Tự do hóa tài khoản vốn và linh hoạt tỷ giá hối đoái tại Trung Quốc

Những phân tích trên đây cho thấy sự thành công của Trung Quốc trong công cuộc cải tổ và chuyển đổi nền kinh tế trong 20 năm qua, có phần đóng góp quan trọng trong cách điều hành linh hoạt và chủ động chính sách tỷ giá hối đoái của Chính phủ Trung Quốc. Mặc dù, Trung Quốc chưa phải là một nước có nền kinh tế thị trường phát triển hoàn thiện, nhưng thực tiễn điều hành chính sách tỷ giá của Trung Quốc là những bài học thực sự có ý nghĩa đối với Việt Nam để tiếp tục đẩy nhanh quá trình tăng trưởng bền vững.

ppt76 trang | Chia sẻ: aquilety | Lượt xem: 2336 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tự do hóa tài khoản vốn và linh hoạt tỷ giá hối đoái tại Trung Quốc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TỰ DO HÓA TÀI KHOẢN VỐN VÀ LINH HOẠT TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TẠI TRUNG QUỐC GV hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Liên Hoa Nhóm thực hiện: Nhóm 2 NH Đêm 5 – K18 TÓM TẮT Bài thảo luận này không đại diện cho quan điểm của IMF Bài thảo luận xem xét các vấn đề liên quan đến: Linh hoạt tỷ giá hối đoái Tự do hóa tài khoản vốn của Trung Quốc TÓM TẮT Chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt cho phép Trung Quốc điều hành một chính sách tiền tệ độc lập hơn; cung cấp một tấm đệm giảm xóc hữu hiệu chống lại những cú sốc từ bên trong và bên ngoài. Đồng thời, một hệ thống tài chính ổn định và khỏe mạnh là điều kiện tiên quyết để thực hiện tự do hóa tài khoản vốn. I. GIỚI THIỆU VÀ TỔNG QUAN Giống như các nước trong thị trường mới nổi, các nhà hoạch định Trung Quốc đang đối mặt với một tập các câu hỏi phức tạp liên quan đến: mong muốn và triển khai thực hiện linh hoạt tỷ giá hối đoái và tự do hóa tài khoản vốn. Trung Quốc công khai tuyên bố: Linh hoạt tỷ giá hối đoái và tài khoản vốn có thể chuyển đổi là mục tiêu trung hạn của họ. I. GIỚI THIỆU VÀ TỔNG QUAN Bằng việc duy trì chế độ tỷ giá hối đoái hiện hành, trong đó đồng Nhân dân tệ liên kết thực sự có hiệu quả với đồng bạc xanh “USD” đã mang đên tốc độ phát triển nhanh chóng của tích lũy dự trữ Trung Quốc. Bằng chứng: Sự mở rộng xuất khẩu của Trung Quốc hơn 2 năm qua Những dòng vốn FDI lớn vào Trung Quốc Đồng Nhân dân tệ bị định giá thấp. Tại sao Trung Quốc lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt ? Xuất phát từ chính lợi ích của Trung Quốc: Khi TQ hội nhập với kinh tế toàn cầu, khó tránh khỏi việc tiếp xúc với các loại cú sốc kinh tế vĩ mô khác nhau, cả bên trong và bên ngoài. Do đó nó sẽ được hưởng lợi từ việc linh hoạt tỷ giá hối đoái, cùng với một chính sách tiền tệ độc lập sẽ giúp nền kinh tế TQ điều chỉnh tốt trước những cú sốc kinh tế như vậy. I. GIỚI THIỆU VÀ TỔNG QUAN I. GIỚI THIỆU VÀ TỔNG QUAN Vấn đề đặt ra: Liệu linh hoạt tỷ giá hối đoái có gây ra những vấn đề nghiêm trọng cho lĩnh vực tài chính hay không? Một số nhà quan sát và chính các nhà cầm quyền TQ đã tranh luận rằng: Điểm yếu trong hệ thống ngân hàng TQ là một nguyên nhân trì hoãn việc thực hiện dịch chuyển tỷ giá hối đoái theo hướng linh hoạt hơn. Tính linh hoạt có thể bộc lộ tính dễ tổn thương của hệ thống tài chính bởi dòng vốn ra dễ dàng từ hệ thống ngân hàng khi những nhà đầu tư trong nước tận dụng các cơ hội để đầu ra nước ngoài. I. GIỚI THIỆU VÀ TỔNG QUAN Tuy nhiên, việc dịch chuyển theo hướng tỷ giá hối đoái linh hoạt hơn của TQ sẽ tạo động cơ cho sự phát triển của thị trường ngoại hối và quản lý rủi ro tiền tệ, bao gồm việc phát triển những công cụ bảo vệ và thị trường kỳ hạn. Đồng thời, tỷ giá hối đoái linh hoạt hơn có thể, trên thực tế, tạo điều kiện tự do hóa tài khoản vốn bằng cách chuẩn bị nền kinh tế tốt hơn để đối phó với tác động của dòng vốn đang tăng lên. I. GIỚI THIỆU VÀ TỔNG QUAN Với việc đưa ra những điểm yếu trong hệ thống ngân hàng của TQ, các nhà quan sát cho thấy, có đáng kể rủi ro liên quan tới việc tiếp xúc với các dòng vốn từ bên ngoài khi nội tại TQ không có đủ thể chế phát triển, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính. Vấn đề đặt ra: Tự do hóa những dòng vốn phải theo trình tự theo cách củng cố tự do hóa tài chính trong nước và cho phép xây dựng năng lực thể chế để quán lý những rủi ro khác. Một hệ thống tài chính ổn định, khỏe mạnh cùng một chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt được xem là điều kiện tiên quyết để mở cửa hoàn toàn tài khoản vốn. II. Những lý lẽ ủng hộ cho tính linh hoạt của tỷ giá Hoàn cảnh nền kinh tế Trung Quốc Gia nhập WTO mạnh mẽ Dòng vốn đầu tư nước ngoài chảy vào nhiều Tăng trưởng tín dụng nhanh Nợ quá hạn Mục tiêu: kiểm soát tăng trưởng quá nóng nhưng vẫn thu hút được dòng vốn đổ vào. A. Những vấn đề liên quan đến tỷ giá linh hoạt Tăng trưởng xuất khẩu, tăng trưởng kinh tế và gia tăng việc làm Tác động tới khu vực nông nghiệp Tác động tới lĩnh vực ngân hàng Tác động tới các định chế tài chính Tác động đến dòng tiền thương mại và dòng vốn đầu tư chảy vào B.Những chi phí tiềm ẩn của sự không áp dụng tỷ giá linh hoạt. Tại sao những quốc gia chấp nhận hệ thống tỷ giá cố định trong vị trí đầu? Yếu kém chính sách và thể chế (lạm phát cao, khả năng chịu đựng nợ, hệ thống ngân hàng dễ đổ vỡ, ...) Giúp ổn định kinh tế vĩ mô, phù hợp với những quốc gia có thu nhập thấp ( thị trường tài chính phát triển thấp và thị trường vốn đóng). Nhận xét Trên thực tế, sự duy trì chế độ tỷ giá cố định có thể thường che giấu chính sách ở dưới và sự yếu kém thể chế và kết quả của sự tích lũy những dạng khác biệt của sự không cân đối. Những rủi ro của việc cho vay đến những thị trường đang nổi  những món nợ ngoại tệ là một nhân tố làm đến sớm những khủng hoảng cán cân thanh toán. Tỷ giá linh hoạt trở nên có giá trị nhiều hơn khi nền kinh tế trưởng thành và trở thành một thể thống nhất với những thị trường toàn cầu Trường hợp của Trung Quốc: Sự vô hiệu hoá những dòng vốn vào được tạo điều kiện thuận lợi bằng thực tế lãi suất nội địa: Giấy bạc ngân hàng trung ương có lãi suất thấp hơn lãi suất những trái phiếu ngân quỹ quốc gia thuộc ngành công nghiệp kỳ hạn trung và dài hạn chi phí ròng truyền thống của sự vô hiệu hoá không tồn tại trong trường hợp này Tuy nhiên, việc duy trì lãi suất thấp gần đây âm trong điều kiện thực mất mát tính hiệu quả Sự giảm giá của đồng đôla Mỹ từ năm 2003  những giới hạn thương mại của Trung Quốc trở nên xấu hơn (như một khoản thuế ngầm đánh vào tiêu dùng mất mát xã hội tiềm năng) Đối với chính sách tiền tệ độc lập ( với tỷ giá linh hoạt) thì hiệu quả nhất Sự vận động hướng tới một cơ chế chính sách tiền tệ độc lập không nên trì hoãn III.Tự do hóa Tài khoản vốn A.Những Lợi ích và Rủi Ro theo Lý thuyết và Thực tế Theo lý thuyết: Tự do hoá tài khoản vốn nên có những lợi ích rõ ràng trong điều khoản đẩy mạnh phân phối quốc tế về hiệu quả hơn nữa, Nâng cao sự phát triển của những nước đang phát triển thông qua một sự đa dạng của những kênh, Và cho phép các quốc gia cắt giảm sự thay đổi tiêu dùng của họ bằng tạo ra những cơ hội cho việc chia sẻ rủi ro thu nhập A.Những Lợi ích và Rủi Ro theo Lý thuyết và Thực tế Thực tế: Có bằng chứng ít thuyết phục của mối liên hệ nguyên nhân khỏe và mạnh giữa sự hòa hợp về tài chính và sự phát triển. Có bằng chứng sự hòa hợp tài chính có thể thực sự tăng sự thay đổi tương đối của phát triển tiêu dùng đối với những thị trường đang nổi Mở tài khoản vốn trong khi duy trì nột cơ chế tỷ giá không linh hoạt đã được chứng minh là một điềm báo trước của sự khủng hoảng ở nhiều quốc gia Ngược lại, những nền kinh tế thị trường đang nổi đã duy trì tính linh hoạt lớn hơn trong cơ chế tỷ giá của họ thường phù hợp với sức ép bên ngoài Trung Quốc và Ấn Độ ít bị tác động bởi khủng hoảng Đông Nam Á 1997-1998, và cơ chế tài khoản vốn tương đối khép kín giúp hạn chế tính có thể bị làm hại đến căn bệnh lây lan tài chính Tự do hoá tài khoản vốn có thể cũng làm trầm trọng thêm những rủi ro có liên đới với những chính sách tài chính không thận trọng Tất cả những điều này đòi hỏi Trung Quốc tiếp cận thận trọng tự do hoá tài khoản vốn Trung Quốc mở cửa cho dòng vốn FDI hơn là những dòng vốn loại khác vào giúp tránh những tác động xấu từ nhiều rủi ro có liên kết với tự do hóa tài khoản vốn Ưu thế của dòng vốn FDI trong tổng dòng vốn vào của Trung Quốc suy giảm một cách rõ rệt trong những năm gần đây kết cấu của những dòng vốn vào dường như đang được làm gia tăng bởi lực của thị trường hơn là những kỳ vọng của những người làm chính sách. B.Kiểm soát vốn và sự ăn mòn không thể tránh được lâu dài. Kiểm soát vốn cung cấp mức độ bảo vệ tránh tính hay thay đổi của những dòng vốn quốc tế vào và có thể giúp kiểm soát những rủi ro được gây ra bởi một khu vực tài chính yếu kém. Kiểm soát vốn có thể thường duy trì sự không hiệu quả và sự làm méo mó trong những hệ thống tài chính nội địa, với những kết quả cho sự phát triển lâu dài và bền vững. Trong thực tế, kiểm soát vốn có xu hướng ra xa khỏi sự chặt chẽ. Một số kênh có thể giúp ích tránh kiểm soát vốn: Việc lập hóa đơn dưới và trên cho những hợp đồng xuất và nhập khẩu Những công ty đa quốc gia cũng có thể sử dụng kế hoạch chuyển giá cả để tránh kiểm soát vốn Những giao dịch tài khoản vãng lai Hiệu quả của kiểm soát vốn có xu hướng giảm, đặc biệt khi áp lực tỷ giá mạnh mẽ bị chống lại bởi sự can thiệp của chính quyền. Kiểm soát vốn ở Trung Quốc có phạm vi rộng và hiệu quả hợp lý trong quá khứ. Tuy nhiên, gần đây sự hiệu quả của kiểm soát vốn có thể đang suy yếu Mặc dù tình trạng có thực kiểm soát dòng vốn ra, số lượng khá lớn vốn tài chính vẫn xuất hiện tuôn ra của Trung Quốc suốt cuộc khủng hoảng Đông Nam Á và hậu cuộc khủng hoảng Từ năm 200, sự mong chờ vào một sự đánh giá cao đồng nhân dân tệ, kết hợp xác thực chênh lệch lãi suất đồng tiền Trung Quốc với USD, được kết quả trong dòng vốn vào không phải FDI ròng vào đáng kể mặc dù sự kiểm soát phạm vi rộng trên những dòng vốn vào không phải FDI Những khoản nợ nước ngoài từ những ngân hàng nội địa những người cư trú gia tăng hầu như 30% suốt năm 2003, trong khi những khoản tiền gửi ngoại tệ của những người cư trú thì sụt giảm nhẹ Những kinh nghiệm trên  kiểm soát vốn trở nên kém hiệu quả lâu dài, gia tăng sự giới hạn phạm vi đối với chính sách tiền tệ độc lập IV. THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI -Một số nhà bình luận đã cho rằng việc thiếu một thị trường ngoại hối hoạt động tốt sẽ hạn chế việc tiến đến sự linh hoạt hơn trong tỷ giá hối đoái. -Hơn nữa, người ta cũng cho rằng chỉ cần việc kiểm soát các giao dịch tài khoản vốn được thực hiện thì sẽ không có một thị trường ngoại hối hoạt động đủ chức năng ở Trung Quốc do phần lớn nhu cầu ngoại hối tiềm năng ở Trung Quốc vẫn còn bị ngăn chặn từ thị trường. V. CÁC XEM XÉT VỀ THỜI GIAN -Các quốc gia có được những kết quả trung hạn tốt hơn nếu như họ áp dụng tính linh hoạt của tỷ giá hối đoái trước khi tự do hóa hoàn toàn tài khoản vốn của mình, nhất là khi có những yếu kém trong phần tài chính. -Một tài khoản vốn mở tăng lên mà không có tính linh hoạt tỷ giá hối đoái đang là nguyên nhân chính của nhiều cuộc khủng hoảng tài chính thị trường sáp nhập gần đây. VI. CÁC NHẬN XÉT KẾT LUẬN Áp dụng tính linh hoạt hơn trong tỷ giá hối đoái có thể giúp cải thiện việc kiểm soát kinh tế vĩ mô và giảm bớt những điểm yếu gây sốc. Tỷ giá hối đoái có thể được cho phép di chuyển theo sự tiến triển của nguồn cung và nhu cầu ngoại hối, mặc dù những áp lực này có thể được kiểm soát bởi những rào cản trên các dòng vốn. Một sự di chuyển tương đối sớm đến tính linh hoạt hơn trong tỷ giá hối đoái là một điều lợi nhất của Trung Quốc và là những nỗ lực quan trọng có liên quan đến những trì hoãn lâu dài trong việc tạo ra một sự di chuyển như thế. Kinh nghiệm về quản lý vốn và chính sách linh hoạt tỷ giá hối đoái của các nước QUẢN LÝ VỐN TẠI CÁC NƯỚC PHÁT TRIỂN Việc quản lý vốn tại các nước phát triển VÍ DỤ Tổng quát: Kỳ vọng vào sự điều chỉnh riêng cho tỷ giá vào đầu những năm 1970 khi hệ thống Bretton Woods sụp đổ đã dẫn đến dòng vốn lớn chảy vào thị trường nội địa. Luồng vốn này cuối cùng áp đảo cơ chế quản lý vốn và buộc các nước đẩy tỷ giá hối đoái của họ ra khỏi mức giá neo ban đầu. Sự sụp đổ hệ thống Bretton Woods vào đầu những năm 1970 dẫn đến sự ra đời của tỷ giá hối đoái thả nổi, nhưng nhìn chung việc tự do hóa tài khoản vốn lại diễn ra khá chậm chạp. Cơ chế quản lý vốn được kéo dài đến những năm 1980 tại nhiều nước phát triển (trong đó, Mỹ, Anh, Canada và Thụy Sĩ tự do hóa sớm hơn các nước khác). Khi tiến trình toàn cầu hóa diễn ra và thị trường tài chính trở nên phức tạp hơn thì khả năng các chủ thể thị trường muốn tránh khỏi sự quản lý cũng như các khoản chi phí ngăn chặn các doanh nghiệp nội địa tham gia hoàn toàn vào hoạt động quốc tế đều tăng cao. Sau một khoảng thời gian cần thiết áp dụng cơ chế tỷ giá thả nổi, việc tiến đến xu hướng tự do hoá toàn cầu được bắt đầu bằng việc tháo bỏ hầu hết cơ chế quản lý vốn. Anh gỡ bỏ cơ chế quản lý vào năm 1979; Nhật vào năm 1980; Đức vào năm 1981; Úc vào năm 1983; New Zealand vào năm 1984. Hầu hết các nước Châu Âu tự do hóa vào cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990: Thụy Điển (1989); Pháp (1989); Ý (1990), Tây ban Nha (1992); các nước khác muộn hơn (Iceland 1995). Tại một số nước trong nhóm quốc gia này, việc tự do hóa cũng tương đồng với giai đoạn đầu của Liên minh Tiền Tệ Châu Âu (bắt đầu vào 01/07/1990), mà gắng liền với tự do hoá dòng vốn. NEW ZEALAND & TỰ DO TÀI KHOẢN VỐN New Zealand thả nổi tỷ giá hối đoái trước khi thực hiện tự do hóa tài khoản vốn. New Zealand đồng thời thả nổi tỷ giá và tự do tài khoản vốn cùng lúc vào năm 1984, Dòng vốn vào lớn và sự gia tăng mạnh của tỷ giá hối đoái thực. Trong khi thả nổi tỷ giá làm giảm bớt tác động này, thì các dòng vốn vào này vẫn góp phần vào việc tạo nên sự bùng nổ về giá trị tài sản và tiếp theo đó là sự sụp đổ. KẾT LUẬN Mặc dù có nhiều nhân tố tạo nên cuộc đại suy thoái của quốc gia này trong những năm 1990-1992, điều này chứng minh rằng, một số rủi ro vẫn có phát sinh từ việc tự do hóa tài khoản vốn nhanh, thậm chí ở một nước phát triển như thế. MỘT SỐ BÀI HỌC TỪ CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN Kinh nghiệm của các nước Mỹ Latinh Argentina, Chile, Mexico và Venezuela duy trì việc quản lý các giao dịch tài khoản vốn trong giai đoạn đầu của cuộc khủng hoảng nợ vào những năm 1980. Tuy nhiên, họ không thể ngăn chặn cuộc khủng hoảng trong cán cân thanh toán và không thể duy trì lâu dài tỷ giá danh nghĩa được định ở mức giá quá cao. Lượng vốn lớn vẫn tiếp tục chạy ra trong suốt thời gian quản lý vốn. Kinh nghiệm của các nước Mỹ Latinh Ví dụ trong năm 1982, lượng vốn chạy ra khỏi Argentina ước tính tiếp tục duy trì ở mức cao mặc dù có sự điều chỉnh cơ chế quản lý ngoại hối về chuyển nhượng vốn. Lượng vốn thoát ra khỏi Chile ước tính khoảng 800 triệu – 900 triệu USD trong năm 1982 mặc dù có cơ chế quản lý vốn. Ở Mexico nhiều nghiên cứu cũng ước tính lượng vốn lớn rời khỏi Mexico trong thời kỳ 1976 – 1984. Cơ chế quản lý vốn được sửa đổi vào năm 1983 nhưng dòng vốn vẫn tiếp chạy ra, từ 1 – 5 tỷ USD. KẾT QUẢ Cuối những năm 1980, Chile nới lỏng quản lý dòng vốn và tỷ giá hối đoái được dao động trong biên độ +/-5%. Cơ chế quản lý này đã tạo nên một mức độ độc lập nhất định về tiền tệ. Trong khi hiệu quả của các cơ chế quản lý này vẫn còn là một vấn đề tranh cãi, việc người ta đưa ra chương trình cải cách cấu trúc và nền kinh tế được xem là nhân tố quan trọng góp phần vào hiệu quả trên. Chile đã tiến lên thả nổi hoàn toàn tỷ giá và gỡ bỏ hầu hết các rào cản trong quản lý vốn Vào những năm 90, Brazil đã duy trì việc kiểm soát sâu rộng những dòng vốn vào ngắn hạn bằng cách duy trì cơ chế thắt chặt tỉ giá hối đoái. Mục đích: Giới hạn lượng của những dòng vốn vào và duy trì mức lãi suất phù hợp so với lãi suất nước ngoài. Hậu quả: Dòng vốn ra cũng đã giảm đáng kể. Những nỗ lực của chính phủ nhằm giảm bớt dòng vốn vào thì hoàn toàn thất bại. Với sự tương đối phức tạp của thị trường tài chính, dòng vốn tiếp tục tìm cách đổ vào tránh sự kiểm soát của chính phủ, đặc biệt là do sự ưu tiên chênh lệch lãi suất cho đầu tư tài sản người Brazin vẫn còn tồn tại, mặt khác là do thiếu sự điều chỉnh chính sách tài chính cơ bản. KẾT QUẢ Sự quản lý vốn của Hàn Quốc Chính sách quản lý chắt chặt tỉ giá hối đoái, kết hợp với việc không ưu tiên khuynh hướng vay nợ ngắn hạn từ bên ngoài có tác dụng trong suốt cuộc khủng hoảng từ năm 1997-1998. Trước giai đoạn 1990, đồng Won đã được thả nổi với đồng Đô la Mỹ trong phạm vi nhỏ. Từ 1990 - 1997 những giới hạn này đã tăng dần lên mức +/- 10%. Tài khoản vốn dần được tự do Vào giữa những năm 90 Vay nợ ngắn hạn của ngân hàng và các tổ chức tài chính phi ngân hàng được tự do => nợ nước ngoài gia tăng đáng kể. Tuy nhiên, sự kiểm soát vẫn còn đối với nhiều giao dịch nguồn vốn, nhất là những khoản vay dài hạn từ bên ngoài (trái phiếu và các khoản cho vay thương mại). Tỉ giá hối đoái đã được chính thức thả nổi tự do từ tháng 12 năm 1997, tuy nhiên vẫn còn tồn tại sự can thiệp vào thị trường ngoại hối. Quản lý vốn của tỉnh Đài Loan – Trung Quốc Năm 1978 áp dụng chính sách tỉ giá hối đoái linh hoạt nhưng có sự can thiệp sâu rộng gây ảnh hưởng lớn tới xu hướng của tỉ giá hối đoái. Nhiều cách thức quản lý vốn đã được đưa ra: Chương trình các nhà đầu tư nước ngoài có năng lực (QFII) năm 1991 cho phép quản lý dòng vốn vào và chương trình dần dần được tự do hoá hơn 10 năm. Số tiền được cho phép theo chương trình (QFII) lên đến 3 tỉ USD và tiêu chuẩn tham gia được tự do hoá vào năm 2001. Kiểm soát ngoại hối đối với các giao dịch mua bán liên quan bị bãi bỏ vào năm 1987, thị trường ngoại hối kỳ hạn được thiết lập vào năm 1991, và số tiền chuyển kiều hối được phép đã tăng lên 5 triệu USD trong năm 1992. Bài học của Thái Lan Thái Lan bắt đầu neo đồng baht với rổ tiền tệ của những nước có quan hệ kinh doanh chủ yếu với Thái lan từ ngày 5 tháng 11 năm 1984. Sau một thập kỷ áp dụng chính sách tài chính tăng trưởng mạnh và cận trọng thì đã xuất hiện dấu hiệu tăng trưởng quá nóng của nền kinh tế sau năm 1994. Sự thâm hụt ngày càng nhiều của tài khoản vốn đã vượt quá mức bù đắp của dòng vốn vào. Mặc dù việc tự do hoá tài khoản vốn chỉ được thuận lợi sau năm 1993, việc gia tăng của các luồng vốn vào là vốn ngắn hạn. Những luồng vốn vào với kích thước ngày càng tăng và không ổn định gây khó khăn trong việc thực thi chính sách tiền tệ trong môi trường tỉ giá hối đoái cố định với một vài công cụ gián tiếp. Chính phủ đã miễn cưỡng cho phép thả nỗi tỉ giá hối đoái => giảm dòng vốn vào vì mục đích đầu cơ và làm giảm nguy cơ lạm phát. Sự tự do hoá hệ thống tài chính đi liền với việc mở rộng quan hệ tín dụng nhanh chống, đặc biệt là trong khu vực bất động sản. Thái Lan đã miễn cưỡng thả nổi đồng Baht vào tháng 7 năm 1997 trước áp lực bùng nổ một cuộc khủng hoảng tài chính mạnh mẽ của thị trường. Bài học của Ấn Độ Đưa ra chính sách thả nổi tỉ giá hối đoái có giới hạn trong bối cảnh thả nổi có quản lý, trong khi từng bước theo đuổi tự do tài khoản vốn. Thả nổi tỉ giá hối đoái có giới hạn từ năm 1993 và Ấn Độ buộc phải tuân theo điều VIII trong bảng thoả thuận các điều khoản của IMF (những điều khoản này yêu cầu Ấn Độ phải dỡ bỏ những hạn chế trong các giao dịch tài khoản vãng lai) vào năm 1994. Tự do tài khoản vốn đã thay đổi với việc thường xuyên thắt chặt và tự do kiểm soát dòng vốn vào và ra để giúp điều tiết sức ép của hối đoái. Những kinh nghiệm của Ấn Độ cũng làm sáng tỏ những khả năng của sự giải quyết không cân xứng giữa những dòng vốn vào và ra, phụ thuộc vào những hoàn cảnh. Trong trường hợp này những quan niệm cho rằng tự do vốn nhanh chóng sẽ dẫn tới một khối lượng vốn đáng kể chảy ra và sự giảm giá nhanh chóng của tỷ giá đã gây ra sự hạn chế trong việc quản lý dòng vốn ra, đặc biệt là đối với công chúng. Những dòng vốn vào ít bị hạn chế, đặc biệt là FDI và dòng vốn danh mục đầu tư. Những dòng vốn ngắn hạn vẫn tiếp tục bị giới hạn, các khoản vay nợ nước ngoài tuỳ thuộc vào việc định lượng hàng năm cũng như trần đáo hạn. Những bước đi của Trung Quốc nhằm hướng tới tự do hoá các giao dịch hối đoái qua biên giới Tự do hoá giao dịch ngoại hối tại Trung Quốc Khẳng định tư do chuyển đổi đồng nhân dân tệ phải mất một thời gian dài mới có thể đạt được. Khả năng chuyển đổi của tài khoản vãng lai được đưa ra từ năm 1996. Tăng cường kiểm soát vẫn giữ nguyên vai trò quan trọng trong quản lý các giao dịch tài khoản vốn. Kiểm soát vốn là duy trì cho cả hai mục đích kiểm tra và hoạch định chính sách. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được khuyến khích nhưng vẫn bị kiểm soát sát sao. Sự gia nhập tổ chức thương mại quốc tế (WTO) đã đem lại sự tự do hoá hơn trong các thủ tục đối với đầu tư trực tiếp. Sự tách biệt của thị trường chứng khoán Trung Quốc giữa những người cư trú và không cư trú đã cản trở những dòng vốn theo danh mục đầu tư nước ngoài. Bài học của Trung Quốc Những hạn chế đối với những hình thức khác của vay vốn nước ngoài đang ngày càng phổ biến và nhìn chung phụ thuộc vào mức giá trần được quy định nghiêm ngặt. Luồng vốn ra từ dân chúng (chẳng hạn như tài khoản ngoại tệ vãng lai và mua chứng khoán nước ngoài) được quy định chặt chẽ Chính phủ đã từng bước tiến hành tự do hoá hơn nữa đối với các giao dịch hối đoái qua biên giới, nhiều trong số các giao dịch này có quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp đối với các giao dịch tài khoản vốn. Tự do hoá giao dịch ngoại hối tại Trung Quốc Trong năm 2001, những hạn chế đã được nới lỏng bớt trong việc mua ngoại tệ thanh toán ứng trước các khoản nợ ngoại tệ trong và ngoài nước, những khoản nợ này được chuyển đổi từ các khoản nợ nước ngoài và các khoản nợ của các nước khác. Việc mua ngoại tệ để đầu tư ra nước ngoài vào những dự án đầu tư nước ngoài chiến lược là được phép. Cá nhân thanh toán tiền học phí du học (ở trình độ đại học hoặc cao hơn) được cho phép mua ngoại tệ một lần tối đa hoặc tương đương là 20.000 USD (giai đoạn trước là 2.000USD) bao gồm học phí và phí sinh hoạt (có hiệu lực từ tháng 1 năm 2005, số tiền này được tăng lên 20.000 USD bên cạnh học phí). Vào năm 2002, chương trình QFII được đưa ra, cho phép những người không cư trú đầu tư vào thị trường chứng khoán trong nước (cổ phiếu), tuy nhiên vẫn phải tuân thủ một vài hạn chế. Tự do hoá giao dịch ngoại hối tại Trung Quốc Vào tháng 11 năm 2004, 23 nhà đầu tư nước ngoài đã được chấp nhận cho phép đầu tư vào với số vốn lên đến 3,2 tỉ USD. Tất cả các doanh nghiệp quản lý giao dịch tài khoản vãng lai được quyền giữ lại ngoại hối tối đa 20% thu nhập từ tài khoản vãng lai ngoại hối kiếm được trong năm ngoái (tỉ lệ này tăng lên 30-50% vào năm 2004) giúp cho các nhà xuất khẩu có thể tài trợ những khoản nhập khẩu dễ dàng hơn. Vào năm 2003, việc đăng ký và cấp phép từ chính phủ để thanh toán các khoản nợ bằng ngoại tệ vay từ các tổ chức tài chính trong nước Trung Quốc của người dân bản địa đã được bãi bỏ. Tự do hoá giao dịch ngoại hối tại Trung Quốc Các công ty nội địa được phép giữ lại thu nhập bằng ngoại tệ từ những dự án ký với nước ngoài, những khoản hoa hồng và giao hàng ra nước ngoài, những dự án đấu thầu nước ngoài trong tài khoản ngoại tệ. Tại một số tỉnh và khu vực, giới hạn cho đầu tư ra nước ngoài gia tăng từ 1 triệu USD lên mức tương đương 3 triệu USD. Mức ngoại hối tối đa mà một công dân có thể mang ra nước ngoài mà không cần xin phép thì gia tăng từ mức 2.000 USD lên tương đương 5.000 USD, và số ngoại tệ nằm trong giới hạn thẩm tra của chính phủ tăng từ 4.000 USD lên 10.000 USD. tổng số tiền tối đa mà một công dân có thể mang vào mà không cần khai báo tăng lên mức tối đa là 5.000USD mức ban đầu là 2.000USD.   Tự do hoá giao dịch ngoại hối tại Trung Quốc Năm 2004, quỹ trợ cấp quốc gia (quản lý khoảng 17 tỉ USD) và các công ty bảo hiểm trong nước được phép đầu tư một phần nhỏ ra nước ngoài nhưng chi tiết số tiền thì không được công bố. Chính phủ cho phép các tổ chức tài chính quốc tế gia tăng vốn nội địa huy động bằng dồng Nhân dân tệ từ bên ngoài. Các công ty con của các tập đoàn đa quốc gia được phép thu ngoại tệ lẫn nhau và phân phối lại chúng trong nước bằng hình thức nợ kí thác hoặc các khoản nợ nước ngoài đối với các công ty thành viên của họ. Việc chuyển giao tài sản của các công dân Trung Quốc di cư ra nước ngoài hoặc của những công dân nước ngoài vào cư trú đều được phép. PHẦN 2: Ý KIẾN VỀ TỰ DO HOÁ TÀI KHOẢN VỐN VÀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TẠI TRUNG QUỐC Về chính sách tỷ giá hối đoái, Trung Quốc, Việt Nam và tất cả các nước trong hệ thống XHCN trước đây đều xây dựng và áp dụng chính sách tỷ giá cố định và đa tỷ giá nhưng không tuân theo hoàn toàn đúng những nguyên tắc của chế độ tỷ giá cố đinh. Những tỷ giá được ấn định khác nhau tùy theo từng quan hệ kinh tế đối ngoại và thoả thuận trong quan hệ hai bên hay nhiều bên có tính chất nội bộ hệ thống, xoay quanh giá trị của đồng Ruble (RUR) được ấn định ngang bằng với giá trị của đồng đô la. Thực chất của chế độ tỷ giá cố định và đa tỷ giá trong giai đoạn này ở các nước XHCN nói chung và ở Trung Quốc nói riêng đã xoá nhoà những tín hiệu của thị trường - động lực kinh doanh đối với các đơn vị kinh tế. Các yếu tố thị trường như quan hệ cung - cầu đối với ngoại tệ, những nhân tố tác động đến tỷ giá và thị trường ngoại hối, thị trường tài sản… chỉ tồn tại có tính chất hình thức hoặc không tồn tại chứ không phải là công cụ đắc lực của nền kinh tế thị trường, không có tác dụng là những đòn bẩy thúc đẩy nền kinh tế phát triển Trung Quốc đã sớm nhận ra tính bất cập của cơ chế quản lý dựa gần như tuyệt đối vào công cụ kế hoạch hoá và bắt đầu cải tổ, chuyển đổi nền kinh tế ngay từ cuối những năm 70, chính xác là từ năm 1979. Cùng với quá trình cải tổ và chuyển đổi nền kinh tế, chế độ và chính sách tỷ giá hối đoái cũng được chuyển đổi cho phù hợp với những yêu cầu của nền kinh tế phát triển dựa trên cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước theo định hướng XHCN Bước đầu tiên của quá trình chuyển đổi trong chế độ và chính sách tỷ giá ở Trung Quốc là giai đoạn để cho tỷ giá ấn định trước đây thả nổi theo sát với những diễn biến của tỷ giá trên thị trường. Thực tế, Trung Quốc đã tiến hành điều chỉnh liên tục tỷ giá hối đoái danh nghĩa biến động theo hướng giảm giá trị của đồng nội tệ cho phù hợp với sức mua của đồng Nhân dân tệ bị đánh giá cao trước đây trong suốt thời kỳ đầu của quá trình cải cách cho đến đầu những năm 90 Bảng 1 : Diễn biến của tỷ giá hối đoái giữa đồng nhân dân tệ và đồng đô la thời kỳ 1978 - 1990. Chính sách tỷ giá trong thời kỳ này đã giúp Trung Quốc đẩy mạnh xuất khẩu, giảm thâm hụt cán cân thương mại, cán cân thanh toán, tăng dự trữ ngoại tệ và đưa đất nước thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng (xem bảng 2) Sau khi tỷ giá được điều chỉnh phản ánh tương đối sát với những biến đổi của thị trường và sức mua thực tế của đồng Nhân dân tệ.Trong những năm đầu của thập kỷ 90, tỷ giá danh nghĩa của đồng Nhân dân tệ với đồng Đôla Mỹ được duy trì tương đối ổn định ở mức 5,2 đến 5,8 NDT = 1 USD (xem bảng 3), là mức dao động đã được điều chỉnh để phản ánh những tác động của lạm phát của Trung Quốc và Mỹ là 10,92% (27,52% - 16,60% thời kỳ 1990 - 1993) trên 11,06% là mức điều chỉnh tỷ giá thời kỳ 90 - 93, cao hơn mức lạm phát (0,14%) Nhận thấy việc duy trì ổn định theo hướng cố định tương đối tỷ giá hối đoái trong điều kiện lạm phát tiếp tục gia tăng bắt đầu có những tác động xấu đến mục tiêu tăng cường mở cửa và thúc đẩy xuất khẩu của nền kinh tế, do đồng Nhân dân tệ có khả năng trở lại tình trạng bị đánh giá cao so với sức mua thực tế. Chính phủ Trung Quốc đã quyết định chuyển hướng điều chỉnh chính sách tỷ giá hối đoái Ngày 1.1.1994, đồng Nhân dân tệ chính thức bị tuyên bố phá giá mạnh từ 5,8 NDT/USD xuống 8,7 NDT/USD, tương ứng với tỷ lệ phá giá 50% (8,7/5,8). Kết hợp với tỷ lệ đồng Nhân dân tệ bị đánh giá thấp 0,14% thời kỳ 1990 - 1993, tỷ lệ phá giá thực tế là 50,14%. Là sự kết hợp giữa việc điều chỉnh và phá giá đồng Nhân dân tệ trong chính sách tỷ giá của Chính phủ Trung Quốc. Một hành vi mà nhiều nhà kinh tế thường bất đồng nhất là một. Không phải bất cứ sự điều chỉnh tỷ giá hối đoái nào theo hướng giảm giá đồng nội tệ đều là điều chỉnh phá giá Đồng thời với việc điều chỉnh và phá giá mạnh đồng Nhân dân tệ, Trung Quốc huỷ bỏ chế độ tỷ giá ấn định của Nhà nước để chuyển sang chế độ tỷ giá được thả nổi có quản lý. Ban hành một loạt các quy định hỗ trợ như : thực hiện chế độ ngân hàng kết hối, xoá bỏ sự ghìm giá và tăng giá ngoại hối của các công ty, xây dựng thị trường giao dịch ngoại tệ liên ngân hàng, cải tiến cơ chế hình thành tỷ giá hối đoái; … kết hợp với việc kiểm soát chặt chẽ của NHTW đối với các hoạt động ngoại hối ở NHTM bằng cách quy định ngân hàng nào được phép chuyển đổi và với số lượng là bao nhiêu Kết quả của một loạt những điều chỉnh kết hợp thả lỏng và xiết chặt từng bộ phận trong chính sách tỷ giá và tiền tệ vào thời điểm này đã có tác động tích cực nhanh chóng khôi phục lại đà tăng trưởng trong xuất nhập khẩu và nền kinh tế Trung Quốc. Tuy nhiên, Trung Quốc cũng đã phải chấp nhận trả giá bằng một mức lạm phát cao không mong muốn năm 1994 là 24,24%, cao hơn năm 1993 24,24/ 14,58 = 66,25%, lớn hơn mức ảnh hưởng thông thường của tỷ giá hối đoái đến mức giá cả hàng hoá - dịch vụ của một nước (Theo thống kê của các nhà kinh tế là <50%). Nhưng sự trả giá này chỉ có tính chất ngắn hạn và đã được Chính phủ Trung Quốc kịp thời điều chỉnh bằng chính cách thắt chặt tiền tệ (tốc độ tăng cung tiền giảm và lãi xuất tăng, xem bảng 5), năm sau lạm phát đã giảm xuống và nhanh chóng trở lại ổn định. ĐJiều chỉnh và phá giá mạnh đồng Nhân dân tệ thời gian này của Trung Quốc không chỉ thu được những lợi ích trong ngắn hạn, nhanh chóng đẩy mạnh xuất khẩu, chiếm lĩnh nhiều thị phần quan trọng trên thị trường quốc tế ; mà còn tạo cơ sở để Trung Quốc có thể trở lại duy trì chính sách tỷ giá ổn định trong một thời gian dài, giảm thiểu những rủi ro hối đoái và tạo môi trường hấp dẫn thu hút mạnh các nguồn đầu tư nước ngoài vào Trung Quốc đã vươn lên đứng đầu các nước đang phát triển về mức độ thu hút đầu tư nước ngoài cả trực tiếp và gián tiếp Để bảo vệ đồng NDT trước tác động của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực, một lần nữa Trung Quốc lại quay lại kiểm soát chặt chẽ thị trường ngoại hối, giảm nguy cơ đầu cơ và găm giữ giảm những dự kiến về phá giá đồng NDT. Song song với việc quản lý chặt trên thị trường ngoại hối, để giảm bớt sức ép đối với xuất khẩu và sự tăng trưởng của nền kinh tế, Chính phủ Trung Quốc đã phối hợp với các chính sách tiền tệ nới lỏng và kích cầu. Những phân tích trên đây cho thấy sự thành công của Trung Quốc trong công cuộc cải tổ và chuyển đổi nền kinh tế trong 20 năm qua, có phần đóng góp quan trọng trong cách điều hành linh hoạt và chủ động chính sách tỷ giá hối đoái của Chính phủ Trung Quốc. Mặc dù, Trung Quốc chưa phải là một nước có nền kinh tế thị trường phát triển hoàn thiện, nhưng thực tiễn điều hành chính sách tỷ giá của Trung Quốc là những bài học thực sự có ý nghĩa đối với Việt Nam để tiếp tục đẩy nhanh quá trình tăng trưởng bền vững. PHẦN 3. LIÊN HỆ THỰC TIỄN TẠI VIỆT NAM Cơ chế điều hành tỷ giá của Việt Nam : từ tháng 2/1999 “chỉ công bố một tỷ giá - tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng của VND so với USD”. Tỷ giá này được gọi là tỷ giá trung bình thị trường vì nó do cung cầu về ngoại tệ trên thị trường quyết định và NHNN chỉ can thiệp khi cần thiết. NHNN điều chỉnh giảm tỷ lệ kết hối bắt buộc (từ 80% xuống 50%) đã góp phần ổn định tỷ giá. NHNN đã ban hành hàng loạt văn bản điều chỉnh thị trường ngoại hối như Pháp lệnh ngoại hối (13/12/2005), các văn bản về tự do hóa các giao dịch vãng lai,… Đồng thời NHNN liên tục thay đổi biên độ giao dịch từ +/-0.25% và +/-0.5% năm 2007 lên +/-1%, +/-2% và +/-3% trong năm 2008. Những động thái này giúp tỷ giá hối đoái giao dịch của ngân hàng gần sát với thị trường tự do Tỷ giá chính thức giữa USD và VND trong năm 2009 đã trải qua hai lần điều chỉnh, một lần vào tháng 3 (+2%) do tăng biên độ giao dịch từ 3% lên 5% và lần gần nhất là vào tháng 11 (+3,4%). Mặc dù sau mỗi lần điều chỉnh, tỷ giá chính thức đều lên kịch trần nhưng tỷ giá trên thị trường không chính thức (tỷ giá thị trường tự do) vẫn luôn nằm ngoài biên độ cho phép của Ngân hàng Nhà nước HỆ QUẢ CỦA CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ VN Theo đánh giá của một quan chức NHNN thì chính sách tỷ giá thời gian qua là thành công. Tuy nhiên thực tế là công tác điều chỉnh tỷ giá nhiều lúc chưa kịp thời và chưa đủ mạnh. Có nhiều thời điểm trong năm 2007, 2008 và 2009, nguồn cung ngoại tệ (trong hệ thống ngân hàng) không đáp ứng đủ cầu ngoại tệ (thiếu cục bộ: Để khuyến khích kiều hối, Nhà nước cho phép dân chúng giữ ngoại tệ; sự điều chỉnh biên độ của NHNN cũng như không đủ lựcvề dự trữ ngoại hối để can thiệp). Doanh nghiệp phải mua ngoại tệ từ thị trường tự do và thông qua một số buớc chuyển đổi (qua ngoại tệ khác) tại ngân hàng thương mại mới có được ngoại tệ thanh toán cho nước ngoài Trong mối quan hệ với tỷ giá, mức độ tự do hóa tài khoản vốn có giới hạn. Chính phủ thực hiện kiểm soát các nguồn vốn ra, vào. Đầu tư nước ngoài cho dù dưới hình thức trực tiếp (FDI) hay gián tiếp (FPI) đều phải qua thủ tục đăng ký và có giới hạn kiểm soát. Chỉ có hình thức gửi tiền về của kiều bào là được khuyến khích. Trong khi đó luồng vốn ra ngoài cũng chịu kiểm soát tương tự, mặc dù mức độ có giảm dần theo thời gian (FDI ra nước ngoài, chuyển tiền du học, chữa bệnh,…).

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • ppttk_von_trinh_bay_3908.ppt
Luận văn liên quan