Từ nhận thức lý luận về con người để hình thành và triển khai chủ trương, đường lối phát triển con người nói chung và chủ trương đào tạo đội ngũ giáo viên giáo dục công dân

MỤC LỤC Trang Phần mở đầu. 1 1. Lý do chọn đề tài. 1 2.Mục đích,nhiệm vụ của đề tài. 1 2.1 Mục đích. 1 2.2. Nhiệm vụ. 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. 2 3.1 Đối tượng. 2 3.2.Phạm vi nghiên cứu 2 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 2 4.1. Cơ sở lý luận. 2 4.2. Phương pháp nghiên cứu 2 5. Đóng góp mới của sáng kiến 2 CHƯƠNG I:Tìm hiểu lý luận về con người. 3 1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về bản chất con người. 3 1.1.1.Những quan điểm trước chủ nghĩa Mác – Lênin về bản chất con người. 3 1.1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - lênin về con người và nhân tố con người. 4 1.2.Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và bản chất con người. 5 1.2.1.Hồ Chí Minh tiếp thu ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin về con người và bản chất con người. 5 1.2.2.Tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất con người và phát triển nhân tố con người. 6 1.3.Quan điểm của Đảng ta về tầm quan trọng của nhân tố con người và chiến lược phát triển con người. 7 1.3.1. Quan điểm của Đảng ta về tầm quan trọng của nhân tố con người 7 1.3.2.Các chủ trương chính sách của Đảng về chiến lược con người. 7 CHƯƠNG II: Từ nhận thức lý luận về con người để hình thành và triển khai chủ trương, đường lối phát triển con người nói chung và chủ trương đào tạo đội ngũ giáo viên giáo dục công dân. 8 2.1.Chủ trương chung của Đảng về phát triển nhân tố con người. 8 2.2. Chủ trương, chính sách cụ thể của Đảng về công tác GD- ĐT. 8 2.2.1. Tầm quan trong của đội ngũ GV nói chung. 8 2.2.2. Vị trí và vai trò của đội ngũ giáo viên giáo dục công dân. 9 2.2.3. Các chủ trương chính sách của Đảng được triển khai cụ thể. 10 CHƯƠNG III Thực trạng của đội ngũ giáo viên giáo dục công dân và một số đề xuất, kiến nghị. 11 3.1.Thực trạng của đội ngũ giáo viên giáo dục công dân. 11 KẾT LUẬN 3.2.Một số đề xuất, kiến nghị về giải pháp nhằm nâng cao kết quả giảng dạy học tập của học sinh đáp ứng yêu cầu thực tiễn của sự nghiệp giáo dục miền núi. 13

doc16 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2855 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Từ nhận thức lý luận về con người để hình thành và triển khai chủ trương, đường lối phát triển con người nói chung và chủ trương đào tạo đội ngũ giáo viên giáo dục công dân, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU. 1. Lý do chọn đề tài. Vấn đề con người tuy là cổ xưa, nhưng lại luôn mới mẻ, thu hút sự chú ý và thảo luận của nhiều nhà khoa học, nhiều nghành khoa học vì con người là chủ thể của hoạt động sáng tạo, con người sáng tạo ra mọi của cải vật chất để nuôi sống mình, duy trì sự tồn tại và phát triển của XH, duy trì nòi giống và lực lượng cải tạo xã hội. Song bản chất con người là một thực thể sinh học xã hội, là sản phẩm cao nhất,hoàn thiện nhất của sinh giới.Tuy nhiên con người chỉ có thể tiếp tục hoàn thiện phù hợp với chế độ xã hội mới XHCN tiến dần lên XHCSCN khi con người được đặt trong mối quan hệ XHCN. Từ việc nắm vững lý luận về con người,về vị trí tầm quan trọng của nhân tố con người, cho nên trong sự nghiệp đổi mới toàn diện hiện nay Đảng và Nhà Nước ta chủ trương đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển, là chiến lược trung tâm “Chiến lược của mọi chiến lược” và mọi chiến lược phát triển kinh tế xã hội là nhằm phát huy nhân tố con người, tạo điều kiện cho con người phát triển hài hoà có trí tuệ và sức khoẻ.Để làm được như vậy cần nhận thức được vai trò của các yếu tố sinh học xã hội trong qúa trình hình thành và phát triển của con người, để từ đó làm cơ sở lý luận và thực tiễn trong việc đề ra những chủ trương chính sách kịp thời nhằm bồi dưỡng phát huy nhân tố con người nói chung để con người thật sự trở thành chủ thể của quá trình xây dựng xã hội mới. Chính vì thế mà nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII khi đề cập đến việc tiếp tục lựa chọn con đường đi lên CNXH đã đặt con người là vấn đề nguần lực có tính quyết định, là vốn quý để đưa đất nước đi lên CNXH và do vậy việc đào tạo con người là vấn đề có tính chiến lược. Do vậy cần nghiên cứu để thấy được nhiệm vụ của giáo viên - GDCD trong nhà trường phổ thông. 2.Mục đích,nhiệm vụ của đề tài. 2.1 Mục đích. Từ việc nghiên cứu lý luận về con người để xác định nhiệm vụ của GV – GDCD trong nhà trường phổ thông, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH – HĐH đất nước nói chung và trực tiếp là sự nghiệp giáo dục miền núi. 2.2. Nhiệm vụ. Từ việc nghiên cứu các quan điểm về con người đến việc tìm hiểu nhiệm vụ của GV – GDCD trong nhà trường THPT. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. 3.1 Đối tượng. Trên cơ sở nghiên cứu các quan điểm về con người qua các học thuyết và thực trạng đội ngũ GV – GDCD trong nhà trường PT. 3.2.Phạm vi nghiên cứu. Xuất phát từ lý luận về con người đi tìm hiểu thực trạng của đội ngũ GV – GDCD trong nhà trường THPT trong thời gian qua để tiếp tục hoàn chỉnh, đồng bộ hơn các nhiệm vụ của GV – GDCD trong thời gian tới. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu. 4.1 Cơ sở lý luận. Triết học Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và bản chất của con người để tìm hiểu nhiệm vụ của giáo viên GDCD. 4.2. Phương pháp nghiên cứu. Kết hợp nhiều phương pháp: Phân tích, tổng hợp, khái quát, điều tra xã hội học, logic và lịch sử, so sánh… 5. Đóng góp mới của sáng kiến. Làm sáng tỏ lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin,tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và việc phát triển nhân tố con người.Trên cơ sở đó, bước đầu đánh giá thực trạng và nguyên nhân mặt manh, mặt yếu của đội ngũ GV – GDCD trong nhà trường phổ thông ở những năm vừa qua.Góp phần tìm ra những giải pháp, đề xúât,kiến nghị nhằm xây dựng đội ngũ GV – GDCD có đủ phẩm chất, trí tuệ, sức lực để đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng đất nước hiện nay. CHƯƠNG I: Tìm hiểu lý luận về con người. 1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về bản chất con người. 1.1.1.Những quan điểm trước chủ nghĩa Mác – Lênin về bản chất con người. Hệ thống các quan điểm triết học trước Mác về bản chất con người, vai trò, vị trí của con người trong thế giới được thể hiện với hàng loạt các quan điểm duy vật có, duy tâm có và thậm trí có cả những quan niệm nhị nguyên. Quan niệm duy tâm về bản chất con người: Quy đặc trưng bản chất con người vào lĩnh vực ý thức, tư tưởng hoặc xem bản chất con người là cái gì đó được quy định sẵn từ lực lượng siêu nhiên.. * Theo Khổng Tử thì ngay từ khi được sinh ra con người đã bẩm sinh cái thiện tính, do tác động của ngoại cảnh tính động sinh ra tình (tình cảm), nếu không kìm chế được cái tình làm cho con người ta trở nên ác. *Theo Platon con người ta ra đời đã mang bản chất khác nhau và được chia làm ba loại phù hợp với những chức năng xã hội khác nhau: Chỉ huy, thừa hành và phục tùng. * Theo quan niệm của Êpiquya đại biểu tiêu biểu thứ nhất của triết học duy vật đã bảo vệ chủ nghĩa duy vật ông cho rằng: “Muốn có hạnh phúc phải mạnh dạn chống lại tư tưởng sợ chết, sợ thần thánh”…. Vấn đề con người như theo Khổng Tử, theo Platon được xem xét và giải quyết theo các quan niệm duy tâm, theo Êpiquya lại xem xét và giải quyết theo quan niệm duy vật…nhưng về bản chất các nhà triết học đã xây dựng nên cái nền triết học hết sức phong phú đa dạng, đánh dấu bước chuyển quan trọng trong việc đánh giá và nhìn nhận con người,bản chất con người trong tư tưởng nhân loại… Các quan điểm triết học cơ bản về con người và bản chất con người có quan niệm duy tâm,có quan niêm duy vật và cũng có những quan niệm duy vật không triệt để…điều đó nói lên tính phức tạp của bản chất con người. Nhưng tất cả những quan niệm đó mới chỉ dừng lại ở những suy nghĩ, mong muốn,chưa bắt tay vào hành động khám phá.Tất cả do hạn chế của lịch sử, của điều kiện kinh tế- xã hội chưa chín muồi để có thể khẳng định một cách đúng đắn về con người, bản chất và vai trò của con người. Nhưng chúng ta luôn thừa nhận hệ thống triết học trước Mác là kho báu khổng lồ vô giá của nhân loại, là cơ sở lý luận trực tiếp cho các quan niệm duy vật triệt để về con người của chủ nghĩa Mác ra đời. 1.1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - lênin về con người và nhân tố con người. Với quan niệm duy vật triệt để và phương pháp luận biện chứng triết học Mác giúp chúng ta đi đến nhận thức đầy đủ bản chất con của người với những biểu hiện thực sinh động của nó.Mác - Ănghen khi bàn về con người đã khẳng định:Con người vừa là một thực thể tự nhiên vừa là một thực thể xã hội.Tức là trong một con người bao giờ cũng gồm có hai phần: Phần con đó là tính tộc loại, tính di truyền như chúng ta thấy con người sinh ra, lớn lên, trưởng thành,già cỗi và chết đi.Trong quá trình đó con người phải tuân thủ những quy luật của tự nhiên như quá trình trao đổi chất, quá trình đông hoá, dị hoá, di truyền, biến dị…còn phần người mang tính xã hội được hình thành từ quá trình lao động sản xuất. Chính vì con người là động vật duy nhất biết lao động, có ý thức nên đã tách ra khỏi tình trạng động vật. Trong khi thực hiện và phát triển quan điểm của Mác không ít người không thực sự hiểu Mác trong luận điểm của ông: “Trong tính hiện thực của nó bản chất con người là tổng hoà những mối quan hệ xã hội”. Ở đây Mác nói đến một con người cụ thể. Theo Mác ta có thể hiểu được bản chất con người thông qua hoạt động thực tiễn,thông qua những mối quan hệ xã hội mà con người ấy tham gia. Mệnh đề “tổng hoà các mối quan hệ xã hội” ở đây không chỉ đơn thuần là “tổng hoà” các quan hệ kinh tế với chính trị và văn hoá, đạo đức và pháp quyền…mà còn là mặt vật chất, mặt tinh thần, mặt không gian và thời gian…. Từ luận điểm trên của Mác khiến chúng ta phải chú ý đến mặt cá thể, cá tính và những phẩm chất bẩm sinh đồng thời nó là cái được tạo thành bởi các quan hệ, nên khi nghiên cứu về nhân tố con người chính là tìm cách tiếp cận mối quan hệ giữa con người với môi trường xã hội và sự tác động trở lại của môi trường đối với con người. Đây chính là giá trị cách mạng khiến cho chủ nghĩa Mác vượt lên trên tất cả các luận điểm của trường phái triết học trước và cùng thời với Mác khi nghiên cứu về con người. Đến đây ta thấy ý nghĩa lớn nhất của việc nghiên cứu bản chất con người, phân tích rạch ròi thực chất của các yếu tố cấu thành nên bản chất con người, cũng như mối quan hệ biện chứng giữa hai yếu tố đó (sinh học và xã hội)trong con người,để chúng ta có cơ sở cho việc phát huy nhân tố con người trong một đội ngũ mà về mặt sinh học cũng như yêu cầu xã hội đang đòi hỏi đáp ứng. Luận điểm “thực thể tự nhiên” “thực thể xã hội” là hai yếu tố tồn tại đan xen nhau, hỗ trợ nhau, bổ sung cho nhau, thâm nhập vào nhau và để lại dấu ấn trên toàn bộ hoạt động của đời sống con người. Như vậy trong một hệ thống các luận điểm về con người có cả các quan niệm duy tâm các quan niệm nhị nguyên và đặc biệt là các quan niệm duy vật về con người nhưng có lẽ là chưa đầy đủ như mệnh đề: “con người là động vật chính trị” là quan niệm của Aristôts, hay quan niệm của Fran Klin coi: “con người là động vật biết chế tạo công cụ lao động”.Chỉ đến Mác mới có một quan niệm đầy đủ và chính xác về con người đó là: “con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội”.Tất cả những quan điểm,quan niệm trên đều do con người tìm tòi,học hỏi,nghiên cứu mà có và do ý thức của con người phát triển trong quá trình lao động sản xuất. Bản thân mỗi con người chỉ có thể khẳng định bản chất của mình,chỉ có thể vươn lên hoàn thiện mình khi thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin. Chỉ có như vậy thì con người mới có và ngày càng khẳng định vai trò chủ thể hoạt động sáng tạo của mình. 1.2.Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và bản chất con người. 1.2.1.Hồ Chí Minh tiếp thu ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin về con người và bản chất con người. Sau khi trở thành người cộng sản,Người trực tiếp đọc các bản thảo của Các Mác - Ănghen – Lênin và tiếp cận các đại hội quốc tế cộng sản. Người đã nhận thức sâu sắc hơn về bản chất cách mạng khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề dân tộc,giai cấp…để rồi Người đã đưa ra các khái niệm như: “Người cùng khổ”, “Người bị bóc lột”…ta thấy rõ Hồ Chí Minh luôn xem xét con người trong các mối quan hệ với cộng đồng và những điều kiện lịch sử cụ thể.Từ đó Người khẳng định vai trò to lớn của con người là chủ thể của cách mạng XHCN, Người nói: “ Muốn xây dựng CNXH trước hết cần có những con người XHCN”. 1.2.2.Tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất con người và phát triển nhân tố con người. Theo Người để xây dựng con người mới cần phải đánh giá đúng con người về cả “lý” và “tình” về cả “đức” và “tài” trên 5 phương diện cơ bản. Thứ nhất: Bồi dưỡng con người về trí tuệ, vì Người cho rằng: “dốt cũng là một kẻ địch” dịch dốt nát giúp cho giặc ngoại xâm, dịch dốt nát tấn công ta về tinh thần cũng như địch ngoại xâm tấn công ta bẵng vũ khí.Cách mạng là sự nghiệp vĩ đại nên con người XHCN phải có trí tuệ cao, có kiến thức toàn diện, sâu sắc thì mới có lập trường tư tưởng vững vàng và làm chủ được xã hội mới. Thứ hai: Bồi dưỡng về đạo đức vì Người cho rằng đạo đức là cái gốc “cũng như sông thì có nguồn” và “ muốn xây dựng CNXH phải có con người thấm nhuần đạo đức XHCN”.Khi có đạo đức thì dù khó khăn gian khổ con người cũng không sợ khi thuận lợi thành công con người vẫn khiêm tốn. Thứ ba: Xây dựng mụch đích và lối sống mới, vì lối sống xã hội chủ nghĩa tạo cho con người có lý tưởng hoài bão, bản lĩnh,tạo ra cho con người ý chí đúng đắn “Thắng không kiêu, bại không nản”. Thứ tư: Bồi dưỡng năng lực hoạt động thực tiễn, vì theo Hồ Chí Minh con người mới phải là con người vừa “hông” vừa “chuyên” tức là bên cạnh đạo đức là tài năng con người “có đức mà không có tài thì vô dụng”. Thứ năm: Chăm lo lợi ích và đời sống vật chất của con người, vì theo Người con người là một thực thể xã hội,tức là mặt xã hội có thể phát triển trên một cơ thể khoẻ mạnh (cơ sở vật chât,yếu tố sinh học, mặt sinh học) Những nhu cầu vật chất giúp con người hoàn thiện về cả thể lực, trí lực.Khi thể lực hoàn thiện là cơ sở cho trí lực tiếp tục hoàn thiện. 1.3.Quan điểm của Đảng ta về tầm quan trọng của nhân tố con người và chiến lược phát triển con người. 1.3.1. Quan điểm của Đảng ta về tầm quan trọng của nhân tố con người Ngay từ khi mới ra đời Đảng cộng sản Việt Nam đã coi mụch đích cao nhất của mình là giải phóng con người, sự giải phóng đó gắn liền với chân lý “Không có gì quý hơn độc lập tự do” chân lý ấy được Đảng ta vận dụng triệt để trong suốt tiến trình cách mạng và mục tiêu của cách mạng là giải phóng con người,giải phóng giai cấp,giải phóng dân tộc.Bởi thế trong tiến trình cách mạng Đảng ta đã sử dụng con người ở mọi thế hệ,mọi giai tầng một cách tài tình phát huy nhân tố con người là phát huy sức mạnh của cả dân tộc, nên chúng ta đã giành chiến thắng trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.Đánh giá về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đồng chí cố vấn Phạm Văn Đồng khẳng định: Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là thắng lợi của con người Việt Nam… 1.3.2.Các chủ trương chính sách của Đảng về chiến lược con người. Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII khẳng đinh “ Để thành công trong sự nghiệp CNH – HĐH phải phát huy nhân tố nguần lực con người” tức là phải coi con người là động lực chính phát triển kinh tế xã hội muốn có CNXH trước hết ta phải đào tạo những con người XHCN đó là những con người có trí tuệ phát triển, năng động, sáng tạo, có đạo đức XHCN, có một cơ thể cường tráng khoẻ mạnh, có tâm hồn trong sáng biết cảm thụ cái đẹp. Chính vì chăm lo phát triển nguồn lực con người mà GD & ĐT được coi là quốc sách hàng đầu.Việc đầu tư cho giáo dục và nguồn vốn đầu tư cho giáo dục là “sinh lời” nhanh nhất. CHƯƠNG II: Từ nhận thức lý luận về con người để hình thành và triển khai chủ trương, đường lối phát triển con người nói chung và chủ trương đào tạo đội ngũ giáo viên giáo dục công dân. 2.1.Chủ trương chung của Đảng về phát triển nhân tố con người. Hiện nay trong thời kỳ đổi mới của đất nước căn cứ vào mục tiêu của cách mạng XHCN và điều kiện lịch sử ở nước ta, Đảng ta có hai chủ trương lớn. Một là: Kiện toàn hệ thống chính sách xã hội,đổi mới chính sách văn hoá, giáo dục và đào tạo. Xuất phát từ nhận thức rằng lao động và dân số là tiềm năng vừa là chủ thể,vừa là lực lượng sản xuất hàng đầu của xã hội,vừa là người tiêu dùng sản phẩm của xã hội. Bởi vậy việc nghiên cứu để xác định điều kiện làm việc, nghỉ ngơi, chính sách tiền lương, vấn đề bảo hiểm XH, vấn đề phúc lợi XH. Đổi mới chính sách văn hoá, giáo dục, ĐT vì chính sách này có tác động mạnh mẽ đến việc phát huy sức mạnh nhân tố con người vì nó góp phần nâng cao đời sống văn hoá tinh thần. Qua đó góp phần nâng cao văn hoá chính trị, văn hoá pháp luật, nâng cao ý thức về quyền lợi trách nhiệm của công dân. Hai là: Nâng cao hiệu lực quản lý của nhà nước XHCN. Điều này có ý nghĩa then chốt để phát huy sức mạnh nhân tố con người, vì chỉ trên cơ sở nâng cao nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước thì chính sách XH mới đi vào cuộc sống. 2.2. Chủ trương, chính sách cụ thể của Đảng về công tác GD- ĐT. 2.2.1. Tầm quan trong của đội ngũ GV nói chung. Từ xư cha ông ta đã từng nói:“Không thầy đố mày làm nên” chứng tỏ người thầy có vị trí vô cùng quan trọng tròng việc “ Làm nên” một con người có nhân cách cao đẹp, trong sáng và có một trí tuệ hơn người. Trong sư nghiệp thiêng liêng giáo dục những con người cho XH mới, người GV có vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp giáo dục, cho nên người thầy phải có lòng nhiệt tình sôi nổi, lòng yêu người tha thiết, ham học hỏi, có tri thức, say sưa vơi sự nghiệp trồng người. Người GV là biểu tượng sinh động hàng ngày trước mắt của thế hệ trẻ. Người GV không những trang bị cho trò tri thức về khoa học mà còn trang bị cho các em lý tưởng sống, đạo làm người. 2.2.2. Vị trí và vai trò của đội ngũ giáo viên giáo dục công dân. Môn GDCD có vị trí quan trọng trong việc hình thành thế giới quan, nhân sinh quan và phương pháp luận cho học sinh. Cùng với các môn khoa học khác môn GDCD đã góp phần bồi dưỡng đạo đức cách mạng, bản lĩnh chính trị, nhân cách và phẩm chất niềm tin cho học sinh. Môn GDCD là môn khoa học XH gắn liền với đường lối của Đảng, môn này có nhiệm vụ đào tạo thanh niên, học sinh thành những người lao động mới, hình thành những phẩm chất tích cực của người công dân tương lai, có thế giới quan khoa học, có giác ngộ XHCN, có đạo đức cách mạng, ra sức thực hiện đường lối nhiệm vụ của Đảng và nhà nước. Sống làm việc theo hiến pháp và pháp luật, có ý thức trách nhiệm cao của người công dân đối với Tổ Quốc, với nhân dân với gia đình và với chính bản thân mình. Nhiệm vụ giáo dục tư tưởng chính trị đạo đức cho học sinh được tất cả các môn học, tất cả các hình thức giáo dục của nhà trường thực hiện.Nhưng chỉ có môn GDCD mói có thể giáo dục trực tiếp cho học sinh những chi thức theo một hệ thông sác đinh toàn diện về thế giới quan và nhân sinh quan mới, có thể giúp cho học sinh hiểu biết được quy luật phát triển tất yếu khách quan của XH loài người, giúp cho học sinh nhận thức đúng đắn “ Sống là để cải tạo thế giới” mà trong điều kiện hiện nay phải sống – Học tập – lao động để XD CNXH trên đất nước ta, là cách sống phù hợp với quy luật khách quan của lịch sử XH. Những chi thức trên các môn khoa học khác, các hình thức giáo dục khác khong thể thay thế được. Chính vì vậy người giáo viên GDCD có một vai trò to lớn trong việc hình thành con người mới XHCN. Người GV – GDCD phải có giác ngộ cách mạng cao, có lý tưởng sống sâu sắc và trong sáng, có lý luận chuyên môn vững vàng thì mới có thể đáp ứng được yêu cầu của thời đại. Song phải thừa nhận trên lĩnh vực này, dạy và học môn GDCD vẫn còn nhiều bất cập, yếu kém về nội dung, phương pháp và hiệu quả giáo dục chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra của môn học cả về nội dung khoa học và định hướng chính trị. Việc dạy và học môn GDCD ở các trường THPT về cơ bản là tốt. Các trường đã đưa môn GDCD vào chương trình chính khoá, tuy nhiên một số trường do thiếu GV chuyên môn nên GV chuyên ngành khác sang dạy GDCD làm cho chất lượng dạy học môn này đã yếu lại càng yếu thêm. Điều này đòi hỏi ở đội ngũ giáo viên GDCD phải có sự cố gắng nỗ lực để việc giảng dạy đạt hiệu quả tốt nhất. 2.2.3. Các chủ trương chính sách của Đảng được triển khai cụ thể. Thực tế xã hội ta đang phát triển tiến lên theo định hướng XHCN, đòi hỏi ý thức xã hội luôn phải biến đổi phù hợp để thúc đẩy tồn tại xã hội phát triển (ngày nay trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học công nghệ phát triển như vũ bão, cho nên cứ 7 đến 10 năm khối lượng tri thức khoa học tự nhiên tăng gấp đôi) đặt ra yêu cầu bổ xung thường xuyên kiến thức dạy học trong nhà trường,cả về tri thức tự nhiên lẫn tri thức xã hội. CHƯƠNG III Thực trạng của đội ngũ giáo viên giáo dục công dân và một số đề xuất, kiến nghị. 3.1.Thực trạng của đội ngũ giáo viên giáo dục công dân. Môn giáo dục công dân mặc dù bản thân nó cũng là một môn khoa học xã hội, nhưng khi đưa vào giảng dạy ở các trường THPT thì nó cũng chỉ là một môn phụ, đặc biệt là không thi tốt nghiệp nên học sinh học tập chủ yếu là để lấy điểm chứ chưa có ý thức tìm hiểu để nâng cao tầm hiểu biết của bản thân. Bên cạnh đó giáo viên giảng dạy cũng chưa thực sự đầu tư vào chuyên môn làm sao để cho bài giảng lôi cuấn được học sinh,khơi gợi sự tìm hiểu sáng tạo của các em.Việc dạy và học còn mang tính thụ động nên chưa phát huy được tính tích cực từ học sinh,về phương tiện dạy học còn thiếu, tài liệu tham khảo còn ít .Thư viện hầu như không có sách tham khảo cho bộ môn này…. Từ thực trạng đó đòi hỏi giáo viên giảng dạy bộ môn này cần có sự nỗ lực phấn đấu điều chỉnh để nâng cao chất lượng dạy và học như cần: Phải đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá,đổi mới phương pháp dạy học.Việc kiểm tra đánh giá được đổi mới sẽ giúp cho giáo viên có định hướng phương pháp dạy học cho phù hơp với từng đối tượng học sinh. Việc ra đề kiểm tra môn GDCD cần đảm bảo các yêu cầu: + Cần có phần tự luận. + Cần có phần trắc nghiệm khách quan, với các câu hỏi kiểm tra trí nhớ,kiểm tra nhận thức của học sinh… Kiểm tra thường xuyên và kiểm tra định kỳ để đánh giá quá trình học tập của học sinh vì chương trình môn GDCD được xây dựng trên các môn khoa học cơ bản: Triết học, đạo đức, pháp luật, kinh tế chính trị… Môn học được tích hợp nhiều nội dung giáo dục xã hội cần thiết khác cho công dân trẻ: Giáo dục môi trường, giáo dục giới tính, sức khoẻ sinh sản vị thành niên,an toàn giao thông, HIV/AIDS…. giúp học sinh phát triển hoàn thiện cả về thể lực và trí lực. Hướng học sinh vươn tới những giá trị cơ bản trong thời kỳ CNH – HĐH,thực hiện sự thống nhất giữa văn hoá truyền thống và tinh hoa nhân loại.Đảm bảo sự cân đối hài hoàgiữa trang bị kiến thức với rèn luyện kỹ năng và phát triển thái độ tích cực cho học sinh,gắn chặt chẽ với cuộc sống thực tiễn của học sinh với pháp luật… 3.2.Một số đề xuất, kiến nghị về giải pháp nhằm nâng cao kết quả giảng dạy học tập của học sinh đáp ứng yêu cầu thực tiễn của sự nghiệp giáo dục miền núi. + Đối với giáo viên: Mỗi giáo viên phải xác định nhiệm vụ hàng đầu là giảng dạy tốt môn học, để làm được như vậy thì người giáo viên cần có vốn hiểu biết rộng về thế giới quan nhân sinh quan. Cần học hỏi, trau dồi kinh nghiệm từ các đồng nghiệp, từ cuộc sống thực tiễn để từ đó có phương pháp giảng dạy tốt, phù hợp với từng đối tượng học sinh. Bài giảng luôn phải sinh động, dễ hiểu, sau bài học, học sinh liên hệ được với thực tiễn. Mỗi bài, mỗi phần cần có phương pháp cụ thể. Làm đồ dùng để trợ giúp cho bài day. + Đối với học sinh: Chăm chỉ học tập,nắm vững bài ngay tại lớp học,hăng hái phát biểu ý kiến xây dựng bài Học bài cũ,trả lời câu hỏi và làm các bài tập sau mỗi bài học trước khi có giờ học mới.Đọc và soạn bài mới… KẾT LUẬN Lý luận về con người luôn được coi là vấn đề trung tâm của mọi xã hội.Bởi tất cả mọi nghiên cứu, tìm tòi cũng là chỉ để phục vụ con người,phục vụ nhu cầu ngày cang cao của xã hội.Sự phân hoá các giai cấp trong xã hội có giai cấp đã dẫn đến việc lựa chọn xem xét xã hội nào phát huy được tối đa tính tích cực xã hội của mỗi thành viên,mỗi chủ thể. Từ lý luận về con người sáng kiến nêu lên sự tác động của con người đối với con người trong giáo dục.Qua đó khẳng định vị trí tầm quan trọng của đội ngũ giáo viên giáo dục công dân “giáo dục con người” trưởng thành về mọi mặt cho xã hội.Từ lý luận về con người,từ xưa đến nay Đảng và nhà nước ta đã vận dụng để hình thành các chủ trương và triển khai chương trình kế hoạch giáo dục và đào tạo. Chính vì con người có ý nghĩa lớn lao trong việc cải tạo ra xã hội cũ,xây dựng xã hội mới với một điều kiện sống tốt hơn,một môi trường giáo dục lành mạnh hơn.Vì vậy mà lý luận về con người, vấn đề về con người không ngừng được đề cập tới.Thực tế đã chứng minh rằng con người nghiên cứu về con người để tạo ra một XH có điều kiện sống tốt hơn và chính điều kiện sống tốt hơn đó lại tác động trở lại con người để con người hoàn thiện hơn nữa phần người của chính mình. Cho nên để tạo ra một XH, một điều kiện sống tốt trước hết phai có những con người tốt. Để trở thành những con người tốt trước hết phải qua quá trình học tập và rèn luỵên, trau dồi kiến thức trí tuệ… Trên đây là sáng kiến nhỏ của tôi về lý luận con người để hình thành và triển khai chủ trương, đường lối phát triển con người nói chung và chủ trương đào tạo đội ngũ giáo viên GDCD. Trong quá trình viết sáng kiến còn nhiều hạn chế rất mong được sự đống góp của của các đồng nghiệp. Tôi xin chân thành cảm ơn! MỤC LỤC Trang Phần mở đầu. 1 1. Lý do chọn đề tài. 1 2.Mục đích,nhiệm vụ của đề tài. 1 2.1 Mục đích. 1 2.2. Nhiệm vụ. 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. 2 3.1 Đối tượng. 2 3.2.Phạm vi nghiên cứu 2 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 2 4.1. Cơ sở lý luận. 2 4.2. Phương pháp nghiên cứu 2 5. Đóng góp mới của sáng kiến 2 CHƯƠNG I:Tìm hiểu lý luận về con người. 3 1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về bản chất con người. 3 1.1.1.Những quan điểm trước chủ nghĩa Mác – Lênin về bản chất con người. 3 1.1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - lênin về con người và nhân tố con người. 4 1.2.Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và bản chất con người. 5 1.2.1.Hồ Chí Minh tiếp thu ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin về con người và bản chất con người. 5 1.2.2.Tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất con người và phát triển nhân tố con người. 6 1.3.Quan điểm của Đảng ta về tầm quan trọng của nhân tố con người và chiến lược phát triển con người. 7 1.3.1. Quan điểm của Đảng ta về tầm quan trọng của nhân tố con người 7 1.3.2.Các chủ trương chính sách của Đảng về chiến lược con người. 7 CHƯƠNG II: Từ nhận thức lý luận về con người để hình thành và triển khai chủ trương, đường lối phát triển con người nói chung và chủ trương đào tạo đội ngũ giáo viên giáo dục công dân. 8 2.1.Chủ trương chung của Đảng về phát triển nhân tố con người. 8 2.2. Chủ trương, chính sách cụ thể của Đảng về công tác GD- ĐT. 8 2.2.1. Tầm quan trong của đội ngũ GV nói chung. 8 2.2.2. Vị trí và vai trò của đội ngũ giáo viên giáo dục công dân. 9 2.2.3. Các chủ trương chính sách của Đảng được triển khai cụ thể. 10 CHƯƠNG III Thực trạng của đội ngũ giáo viên giáo dục công dân và một số đề xuất, kiến nghị. 11 3.1.Thực trạng của đội ngũ giáo viên giáo dục công dân. 11 KẾT LUẬN 3.2.Một số đề xuất, kiến nghị về giải pháp nhằm nâng cao kết quả giảng dạy học tập của học sinh đáp ứng yêu cầu thực tiễn của sự nghiệp giáo dục miền núi. 13 . .

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTừ nhận thức lý luận về con người để hình thành và triển khai chủ trương, đường lối phát triển con người nói chung và chủ trương đào tạo đội ngũ giáo .doc