bên nên nhớ rằng chi phí chủ yếu là thù lao cho các luật sư. Các bên phải trả trướ các khoản thù lao, chi phí đi lại và ăn ở cho các trọng tài viên, cũng như chi phí hành chính cho tổ chức trọng tài quy chế. Chương 3 Thực tiễn về giải quyết tranh chấp thương mại tại Việt Nam hiện nay Nội dung các tranh chấp thương mại ngày càng đa dạng và phức tạp Mấy năm trở lại đây, do những diễn biến phức tạp của đời sống xã hội nên các tranh chấp kinh doanh, thương mại cũng ngày càng nhiều và phức tạp hơn. Theo đánh giá của TANDTC, trong thời gian qua, toàn ngành đã thụ lý, giải quyết gần 200.000 các việc dân sự Số liệu tham khảo tại bài viết "Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại: Phức tạp, chồng chéo" - tác giả Công Minh - đăng trên báo An ninh thủ đô số ngày 7/6/2009 . Một trong số những việc đó là những tranh chấp liên quan đến kinh doanh, thương mại. Có thể nói, đó là một con số không nhỏ, phản ánh một thực tế về sự gia tăng của các tranh chấp kinh tế cũng như những loại án đặc thù, mới phát sinh mà để giải quyết ổn thỏa, đảm bảo quyền lợi cho các bên là một công việc không phải đơn giản. Trong bối cảnh Việt Nam đã gia nhập WTO và nền kinh tế nước ta đã chuyển sang mô hình phát triển theo thể chế thị trường, các tranh chấp kinh tế không những đơn thuần là tranh chấp giữa hai chủ thể giao kết hợp đồng kinh tế, mà còn có những tranh chấp dưới các dạng khác nhau phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh như tranh chấp giữa các thành viên trong công ty, tranh chấp về cổ phần, cổ phiếu, tranh chấp giữa công ty và các thành viên của công ty. Theo quy định tại điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự thì tranh chấp thương mại rất đa dạng ,phức tạp và chồng chéo, không chỉ đơn thuần nằm trong giới hạn của Bộ luật dân sự hay luật thương mại mà còn liên quan đến nhiều luật chuyên ngành khác. Do đó, việc giải quyết các tranh chấp này, nhất là khi lựa chọn hình thức Toà án đã dẫn đến không ít khó khăn, lúng túng cho các bên mà còn cho Toà án thụ lý Sự chồng chéo và thiếu tính nhất quán đó ắt phải dẫn đến một hậu quả, đó là đưa ra những phán quyết thiếu khách quan, ảnh hưởng đến quyền lợi của những người tham gia tố tụng. Để việc áp dụng pháp luật được đúng và thống nhất, Tòa Kinh tế - TANDTC đã đề nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cần có văn bản hướng dẫn theo hướng: Khi giải quyết vụ án kinh doanh, thương mại mà tranh chấp đó vừa được điều chỉnh bởi quy định của Bộ luật dân sự, vừa được điều chỉnh bởi quy định của Luật chuyên ngành thì áp dụng theo quy định của Luật chuyên ngành để giải quyết. Nếu Luật chuyên ngành không có quy định thì mới áp dụng quy định của Bộ luật dân sự. Chỉ có như thế, việc giải quyết mới trở nên đơn giản, dễ dàng áp dụng thống nhất các quy định của pháp luật và đưa ra những quyết định sáng suốt, công bằng. Lựa chọn các hình thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh và thương mại Hoạt động hoà giải còn thiếu tính chuyên nghiệp Rõ ràng, dù hòa giải trong giải quyết tranh chấp thương mại được đánh giá là có nhiều ưu điểm về thời gian giải quyết ngắn, chi phí tương đối thấp, thủ tục đơn giản và giữ được hòa khí của các bên tranh chấp song thực tế, pháp luật lại thiếu những qui định công nhận pháp lý chế định hòa giải trong giải quyết tranh chấp thương mại, không có thiết chế bắt buộc thực hiện kết quả hòa giải... Điều đó khiến hoạt động hòa giải tranh chấp thương mại ở nước ta thiếu đi tính chuyên nghiệp và qui định hòa giải (như một biện pháp giải quyết tranh chấp) vẫn luôn “vắng bóng” trong các hợp đồng giao thương giữa các DN trong nước với nhau và giữa DN trong nước với DN nước ngoài. Viện Khoa học Pháp lý (Bộ Tư pháp) đang tiến hành Dự án điều tra cơ bản “Thực trạng tranh chấp và giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế của DN Việt Nam và vai trò của các thiết chế tư pháp, bổ trợ tư pháp” nhằm cung cấp những căn cứ thực tiễn để hoàn thiện cơ chế pháp lý về giải quyết tranh chấp thương mại và áp dụng đối với các thiết chế tư pháp và bổ trợ tư pháp. Trong số 367 DN Việt Nam (tại Vĩnh Phúc, Hải Phòng, Hà Nội, Đà Nẵng, Khánh Hòa, Bình Dương, TP.HCM, Kiến Giang) đã gặp tranh chấp thương mại quốc tế có 100 DN từng giải quyết tranh chấp bằng hòa giải (tỷ lệ 26,9%) - cao hơn so với số DN chọn phương thức trọng tài và tòa án. Nguồn: Số liệu điều tra qua phiếu hỏi của của nhóm thư ký Dự án điều tra cơ bản “Thực trạng tranh chấp và giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế của DN Việt Nam và vai trò của các thiết chế tư pháp, bổ trợ tư pháp Nguyên nhân Nguyên nhân trước tiên đó là do pháp luật không có quy định cụ thể hướng dẫn về hoạt động hoà giải trong tranh chấp thương mại. Có thể thấy hệ thống pháp luật về hòa giải hiện hành chủ yếu điều chỉnh hoạt động hòa giải trong tố tụng và hòa giải các tranh chấp, bất đồng dân sự ở cơ sở, đời sống cộng đồng. Riêng hòa giải với tính chất là một biện pháp giải quyết tranh chấp thương mại ngoài tố tụng là một khái niệm mới được ghi nhận tại khoản 2 Điều 317 Luật Thương mại 2005. Nhưng tất cả chỉ vẻn vẹn qui định, “hòa giải giữa các bên do một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được các bên thỏa thuận chọn làm trung gian hòa giải” là hình thức giải quyết tranh chấp, mà không có văn bản hướng dẫn cụ thể khi hòa giải phải làm theo qui trình, thủ tục nào, nội dung và hiệu lực của phương thức giải quyết tranh chấp này ra sao. Chỉ duy nhất Trung tâm Trọng tài quốc tế (VIAC) đặt cạnh Phòng Thương mại & Công nghiệp Việt Nam (VCCI) là hiện thức hóa qui định tại khoản 2 Điều 317 Luật Thương mại thành Qui tắc hòa giải của VIAC (20 điều, có hiệu lực từ 10/9/2007). Nhưng cũng chỉ là bộ qui tắc “nội bộ”, áp dụng cho các DN có nhu cầu đề nghị VIAC làm trung gian hòa giải. Điều đó khiến hoạt động hòa giải tranh chấp thương mại ở nước ta thiếu đi tính chuyên nghiệp và qui định hòa giải (như một biện pháp giải quyết tranh chấp) vẫn luôn “vắng bóng” trong các hợp đồng giao thương giữa các DN trong nước với nhau và giữa DN trong nước với DN nước ngoài. Một nguyên nhân khác đó chính là văn hoá hoà giải trong cạnh tranh kinh doanh còn chưa cao. Người ta thường ví " thương trường như chiến trường". Đó chính là cuộc chơi khi các nhà đầu tư tham gia vào nền kinh tế thị trường. Có cạnh tranh xã hội mới phát triển, nhưng không thể cạnh tranh theo lối ở chiến trường nghĩa là tìm cách tiêu diệt đối phương đền khi không thể đứng dậy..Văn hóa cạnh tranh là ai có sức thì cứ chạy, ai chạy nhanh thì chiến thắng. Và người bị thua phải biết tôn trọng sự chiến thắng của người khác, giống như khi ta chiến thắng thì cũng được người khác chấp nhận như vậy. Cạnh tranh lành mạnh đó cũng là tiền đề để chúng ta hòa giải khi gặp phải những bât đồng nào đó. .Trọng tài - một phương thức giải quyết tranh chấp ưu việt Hiện nay, việc giải quyết các tranh chấp ở Việt Nam chủ yếu được xét xử thông qua hệ thống Toà án và Trung tâm trọng tài. Tuy nhiên, một vấn đề nhận thấy rõ ràng là hệ thống Toà án đã trở nên quá tải, dẫn đến tăng lượng vụ tồn đọng, không kịp giải quyết, do đó làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Theo thống kê của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC), trong khi Toà kinh tế Hà Nội trong năm 2007 phải xử gần 9.000 vụ án, trong đó có khoảng 300 vụ án kinh tế và Toà kinh tế thành phố Hồ Chí Minh phải xử gần 42.000 vụ án các loại, trong đó có 1.000 vụ án kinh tế, thì VIAC cũng chỉ tiếp nhận khoảng 30 vụ VIAC có 140 trọng tài viên. Năm 2004 thụ lý 26 vụ; năm 2005 thụ lý 18 vụ; năm 2008 thụ lý 48 vụ. Tính trung bình mỗi năm số vụ việc giải quyết tăng khoảng 15. . Tính trung bình mỗi trọng tài viên của VIAC chỉ xử 0, 25 vụ một năm, trong khi mỗi thẩm phán Toà kinh tế Hà Nội phải xử trên 30 vụ một năm và mỗi thẩm phán ở Toà kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh xử trên 50 vụ một năm. Theo thống kê năm 2007 về giải quyết các vụ tranh chấp về dân sự, kinh doanh, thương mại và lao động, thì Toà án các tỉnh đã thụ lý 108.060 vụ; đã xử lý được 80.773 vụ. Ngoài ra, có 1.280 vụ được kháng cáo lên Toà án nhân dân tối cao. Những con số này ngoài việc cho thấy sự phổ biến việc xử lý các tranh chấp bằng Toà án còn cho thấy phần nào sự quá tải của hệ thống Toà án Số liệu thống kê tình hình xét xử của Toà án ở 64 tỉnh thành phố giai đoạn 1/1/2007 đến 31/12/2007 . Các tranh chấp giữa các bên Việt Nam và các bên nước ngoài vẫn tiếp tục được xét xử chủ yếu bằng trọng tài tại Trung tâm Trọng tài quốc tế Singapore (119 vụ), Hiệp hội Trọng tài Mỹ (621 vụ); Toà án Trọng tài Quốc tế bên cạnh Phòng Thương mại Quốc tế ICC (599 vụ); Hội đồng Trọng tài Thương mại và Kinh tế Trung Quốc (1.118 vụ); Trung tâm Trọng tài Quốc tế Hồng Kông (448 vụ) . Theo luật pháp hiện hành của Việt Nam, việc giải quyết tranh chấp kinh tế được thực hiện bằng một trong hai con đường: Một là, giải quyết tại Toà án nhân dân theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; Hai là, giải quyết bằng trọng tài theo quy định của Luật trọng tài năm 2010. Toà án là cơ quan xét xử của Nhà nước, nhân danh Nước CHXHCN Việt Nam quyết định đưa vụ tranh chấp ra xét xử theo trình tự tố tụng dân sự được quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự. Quá trình tố tụng như vậy, đương nhiên là phải chặt chẽ, với nhiều thủ tục tố tụng rườm rà, thời gian kéo dài; xét xử công khai; án được tuyên không tuỳ thuộc ý chí các bên mà là kết quả nghị án của Hội đồng xét xử; án đã tuyên dù có quyền kháng cáo, nhưng “gỡ” được không phải dễ. Trong khi đó, trọng tài thương mại là một tổ chức phi chính phủ, chỉ nhận giải quyết các vụ tranh chấp khi các bên có thoả thuận bằng văn bản về việc chọn trọng tài. Quá trình giải quyết, được thực hiện theo nguyên tắc “phân xử trọng tài” phù hợp với quy định trong Luật trọng tài thương mại thương mại và quy chế của Tổ chức trọng tài mà các bên đã lựa chọn. Như vậy, có nhiều phương thức giải quyết tranh chấp ngoài con đường Toà án như thương lượng, trung gian, hoà giải... nhưng so với các phương thức giải quyết tranh chấp bằng Toà án thì việc lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài có một số ưu điểm như sau: Thứ nhất, tính chung thẩm và hiệu lực của quyết định trọng tài đối với việc giải quyết tranh chấp Việc giải quyết tranh chấp tại Trung tâm trọng tài thương mại có ưu điểm nổi bật so với Tòa án ở chỗ nhanh gọn, kín đáo và phán quyết của trọng tài là có giá trị chung thẩm, tức có hiệu lực cuối cùng. Trong khi Tòa án xử thì phải 2 - 3 lần, từ sơ thẩm đến phúc thẩm, rồi còn thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, rồi còn khiếu nại, khiếu kiện và còn có sự tham gia của nhiều cơ quan khác (như Viện kiểm sát...). Còn cách thức giải quyết bằng trọng tài lại hết sức đơn giản và linh động. Tính chung thẩm của quyết định trọng tài không chỉ có giá trị bắt buộc đối với các bên đương sự mà nó còn khiến các bên không thể chống án hay kháng cáo. Xét xử tại trọng tài chỉ có một cấp xét xử. Khi tuyên phán quyết xong, Uỷ ban Trọng tài (Hội đồng trọng tài) hoàn thành nhiệm vụ và chấm dứt sự tồn tại của mình. Những ưu điểm này đặc biệt quan trọng đối với hoạt động đầu tư thương mại. Chính những ưu điểm đó bảo đảm rằng nếu các bên ưu tiên giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thì các nhà đầu tư sẽ giảm rủi ro cho bên nước ngoài khi quyết định tham gia đầu tư thương mại tại Việt Nam; tạo thuận lợi cho các bên nước ngoài và cả bên Việt Nam thông qua việc giải quyết tranh chấp tại Việt Nam. Quyết định trọng tài được thực hiện ngay, đáp ứng yêu cầu khôi phục nhanh những tổn thất về tiền, hàng trong kinh doanh thương mại. Quyết định trọng tài là quyết định cuối cùng và có hiệu lực pháp luật, như bản án của Toà án. Tuy là chung thẩm, nhưng tố tụng trọng tài không đặt vấn đề cưỡng chế thi hành, nên bên đương sự nào không chấp nhận phán quyết của trọng tài thì có thể kiện ra Toà kinh tế theo thủ tục giải quyết các vụ án. Thứ hai, trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp bí mật Trọng tài là một tiến trình giải quyết tranh chấp có tính riêng biệt. Hầu hết pháp luật về trọng tài của các nước đều thừa nhận nguyên tắc trọng tài xử kín (in camera) nếu các bên không quy định khác. Tính bí mật thể hiện rõ ở nội dung tranh chấp và danh tính của các bên được giữ kín, đáp ứng nhu cầu tin cậy trong quan hệ thương mại. Điều đó có ý nghĩa lớn trong điều kiện cạnh tranh. Đây là ưu điểm đối với những doanh nghiệp không muốn các chi tiết trong vụ tranh chấp của mình bị đem ra công khai, tiết lộ trước Tòa án (hoặc công chúng) - điều mà các doanh nghiệp luôn coi là tối kỵ trong hoạt động kinh doanh của mình. Thứ ba, trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp liên tục Các bên đương sự được tự do lựa chọn trọng tài viên. Cách thức lựa chọn trọng tài và Hội đồng trọng tài phát huy tính dân chủ, khách quan trong quá trình tố tụng. Hoạt động trọng tài diễn ra liên tục vì Hội đồng trọng tài (Uỷ ban trọng tài) xét xử vụ kiện đã được các bên lựa chọn, hoặc được chỉ định để giải quyết vụ kiện đó. Khi mang một vụ việc ra xét xử ở Toà án, có khả năng thẩm phán được chỉ định giải quyết vụ việc không có trình độ chuyên môn liên quan đến đối tượng tranh chấp, đặc biệt các ngành có đặc thù chuyên môn cao như: dầu khí, xây dựng, tài chính, đầu tư, bảo hiểm… Khi giải quyết bằng trọng tài, các bên hoàn toàn có thể lựa chọn trọng tài viên có trình độ chuyên môn phù hợp với đối tượng tranh chấp, góp phần nâng cao hiệu quả, công bằng và chính xác trong giải quyết tranh chấp. Trọng tài viên - người chủ trì phân xử tranh chấp theo suốt vụ kiện từ đầu đến cuối, vì vậy, họ có cơ hội tìm hiểu tình tiết vụ việc. Điều này có lợi ngay cả khi các bên muốn hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp thông qua đàm phán, trọng tài có thể hỗ trợ các bên đạt tới một thỏa thuận. VIAC có danh sách Trọng tài viên gồm 123 người trong đó phân chia lĩnh vực chuyên môn của trọng tài viên như sau: chuyên gia pháp luật (52%); tài chính, ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm (12%); xây dựng cơ khí (7%), vận tải đường biển, đường hàng không, đường bộ (4,8%), sở hữu trí tuệ (3,1%), các lĩnh vực khác (18%). Thứ tư, trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp mềm dẻo, nhanh chóng, linh hoạt cho các bên Tòa án, khi xét xử các bên hoàn toàn phụ thuộc vào sự chỉ đạo của Toà án về thủ tục, thời gian, địa điểm, cách thức xét xử… được quy định trước đó. Trong khi đó, với trọng tài, các bên thông thường được tự do lựa chọn thủ tục, thời gian, địa điểm phương thức giải quyết tranh chấp theo phương thức tiện lợi, nhanh chóng, hiệu quả nhất cho các bên trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Điều này có thể làm giảm chi phí, thời gian và tăng hiệu quả cho quá trình giải quyết tranh chấp. Thứ năm, tiết kiệm thời gian Tính liên tục, đặc biệt trong hoạt động kinh doanh quốc tế đòi hỏi các bên không thể lãng phí thời gian, điều mà các Tòa án sẽ rất khó đáp ứng được do luôn phải giải quyết nhiều tranh chấp cùng một lúc, gây ra khả năng ách tắc hồ sơ. Giải quyết tranh chấp bằng Tòa án cho phép các bên được quyền kháng án cũng làm cho tiến độ bị kéo dài. Trong thực tế, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, ví dụ như giải quyết tranh chấp bằng VIAC thường kéo dài tối đa là 6 tháng, còn tại Tòa án có thể kéo dài hàng năm trời. Thứ sáu, duy trì được quan hệ đối tác Việc thắng, thua trong tố tụng tại trọng tài kinh tế vẫn giữ được mối hoà khí lâu dài giữa các bên tranh chấp. Đây là điều kiện không làm mất đi quan hệ hợp tác kinh doanh giữa các đối tác. Bởi lẽ tố tụng tại trọng tài là tự nguyện. Xét xử bằng trọng tài sẽ làm giảm mức độ xung đột căng thẳng của những bất đồng trên cơ sở những câu hỏi gợi mở, trong một không gian kín đáo, nhẹ nhàng… Đó là những yếu tố tạo điều kiện để các bên duy trì được quan hệ đối tác, quan hệ thiện chí đối với nhau và đặc biệt, sự tự nguyện thi hành quyết định trọng tài của một bên sẽ làm cho bên kia có sự tin tưởng tốt hơn trong quan hệ làm ăn trong tương lai. Thứ bảy, trọng tài cho phép các bên sử dụng được kinh nghiệm của các chuyên gia Ưu điểm này thể hiện ở quyền được chọn trọng tài viên của các bên đương sự, điều mà không tồn tại ở Tòa án. Các bên có thể chọn một Hội đồng trọng tài dựa trên năng lực, sự hiểu biết vững vàng của họ về pháp luật thương mại quốc tế, về các lĩnh vực chuyên ngành có tính chuyên sâu như chứng khoán, licensing, leasing, xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ, sở hữu trí tuệ… Thứ tám, tuy là giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài - một tổ chức phi chính phủ, nhưng được hỗ trợ, bảo đảm về pháp lý của Toà án trên các mặt sau: Xác định giá trị pháp lý của thoả thuận trọng tàiX; giải quyết khiếu nại về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài; ra lệnh áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; xét đơn yêu cầu huỷ quyết định trọng tài; công nhận và thi hành quyết định trọng tài. Trong quá trình giải quyết tranh chấp, nếu quyền và lợi ích của một bên bị xâm hại hoặc có nguy cơ xâm hại thì có quyền làm đơn yêu cầu Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, nhằm: bảo toàn chứng cứ trong trường hợp chứng cứ bị tiêu huỷ hoặc có nguy cơ bị tiêu huỷ; kê biên tài sản tranh chấp để ngăn ngừa việc tẩu tán tài sản; cấm chuyển dịch tài sản tranh chấp; cấm thay đổi hiện trạng của tài sản tranh chấp; kê biên và niêm phong tài sản ở nơi gửi giữ; phong toả tài khoản tại ngân hàng. Việc đánh giá và sử dụng nguồn chứng cứ tại các cơ quan trọng tài rộng hơn, tự do hơn, mang tính xã hội hơn, tạo điều kiện cho các bên làm sáng tỏ những vấn đề nhạy cảm. Trong khi đó, Toà án áp dụng các chứng cứ để tố tụng bị ràng buộc hơn về mặt pháp lý, làm cho các bên tham gia tố tụng không có cơ hội làm sáng tỏ hết được nhiều vấn đề khúc mắc, không thể hiện trên các chứng cứ “pháp lý”. Cơ chế hỗ trợ của Toà án đối với giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại ngày càng hoàn thiện Sự ra đời của Luật trọng tài thương mại 2010 thay thế cho Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 (Pháp lệnh trọng tài) đã đánh dấu một bước tiến mới trong việc hình thành và hoàn thiện pháp luật về trọng tài tại Việt Nam, đáp ứng nhu cầu lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp của cộng đồng doanh nghiệp. Thực tiễn áp dụng Luật trọng tài thương mại trong hơn 6 năm qua, tuy được đánh giá có nhiều điểm tiến bộ cùng với sự xuất hiện của nhiều nhân tố mới (như: Việt Nam đã là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới, với sự xuất hiện của các đạo luật mới như Luật Thương mại năm 2005, Luật Đầu tư năm 2005…), nhưng một số quy định của Luật đã bộc lộ sự bất cập do một số nguyên nhân chủ yếu như: thẩm quyền của trọng tài còn nhiều hạn chế về phạm vi, chưa xác định cụ thể, rõ ràng, thống nhất và chắc chắn; đội ngũ trọng tài viên ở trong nước chưa phát triển, chưa đạt trình độ và uy tín bảo đảm sự tin cậy của các bên tranh chấp, nhất là các bên nước ngoài…. Bên cạnh đó, một trong những bất cập có ảnh hưởng trực tiếp tới hệ thống trọng tài Việt Nam là cơ chế hỗ trợ của Toà án đối với trọng tài chưa hiệu quả, đặt trọng tài vào vị trí bất lợi hơn nhiều so với Toà án liên quan đến một số vấn đề sau: Vấn đề xem xét thoả thuận trọng tài, thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp của Hội đồng Trọng tài Theo quy định tại Điều 30, thì khi có khiếu nại của một bên về việc Hội đồng Trọng tài không có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp; vụ tranh chấp không có thoả thuận trọng tài hoặc thoả thuận trọng tài vô hiệu, Hội đồng Trọng tài phải xem xét, quyết định với sự có mặt của các bên, trừ trường hợp các bên có yêu cầu khác.Tuy nhiên, có một số vấn đề còn chưa rõ đó là trường hợp một bên khiếu nại về thẩm quyền của trọng tài ra Toà án theo Điều 30. Toà án xem xét và quyết định trọng tài có thẩm quyền. Sau đó, Hội đồng trọng tài giải quyết vụ tranh chấp và ra quyết định trọng tài. Vậy khi Hội đồng trọng tài đã ra Quyết định trọng tài thì các bên có quyền làm đơn yêu cầu Toà án huỷ Quyết định trọng tài không có thẩm quyền theo Điều 54 của Pháp lệnh hay không? Trong trường hợp chưa có Quyết định của Hội đồng trọng tài mà một bên khiếu nại ra Toà án về vấn đề thẩm quyền thì Hội đồng trọng tài có tiếp tục giải quyết vụ tranh chấp hay dừng việc giải quyết vụ tranh chấp? Như vậy, một là, có tranh chấp về “thẩm quyền” giữa trọng tài và Toà án trong giải quyết các vụ việc tranh chấp cụ thể cho dù các bên đã có thoả thuận trọng tài và trong trường hợp này, trọng tài chưa phải là phương thức giải quyết tranh chấp được ưu tiên áp dụng. Hai là, căn cứ vào điều kiện để Toà án tuyên huỷ phán quyết của trọng tài là dễ dàng, có phần tuỳ ý và ít tốn kém đối với bên “thua kiện”. Tiêu chí Toà án huỷ quyết định của trọng tài còn chưa rõ và rất dễ bị lạm dụng. Về biện pháp khẩn cấp tạm thời Thứ nhất, Luật trọng tài thương mại đã xây dựng được chế định hết sức quan trọng và có ý nghĩa trong tố tụng trọng tài đó là quyền các bên tranh chấp được yêu cầu Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Tuy nhiên quy định này vẫn có điểm chưa hợp lý. Điều 33 quy định “Trong quá trình Hội đồng trọng tài giải quyết vụ tranh chấp, nếu quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại hoặc có nguy cơ trực tiếp bị xâm hại thì các bên có quyền làm đơn đến Toà án cấp tỉnh nơi Hội đồng trọng tài thụ lý vụ tranh chấp yêu cầu áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời”. Theo quy định trên, nếu muốn áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, các bên phải chờ đến khi Hội đồng Trọng tài được thành lập. Tuy nhiên, nếu phải chờ đợi như vậy thì trong một số trường hợp, biện pháp này sẽ không còn ý nghĩa gì nữa. Do bản chất của biện pháp khẩn cấp tạm thời mang tính nhanh chóng, khẩn trương, kịp thời, nên biện pháp này phải được áp dụng ngay khi một bên thấy rằng quyền lợi hợp pháp của mình có nguy cơ bị xâm phạm, không nhất thiết phải chờ đợi đến khi khởi kiện hoặc Hội đồng trọng tài được thành lập. Thứ hai, Luật trọng tài thương mại chỉ giới hạn thẩm quyền của Toà án, nơi Hội đồng trọng tài thụ lý vụ tranh chấp mới có quyền ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Điều này có thể gây khó khăn cho cả Toà án và các bên trong quá trình áp dụng quy định này. Ví dụ khi các bên khởi kiện ra Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam, theo Luật trọng tài thương mại, nếu muốn áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì chỉ được phép làm đơn yêu cầu Toà án nhân dân Hà Nội ra lệnh áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Điều này chỉ hợp lý và thuận tiện khi cả hai bên đều có trụ sở tại Hà Nội hoặc đối tượng tài sản yêu cầu áp dụng đặt tại Hà Nội. Khi tài sản nằm ở địa bàn khác, nhất là trường hợp tài sản ở nước ngoài, mà yêu cầu Toà án Hà Nội ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời sẽ không khả thi và không hợp lý. Vấn đề triệu tập nhân chứng Luật trọng tài thương mại không xác lập cơ chế hỗ trợ của Toà án đối với trọng tài trong việc thu thập chứng cứ và triệu tập nhân chứng. Đây là quy định quan trọng trong tố tụng trọng tài. Quá trình giải quyết tranh chấp không chỉ có các bên mà nhiều trường hợp có liên quan đến người thứ ba hoặc bên thứ ba. Trong khi Toà án có thẩm quyền đương nhiên trong việc triệu tập các đối tượng này thì trọng thì lại không có thẩm quyền. Vấn đề này, Luật Trọng tài các nước có quy định rất rõ Hội đồng trọng tài hoặc một bên được sự đồng ý của Hội đồng trọng tài có thể yêu cầu Toà án có thẩm quyền trợ giúp thu thập chứng cứ, triệu tập nhân chứng có mặt tại trọng tài. Do không có cơ chế hỗ trợ nêu trên, các luật sư và doanh nghiệp vẫn băn khoăn khi lựa chọn trọng tài Việt Nam để giải quyết tranh chấp. Quy định về huỷ quyết định trọng tài Quy định về huỷ quyết định trọng tài còn nhiều bất cập. Một trong những nguyên nhân khiến cho cả số lượng quyết định trọng tài bị yêu cầu huỷ gia tăng đó là cơ chế huỷ quyết định trọng tài quá đơn giản. Điều 50 của Pháp lệnh quy định “Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được quyết định trọng tàiQ, nếu có bên không đồng ý với quyết định trọng tài thì có quyền làm đơn gửi Toà án cấp tỉnh nơi Hội đồng trọng tài ra quyết định trọng tài để yêu cầu huỷ quyết định trọng tài”. Tranh chấp là vấn đề phức tạp, khi các bên không thể tự giải quyết được mới đưa ra trọng tài để giải quyết. Do vậy, quyết định trọng tài khó có thể thoả mãn được cả hai bên. Trong khi đó, theo Pháp lệnh chỉ cần điều kiện “không đồng ý với quyết định trọng tài” thì có quyền làm đơn yêu cầu huỷ. Điều này vô hình trung đã khuyến khích các bên làm đơn yêu cầu huỷ quyết định trọng tài với nhiều mục đích khác nhau, đặc biệt là để kéo dài thời hạn thi hành quyết định trọng tài, để kịp tẩu tán tài sản. Một khi đưa đơn yêu cầu huỷ ra Toà án, thủ tục giải quyết đơn yêu cầu huỷ tại Toà án phải qua hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm, thời gian giải quyết tại Toà án cũng không xác định là bao lâu. Như vậy, nếu như các bên mong muốn được giải quyết tranh chấp bằng trọng tài do trọng tài có ưu điểm nhanh chóng, đơn giản thì thực tế các quy định của Luật trọng tài thương mại lại không được như các bên mong đợi. Vấn đề này cần sớm được khắc phục để tránh sự lạm dụng một cách có chủ ý của các bên, nhất là bên thua kiện tại trọng tài. Nếu không sớm giải quyết, các quyết định trọng tài sẽ có nguy cơ trở thành các bản án sơ thẩm. Giải pháp Chuyên nghiệp hoá đội ngũ hoà giải viên Như đã phân tích, hoà giải là một phương thức giải quyết tranh chấp vô cùng quan trọng, ngay cả trong hoạt động hoà giải trong tố tụng lẫn hoạt động hoà giải ngoài tố tụng Hoạt động hoà giải trong tương lai cần đươc chuyên nghiệp hoá theo hướng cần có luật điều chỉnh hoạt động hòa giải trong giải quyết tranh chấp thương mại, nhưng phải cụ thể, rõ ràng, cũng như hoàn thiện cơ chế pháp lý áp dụng đối với các thiết chế tư pháp và bổ trợ tư pháp (luật sư, trọng tài thương mại, công chứng, giám định tư pháp) để hỗ trợ các DN xử lý tranh chấp khi tham gia hoạt động thương mại quốc tế. Đồng thời, để hòa giđội ngũ hoà giải viên ải có thể được các DN lựa chọn như một biện pháp giải quyết tranh chấp cần có cơ chế hỗ trợ tư pháp đối với việc giải quyết các tranh chấp theo hướng kết quả hòa giải có thể được tòa án có thẩm quyền công nhận để đảm bảo khả năng thi hành trên thực tế. Bên cạnh đó, cần xây dựng được một đội ngũ hòa giải viên có năng lực và các trung tâm hòa giải chuyên nghiệp./. Nâng cao cơ chế hỗ trợ của Toà án đối với giải quyết tranh chấp bằng trọng tài Thứ nhất, mở rộng, xác định rõ và cụ thể phạm vi thẩm quyền của trọng tài. Cụ thể, phạm vi thẩm quyền của trọng tài có thể bao gồm: Tất cả các tranh chấp dân sự, kinh tế và lao động đều có thể giải quyết bằng trọng tài, trừ một số ít các trường hợp được quy định cụ thể Bao gồm: (i) tranh chấp liên quan đến quyền nhân thân, hôn nhân, gia đình và thừa kế được giải quyết theo quy định tương ứng của pháp luật dân sự; (ii) Giải quyết tranh chấp liên quan đến phá sản thực hiện theo quy định của pháp luật về phá sản; (iii) giải quyết tranh chấp liên quan đến vụ vi phạm pháp luật về cạnh tranh thực hiện theo quy định của pháp luật về khuyến khích cạnh tranh và kiểm soát độc quyền kinh doanh; về bảo vệ người tiêu dùng, về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ; về các hợp đồng giao kết do bị ép buộc, bị lừa dối ; Các tranh chấp giữa cơ quan quản lý nhà nước và nhà đầu tư trong việc chuẩn bị đầu tư, thực hiện và quản lý dự án đầu tư, khuyến khích và ưu đãi đầu tư trên lãnh thổ Việt Nam cũng có thể được giải quyết bằng trọng tài. Thứ hai, mở rộng tiêu chí xác định thoả thuận trọng tài. Cần phải làm rõ, đầy đủ cả hình thức và nội dung của thoả thuận trọng tài, bao quát hết các trường hợp thoả thuận của các bên về giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, bao gồm: i) Xác định rõ nội dung tối thiểu của thoả thuận trọng tài, là sự đồng ý của các bên về việc sử dụng trọng tài như một trong số các hình thức giải quyết tranh chấp, hoặc đồng ý chọn trọng tài để giải quyết tranh chấp; ii) Xác định rõ và cụ thể các trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu; iii), Xác định rõ và cụ thể các thoả thuận trọng tài không thể thực hiện được. Thứ ba, Hội đồng trọng tài là cơ quan duy nhất quyết định hiệu lực của thoả thuận trọng tài. Thứ tư, nếu các bên có tranh chấp về hiệu lực thoả thuận trọng tài (kể cả tranh chấp giữa các bên hoặc giữa một hoặc các bên với Trung tâm trọng tài) thì Toà án là nơi có quyền quyết định hiệu lực của thoả thuận trọng tài. Tuy nhiên, cần xác định rõ thẩm quyền của Toà án và hiệu lực của quyết định của Toà án trong trường hợp này. Thứ năm, xác định chặt chẽ, rõ ràng, hợp lý tiêu chí xác định Toà án có thẩm quyền đối với trọng tài theo hướng linh hoạt; đồng thời cần xác định rõ trong trường hợp nếu nhiều Toà án có thẩm quyền thì Trung tâm trọng tài có quyền lựa chọn một trong các Toà án đó và quy định rõ trách nhiệm hợp tác, phối hợp công việc của Toà án và không được quyền từ chối. Thứ sáu, cần quy định cụ thể, chi tiết “trách nhiệm của Toà án” trong việc thu thập chứng cứ, lưu giữ chứng cứ về hình thức và nội dung yêu cầu của trọng tài, cụ thể là Điều 15 Dự thảo Luật Trọng tài quy định trong thời hạn cụ thể mà Toà án phải xem xét và chỉ định một thẩm phán có trách nhiệm thu thập chứng cứ; Toà án thông báo bằng văn bản về việc chỉ định thẩm phán. Đặc biệt phải xác định rõ trách nhiệm của Toà án trong việc bảo đảm sự có mặt của người làm chứng Dự thảo Luật Trọng tài: Khi có yêu cầu của một bên hoặc của Hội đồng trọng tài, Toà án có trách nhiệm tiến hành các biện pháp cần thiết bảo đảm sự có mặt của người làm chứng đúng như yêu cầu tại các phiên xét xử của trọng tài. , xác định rõ trình tự thủ tục nhanh chóng, thuận tiện trong việc yêu cầu Toà án áp dụng các biện pháp khẩn cấp, tạm thời. Thứ bảy, xác định rõ các trường hợp Toà án có thể huỷ quyết định của trọng tài theo hướng hạn chế hơn việc huỷ quyết định trọng tài. Thứ tám, cho phép Hội đồng trọng tài được áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và trực tiếp yêu cầu cơ quan thi hành án hỗ trợ thực hiện biện pháp này. Thứ chín, tăng cường sự hỗ trợ của Cơ quan thi hành án đối với thực thi quyết định của trọng tài thông qua việc quy định rõ tiêu chí xác định cơ quan thi hành có liên quan. Thi hành đầy đủ, kịp thời và hiệu quả phán quyết trọng tài là một trong số các giải pháp cơ bản nâng cao độ tin cậy và tính hấp dẫn của trọng tài đối với các bên tranh chấp. Phán quyết trọng tài là chung thẩm, có hiệu lực kể từ ngày công bố. Các bên tranh chấp phải thừa nhận, tôn trọng và nghiêm túc thực hiện đầy đủ, kịp thời. Tuy vậy, trong trường hợp các bên không tự nguyện thi hành thì sự can thiệp và hỗ trợ kịp thời, có hiệu quả của Cơ quan thi hành án là không thể thiếu, để bảo đảm hiệu lực của phán quyết trọng tài. Với các giải pháp nâng cao cơ chế hỗ trợ của Toà án trong việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài nhằm mục tiêu xây dựng một hệ thống trọng tài có chất lượng, đáng tin tưởng sẽ “kéo” hoạt động giải quyết tranh chấp quay trở lại Việt Nam, góp phần thúc đẩy ngành trọng tài và xa hơn nữa, điều này có thể hấp dẫn những bên tranh chấp ngoài Việt Nam đến giải quyết tranh chấp tại Việt Nam. Việc khuyến khích giải quyết tranh chấp qua đường trọng tài cũng sẽ giảm tải gánh nặng về công việc cho hệ thống Toà án và góp phần nâng cao chất lượng và sự tin cậy đối với hệ thống Toà án. Tất cả điều này sẽ góp phần cải thiện môi trường kinh doanh, tạo điều kiện thúc đẩy hơn nữa các hoạt động dân sự, thương mại, nhất là trong hoàn cảnh toàn cầu hoá như hiện nay. Luật trọng tài thương mại có hiệu thi hành từ ngày 1/1/2011. Mục tiêu quan trọng nhất của Luật Trọng tài là tạo một cơ chế giải quyết tranh chấp ngoài Toà án thuận lợi cho các bên, đặc biệt là các bên tham gia các hoạt động thương mại, đầu tư. Cụ thể hơn, mục tiêu của Luật Trọng tài nhằm khuyến khích việc giải quyết tranh chấp thông qua hệ thống trọng tài, qua đó giảm tải công việc cho hệ thống Toà án. Luật Trọng tài ban hành nhằm giảm tải khoảng 30% số lượng tranh chấp kinh tế cho Toà án, chuyển sang giải quyết thông qua hệ thống trọng tài vào năm 2015 Báo cáo đánh giá tác động dự kiến của Luật Trọng tài thương mại. . Trong thời gian tới khi Luật Trong tài đi sâu vào thực tiễn , việc giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài sẽ hứa hẹn một bước phát triển, trong những năm tới, đáp ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp trong tranh chấp kinh tế. Kết luận Qua những nghiên cứu của nhóm về tranh chấp thương mại và các hình thức giải quyết,n hóm đã kết hợp những tài liệu sưu tập được cùng những nhận định chủ quan khi tìm hiểu về đề tài, qua đó giúp người đọc hiểu rõ hơn về các hình thức giải quyết tranh chấp thương mại cũng như ưu và nhược điểm của các hình thức, nhằm tạo điều kiện cho các bên lựa chọn hình thức thích hợp để giải quyết tranh chấp nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm... Trong cuộc sống không có điều gì là tuyệt đối, điều gì cũng có tính hai mặt của nó và các hình thức giải quyết tranh chấp cũng vậy. Bên cạnh những ưu điểm mà chúng mang lại trong quá trình thi hành thì nó cũng đang gây ra một số trở ngại,nhưng nhìn chung các hình thức giải quyết cũng tạo ra một hành lang pháp lí khá hoàn chỉnh khi điều chỉnh về việc giải quyết tranh chấp, tổ chức và hoạt động của các loại hình này. Đồng thời chúng tôi cũng đã cố gắng tìm hiểu về quá trình, việc lựa chọn các hình thức giải quyết cũng như thực trạng giải quyết tranh chấp tại Việt Nam, qua đó giúp chúng ta có một cái nhìn, một bức tranh hoàn chỉnh hơn về giải quyết tranh chấp trong hoạt động thương mại tại Việt Nam. Danh mục tài liệu tham khảo Giáo trình Luật Kinh tế , Trường Đại học Kinh tế TP.HCM , Nhà xuất bản Đại học Quốc gia TP.HCM , năm 2007 “Hòa giải trong Tố tụng dân sự – Nhìn từ góc độ kinh tế” của tiến sĩ luật Lê Nết trên Tạp chí Khoa học pháp lý số 2 (33)/2006 Hệ thống giải quyết tranh chấp: Quy tắc hoà giải trong tranh chấp quốc tế-Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam Văn hóa hòa giải trong cạnh tranh kinh doanh-NGUYỄN HOÀNG ĐỨC Bài viết "Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại: Phức tạp, chồng chéo" - tác giả Công Minh - đăng trên báo An ninh thủ đô số ngày 7/6/2009

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTranh chấp thương mại và giải quyết tranh chấp thương mại tại Việt Nam.doc
Luận văn liên quan