TRÁNH KHỦNG HOẢNG TÀI CHỈNH QUỐC TẾ
MỘT CHƯƠNG TRÌNH CẢI CÁCH CHƯA HOÀN CHỈNH VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
A. Tránh khủng hoảng tài chính quốc tế - Một chương trình cải cách chưa hoàn chỉnh:
I. Nguồn gốc của khủng hoảng tài chính 2007 và chương trình cải tổ
1. Nguồn gốc của khủng hoảng tài chính 2007:
Để hiểu nguồn gốc của khủng hoảng tài chính 2007 và các giải pháp đề xuất để giảm khả năng xảy ra khủng hoảng trong tương lai, trước tiên chúng ta hãy tìm hiểu sự phát triển thị trường ngân hàng qua sự hình thành của ngân hàng hiện đại ở Ý vào thế kỷ thứ XV, thị trường liên ngân hàng, chứng khoán hóa và trị trường bảo hiểm rủi ro tín dụng.
16 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2703 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tránh khủng hoảng Tài chính, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c quy định và sự giám sát, chẳng hạn như rủi ro về tính thanh khoản và hình thức stress testing, và những quy định về vốn Basel 2 đã bị chỉ trích vì tập trung quá nhiều vào phương pháp đo vốn đơn lẻ (Acharya và Richardson, 2009). Tuy nhiên, một phiên họp để thông qua cột 2 của quy định Basel 2 đã hoàn thành trong tháng 6 năm 2004 (BCBS, 2004) đã cho thấy rõ ràng rằng việc giám sát ngân hàng phải đi xa hơn quy định về vốn:
“#738. Rủi ro của thị trường: đánh giá này phần lớn dựa trên biện pháp riêng của ngân hàng về giá trị rủi ro hoặc phương pháp tiêu chuẩn về rủi ro thị trường. Nhấn mạnh cũng nên được đặt trên việc thực hiện các bài stress testing trong việc đánh giá các nguồn vốn để hỗ trợ chức năng kinh doanh”(BCBS, 2004, p161).
#741. Rủi ro thanh khoản: Tính thanh khoản thì rất quan trọng đến khả năng phát triển của bất kỳ tổ chức ngân hàng nào. Vị trí vốn của ngân hàng có thể có một ảnh hưởng đến khả năng của họ để đạt được tính thanh khoản, đặc biệt là trong một cuộc khủng hoảng. Mỗi ngân hàng phải có hệ thống đầy đủ để đo lường, giám sát và kiểm soát rủi ro thanh khoản. Các ngân hàng nên đánh giá đầy đủ về nguồn vốn được đưa ra trong hồ sơ thanh khoản của riêng họ và tính thanh khoản của thị trường nơi họ hoạt động” (BCBS, 2004, p161)
Nhưng người ta không thấy rằng Basel 2 đã yêu cầu một cách rõ ràng đối với việc stress testing về rủi ro thị trường và rủi ro thanh khoản. Tại sao những quy định này không được thi hành? Tất cả những đề xuất nói trên đều nhằm giải quyết các điểm quan trọng trong những quy định hiện hành hay trong các quy định mới, nhưng chúng không đến được vấn đề cốt lõi: thực hiện các quy định và giám sát ngân hàng một cách thận trọng. Ngoài ra, điểm quan trọng chủ yếu dành riêng ở việc tăng cường kiểm soát công. Không có một cơ chế nào đề xuất việc phát triển kiểm soát khu vực tư nhân. Theo quan điểm của chúng tôi, nếu muốn giảm thiểu một cách đáng kể rủi ro khủng hoảng tài chính toàn cầu trong tương lai, còn 3 vấn đề cần phải được quan tâm một cách thoả đáng:
Trách nhiệm của các nhà giám sát ngân hàng. Các ngân hàng chịu các quy định nặng nề trong nhiều năm. Vậy tại sao hệ thống giám sát hiện tại lại có thể để khủng hoảng xảy ra?
Học thuyết “too big to fail”. Có một quan điểm được thừa nhận rằng những hệ thống định chế tài chính lớn không thể phá sản. Chính điều này đã gây nên vấn đề rủi ro tín dụng của các định chế tài chính ấy không được thị trường đánh giá một cách đúng đắn, tạo nên một mối rủi ro về đạo đức. Kết quả của việc giải quyết khủng hoảng là tạo nên các định chế thậm chí còn lớn hơn (ví dụ như sự sát nhập của Bank of America, Countrywide và Merrill Lynch, hay BNP- Paribas và Fortis), cần thiết phải xem xét lại học thuyết “quá lớn để phá sản”.
Sự giám sát hệ thống ngân hàng quốc tế cần phải được làm rõ.
Những vấn đề này sẽ được bàn ở phần tiếp theo
II. Ba đề xuất để hoàn thành chương trình cải cách
Trách nhiệm của các nhà giám sát ngân hàng
Quan sát trong vòng hai năm qua, không như trường hợp của giám đốc điều hành các ngân hàng, rất ít người đứng đầu cơ quan giám sát quốc gia đã được yêu cầu từ chức. Điều này làm dấy lên câu hỏi về các trách nhiệm và tính độc lập của người giám sát ngân hàng. Một minh chứng là những trường hợp của một vài nước Trung Âu và Đông Âu (ECB, 2006, 2007a).
Các ngân hàng được phép cho vay ồ ạt bằng ngoại tệ (chủ yếu là france Thụy Sĩ, Euro và Yên) trên thị trường thế chấp cá nhân. Điều này tạo ra nguồn gốc lớn cho các rủi ro có hệ thống, bởi vì sự mất giá của đồng nội tệ sẽ làm tăng tỷ lệ vỡ nợ trong toàn bộ hệ thống ngân hàng. Tại sao nguồn gốc của rủi ro hệ thống lại được cho phép phát triển? Không khó để tưởng tượng rằng, đối với nhiều bộ trưởng, việc phát triển mạnh mẽ của thị trường bất động sản đã giúp nhiều cho nền kinh tế, việc làm và ngân sách công bằng cách tăng số lượng biên lai thuế.
Chúng ta cần một nhà giám sát ngân hàng dũng cảm để ngừng việc cho vay ngoại tệ, làm chậm lại nền kinh tế và gây khó khăn cho các nhà phát triển bất động sản. Một ví dụ khác là chỉ số phân chia rủi ro được áp đặt trên những quỹ tương hỗ (mutual fund) ở một số nước. Để bảo vệ những nhà đầu tư và cung cấp cho họ sự đa dạng rủi ro tối thiểu, một quỹ tương hỗ không thể đầu tư hơn 10% tài sản của mình vào cùng một đối tác. Tuy nhiên, khi những quỹ thị trường tiền tệ được tạo ra ở Châu Âu, để cạnh tranh với những khoản tiền gửi của ngân hàng, các ngân hàng đã vận động hành lang thành công ở một số quốc gia cho phép một ngoại lệ của quy luật 10% này. Ví dụ tại Bỉ, quỹ thị trường tiền tệ có thể đầu tư lên đến 25% của tài sản trong Các chứng chỉ thị trường tiền tệ được phát hành bởi ngân hàng tài trợ (CBFA, 1991). Đối với các ngân hàng tài trợ, các ngoại lệ của quy tắc 10% rủi ro được sử dụng để duy trì sự ổn định và lành mạnh cho ngân hàng. Điều tranh cãi cho ngoại lệ này là, quy định của cấp có thẩm quyền, rủi ro của vỡ nợ ngân hàng phải là tối thiểu.
Đây là lại là một ví dụ về việc vận động hành lang và lách quy định có thể gây ra tổn hại đến sự ổn định hệ thống và tính lành mạnh của hệ thống tài chính nếu việc lo lắng về sự thanh khoản của ngân hàng bắt đầu chuyển thành thị trường tiền tệ để tài trợ cho thị trường. Một số người (Rochet, 2008) đang kêu gọi những nhà giám sát ngân hàng thực sự độc lập mà sự thành công của họ được đánh giá dựa trên việc duy trì sự ổn định và lành mạnh của hệ thống ngân hàng.
Cùng một phương thức như Ngân hàng Trung ương đã được trao quyền độc lập tiến hành chính sách tiền tệ để kiểm soát lạm phát, tính độc lập sẽ được trao cho người giám sát ngân hàng để phát triển tính lành mạnh của hệ thống ngân hàng.
Chúng ta phải nhớ rằng sự độc lập của Ngân hàng Trung ương được minh chứng bởi tranh luận rằng, do chu kỳ ngắn của các cuộc bầu cử chính trị, Bộ trưởng Bộ tài chính sẽ bị cám dỗ mở rộng nguồn cung cấp tiền tệ để lèo lái nền kinh tế trong ngắn hạn, trả giá là việc tăng lạm phát và tạo ra những căn bệnh cho nền kinh tế. Để giảm tác động của vận động hành lang hoặc những mục tiêu quá ngắn hạn của các nhà hoạch định chính sách công, tính độc lập đã được trao cho Ngân hàng Trung ương để kiểm soát lạm phát. Nên chăng giám sát ngân hàng cũng được tính độc lập tương tự?
Báo cáo Larosière (2009, footnote 10, p 47) làm rõ về vấn đề này và mức độ của tính độc lập được trao cho người giám sát ngân hàng:
"Như vậy các cơ quan giám sát phải được trao quyền và có thể thực hiện phán quyết độc lập của riêng mình (ví dụ, đối với cấp phép, kiểm tra, giám sát, xử phạt, và thực thi các biện pháp trừng phạt), mà không có cơ quan chức năng nào của ngành có quyền hoặc khả năng thay đổi. Hơn nữa, người quản lý phải ra quyết định của mình dựa vào mục tiêu công việc và không phân biệt đối xử. Tuy nhiên, sự độc lập giám sát khác với sự độc lập của Ngân hàng Trung ương (ví dụ trong quan hệ với chính sách tiền tệ), theo ý nghĩa là chính phủ (thường là Bộ trưởng Bộ Tài chính) vẫn chịu trách nhiệm về chính trị là duy trì sự ổn định của hệ thống ngân hàng, và sự thất bại của một hoặc nhiều tổ chức tài chính, thị trường hoặc cơ sở hạ tầng có thể gây những tác động nghiêm trọng cho nền kinh tế và tiền thuế của người dân ".
Báo cáo Larosière chỉ ra rất rõ ràng về giới hạn độc lập của người giám sát ngân hàng: càng ngày giám sát ngân hàng càng cần được độc lập. Nhưng, không giống như chính sách tiền tệ, chính phủ thì chịu trách nhiệm duy trì sự ổn định của hệ thống ngân hàng. Do hệ thống này thường được quy chụp là một sự điều tiết ngắn hạn mang tính chính trị, một trong những quan tâm của dư luận là có nên giao cho giám sát ngân hàng cùng một mức độ độc lập như là giao cho chính sách tiền tệ và ngân hàng trung ương hay không. Lưu ý rằng những quyết định để giải cứu một cơ quan nào mà liên quan đến tiền thuế của người dân thì vẫn nằm trong tay chính phủ. Các quyền độc lập được trao là quyền để thông qua các quy định và để thực thi giám sát với mục tiêu duy nhất là giữ gìn sự ổn định và tính lành mạnh của hệ thống ngân hàng. Theo quan điểm của tác giả, không phải việc thiếu các quy định nhưng chính việc thực thi kém bởi người giám sát ngân hàng đó đã góp phần tăng cuộc khủng hoảng, việc tăng cường trách nhiệm của người giám sát ngân hàng là cần thiết. Sự độc lập với các mục tiêu rõ ràng - tính lành mạnh của hệ thống ngân hàng - sẽ góp phần rất lớn làm tăng trách nhiệm này.
Học thuyết “too big to fail”
Có rất nhiều đề xuất quốc tế yêu cầu cần phải có một sự giám sát chặt chẽ các định chế tài chính có mạng lớn rộng. Mặc dù chưa có một đề cập rõ ràng nào về vấn đề này nhưng các Ngân hàng Trung ương luôn hiểu rằng sự phá sản của những tổ chức lớn sẽ gây ra rủi ro hệ thống; và trong trường hợp khó khăn như vậy thì các tổ chức này sẽ nhận được cứu trợ tài chính. Những gói cứu trợ là hình thực để chính phủ đảm bảo cho các khoản phát hành nợ bởi tổ chức này, đây cũng chính là lợi thế cạnh tranh đáng kể của các định chế tài chính: khả năng gia tăng nợ với chi phí thấp.
Theo quan điểm của tác giả, những việc làm này của chính phủ đã tạo điều kiện hình thành nên các định chế tài chính lớn. Điều này có thể thấy chính việc giải quyết khủng hoảng đã tạo nên các định chế tài chính lớn hơn trước. . Tại Hoa Kỳ, Bank of America đã tiến hành mua lại Countrywide và Merrill Lynch. Ở Châu Âu, chính phủ Bỉ đã bán Fortis Bank cho BNP-Paribas của Pháp. Ở Anh, tập đoàn ngân hàng Lloyds tái cấu trúc bằng cách xác nhập với Lloyds TSB và HBOS.
Để giải quyết hậu quả rủi ro đạo đức từ những khoản nợ cho vay đảm bảo, các nhà chức trách đã kêu gọi nên có sự giám sát chặt chẽ hơn đối với với các định chế tài chính lớn với một chỉ số vôn tiềm năng lớn hơn. Và vì các định chế này là yếu tố sống còn và đảm nhiệm chức năng quan trong trong nền kinh tế; do đó cần phải thiết kế hệ thống pháp lý để xem xét lợi ích của việc giảm thiểu tối đa chi phí vỡ nợ khi bị phá sản. Để giảm chi phí vỡ nợ của các ngân hàng lớn, có 3 phương án được đưa ra:
Thứ nhất: ngân hàng nên đóng cửa vài ngày (cuối tuần). Khi những người gửi tiền và khách hàng cần tiền nhanh thì việc giải quyết phá sản chắc chắn sẽ rất nhanh chóng. Tòa án giải quyết phá sản có thể hoán đổi nợ bằng vốn cổ phần một cách nhanh chóng trước khi ngân hàng mở cửa hoạt động lại.
Thứ hai: để tránh ảnh hưởng của hiệu ứng Domino (sự phá sản của ngân hàng này sẽ dẫn đến sự phá sản của ngân hàng khác) thì cần phải có được những thông tin đáng tin cậy của bên đối tác.
Thứ ba: để giảm rủi ro khi ngân hàng đó có quá nhiều khoản tiền gửi ngắn hạn không đảm bảo và không ổn định, thì một chiến thuật được đặt ra là phải theo đuổi và động viên những khách hàng muốn rút vốn đế ngân hàng tránh rủi ro mất khả năng thanh khoản.
Tóm lại, tất cả các ngân hàng nên thực hiện những phép thử nhanh về khả năng vỡ nợ, bằng cách đặt mình vào tình huống vỡ nợ, nếu như không thể vượt qua được thì nên thay đổi cấu trúc vốn. Khi ngân hàng có nợ rủi ro thì cũng gây nên áp lực đối với thị trường vốn tư nhân. Có vẻ như những đề xuất gần đây về việc cần có sự giám sát chặt chẽ đối với ngân hàng sẽ là một bước sai lầm nếu như các ngân hàng ngày càng lớn mạnh và mang tính hệ hệ thống.
Cuối cùng, một lời khuyên cho việc làm thế nào để hoàn thiện lịch trình cải cách quốc tế là liệt kê nhiều hơn nữa sự giám sát và cấu trúc hợp tác của các định chế tài chính quốc tế.
Giám sát của các tập đoàn ngân hàng quốc tế
Cả các thông báo của G20 (2008, 2009) và báo cáo của De Larosìere (2009) đều nhấn mạnh sự cần thiết của việc giám sát các tập đoàn ngân hàng quốc tế. Yêu cầu này phải phải tạo nên hiệu quả quả từ những giám sát viên quốc gia để bảo đảm hơn nữa việc giám sát của các tập đoàn ngân hàng quốc tế. Sự sụp đổ của German Bank Herstatt vào năm 1974 đã thúc đẩy cho sự ra đời của Điều ước Basel (BCBS, 1983). Nó đòi hỏi, đối với các chi nhánh, quy định về vốn bởi nhà quản lý bản xứ của ngân hàng mẹ, và quy định về tính thanh khoản bởi nước sở tại.
Tiếp sau đó, những cuộc sụp đổ của Banco Ambrosiano Holdings và BCCI đã kêu gọi lần nữa sự chú ý đến việc giám sát của các tổ chức quốc tế. Trong bối cảnh hoạt động ngân hàng xuyên quốc gia, trước tiên cần nhận dạng hai vấn đề cụ thể. Hai vấn đề này liên quan lần lượt:
1. Sự hiện diện của các hiệu ứng lan tỏa xuyên quốc gia;
2. Khả năng tài chính của một số nước để đối phó với các chi phí cứu trợ tài chính và các định chế tài chính lớn và phức tạp.
Hai vấn đề đặc trưng của Ngân hàng quốc tế
Vấn đề đầu tiên và là vấn đề chính yếu liên quan đến hiệu ứng lan tỏa xuyên quốc gia và sự lo ngại sự cung ứng khả năng tài chính (một hàng hóa công) bởi các chính quyền quốc gia có thể không tối ưu.
Bốn loại hiệu ứng lan tỏa xuyên quốc gia tiềm tàng có thể được xác định như sau:
i. Chi phí giám sát xuyên quốc gia,
ii. Những ảnh hưởng xuyên quốc gia của các cú sốc đến vốn chủ sở hữu các ngân hàng,
iii. Chuyển giao tài sản xuyên quốc gia,
iv. Những ảnh hưởng xuyên quốc gia đến giá trị trách nhiệm bảo hiểm tiền gửi.
i. Chi phí giám sát xuyên quốc gia.
Một ngân hàng nước ngoài mua một ngân hàng Hà Lan và chuyện đổi thành chi nhánh, theo quy định của EU thì quyền kiểm soát chi nhánh này sẽ thuộc về nước bản xứ, chi nhánh Hà lan sẽ chịu sự giám sát bởi các nhà lãnh đạo của ngân hàng mẹ nước ngoài. Tuy nhiên, để đảm bảo ổn định tài chính tại Hà Lan, các nhà lãnh đạo Hà Lan và Bộ tài chính Hà Lan buộc phải chi cứu trợ tài chính vì những lý do ổn định nội bộ, nhưng sẽ không có quyền giám sát chi nhánh của ngân hàng nước ngoài . Lý do để các công ty bảo hiểm giữ một số quyền giám sát các tổ chức (các chi nhánh và các công ty con) hoạt động trong nước là các chi nhánh ngân hàng nước ngoài là ngân hàng cho vay cuối cùng và chịu chi phí cứu trợ của nước sở tại. Đó là quy định của các nước sở tại áp dụng để hạn chế những rủi ro của các tổ chức tài chính và các ngân hàng hoặc bộ tài chính trong trường hợp có cứu trợ tài chính. Nói cách khác, quyền kiểm soát của nước bản xứ phải bổ sung một số hình thức kiểm soát của nước sở tại, miễn là chi phí cứu trợ tài chính vẫn còn trong nước. Quan điểm đã được Ủy ban Châu Âu công nhận một phần với tuyên bố rằng: “Trong tình huống khẩn cấp giám sát viên của nước sở tại có thể - thuộc vào quyền kiểm soát của Ủy ban – thực hiện bất kỳ biện pháp phòng ngừa nào” (Walkner và Raes, 2005, p.37). Lập luận này lần nữa xuất hiện trong British Turner Review kêu gọi sự giám sát hiệu quả của tất cả các tổ chức hoạt động tại Anh quốc. Như đã thảo luận ở trên, vậy một quyết định có thể được chuyển giao đến cấp Châu Âu hoặc ít nhất nên yêu cầu sự phối hợp giữa các quốc gia này.
ii. Những ảnh hưởng xuyên quốc gia của các cú sốc đến vốn chủ sở hữu các ngân hàng,
Peek và Rosengren (2000) đã chứng minh trên thực tế tác động của sự sụt giảm vốn nền kinh tế Mỹ đến các ngân hàng Nhật Bản, đó là kết quả từ sự sụp đổ thị trường chứng khoán Nhật Bản vào những năm 1990. Các kênh giao dịch hoạt động thông qua việc cắt giảm trong việc cấp tín dụng ngân hàng. Một chi nhánh ngân hàng đa quốc gia, các nước sở tại sẽ kiểm soát khả năng thanh toán (thông qua các chính sách ký quỹ tổn thất tín dụng và sự xác nhận xác suất vỡ nợ trong khuôn khổ Basel II), nó có thể tác động vào nền kinh tế thực của nước ngoài. Trong cuộc khủng hoảng hiện nay, sự lo ngại tương tự đã được thể hiện bởi các quốc gia Trung và Đông Âu có hệ thống ngân hàng được kiểm soát rất rộng lớn bởi các ngân hàng nước ngoài.
iii. Tác động xuyên quốc gia của sự chuyển dịch tài sản.
Ở loại hình công ty con đa quốc gia, nước bản xứ vẫn nắm quyền giám sát công ty con, điều này có thể có rủi ro khi nước sở tại cấu kết với ngân hàng mẹ để chuyển giao tài sản cho ngân hàng mẹ. Rủi ro này đã được thảo luận ở các nước Trung và Đông Âu. Một ví dụ là trường hợp của Lehman Brothers Holdings. Ngân hàng đầu tư đã có thói quen tập trung các hoạt động tiền mặt ở New York. Trong trường hợp của Lehman Europe, đã lấy đi 8 tỷ $ trong số các doanh nghiệp Anh quốc vào thứ 6 trước khi nó sụp đổ.
iv. Những ảnh hưởng xuyên quốc gia đến giá trị trách nhiệm bảo hiểm tiền gửi.
Sự tranh luận chung liên quan đến sự đa dạng hóa rủi ro trong một chi nhánh có trụ sở đa quốc gia, trong đó, bởi vấn đề đồng bảo hiểm, đã làm giảm giá trị của quyền chọn bán được trợ cấp bởi bảo hiểm tiền gởi (Repullo 2001, Dermine 2003). Có một sự xem xét về tính năng động tăng thêm để đưa vào tài khoản. Một ngân hàng đa quốc gia có thể hài lòng với mức độ đa dạng tổng thể của nó, trong khi mỗi công ty con có thể trở nên rất chuyên nghiệp trong rủi ro tín dụng địa phương. Điều này ngụ ý rằng các ngân hàng trong một quốc gia nhất định có thể thấy rằng mình ngày càng dễ bị sụp đổ do đặc tính của cú sốc. Người ta lập luận rằng, vì lý do danh tiếng, công ty mẹ sẽ cứu trợ các công ty con một cách có hệ thống như thể họ là các chi nhánh. Điều này có thể đúng trong nhiều trường hợp, nhưng sẽ có trường hợp nơi mà sự cân bằng của chi phí tài chính chống lại chi phí danh tiếng có thể không được thuận tiện như vậy. Quy luật tương xứng nguồn vốn có thể ít nghiệm ngặt trong cấu trúc chi nhánh có trụ sở. Điểm tổng quát hơn là đa dạng hóa nên được khen thưởng với tỷ lệ sự tương xứng nguồn vốn ít nghiêm ngặt.
Hiệu ứng lan tỏa xuyên quốc gia đặt ra câu hỏi liệu sự phối hợp của các can thiệp quốc gia sẽ được tối ưu không (Freixas, 2003). Điều này sẽ được thảo luận trong đánh giá của chúng ta về cơ cấu khối EU.
Chi phí cứu trợ tài chính: Quá lớn? Quá phức tạp?
Vấn đề thứ hai là cứu trợ tài chính của một ngân hàng lớn có thể tạo ra một gánh nặng rất lớn cho ngân sách hoặc hệ thống bảo hiểm tiền gửi của một quốc gia (Dermine 2000, 2006). Điều này hoàn toàn đúng với trường hợp của các ngân hàng Icelandic có quy mô vượt xa khả năng bảo hiểm của quốc gia. Một vấn đề có liên quan đã nhận được nhiều sự quan tâm là một số ngân hàng quá phức tạp để sụp đổ. Hãy tưởng tượng một ngân hàng Châu Âu lớn với các hoạt động xuyên quốc gia và các hoạt động phi ngân hàng đáng kể (như bảo hiểm, quản lý tài sản) mà rơi vào thảm họa tài chính. Sẽ rất khó để đưa ngân hàng này vào trách nhiệm quản lý tài sản. Do mạng lưới phức tạp của các công ty con và những sự phức tạp về pháp lý khác nhau, sự không chắc chắn liên quan đến chi phí của một sự sụp đổ có thể sẽ cao và sự phức tạp này có thể tạo ra sự cám dỗ cho việc cứu trợ tài chính (“quá lớn và quá phức tạp để sụp đổ”).
Hai vấn đề hoạt động ngân hàng xuyên quốc gia có liên quan đến sự ổn định tài chính đã được phân tích: các hiệu ứng lan tỏa xuyên quốc gia; và kích thước và độ phức tạp của việc cứu trợ tài chính. Bây giờ chúng ta xem xét sự thích hợp của cơ cấu khối EU hiện hành.
Sự thích hợp của Khối EU
Cơ cấu hiện tại của Khối EU để đối phó với cuộc khủng hoảng tài chính đã nhận được một sự chú ý lớn trong 10 năm qua (ECB, 2007b). Một loạt các ủy ban đã được tạo ra nhằm tạo điều kiện cho sự hợp tác và trao đổi thông tin, và một chỉ thị về việc giải thể tổ chức tài chính đã được chấp nhận. Những báo cáo của Brouwer (Economic and Financial Committee, 2000 và 2001) đã phê chuẩn cơ cấu khối EU hiện tại để đối phó với khủng hoảng tài chính. Nó được thông báo rằng một kế hoạch khẩn cấp để đối phó với cuộc khủng hoảng tài chính đã được sự đồng ý của các Bộ trưởng Bộ Tài chính thuộc khối EU, các Giám đốc Ngân hàng Trung ương và các nhà điều hành tài chính.
Trong nội dung của Kế hoạch hành động các dịch vụ tài chính, chỉ thị về việc giải thể các tổ chức tín dụng đã được thông qua vào năm 2004, sau 16 năm kể từ khi nó được đề xuất lần đầu tiên. Nó nhất quán với nguyên tắc của nhà quản lý nước bản xứ. Khi một tổ chức tín dụng với các chi nhánh ở nước khác thất bại, quá trình giải thể sẽ phụ thuộc vào những thủ tục phá sản riêng lẻ của nước bản xứ. Lưu ý rằng, mặc dù được công nhận là một phần quan trọng của luật pháp để tránh các vấn đề phức tạp, nhưng nó lại rơi vào sự thiết hụt các giải pháp về vấn đề các công ty con.
Chấp nhận nguyên tắc trách nhiệm giải trình, theo đó giám sát ngân hàng, bảo hiểm tiền gửi, và vấn đề cứu trợ tài chính nên được giao cho cùng một quốc gia, điều này cho thấy rằng, trong hoạt động ngân hàng Châu Âu, có ba cách để phân bổ sự giám sát hoạt động ngân hàng: cho các nước sở tại, cho các nước bản xứ hoặc cho một tổ chức Châu Âu. Những tán thành và phản đối hay cả ba phương pháp tiếp cận đều được xem xét.
Hệ thống thứ nhất: tiếp cận nước “sở tại”, tại New Zealand, ngân hàng đa quốc gia hoạt động với một cấu trúc công ty con. Ngân hàng Trung ương duy trì quyền điều hành trong việc giám sát ngân hàng, bảo hiểm tiền gửi, và cứu trợ tài chính.
Hệ thống này có ba hạn chế:
Trước tiên, nó không cho phép các ngân hàng thực hiện đầy đủ các lợi nhuận hoạt động được mong đợi từ nghiệp vụ ngân hàng chi nhánh (Dermine, 2003 và 2006).
Thứ hai, các tổ chức lớn được hình thành từ các công ty con do vậy các thủ tục phá sản là khác nhau. Chính điều này sẽ làm cho việc đóng cửa một ngân hàng quốc tế lớn sẽ trở nên phức tạp hơn. Trong một cấu trúc chi nhánh, các chỉ thị của Châu Âu về giải thể sẽ được áp dụng, phụ thuộc vào các thủ tục phá sản của một nước.
Thứ ba, việc giải quyết cuộc khủng hoảng có thể bị cản trở, như đã thảo luận ở trên, bởi các vấn đề liên quan đến chuyển giao tài sản từ các công ty con cho công ty mẹ, hoặc liên quan đến vấn để chia sẻ thông tin
Hệ thống thứ hai: tiếp cận nước “bản xứ”, phương pháp này hiện đang áp dụng đối với những chi nhánh xuyên quốc gia ở Liên minh Châu Âu. Có hai hạn chế:
Thứ nhất, nhất là những quốc gia Châu Âu nhỏ như Ireland, Thụy Điển, Bỉ, Thụy Sĩ hoặc Hà Lan, có thể gặp phải khó khăn trong việc gánh chịu chi phí cứu trợ tài chính từ một ngân hàng quốc tế lớn. Sự tài trợ vốn từ Châu Âu có thể là cần thiết.
Thứ hai, liên quan đến hiệu ứng lan tỏa xuyên quốc gia. Quyết định đóng cửa một ngân hàng có thể ảnh hưởng đến những quốc gia khác.
Báo cáo Larosiere là lời kêu gọi nghiêm trọng đầu tiên về việc thiếu sự phù hợp trong những quy định hiện tại để ngăn chặn và giải quyết khủng hoảng tài chính. Ngoài việc thay thế Hội đồng quản lý ngành ngân hàng (BSC) bởi Hội đồng rủi ro mang tính hệ thống Châu Âu (ESRC), báo cáo cũng đề xuất là phải chuyển dần thành Hệ thống quản lý tài chính Châu Âu (ESFS). Và việc chuyển đổi này sẽ diễn ra hai giai đoạn: Giai đoạn đầu (2009-2010), CEBS sẽ được chuyển thành tổ chức ngân hàng Châu Âu. Giai đoạn 2, hệ thống quản lý tài chính Châu Âu sẽ được hình thành. Nó bao gồm tổ chức của những người quản lý quốc gia, tổ chức ngân hàng Châu Âu mới được thành lập và những nhà kiểm soát từ ECB/ESCB.
Một cấu trúc phù hợp cho việc hoạt động đúng đắn của thị trường tài chính phải giải quyết được 3 vấn đề: quy định, quản lý và quyết định để cứu trợ tài chính. Sự hình thành của ESFS sẽ giải quyết được 2 vấn đề đầu tiên, tức là về quy định và quản lý.
Bài học của Liên minh Châu Âu với các tổ chức của những người quản lý thể hiện rằng nó đã không hoạt động một cách thỏa đáng ở một thời điểm của khủng hoảng. Việc kêu gọi của G20 cho việc hình thành một tổ chức của những nhà điều hành quốc gia đã bỏ qua kinh nghiệm này của EU. Ở Liên minh Châu Âu, trong báo cáo de Larosiere, mặc dù việc xúc tiến được làm để giải quyết 2 vấn đề đầu, tức là quy định và quản lý, một khoảng cách vẫn tồn tại với cứu trợ tài chính. Sự nghiêm trọng của khủng hoảng quốc tế đòi hỏi nhiều giải pháp tốt hơn cho vấn đề ngân hàng xuyên quốc gia.
Phương pháp tiếp cận nước bản xứ cũng đã phục vụ tốt ở hệ thống ngân hàng Châu Âu cho đến nay, bởi vì quy mô của hoạt động ngân hàng xuyên quốc gia bị hạn chế và các ngân hàng hoạt động ở nước ngoài chủ yếu là với các công ty con. Sự giám sát của nước sở tại đã tỏ ra hiệu quả. Khủng hoảng nhấn mạnh ở hai yếu tố sau: Thứ nhất là các hoạt động ngân hàng chi nhánh đã bắt đầu đạt tỏ ra giới hạn quyền kiểm soát của chính quyền sở tại. Thứ hai, trong các trường hợp thất bại, sự hợp tác quốc tế không đạt hiệu quả. Hai hạn chế của phương pháp tiếp cận nước bản xứ, như được thảo luận ở trên, đưa chúng ta đến yêu cầu lần nữa về một hệ thống đặt trụ sở ở Châu Âu về việc giám sát ngân hàng và bảo hiểm tiền gửi cho các ngân hàng quốc tế lớn.
Hệ thống thứ ba: hệ thống Châu Ấu
Một ngân hàng Quốc tế sẽ phải xác định cả về quy mô, vốn trong sự liên hệ với GDP của một quốc gia (chẳng hạn 3% GDP) hoặc bằng cách chia sẻ thị trường của mình ở nước ngoài, chẳng hạn 10%. Goodhart (2003) đã lập luận rằng một cơ quan giám sát Châu Âu không thể nào tồn tại miễn là chi phí cứu trợ tài chính do chính quyền trong nước chịu, người Anh có câu: “Ai trả tiền thì người ấy có quyền”. Không có sự phản đối với nguyên tắc trách nhiệm, nhưng sự đề nghị di chuyển giám sát hoạt động ngân hàng, bảo hiểm tiền gửi, và cứu trợ tài chính vào EU được động viên đầu tiên bởi thực tế rằng, việc cứu trợ tài chính của các ngân hàng lớn từ các quốc gia nhỏ bé sẽ được chịu bởi những người nộp thuế ở Châu Âu, và, thứ hai đó là các hiệu ứng lan tỏa cần một sự phối hợp giải quyết. Một cuộc thảo luận về cứu trợ tài chính xuyên quốc gia sẽ nhanh chóng biến thành vấn đề tiền của người nộp thuế và thành một cuộc tranh luận hiến pháp. Một cuộc thảo luận về các ưu đãi của công dân để xác định biên giới quốc gia ở cấp quốc gia hoặc cấp Châu Âu là không thể và không nên tránh. Nó sẽ hướng dẫn sự lựa chọn trong số quyền kiểm soát nước sở tại hoặc trên toàn EU của các ngân hàng quốc tế.
Ở cấp độ thế giới, thì dường như có sự kiểm soát rất mạnh mẽ các nước sở tại. Điều này là phổ biến bởi vì hoạt động ngân hàng quốc tế thường phát triển với các công ty con (Dermine, 2003)
KẾT LUẬN:
Sau cuộc khủng hoảng ngân hàng quốc tế, một loạt các đề xuất được đưa ra để củng cố chất lượng của việc giám sát ngân hàng. Chúng liên quan đến: tính thanh khoản, rủi ro kinh doanh, vốn và dự phòng, các chính sách bồi thường, tính rủi ro hệ thống và nhóm các nhà giám sát quốc gia. Mặc dù ý kiến của nhà chức trách là hữu ích, những đề xuất này ngừng lại ở sự thiếu sót trong việc giải quyết ba vấn đề chính: Làm thế nào để tăng cường trách nhiệm của các nhà giám sát? Làm thế nào để giới hạn học thuyết too-big-to-fail? Làm thế nào để giám sát các tập đoàn quốc tế?
Đó là ấn tượng để quan sát quy định tiền khủng hoảng đó, như Basel II, đã yêu cầu các cuộc kiểm tra nhanh về rủi ro thanh khoản và rủi ro thị trường. Vấn đề giám sát trong khủng hoảng không phải là thiếu về quy định mà là thiếu về việc thực thi quy định và vấn đề giám sát có hiệu quả. Dường như vấn đề là làm thế nào để tăng cường trách nhiệm nhà giám sát ngân hàng. Vấn đề thứ hai là sự tồn tại của hệ thống ngân hàng. Sự tồn tại của chúng được xem như là lấy đi khoản trợ cấp, với một nhu cầu để bảo đảm cho các khoản nợ của chúng và, như một hệ quả, giám sát chúng chặt chẽ để hạn chế nguy cơ về đạo đức. Một sự thay thế sẽ được thiết kế một quá trình phá sản phù hợp cho các tổ chức này. Sư lo ngại phá sản sẽ làm tăng thêm động cơ riêng tư của các chủ nợ để theo dõi các rủi ro của ngân hàng. Cuối cùng, đề xuất G20 của nhóm các nhà giám sát sẽ không giúp gì nhiều nếu ta nhìn qua kinh nghiệm 10 năm gần đây của Liên minh Châu Âu. Nguyên tắc của “nước bản xứ” đã phục vụ tốt cho sự hội nhập của hoạt động ngân hàng Châu Âu cho đến bây giờ bởi vì hầu hết các ngân hàng đã hoạt động xuyên quốc gia với các công ty con (được quản lý bởi các nhà cầm quyền nước sở tại). Hoạt động ngân hàng xuyên biên giới với các chi nhánh và các hiệu ứng lan tỏa gây ra bởi sự sụp đổ ngân hàng kêu gọi sự hợp tác Châu Âu. Và thêm nữa, như trường hợp minh họa đặc biệt của Iceland, các nước Châu Âu nhỏ có thể không có khả năng cứu trợ tài chính cho các ngân hàng quốc tế lớn của họ. Điều này đặt ra vấn đề chuyển giao chi phí cứu trợ tài chính, bảo hiểm tiền gửi, và sự giám sát ngân hàng của các ngân hàng quốc tế lớn đến tổ chức Châu Âu. Những đề xuất chính sách hiện thời tạm dừng sự thiếu sót biện pháp quản lý nhà nước xuất sắc.
B. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam:
I. Thực trạng hệ thống tài chính Việt Nam:
Cùng với cải cách kinh tế, thị trường tài chính Việt Nam đã có những bước phát triển nhất định. Sau hơn mười năm cải thiện hệ thống tài chính, các bộ phận cơ bản của thị trường tài chính đã được hình thành tương đối đầy đủ, mặc dù mức độ phát triển của từng thị trường cấu thành là không giống nhau. Hệ thống các định chế về tài chính được phát triển cả về số lượng và chất lượng, từng bước hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho sự phát triển của thị trường tài chính cho phù hợp với thông lệ quốc tế. Về quản lý Nhà nước đối với thị trường tài chính được thể chế hóa tường bước. Các cơ quan quản lý Nhà nước về hoạt động của thị trường tài chính ngày càng được phối hợp một cách tốt hơn.
Tuy nhiên, thị trường tài chính Việt Nam thời gian qua còn kém phát triển, chủ yếu vào ngân hàng hay do ngân hàng chi phối.
Thị trường tiền tệ
- Thị trường tiền tệ, theo Luật ngân hàng Nhà nước Việt Nam, là thị trường vốn ngắn hạn, là nới mua bán các giấy tờ có giá ngắn hạn dưới một năm. Thị trường tiền tệ bao gồm thị trường nội tệ liên ngân hàng (được thành lập và đi vào hoạt động năm 1993); thị trường ngoại tệ liên ngân hàng chính thức đi vào hoạt động từ 10/1994; thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc bắt đầu vận hành năm 1995 và nghiệp vụ thị trường mở chính thức vận hành vào tháng 7/2002. Chức năng của thị trường tiền tệ là tài trợ vốn ngắn hạn cho doanh nghiệp, đảm bảo vốn khả dụng cho các tổ chức tín dụng và là nơi để NHNN Việt Nam thực thi các công cụ chính sách tiền tệ.
- Thị trường tiền tệ diễn ra chủ yếu thông qua hoạt động của hệ thống ngân hàng, vì các ngân hàng là chủ thể quan trọng nhất trong việc cung cấp và sử dụng vốn ngắn hạn. Tham gia thị trường tiền tệ ở Việt Nam hiện nay là hệ thống các tổ chức tín dụng, gồm có: các NHTM, các công ty tài chính, các công ty cho thuê tài chính, các quỹ tín dụng nhân dân.
- Nhìn lại hoạt động của ngân hàng và các tổ chức tín dụng của Việt Nam trong những năm qua, vẫn là khu vực cung cấp phần lớn các nguồn vốn đầu tư cho nền kinh tế Việt Nam. Điều này thể hiện về quy mô vốn luân chuyển qua các lĩnh vực ngân hàng, các tổ chức tín dụng không ngừng tăng và mở rộng.
Bên cạnh những kết quả đã dặt được trong lĩnh vực thị trường dịch vụ ngân hàng ở Việt Nam như đã nêu trên, còn một số tồn tại, cần được khắc phục trong thời gian tới, đó là:
+ Nhiều loại hình dịch vụ cung cấp của các tổ chức tín dụng còn hạn chế, hầu hết các dịch vụ ngân hàng cung cấp chỉ mới ở mức tiếp cận với các dịch vụ truyền thống như của các nước. Chất lượng dịch vụ còn thấp, chưa có tác dụng trong việc hỗ trợ cho việc phát triển lành mạnh của thị trường tài chính và hoạt động sản xuất kinh doanh, trong cơ cấu doanh thu từ cho vay chiếm tới hơn 70%, còn thu từ các dịch vụ ngân hàng chỉ chiếm dưới 30%. - Hiện nay các NHTM Nhà nước Việt Nam hiện chiếm trên 70% thị phần huy động tiền gửi và tín dụng của toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam. Còn đối tượng khách hàng chủ yếu của NHTM cổ phần là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Khách hàng của các NH liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài chủ yếu là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
+ Về mặt rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng cho thấy tỷ lệ nợ xấu vẫn còn tồn tại. Theo công bố của hệ thống NHTM về tủ lệ nợ quá hạn so với tổng dư nợ tuy đã giảm chỉ còn trên 3% năm 2007 so với 14.6% năm 1997.
+ Trên thực tế tỷ trọng nguồn vốn huy động không kỳ hạn và ngắn hạn vẫn chiếm khoảng trên dưới 3/4, do vậy sự sai lệch về cơ cấu thời hạn bảng cân đối tài sản của hệ thống NHTM là tương đói lớn... Mặc dầu trong vài năm gần đây sự sai lệch về cơ cấu đồng tiền tuy có giảm, nhưng vẫn còn ở mức độ rất lớn trong điều kiện lạm phát tương đối cao trong những năm gần đây, đặc biệt là năm 2008 và trong môi trường đô la hóa cao như ở Việt Nam hiện nay.
+ Hoạt động của các NHTM chủ yếu dựa trên nguồn thu chênh lệch giữa lãi suất huy động và lãi suất cho vay, điều đó sẽ làm cho hoạt động của các NHTM có rủi ro lớn, tuy răng trong vài năm gần đây các NHTM đã có thêm nhiều dịch vụ mới. Hiện nay phần lớn các khoản vay được thế chấp bằng bất động sản, trong khi thị trường bất động sản đang nguội lạnh và có những biến động không bình thường. Còn các khoản vay được thế chấp chứng khoán tuy tỷ trọng còn nhỏ, song cũng đáng cảnh báo và lo ngại về năng lực của các nhà đầu tư các nhân còn thấp và thị trường trứng khoán Việt Nam còn tiềm ẩn nhiều yếu tố biến động về giá.
Nhìn lại sau hơn hai năm gia nhập WTO dòng vốn chu chuyển qua ngân hàng tăng trưởng cao nhất từ trước đến nay và vượt xa dự báo từ đầu năm của các nhà quản lý và quản trị ngân hàng...
Thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán Việt Nam cho đến nay vẫn chưa là “hàn thử biểu” của nền kinh tế và chưa là kênh huy động vốn của các doanh nghiệp. Chức năng cung ứng vốn dài hạn cho nền kinh tế của thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn chưa thể hiện rõ. Vốn dài hạn vẫn chủ yếu được thực hiện thông qua thị trường tiền tệ. Đó là điểm bất cập không phù hợp với sự phát triển của thị trường tài chính.
Nhìn lại thị trường chứng khoán Việt Nam sau hơn 10 năm hoạt động, còn nhiều tồn tại đó là:
- Về quy mô so với các nước trong khu vực còn nhỏ, tuy vốn hóa thị trường tăng nhanh đạt 45%GDP. Giá chứng khoán (chỉ số giá cổ phiếu VN-index) tăng giảm thất thường, thị trường chứng khoán trong thời gian qua vẫn chưa đảm bảo sự bền vững lành mạnh.
- Về hoạt động của các tổ chức trung gian và hỗ trợ thị trường còn nhiều bất cập về tài chính. Mặc dầu các công ty chứng khoán đã phát hành thêm cổ phiếu, trái phiếu để tăng quy mô vốn hoạt động hoặc vốn điều lệ từ các chủ sở hữu vốn (đối với các công ty trứng khoán trực thuộc ngân hàng thương mại), nhưng nhìn chung vốn điều lệ vẫn còn thấp, điều đó đã làm ảnh hưởng đến khả năng tham gia thị trường của các công ty chỉ đóng vai trò đầu tư dẫn dắt thị trường hoặc rủi ro do mức vốn khả dụng thấp.
- Về cơ sở vật chất, kỹ thuật và hạ tầng công nghệ thông tin còn hạn chế. Đội ngũ về nhân sự hành nghề có chuyên môn có giấy phép hành nghề, đặc biệt về chất lượng vè nhân sự lãnh đạo công ty còn thiếu và yếu chủ yếu về nghiệp vụ chuyên môn kinh doanh chứng khoán cũng như tư vấn pháp luật về chuyển đổi doanh nghiệp.
Trên thực tế hiện nay số lượng công ty chứng khoán ở nước ta vượt quá quy mô thị trường, nếu so sánh với các nước trong khu vực (Trung Quốc 107 công ty, Malaysia 37 công ty, Thái Lan 41 công ty, Singgapor 27 công ty và Hàn Quốc trên 50 công ty).
- Tuy số lượng tài khoản đầu tư tăng nhanh, nhưng chủ yếu là tài khoản các nhân, mua bán cổ phiếu ngắn hạn và bị tác động chi phối bởi các nhà đầu tư lớn trên thị trường. Những nhà đầu tư này lại thiếu kỹ năng phân tích đầu tư, phân tích thị trường, do vậy ảnh hưởng tới sự ổn định của thị trường. Những nhà đầu tư chuyên nghiệp chiếm tỷ trọng còn khiêm tốn, một số nhà đầu tư lớn nước ngoài mở tài khoản nhưng chưa tham gia đầu tư. Các quỹ đầu tư nước ngoài tham gia thị trường trong nước thông qua các tài khoản ủy thác cá nhân và đầu tư trung lập vào cổ phiếu các doanh nghiệp cổ phần hóa, chưa tham gia đầu tư trên Sàn giao dịch chứng khoán Tp.Hồ Chí Minh và trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội.
- Tuy Luật Chứng khoán được ra đời thay thế Nghị định 144/2003/NĐ-CP, ngày 28/11/2003 của Chính phủ về Chứng khoán và Thị trường chứng khoán, song hệ thống pháp luật về thị trường chứng khoán còn bất cập và chưa được hoàn thiện. So với yêu cầu đòi hỏi của thực tế của sự phát triển thị trường tài chính và các định chế tài chính trong nề kinh tế thị trường với năng lực quản lý và sự phối hợp của các cơ quan quản lý Nhà nước còn hạn chế.
Cơ quan quản lý Nhà nước, SGDK và TTGDCK, các công ty chứng khoán, công ty niêm yết trong công tác quản lý, điều hành hoạt động của thị trường chứng khoán còn thiếu kinh nghiệm thực tiễn và nhiều bất cập.
Thị trường bảo hiểm
Trước đây, thị trường bảo hiểm duy nhất chỉ có 1 doanh nghiệp. Kể từ năm 1933, khi Chính phủ ban hành Nghị định số 100/CP, đặc biệt là khi Luật kinh doanh bảo hiểm ra đời, hoạt động kinh doanh bảo hiểm đã đạt được những kết quả quan trọng sau:
- Quy mô và phạm vi hoạt động của thị trường bảo hiểm đã phát triển mạnh mẽ, với tốc độ cao, bên cạnh việc đảm bảo ổn định, chống lại các nguy cơ rủi ro, thị trường bảo hiểm còn đóng vai trò quan trọng trong việc huy động các nguồn lực tài chính đầu tư dài hạn của nên kinh tế.
Các doanh nghiệp bảo hiểm đã tạo lập nguồn vốn lớn và dài hạn cho đầu tư phát triển kinh tế xã hội. Bảo hiểm đã góp phần tích cực đến ổn định và phát triển kinh tế xã hội và đời sống nhân dân.
- Các loại sản phẩm bảo hiểm được phát triển đa dạng, phong phú với gần 70 sản phẩm bảo hiểm nhận thọ và phi nhân thọ thuộc cả lĩnh vực bảo hiểm con người, bảo hiểm tài sản và bảo hiểm trách nhiệm. Cơ cấu bảo hiểm đã chuyển dần từ ngắn hạn sang dài hạn.
- Xét trên phương diện pháp lý, thị trường bảo hiểm Việt Nam được vận hành trong khuôn khổ pháp lý tương đối đồng bộ, chặt chẽ và áp dụng nguyên tắc phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế.
Bên cạnh những kết quả đạt được, thị trường bảo hiểm còn một số tồn tại:
- Quy mô thị trường còn nhỏ, chưa tương xứng với tiềm năng và thấp hơn so với các nước trong khu vực.
- Thị trường bảo hiểm phát triển chưa cân đối, các loại hình sản phẩm chưa đa dạng; năng lực cạnh tranh còn nhiều hạn chế và biểu hiện cạnh tranh không lành mạnh vẫn còn tồn tại; hoạt động môi giới bảo hiểm còn chậm phát triển; một số cơ chế chính sách hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của thị trường bảo hiểm; công tác quản lý giám sát còn nhiều bất cập,...
Nhìn lại thực trạng của thị trường tài chính Việt Nam, đặc biệt lá từ sau những năm đổi mới kinh tế và sau hơn 2 năm gia nhập WTO của Việt Nam, đã có những thành công. Bên cạnh những kết quả dật được, cũng còn nhiều hạn chế và tồn tại, đó là:
- Hạn chế trong việc huy động nguồn lực tài chính cho đầu tư phát triển, thể hiện: thị trường tài chính có quy mô nhỏ, các thể chế trên thị trường chưa hoàn chỉnh, nhiều định chế tài chính trung gian cần tiếp tục hoàn thiện; sản phẩm hoàng hóa của thị trường chưa nhiều, phạm vi cung cấp dịch vụ chủ yếu mới tập trung tại khu vực thành thị; sự phối hợp giữa các kênh huy động vốn còn chưa đồng bộ; khung pháp lý mới được xây dựng và hình thành, các nguyên tắc quản lý và chuẩn mực quốc tế về tính minh bạch, công khai tuy đã được áo dụng, song còn nhiều vấn đề cần được hoàn thiện; năng lực cung ứng dịch vụ tài chính còn hạn chế
- Vấn đề quản lý, điều hành của Nhà nước còn những mặt hạn chế, chưa có sự phân định rõ chức năng quản lý Nhà nước đối với thị trường tài chính và dịch vụ tài chính; còn có tình trạng cơ quan quản lý Nhà nước can thiệp vào các hoạt động của chủ thể, trong khi đó lại buông lỏng giám sát thị trường, sự phối hợp quản lý và điều hành giữa các kênh huy động, giữa các loại thị trường (thị trường tiền tệ, thị trường vốn, thị trường bất động sản...) còn thiếu đồng bộ; năng lực cán bộ quản lý Nhà nước chưa được nâng cao phù hợp với đòi hỏi của sự phát triển của nền kinh tế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế; công tác quản lý giám sát để giảm thiểu rủi ro còn nhiều bất cập.
II. Thực trạng mô hình tổ chức và hoạt động của thanh tra Thị trường tài chính Việt Nam:
1. Thanh tra ngân hàng (TTNH)
Hiện nay, TTNH được tổ chức thành bộ máy thuộc NHNN, gồm Thanh tra NHNNTW và Thanh tra chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố chịu sự chỉ đạo, điều hành của chi nhánh NHNN, vừa của TTNHNNTW. Cơ chế điều hành này gây ra sự chậm trễ, chồng chéo, không thống nhất giữa trung ương và địa phương, hiệu lực thấp. Mạng lưói thanh tra NHNN được phân bổ”bình quân”theo địa giới hành chính, trong khi các Định chế tài chính (ĐCTC) lại phân bổ không đồng đều trên các địa phương.
Thanh tra NHNNTW chịu sự chỉ đạo và hướng dẫn về tổ chức và nghiệp vụ thanh tra của Tổng Thanh tra nhà nước, đồng thời chịu sự chỉ đạo của Thống đốc NHNN, dẫn đến sự chồng chéo và thiếu thống nhất giữa các cấp lãnh đạo trong hoạt động thanh tra. Các mối quan hệ chỉ đạo, điều hành và phối hợp giữa các vụ, cục chức năng tại NHNNTW với chi nhánh NHNN trong lĩnh vực TT – GS cũng rất chồng chéo, trùng lặp, không rõ ràng. TTNH không có chức năng cấp và thu hồi giấy phép hoạt động ngân hàng là một trong những nguyên nhân gây ra sự nhũng nhiễu của các đối tượng bị TT – GS và thiếu chặt chẽ trong mô hình TT – GS.
Thanh tra tại chỗ còn mang tính “chữa cháy” và can thiệp quá mức vào công việc nội bộ của các ĐCTD và chưa có cơ chế trao đổi thông tin hay quản trị rủi ro trên toàn bộ TTTC. Việc TT – GS trên TTTC Việt Nam hiện còn rời rạc theo kiểu:” đèn ai nấy rạng”,”việc ai nấy biết”hay”chợ nào hàng rào ấy”.
2. Thực trạng thanh tra – giám sát các ĐCTC do bộ Tài chính quản lý
Về TT – GS TTCK: Mức độ vốn hoá qua TTCK VN suy giảm từ khoảng 40% vào cuối tháng 8/2008 cùng các khiếm khuyết khác trên TTCK đang đặt vấn đề lớn đối với hoạt động TT – GS. Cho tới nay, vẫn chưa xác định mô hình nào là chuẩn cho TT – GS TTCK. Hoạt động TT – GS còn bị coi nhẹ, phân tán và mang tính tự phát, chưa kiểm soát được thị trường OTC và thị trường tự do. Quyết định 02/2008/QĐ-BTC quy định; Thanh tra chứng khoán xử phạt sai phạm tại cấp UBCKNN, nhiệm vụ giám sát được giao cho 4 đơn vị chức năng tương ứng với đối tượng quản lý của từng ban, gồm: Ban Quản lý kinh doanh chứng khoán, Ban quản lý các công ty quản lý quỹ và các quỹ đầu tư chứng khoán, Ban quản lý phát hành chứng khoán và Ban giám sát TTCK.
3. Thanh tra – giám sát thị trường bảo hiểm:
_ Về Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (BHTGVN): là một tổ chức tài chính Nhà nước, có vốn pháp định là 5000 tỷ đồng do NSNN cấp, hoạt động không vì mục đích lợi nhuận, nhưng cho đến nay vẫn không rõ BHT-GVN là loại ĐTTC nào! Thu nhập của BHTGVN là nguồn thu phí bảo hiểm từ các ĐCTD, nhưng nghiệp vụ của BHTGVN dường như thoát ly hoàn toàn với gánh nặng rủi ro mà các TCTD nộp phí phải đối mặt, các suất phải thanh toán bảo hiểm cho người gửi tiền rất thấp vì phải “chờ” đối tượng bảo hiểm bị công bố phá sản hay giả thể thực sự bằng văn bản thì BHTGVN mới vào cuộc. Từ khi thành lập tới nay, BHTG VN mới chỉ chi chưa đầy 20 tỷ để chi bảo hiểm cho người gửi tiền ở hơn 10 quỹ TĐN sau khi bị tuyên bố giải thể. Hơn nữa, Chính phủ và NHNN thường phải chủ động phòng ngừa nguy cơ phá sản ngân hàng ngay từ khi có những mức độ nguy hiểm khác nhau, điều này đòi hỏi BHTGVN phải có trách nhiệm với các TCTD đã nộp phí và phải hoạt động thao sự điều chỉnh của Luật Danh nghiệp, đồng thời cũng phải là đối tượng bị TT – GS của cơ quan TT – GS chuyên ngành thanh tra bảo hiểm trên TTTC VN.
_ Những ĐCTC bảo hiểm khác: Việc giám sát các ĐCTC bảo hiểm đang được giao chp nhiều vụ chức năng thuộc Bộ Tài chính ứng với các chức năng quản lý nhà nước như mô hình TT – GS rất manh mún trên TTCK hiện nay. Nghiệp vụ TT – GS đối với các ĐCTC bảo hiểm còn ở trình độ cổ điển, bị động dự trên sự việc đã xảy ra, đi xác minh, kiểm tra số liệu và không rõ hoạt động theo sự điều chỉnh của luật nào?, việc chỉ trả tiền bù của các ĐCTC bảo hiểm phải tuân thủ theo cơ chế nào? đều “tuỳ quy chế riêng”.
III. Bài học kinh nghiệm từ cuộc khủng hoảng tài chính:
Thứ nhất, là bài học về giám sát tài chính và sự thận trọng trong chạy theo thời cuộc và “thời thượng”. Đặc biệt là sự quan tâm đến việc xây dựng tốt những nền tảng cơ bản cho phát triển hệ thống và thị trường tài chính (như khuôn khổ pháp lý về giám sát và tổ chức giám sát tài chính, việc phát triển các định chế đầu tư dài hạn, định mức tín nhiệm, hệ thống động lực, việc tổ chức lại sàn giao dịch chứng khoán...). Hiện tại, thông tin minh bạch và sự phân công, phối hợp hiệu quả giữa các cơ quan giám sát tài chính là đặc biệt quan trọng.
Thứ hai, là bài học về việc cho vay mua nhà ở dễ dãi “cho vay dưới chuẩn” nhưng thiếu cơ chế kiểm soát. Để hỗ trợ các gia đình có thu nhập thấp và thu nhập khiêm tốn có điều kiện sở hữu nhà ở, Chính phủ Mỹ có chương trình “cho vay dưới chuẩn”. Các ngân hàng thương mại khi cho đối tượng này vay thì được hai tổ chức Fannie Mae và Freddie Mac mua lại các khoản vay này. Khi thị trường bất động sản suy thoái, những người thu nhập thấp và thu nhập khiêm tốn không có điều kiện để trả nợ.
Thứ ba là bài học về xây dựng và củng cố niềm tin của công chúng. Bởi nhiều khi sự đỗ vỡ của ngân hàng bắt nguồn từ tâm lý hoảng loạn thái quá của dân chúng. Bài học này liên quan đến việc sử dụng tốt một công cụ kiểm soát là bảo hiểm tiền gửi (BHTG). Tổ chức BHTG cần phát huy tốt vai trò của mình để tạo được niềm tin của công chúng đối với hệ thống tài chính ngân hàng và tham gia ngăn chặn, xử lý những rủi ro nhằm hạn chế sự đổ vỡ mang tính dây chuyền.
Thứ tư, là bài học “chứng khoán hóa bất động sản thế chấp” trong khi hệ thống kiểm soát không theo kịp nhằm tạo lập ra nguồn vốn khổng lồ, nhưng thực sự rất mong manh, để đáp ứng tham vọng mở rộng không ngừng mở rộng nghiệp vụ đầu tư tín dụng và đầu cơ trên thị trường bất động sản. Để hỗ trợ cho vay tạo lập nhà ở, Chính phủ Mỹ còn cho lập Fannie Mae và Freddie Mac. Hoạt động chính của Fannie Mae và Freddie Mac là mua lại những món nợ vay thế chấp bằng bất động sản, đặc biệt là các khoản vay thế chấp "dưới chuẩn" của các ngân hàng rồi dùng bất động sản thế chấp để phát hành “trái phiếu tái thế chấp” bán cho các nhà đầu tư khác nhằm tăng tính thanh khoản cho ngân hàng. Như vậy những món nợ nhà ở đã được “trái phiếu hóa” thành sản phẩm tài chính thông dụng có thể mua bán dễ dàng trên thị trường tiền tệ.
Thứ năm, là bài học về mua bán khống. Mua bán khống ở mức độ vừa phải có kiểm soát sẽ là chất xúc tác tạo nên sự kích thích cho kinh tế phát triển. Mua bán khống quá mức sẽ thổi phồng các tổn thất, gây nên những đổ vỡ kinh tế to lớn khi nó xảy ra.
IV. Kinh nghiệm cho Việt Nam trong quá trình hội nhập và tự do hóa tài chính:
Thứ nhất, Việt Nam nên tiếp tục tiến hành việc mở cửa dần dần thị trường tài chính với một phạm vi thích hợp và một trình tự hợp lý sao cho vừa đảm bảo nâng dần năng lực và khả năng cạnh tranh, vừa thích nghi và tiến gần hơn đến những tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế. Sự thành công về việc xúc tiến mở cửa thị trường tài chính thời gian qua đã cho thấy rằng, sự tham gia của các hoạt động đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực dịch vụ tài chính cũng đã mang lại lợi ích đáng kể như tăng cường sự cạnh tranh, hạ thấp chi phí, nâng cao chất lượng dịch vụ, tăng cường chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm quản lý và tăng thêm tích luỹ vốn cho nền kinh tế.
Thứ hai, việc mở cửa thị trường dịch vụ tài chính không thể không gắn liền với một tiến trình cải cách liên tục hệ thống dịch vụ tài chính ở nước ta hiện nay. Không thể cứ tiếp tục duy trì sự phát triển kinh tế thông qua việc bảo hộ bằng cách hạn chế sự thâm nhập của các hoạt động đầu tư quốc tế, mà cần phải được bảo hộ thông qua những cải cách triệt để trên cơ sở đó tạo ra năng lực tự bảo vệ trong điều kiện cạnh tranh quốc tế khi tiến hành hội nhập. Một trong những nguyên nhân chủ yếu của các cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ diễn ra trên thế giới (cùng với những nguyên nhân khác) là sự yếu kém của chính bản thân hệ thống tài chính ngân hàng nội địa của các nước thi hành chính sách mở cửa. Do đó, đã không đối phó nổi những trận bão táp tài chính nảy sinh do hiệu ứng của đầu tư quốc tế mang lại. Việc mở cửa thị trường nếu quá đột ngột do không cho sự cải cách đáng kể để nâng cao năng lực của hệ thống tài chính nội địa trước khi tiến hành mở cửa sẽ rất dễ dẫn đến tình trạng hỗn loạn, bất lợi và mất khả năng kiểm soát của chính phủ đối với lĩnh vực dịch vụ tài chính. Vì vậy, cải cách và loại bỏ dần tính hành chính bao cấp của hệ thống tài chính nội địa cho thích ứng với kinh tế thị trường trong môi trường quốc tế được coi là một trong những chiến lược mang lại sự thành công khi tham gia hội nhập.
Thứ ba, cải cách hệ thống dịch vụ tài chính không có nghĩa chỉ là những cải cách về mặt cơ cấu tổ chức, năng lực nghề nghiệp, mà phải được tiến hành toàn diện cả về quan điểm và phương pháp điều hành vĩ mô của toàn bộ hệ thống gắn với những điều kiện quốc tế. Trong đó, những cải cách về hệ điều hành chính sách tỷ giá, quản lý ngoại tệ và chính sách lãi suất phải được coi là đặc biệt quan trọng vì chúng hết sức nhạy cảm đối với nền kinh tế. Bài học rút ra từ các cuộc khủng hoảng tiền tệ trên thế giới đã cho thấy, việc duy trì một chế độ tỷ giá chính thức quá xa so với tỷ giá thực, việc thả lỏng trong quản lý ngoại tệ và việc quá lạm dụng chính sách lãi suất để tác động vào nền kinh tế một cách cưỡng bức trong một thời gian dài nếu không được điều chỉnh để tiến gần hơn với những điều kiện quốc tế sẽ là một bất lợi lớn khi tiến hành mở cửa thị trường và tham gia hội nhập, thậm chí sẽ là nguyên nhân trực tiếp gây ra khủng hoảng.
Thứ tư, cải cách tài chính song song với việc mở cửa dần dần thị trường dịch vụ tài chính cần phải được hỗ trợ đồng thời bằng việc hoàn thiện hệ thống luật pháp, nhằm tạo ra một hành lang pháp lý ổn định, hiệu quả và minh bạch, tạo sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Trong đó, đặc biệt chú ý đến những cơ sở pháp lý đảm bảo quyền giám sát kiểm tra của chính phủ và các cơ quan bảo vệ pháp luật đối với các hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhằm đảm bảo sự khống chế của Nhà nước trong việc duy trì sự ổn định và sự lành mạnh của thị trường dịch vụ tài chính. Trước mắt cần xoá bỏ ngay sự đối xử ưu đãi về thuế đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực dịch vụ tài chính nhằm đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng giữa doanh nghiệp nội địa và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
TAØI LIEÄU THAM KHAÛO
1. PGS. TS. Traàn Ngoïc Thô chuû bieân – “Taøi Chính Doanh Quốc Tế”, NXB Thoáng Keâ – Naêm 2008.
2. George Soros – “Moâ Thöùc Môùi Cho Thò Tröôøng Taøi Chính”, NXB Thoáng Keâ – Naêm 2008.
3. George Cooper – “Nguoàn Goác Khuûng Hoaûng Taøi Chính”, NXB Lao Ñoäng Xaõ Hoäi – Naêm 2008.
4. Baøi vieát treân caùc baùo vaø taïp chí: “Taïp Chí Phaùt Trieån Kinh Teá”, “Taïp Chí Nghieân Cöùu Kinh Teá”, “Thôøi Baùo Kinh Teá Vieät Nam”, “Thôøi Baùo Kinh Teá Saøi Goøn” caùc soá Naêm 2007, 2008, 2009, 2010.
5. Caùc Baùo caùo caäp nhaät veà tình hình phaùt trieån kinh teá cuûa Vieät Nam – Worid Bank Report 2008. Hoäi nghò Nhoùm tö vaán caùc nhaø taøi trôï cho Vieät Nam.
6. Tham khaûo thoâng tin vaø baøi vieát töø caùc Website:
www.vneconomy.vn www.thesaigontimes.vn
www.saga.vn www.dantri.com.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tránh khủng hoảng Tài chính.doc