Trình bày một doanh nghiệp nhà nước đã được tiến hành cổ phần hoá

LỜIMỞĐẦU Quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước thực sự có bước chuyển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng kể từ khi chính phủ ban hành nghịđịnh về việc chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần vào tháng 6/1998, trong đó nêu rõ các chính sách ưu đãi đối với doanh nghiệp và người lao động tại các doanh nghiệp cổ phần hoá. Nghịđịnh này đã trở thành đòn bẩy đưa lộ trình ở cổ phần hoáđi nhanh hơn. Từ năm 1998 đến đầu năm 2002, cả nước đã cổ phần hoá trên 800 doanh nghiệp, chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các doanh nghiệp này hoạt động chủ yếu trên 3 lĩnh vực chính: thương mại, công nghiệp và xây dựng vàđược phân bổở khắp các vùng, miền trong cả nước. Đểđẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá trong các doanh nghiệp nhà nước, thực tiễn đòi hỏi phải có những giải pháp, chính sách cụ thể và thông thoáng hơn nhằm tạo ra nhiều mô hình doanh nghiệp mới đa sở hữu hoạt động tốt trong nền kinh tế thị trường, mở rộng khả năng thu hút vốn đầu tư; tăng cường trách nhiệm của các chủ sở hữu cũng như người lao động, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, đóng góp tích cực vào tăng trưởng chung của nền kinh tế. Từ nhận thức trên, em đã chọn đề tài “Trình bày một doanh nghiệp nhà nước đã được tiến hành cổ phần hoá”.Bài viết này gồm hai phần chính: ã Chương I : Tổng quan về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam. ã Chương II: Thực trạng và tình hình cổ phần hoáở công ty vận tải và xây dựng xuất nhập khẩu Quảng Ninh.

docx15 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3266 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Trình bày một doanh nghiệp nhà nước đã được tiến hành cổ phần hoá, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước thực sự có bước chuyển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng kể từ khi chính phủ ban hành nghị định về việc chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần vào tháng 6/1998, trong đó nêu rõ các chính sách ưu đãi đối với doanh nghiệp và người lao động tại các doanh nghiệp cổ phần hoá. Nghị định này đã trở thành đòn bẩy đưa lộ trình ở cổ phần hoá đi nhanh hơn. Từ năm 1998 đến đầu năm 2002, cả nước đã cổ phần hoá trên 800 doanh nghiệp, chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các doanh nghiệp này hoạt động chủ yếu trên 3 lĩnh vực chính: thương mại, công nghiệp và xây dựng và được phân bổ ở khắp các vùng, miền trong cả nước. Để đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá trong các doanh nghiệp nhà nước, thực tiễn đòi hỏi phải có những giải pháp, chính sách cụ thể và thông thoáng hơn nhằm tạo ra nhiều mô hình doanh nghiệp mới đa sở hữu hoạt động tốt trong nền kinh tế thị trường, mở rộng khả năng thu hút vốn đầu tư; tăng cường trách nhiệm của các chủ sở hữu cũng như người lao động, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, đóng góp tích cực vào tăng trưởng chung của nền kinh tế. Từ nhận thức trên, em đã chọn đề tài “Trình bày một doanh nghiệp nhà nước đã được tiến hành cổ phần hoá”. Bài viết này gồm hai phần chính: Chương I : Tổng quan về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam. Chương II: Thực trạng và tình hình cổ phần hoá ở công ty vận tải và xây dựng xuất nhập khẩu Quảng Ninh. Với những hiểu biết còn hạn chế về vấn đề trên và thời gian nghiên cứu còn có hạn nên bài viết của em không tránh khỏi những sai sót kính mong thầy cô giúp đỡ và bổ sung để em có thể nhìn nhận vấn đề sâu sắc hơn. CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ CỔ PHẦN HOÁ Ở VIỆT NAM I. Khái niệm Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là việc chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần đối với những doanh nghiệp mà nhà nước thấy không cần nắm giữ 100% vốn đầu tư, nhằm tạo điều kiện cho người lao động trong doanh nghiệp có cổ phần làm chủ thực sự doanh nghiệp, huy động vốn toàn xã hội để đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển doanh nghiệp góp phần tăng trưởng kinh tế. II. Phân loại doanh nghiệp để tiến hành cổ phần hoá Để đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá tại các doanh nghiệp nhà nước thì việc phân loại các doanh nghiệp là hết sức cần thiết. Hiện nay, doanh nghiệp được chia thành ba loại để tiến thành cổ phần hoá: 1) Loại thứ nhất: Loại doanh nghiệp chưa tiến hành cổ phần hoá: - Sản xuất sản phẩm, cung ứng dịch vụ mà nhà nước độc quyền quản lý: vật liệu nổ, hoá chất độc, in bạc, các chứng chỉ có giá, mạng trục thông tin quốc gia và quốc tế. - Doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích. Trường hợp cổ phần hoá loại doanh nghiệp này, thì thủ tướng chính phủ đã có quyết định đối với loại doanh nghiệp có mức vốn 10 tỷ đồng trở lên, Bộ trưởng, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân Tỉnh, Thành phố trực thuộc trung ương quyết định đối với loại doanh nghiệp có mức vốn 10 tỷ đống trở xuống. 2) Loại thứ hai: Loại doanh nghiệp tiến hành cổ phần hoá nhưng nhà nước cần nắm cổ phần chi phí chi phối , cổ phần đặc biệt gồm: Doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích trên 10 tỷ đồng. Khai thác quặng quý hiếm, khoáng sản quy mô lớn. Dịch vụ kỹ thuật khai thác dầu khí. Sản xuất thuốc trừ sâu, phân bón; thuốc chưã bệnh, hoá dược. Sản xuất kim loại màu, kim loại quý hiếm có quy mô lớn. Sản xuất điện quy mô lớn, truyền tải và phân phối điện. Sữa chữa phương tiện bay. Dịch vụ khai thác bưu chính – viễn thông. In, xuất bản, sản xuất rượu bia, thuốc lá quy mô lớn. Ngân hàng đầu tư, ngân hàng cho người nghèo. Kinh doanh xăng dầu có quy mô lớn. 3) Loại thứ ba: Các loại doanh nghiệp nhà nước hiện có, không thuộc hai loại trên đều có thể được thực hiện cổ phần hoá trong đó nhà nước không giữ được cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt và áp dụng các hình thức chuyển đổi sở hữu khác như giao, bán, khoán, kinh doanh cho thuê doanh nghiệp. III. Các hình thức tiến hành cổ phần hoá : Đối với các doanh nghiệp nhà nước hoạt động sản xuất kinh doanh hiện có căn cứ váo vị trí quan trọng của từng lĩnh vực, từng ngành, từng doanh nghiệp, từng sản phẩm trong nền kinh tế mà quyết định loại hình doanh nghiệp nhà nước. Ở các doanh nghiệp nhà nước tiến hành cổ phần hoá sẽ theo các hình thức sau: 1- Giữ nguyên giá trị thuộc vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu thu hút thêm vốn. 2- Bán một phần giá trị thuộc vốn nhà nước hiện có tại các doanh nghiệp. 3- Tách một bộ phận của doanh nghiệp đủ điều kiện để cổ phần hoá. 4- Bán toàn bộ giá trị hiện có thuộc vốn nhà nước tại doanh nghiệp. IV. Quyền mua cổ phần Cổ phần được thông báo công khai tại các doanh nghiệp cổ phần hoá hoặc bán thông qua các ngân hàng thương mại, các công ty tài chính, các trung tâm giao dịch chứng khoán. Các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, công dân Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài định cư ở Việt Nam đều có quyền mua cổ phần ở các doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hoá. Việc mua cổ phần ở các doanh nghiệp, mà Nhà nước giữ cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt khi tiến hành cổ phần hoá lần đầu được ấn định cho một pháp nhân được mua không quá 10% tổng số cổ phần của doanh nghiệp, một cá nhân được mua không quá 5 % tổng số cổ phần của doanh nghiệp. Đối với loại doanh nghiệp mà Nhà nước không nắm giữ cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt khi một pháp nhân được mua không quá 20%, một cá nhân được mua không quá 10% tổng số cổ phần của doanh nghiệp. Loại doanh nghiệp mà Nhà nước không tham gia cổ phần thì không hạn chế số lượng được mua cổ phần của các pháp nhân, cá nhân nhưng phải bảo đảm số cổ đông tối thiểu theo luật quy định về công ty cổ phần. V. Thẩm quyền quyết định các doanh nghiệp được tiến hành cổ phần hoá. Thủ tướng Chính phủ phê duyệt các doanh nghiệp thành viên trong các tổng công ty 91 được tiến hành cổ phần hoá do Hội đồng quản trị của các tổng công ty 91 đề nghị. Thủ tướng Chính phủ uỷ quyền cho các Bộ trưởng, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương quyết định cho các doanh nghiệp thành viên trong tổng công ty 90 được tiến hành cổ phần hoá do Hội đồng quản trị của tổng công ty đề nghị. Các Bộ trưởng, Thủ tướng, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương quyết định cho các doanh nghiệp thuộc quyền quản lý của mình được tiến hành cổ phần hoá . VI. Thủ tục chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá thành công ty cổ phần. Sau khi thực hiện cổ phần hoá, doanh nghiệp sẽ hoạt động theo chế độ công ty cổ phần quy định trong Luật Doanh nghiệp có hiệu lực từ 1-1-2000. Doanh nghiệp đăng ký kinh doanh tại cơ quan đăng ký kinh doanh cấp tỉnh, hồ sơ đăng ký gồm những giấy tờ sau: 1. Quyết định chuyển doanh nghiệp thành công ty cổ phần của cơ quan có thẩm quyền. 2. Điều lệ công ty đã được đại hội cổ đông thông qua. 3. Biên bản bầu Hội đồng quản trị và cử giám đốc điều hành. 4. Giấy đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước trước khi cổ phần hoá. VII. Những ưu đãi của Nhà nước đối với doanh nghiệp được cổ phần hoá. Trước tình hình tốc độ cổ phần hoá diễn ra quá chậm chạp, Nhà nước đã có những chủ trương khá thông thoáng trong việc ưu đãi đối với các doanh nghiệp đã được cổ phần hoá : 1. Được hưởng những ưu đãi quy định trong Luật khuyến khích đầu tư trong nước không đủ điều kiện hưởng ưu đãi theo Luật khuyến khích đầu tư trong nước thì được giảm thuế thu nhập doanh nghiệp 50% trong 2 năm đầu. 2. Được miễn phí lệ phí trước bạ trong việc chuyển tài sản Nhà nước trong nước thành tài sản công ty cổ phần. 3. Tiếp tục vay vốn tại ngân hàng và các tổ chức tín dụng như đã áp dụng với các doanh nghiệp nhà nước. 4. Tiếp tục xuất nhập khẩu hàng hoá. Được duy trì các loại quỹ như trước. 6. Người lao động trong doanh nghiệp được ưu đãi trong việc mua cổ phần của doanh nghiệp. CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG VÀ TÌNH HÌNH CỔ PHẦN HOÁ Ở CÔNG TY VẬN TẢI VÀ XUẤT NHẬP KHẨU QUẢNG NINH. I: Thực trạng : Từ năm 1992 dến nay, cả nước dã có trên 1000 doanh nghiệp nhà nước được chuyển đổi sở hữu, trong dó cổ phần hoá gần 900 doanh nghiệp, số còn lại là chuyển giao, bán và khoán kinh doanh. Chương trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước, mà trọng tâm là cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước được triển khai thí điểm từ năm 1992. Mục đích của chương trình này là tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu trong dó có chủ sở hữu là người lao động, đồng thời giúp doanh nghiệp có thể huy động vốn trong toàn xã hội để đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao sức cạnh tranh, thúc đẩy sự phát triển doanh nghiệp. Song do chưa có đầy đủ văn bản quy phạm pháp luật về vấn đề này và chưa có hướng dẫn cụ thể nên từ năm 1992 đến hết năm 1997, cả nước mới có 38 doanh nghiệp Nhà nước được cổ phần hoá. Tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước thực sự có bước chuyển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng kể từ khi chính phủ ban hành nghị định về việc chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần vào tháng 6/1998. Trong đó nêu rõ các chính sách ưu đãi đối với doanh nghiệp và người lao động tại các doanh nghiệp cổ phần hoá. Nghị định này đã trở thành đòn bẩy đưa lộ trình cổ phần hoá đi nhanh hơn. Từ năm 1998 đến đầu năm2002, cả nước đă cổ phần hoá trên 800 doanh nghiệp, chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các doanh nghiệp này hoạt động trên 3 lĩnh vực chính thương mại, công nghiệp và xây dựng và được phân bố ở khắp các vùng, miền trong cả nước. Theo đánh giá của ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần không chỉ giúp nhà nước bảo tồn nguồn vốn mà còn tăng đáng kể tỷ suất lợi nhuận trên đồng vốn. Các doanh nghiệp hoạt động năng động, nhạy bén và tự chủ hơn trong kinh doanh. Quá trình cổ phần hoá đã thu hút rộng rãi các nguồn vốn của người lao động trong doanh nghiệp và ngoài xã hội, nhờ đó doanh nghiệp có vốn đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển sản xuất kinh doanh theo chiều sâu. Qua khảo sát hơn 400 doanh nghiệp cổ phần hoá ở 15 tỉnh, thành phố, doanh thu hàng năm của các doanh nghiệp này tăng trung bình 20%, thu nhập của người lao động tăng 21%. Thành phố Hồ chí Minh là một trong những địa phương thực hiện có kết quả việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Từ năm 1992 đến nay, thành phố đã có 104 doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá, chiếm 12,5% tổng số doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá của cả nước. Qua khảo sát hoạt động của 22 doanh nghiệp đã cổ phần hoá, doanh thu bình quân năm của các doanh nghiệp tăng trên 41%, lợi nhuận tăng 39,5%, nộp nhân sách tăng 30,9%, cổ tức hàng năm tăng từ 6% đến 24%, thu nhập của người lao động tăng trung bình 20%, thu nhập của người lao động tăng 21%. Tại Hà Nội kể từ khi tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp năm1998 đến hết năm 2002, đã cổ phần hoá 95 doanh nghiệp nhà nước, trở thành địa phương dẫn đầu cả nước về số lượng doanh nghiệp nhà nước chuyển thành công ty cổ phần. Theo đánh giá của ban đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước, tổng vốn điều lệ của các doanh nghiệp cổ phần hoá đã tăng từ 192,4 tỷ đồng lên 297,7 tỷ đồng, trong đó 56% vốn điều lệ do lao động trong doanh nghiệp nắm giữ, vốn bình quân của doanh nghiệp tăng từ 2,2 tỷ đồng lên 3,8 tỷ đồng, so với trước khi cổ phần hoá. Qua khảo sát ở 65 doanh nghiệp đã cổ phần, doanh thu của các doanh nghiệp này tăng 82%, tổng lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp tăng 287%, nộp nhân sách tăng 75%, với thu nhập bình quân của người lao động tăng 31%. Nhờ huy động vốn bằng cách phát huy cổ phần nên các công ty cổ phần đã có vốn đầu tư mở rộng kinh doanh. Sau khi cổ phần hoá, các công ty cổ phần đều tích cực rà soát và xây dựng lại qui tài chính, lao động xác định rõ trách nhiệm, quyền hạn, nghiã vụ và quyền lợi của người quản lý và người lao động, xây dựng các quy chế thưởng phạt phân minh tinh giản bộ máy gián tiếp, tổ chức hợp lý các bộ phận sản xuất kinh doanh, bố trí lại lao động cho phù hợp với yêu cầu công việc và trình độ năng lực công việc của từng người. Nhờ vậy đã hạn chế được những chi phí bất hợp lý về tiền lương, tiền thưởng trước đây. Bên cạnh đó, việc cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước đã tạo ra nhiều mô hình doanh nghiệp mới đa sở hữu, hoạt động tốt trong kinh tế thị trường, mỡ rộng khả năng thu hút vốn đầu tư, tăng cường trách nhiệm của các chủ sở hữu cũng như người lao động; nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, đóng góp tích cực vào tăng trưởng chung của nền kinh tế thành phố. Mặc dù các văn bản quy phạm pháp luật về cổ phần hoá đả được sửa đổi, bổ sung nhiều lần, nhưng vẩn chưa theo kịp với yêu cầu và đòi hỏi thực tế. Đây là nguyên nhân chính làm cho các doanh nghiệp nhà nước trong diện cổ phần hoá còn băn khoăn và các doanh nghiệp đã cổ phần hoá gặp không ích vướng mắc. Bên cạnh đó,việc thiếu nguồn tài chính để xử lý công nợ cho doanh nghiệp khi cổ phần hoá, định giá doanh nghiệp chưa phù hợp với kinh tế thị trường, thiếu công khai minh bạch trong cổ phần hoá đã làm cho tiến độ cải cách doanh nghiệp chậm hơn so với kế hoạch. Để đẩy mạnh cải cách, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, sắp tới nhà nước sẻ đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý về đổi mới doanh nghiệp nhà nước, trong đó phân định rõ chức năng quản lý cả nhà nước và doanh nghiệp, nhất là các quyền của chủ sở hữu nhà nước đố với các doanh nghiệp ; ban hành chố độ phân phối cổ phần hợp lý, đổi mới phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp , giám sát hoạt động kinh doanh và việc chấp hành qui định của nhà nước tại doanh nghiệp . 1. Nguyên nhân. Nguyên nhân của tình trạng cổ phần hoá chậm chạp rất nhiều. Một trong những nguyên nhân không kém phần quan trọng là vấn đề quyền lợi người lao động chưa được giải quyết tốt. Quyền lợi của người lao động có đủ quyền lợi và điều kiện để tham gia mua cổ phần khi doanh nghiệp chuyển đổi sang hình thức sở hữu mới tốt không thể có lực cản về phía người lao động. Vì vậy: trên thực tế trong quá trình bán đấu giá doanh nghiệp đã gặp không ích những vướng mắc chưa được tháo gỡ.Một vướng mắc lớn đã được tính đến nhưng cho đến nay vẫn chưa có phương thức giải quyết:đó là vấn đề quyền lợi người lao động. Trong đợt thí điểm bán đấu giá doanh nghiệp năm ngoái diễn ra ở Hải Phòng đã không hề nhận được sự hưởng ứng và nhiệt tình từ phía người lao động, thậm chí đó còn là sự phản ánh mạnh mẽ từ phía họ. Người lao động tại các công ty này cho biết họ không có đủ tiền để cạnh tranh với những người tham gia đấu giá bên ngoài. Đây là một thực tế quá rõ ràng ở những doanh nghiệp chuẩn bị cổ phần hoá thì tâm lý này của người lao động là rất phổ biến. Họ là người sẽ không có quyền lợi và không có cơ hội từ các cuộc bán đấu giá doanh nghiệp. Sự lo ngại này còn xuất phát từ việc nếu doanh nghiệp chuyển đổi hình thức sở hữu thì tính ổn định và thu nhập của người lao động sẽ tính thế nào. Theo chủ trương cải cách doanh nghiệp thực hiện theo tinh thần nghị định 103/CP của chính phủ, thì người lao động cũng không có đặc quyền gì.Mặc dù vẫn biết như vậy nhưng các doanh nghiệp vẫn cứ phải làm.Việc người lao động không có quyền lợi gì khi bán đấu giá doanh nghiệp đã tạo thành rào cản lớn và phản ứng mạnh mẽ, khiến cho tiến trình cổ phần hoá khó mà có thể đẩy nhanh được hơn. Việc cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước còn chậm, nguyên nhân còn bắt nguồn từ nhận thức của các lãnh đạo doanh nghiệp như chưa muốn phá bỏ cơ chế cũ quốc doanh, bao cấp của nhà nước. Về tâm lý là người của nhà nước nên chưa dám bung ra mạnh bạo tự chủ vươn lên trên thương trường nên nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư công nghệ hiện đại nhưng vẫn làm ăn thua lỗ triền miên. Mặt khác, có những nhận thức chưa đúng cho rằng chỉ những doanh nghiệp nào làm ăn thua lỗ mới cổ phần hoá còn doanh nghiệp làm ăn khá giã thì nhà nước giử lại. Do đó, nhận thức doanh nghiệp nhà nước hay doanh nghiệp ngoài quốc doanh về mặt nào đó hiện tại chưa công bằng trong khi xu thế chung là các doanh nghiệp có nghĩa vụ và quyền lợi như nhau. Ngoài ra, hiện nay còn có một thực tế là nhiều doanh nghiệp nhà nước là thành viên của tổng công ty muốn cổ phần hoá nhưng lại vấp phải trở ngại ở chính tổng công ty chủ quản của mình. Nguyên nhân chính là tổng công ty không muốn cho đơn vị thành viên thực hiện có chuyển đổi sang hình thức sở hữu mới, nếu có thì tổng công ty phải nắm giữ cổ phần chi phối. Vì vậy, nhiều doanh nghiệp là thành viên đã không chấp nhận phương án tổng công ty nắm cổ phần chi phối, đã hoãn lại kế hoạch cổ phần hoá của đơn vị mình. Đây cũng là bức xúc của rất nhiều doanh nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần hoá đang chịu sự chi phối, điều hành của tổng công ty trong doanh nghiệp cổ phần hoá như hiện nay sẽ làm hạn chế tiến trình cổ phần hoá. Một số doanh nghiệp là thành viên của tổng công ty không làm tốt vai trò của mình là hỗ trợ thành viên trong hoạt động kinh doanh. Còn các doanh nghiệp thì vẫn phải nộp các khoản phí một cách đầy đủ về cho tổng công ty. Bên cạnh đó, nếu doanh nghiệp thành viên thực hiện cổ phần hoá mà vẫn chịu chi phối của tổng công ty thì điều đầu tiên các doanh nghiệp buộc phải chấp nhận là sự có mặt đương nhiên của tổng công ty tham gia vào hội đồng quản trị. Trong khi đó, khi chuyển đổi sang hình thức sở hữu mới, các doanh nghiệp đều nhận thức rõ vai trò của chủ tịch hội đồng quản trị và giám đốc đồi với sống còn của công ty nên họ bầu chọn hết sức kỹ lưỡng cẩn thận. Như vậy, việc buộc phải chấp nhận sự cử từ trên xuống là điều mà các doanh nghiệp cổ phần hoá không hề muốn. Sự chi phối này sẽ rất ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sau khi cổ phần hoá. Doanh nghiệp mong muốn có sự thay đổi và đã cố tình trì hoản lại việc thực hiện cổ phần hoá đang nằm trong kế hoạch của mình. Chính từ sự thiếu nhất trí vậy nên đã làm cho tình trạng cổ phần hoá trì trệ. Nhiều ý kiến cho rằng, tổng công ty muốn nắm giử cổ phần chi phối là do mất thành viên, sợ bị thu hẹp vào lại phải sát nhập. Ngoài ra sự thiếu kiên quyết trong việc thực hiện các quyết định của chính phủ về danh mục những nghành nghề Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối đã làm không tốt đến nhiều phương án cổ phần hoá. Hiện nay, Nhà nước nắm cổ phần chi phối ở bao nhiêu doanh nghiệp vẫn chưa được thống kê. Vấn đề là ở chổ doanh nghiệp lại muốn thực hiện như vậy để được coi là doanh nghiệp nhà nước của một số bộ nghành vẫn đề nghị phải gi rõ doanh nghiệp cổ phần hoá có chi phí nhà nước chi phối vẫn là doanh nghiệp nhà nước, được thực hiện theo luật doanh nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần hoá là đơn vị. KẾT LUẬN Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX vừa qua đã khẳng định “kinh tế nhà nước phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế: nắm những vị trí then chốt, là nhân tố mở đường cho sự phát triển kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là một công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế”. Để thực hiện được mục tiêu đó thì việc sắp xếp lại và đổi mới quản lýđoanh nghiệp nhà nước chắc chắn phải là một nhiệm vụ trọng yếu và phải được thực hiện một cách liên tục, có hiệu quả. Trong đó cổ phần hoá lại là một trong những nội dung quan trọng của sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp Nhà nước. Từ những vấn đề được nêu ra trong bài viết, có thể khẳng định cổ phần hoá là một chủ trương đúng đắn trong giai đoạn hiện nay,hiệu quả mà cổ phần hoá đem lại là không htể phủ nhận và hoàn toàn có thể tăng trong tương lai.Bên cạnh đó có thể thấy những hạn chế trong tiến trình cổ phần hoá phần lớn xuất phát từ những nguyên nhân chủ quan nên hoàn toàn có thể khắc phục được trong thời gian tới. Với những lý do đó, việc đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước có những ý nghĩa vô cùng to lớn trong việc thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới mà đảng và nhà nước ta đã đề ra. Để làm tốt nhiệm vụ này, chắc chắn phải huy động nhiều hơn sức lực và thời gian của các tổ chức, cá nhân từ Trung ương tới địa phương. Với sự nổ lực của Đảng, nhà nướcvà nhân dân,chúng ta tin tưởng rằng chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước sẽ được thực hiện thành công, góp phần vào những thắng lợi chung của sự phát triển kinh tế đất nước. Mục lục Trang Lời nói đầu 1 Chương I. Tổng quan về cổ phần hoá ở Việt Nam 2 I. Khái niệm 2 II. Phân loại doanh nghiệp 2 III. Các hình thức tiến hành cổ phần hoá 3 IV. Thẩm quyền quyết định các doanh nghiệp được tiến hành CPH 4 VI. Thủ tục chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá thành công ty cổ phần 5 VII. Những ưu đãi của nhà nước đối với doanh nghiệp được CPH............5 Chương II. Thực trạng và tình hình cổ phần hoá ở công ty vận tải và xuất nhập khẩu Quảng Ninh 6 I. Thực trạng 6 1. Nguyên nhân 9 Kết luận 12 Tài liệu tham khảo Cổ phần hoá DNNN – kinh nghiệm thế giới. NXB thống kê -1993 Báo kinh tế phát triển. Cổ phần hoá- một biện pháp để giải quyết nguồn vốn trong các DNNN. Tạp chí Nhà nước và Pháp luật. Các văn bản pháp luật. Giáo trình luật kinh tế của trường DH QLKD HN Tạp chí ngân hàng. Các văn bản pháp luật. Hiến pháp 1992 Luật doanh nghiệp nhà nước.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxTrình bày một doanh nghiệp nhà nước đã được tiến hành cổ phần hoá.docx