Đề tài: Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại
LỜI MỞ ĐẦU
Triết học là hình thái ý thức xã hội ra đời từ khi chế độ cộng sản nguyên thuỷ được thay thế bằng chế độ chiếm hữu nô lệ. Những triết học đầu tiên trong lịch sử xuất hiện vào khoảng thế kỷ VIII – VI trước công nguyên ở Ấn Độ cổ đại, Trung quốc cổ đại, Hy Lạp và La Mã cổ đại và ở các nước khác.
Triết học được xem là một hình thái ý thức xã hội, là học thuyết về những nguyên tắc chung nhất của tồn tại và nhận thức về thái độ của con người đối với thế giới, là khoa học về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Triết học Phương Tây nói chung và Triết học Phương Tây từ cổ đại đến cận đại là một bộ phận quan trọng trong hệ thống triết học thế giới. Đối tượng của triết học phương Tây nói chung ngoài phần siêu hình học bàn về những ý niệm trừu tượng như bản thể, ý thức, hư vô . còn lại là những hành trình vào các vấn đề cụ thể có liên quan tới con người như cảm giác, nhận thức, ký ức, hạnh phúc, đạo đức . Các vấn đề về con người như con người tri thức thế giới xung quanh như thế nào, vai trò của con người trong quá trình nhận thức như thế nào hay những vấn đề và xã hội như quan hệ giữa các nhân và xã hội, ai quan trọng hơn, đạo đức là vấn đề xã hội hay vấn đề cá nhân, quan hệ giữa cá nhân và nhà nước là trọng tâm trong quan điểm của các triết gia phương Tây. Bài tiể luận này sẽ tập trung tìm hiểu, nghiên cứu tư tưởng con người và xã hội được thể hiện trong quan điểm của các triết gia thuộc các trường phái triết học khác nhau trong Triết học Phương Tây từ cổ đại tới cận đại.
Tài liệu tham khảo
1. Bùi Văn Hóa, Triết học Phương Tây, tài liệu giảng dạy, ĐHKHXHNV.
2. Đỗ Minh Hợp-Nguyễn Thanh-Nguyễn Anh Tuấn, Đại Cương Lịch Sử Triết Học Phương Tây, NXB Tổng Hợp Tp HCM, 2003.
3. Hà Thúc Minh, Triết học cổ Hy Lạp La Mã, NXB. Mũi Cà Mau, 1997
4. Nguyễn Hóa, Triết học cổ hy lạp giảng yếu, NXB. Thanh Niên, 2007.
5. Nguyễn Ngọc Thu - Bùi Văn Mưa, Đại Cương Lịch Sử Triết Học, NXB Tổng Hợp TPHCM, 2003
6. Nguyễn Tiến Dũng, Lịch Sử Triết Học Phương Tây, NXB Tổng Hợp TP. HCM, 2006.
7. Trịnh Đình Thanh, Khái lược lịch sử triết học Phương Tây, Tài liệu giảng dạy, Đại học Mở TPHCM, 2009.
66 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 10048 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à nước để được
sống yên ổn. Đạo luật của nhà nước là tất yếu. Nhiệm vụ của nhà nước là phải trừng
phạt, nhưng công minh; mỗi cá nhân có nghĩa vụ phải tuân theo.
II.4. Tư tưởng con người, xã hội trong Triết học cổ điển Đức
II.4.1 Tư tưởng con người
Cantơ
Khác hẳn với các nhà triết học Anh, Pháp, Cantơ không chỉ bàn đến lĩnh vực
bản thể luận, nhận thức luận mà còn bàn đến con người với tính cách là một chủ thể
hoạt động. Trong tác phẩm “Phê phán lý tính thực tiễn” Cantơ đã đưa ra quan điểm
như sau: Con người là chủ thể hoạt động là nền tảng và là điểm xuất phát của mọi vấn
Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại
Trang 44
đề triết học. Con người vừa là chủ thể, đồng thời là kết quả quá trình hoạt động của
chính mình. Bản thân lịch sử là phương thức tồn tại của con người. Mỗi cá nhân hoàn
toàn làm chủ vận mệnh của mình và tự ý thức về mình. Bên cạnh quan điểm tiến bộ
đó, Cantơ cùng bộc lộ hạn chế ở chỗ, đề cao sự mạnh trí tuệ của con người tới mức
cực đoan: sáng tạo ra các quy luật của thế giới. Thần thánh hóa con người tới mức coi
bản thân thế giới tự nhiên phải hoạt động theo ý chí con người.
Về lĩnh vực nhận thức con người, khi nghiên cứu triết học Cantơ, người ta cũng
có thể thấy rất rõ thái độ trân trọng của ông đối với con người và lý trí con người. Chỉ
có điều, là một nhà triết học độc đáo nên việc đề cao con người ở Cantơ cũng rất khác
biệt so với các nhà tư tưởng khác. Theo Cantơ, "thế giới vật tự nó" là thế giới dành
cho cảm giác.
Do vậy, thế giới đó đóng kín đối với lý tính và đối với khoa học. Tuy thế, theo
cách giải thích của Cantơ, đối với "thế giới vật tự nó", con người không phải là tuyệt
nhiên không thể vươn tới được. Bởi lẽ, con người, trong quan niệm của Cantơ, luôn
sống trong cả hai thế giới - thế giới mà cảm giác có thể đạt tới và thế giới mà trí tuệ có
thể đạt tới (còn gọi là thế giới khả giác và thế giới khả niệm).
Thế giới mà cảm giác có thể đạt tới, theo Cantơ, đó là giới tự nhiên. Còn thế giới mà
trí tuệ đạt tới - đó là thế giới của tự do. Tự do trong quan niệm của Cantơ là một trạng
thái mà ở đó, con người hoàn toàn không bị lệ thuộc vào những nguyên nhân tiền định
nào đó vốn có trong thế giới có thể cảm giác được. Tự do là khả năng tiên nghiệm đặc
biệt cho phép giác tính con người hoạt động độc lập với các quy luật tất yếu của tự
nhiên trong lĩnh vực hiện tượng luận, nó tồn tại một cách tương đối trong lĩnh vực
hiện tượng luận. Trong biên giới của tự do, hành động và hành vi của con người
không bị chi phối bởi lý tính lý luận mà bị chi phối bởi tính thực tiễn. Lý tính được
gọi là thực tiễn, theo Cantơ, là lý tính mà ý nghĩa chủ yếu của nó là điều chỉnh hành vi
con người. Động lực của lý tính thực tiễn không phải là tư duy, mà là ý chí của con
người. Cantơ gọi ý chí của con người là vương quốc của sự tự trị. ở đây, ý chí của con
người được quy định không phải bởi các nguyên nhân bên ngoài, tức là những nguyên
nhân thuộc về tính tất yếu của giới tự nhiên hoặc những nguyên nhân thuộc về
Thượng đế. Theo Cantơ, ý chí của con người được quy định bởi những quy luật, luật
lệ vốn có của riêng nó. Đó là những quy luật, luật lệ mà ý chí tự đặt ra cho bản thân
mình.
Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại
Trang 45
Như đã nói ở trên, chính Cantơ chứ không phải ai khác, là người đầu tiên đã đề
xuất và "bảo vệ một cách quyết liệt nhất" việc phân chia nhân học thành một khoa học
độc lập. Trong so sánh với các lĩnh vực tri thức đã được xác lập, Cantơ coi nhân học,
mà trước hết là nhân học triết học (philosophical anthropology) là một ngành có đối
tượng riêng của mình, có phương thức nghiên cứu riêng của mình. Theo P.S.
Gurevich, “nhà nghiên cứu sâu sắc hơn cả trong tư tưởng Nga hiện đại về vấn đề con
người” , thì "Cantơ là người đầu tiên của nền triết học châu Âu khẳng định rằng, con
người là một thực thể độc nhất vô nhị có khả năng suy tư một cách riêng biệt và độc
đáo. Con người - là khách thể bí ẩn và hấp dẫn tột cùng của sự tư biện triết học. Để
khám phá bí ẩn của con người, cần phải có những công cụ không tầm thường và độc
lập. Trong ý nghĩa đó, nhân học triết học đối lập với khu vực tri thức triết học truyền
thống - bản thể luận (học thuyết về tồn tại), logic học, lý luận nhận thức, lịch sử triết
học, đạo đức học, thầm mỹ học, triết học tự nhiên, triết học xã hội, triết học lịch sử”.
Với Cantơ, nhận thức con người cũng có nghĩa là nhận thức thế giới; chỉ có thông qua
con người, các vấn đề của nhận thức thế giới, xã hội mới được giải quyết. Cantơ viết:
"Mục tiêu của tất cả những thành tựu văn hoá mà con người học được là ứng dụng
những tri thức và những kinh nghiệm đã thu nhận được vào thế giới. Nhưng đối tượng
quan trọng nhất trong thế giới mà những tri thức này có thể ứng dụng được - đó là con
người, chừng nào con người còn là mục đích tự thân cuối cùng" . Khi xác định nhiệm
vụ cho triết học, Cantơ tự đặt cho riêng mình 4 câu hỏi mà về sau người ta hiểu đó là 4
nội dung cơ bản của toàn bộ nhận thức con người:
1. Tôi có thể biết gì?
2. Tôi có thể làm gì?
3. Tôi có thể hy vọng gì?
4. Con người là gì?
Theo Cantơ, nhiệm vụ trả lời câu hỏi thứ nhất thuộc về nhận thức luận. Câu hỏi
thứ hai dành cho đạo đức học. Câu hỏi thứ ba dành cho tôn giáo và thần học, đòi hỏi
tôn giáo phải cắt nghĩa những hy vọng thực tế và phi thực tế của con người. Và cuối
cùng, nhiệm vụ trả lời câu hỏi thứ tư thuộc về nhân học - nhân học, mà ngay trong
cách đặt vấn đề của Cantơ cũng đã được phân biệt rạch ròi với nhận thức luận, với đạo
đức học và với tôn giáo. Rõ ràng, đây là một kiểu phân loại hết sức độc đáo mà trước
đó, khoa học, tôn giáo và triết học thường có thái độ loại trừ nhau, không thừa nhận
Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại
Trang 46
tiếng nói và vị thế của nhau trong đời sống tinh thần con người. Cách phân loại của
Cantơ đặt lại vấn đề về ý nghĩa của sự tồn tại người trong chính nhận thức. Hơn thế
nữa, Cantơ còn chỉ rõ thực chất của sự nhận thức thế giới nói chung đối với con
người, hoá ra lại chính là, nhận thức con người; Cantơ viết: "Về thực chất, toàn bộ
điều đó (4 câu hỏi và sứ mệnh trả lời 4 câu hỏi ấy) có thể quy giản về nhân học. Bởi
vì, ba vấn đề đầu tiên thuộc về vấn đề cuối cùng".
Kể từ Cantơ, nhân học triết học nói riêng và đặc biệt, các ngành nhân học thực
nghiệm khác đã có những bước tiến rất dài trong nhận thức về con người và đời sống
con người. Ngày nay, nhắc đến nhân học người ta rất ít nói về Cantơ, nhưng quả thực
công lao của ông đối với ngành khoa học này thì khó có thể phủ nhận.
Quan niệm về đạo đức: Để trả lời câu hỏi “Tôi cần phải làm gì?” Cantơ đã xây
dựng một số quan niệm về đạo đức, những quan niệm đó chứa đựng trong tác phẩm
“Phê phán lý tính thực tiễn”. Ông cho rằng, trong xã hội cần phải có các quy tắc đạo
đức. Các quy tắc đó không thể xuất phát từ yếu tố cảm tính nhất thời mà phải xuất
phát từ lý tính. “Lý tính là nguồn gốc duy nhất sinh ra các nguyên lý và chuẩn mực
đạo đức” bởi vì các khát vọng cảm tính chỉ đưa con người tới ích kỷ, phi đạo đức.
Cantơ đưa ra nguyên lý cơ bản của đạo đức, gọi là mệnh lệnh tuyệt đối. Mệnh
lệnh đòi hỏi mọi người sống phù hợp với tự nhiên, tôn trọng mình, tôn trọng người
khác, sống theo lẽ phải, tôn trọng sự thật, sống bình đẳng trong cộng đồng. Người này
có quyền nào đó, thì mọi người khác phải có quyền như thế, tạo điều kiện để họ thực
hiện được quyền đó. Mọi người cần phải ngăn chặn những hành động trái với mệnh
lệnh tuyệt đối.
Ông còn cho rằng: Tự do là phạm trù trung tâm của đạo đức, là lý tưởng cao cả
nhất của nhân loại, là cái cao quý nhất trên trần gian.
Quan điểm đạo đức tuy có nhiều điểm không tưởng phi lịch sử, phi giai cấp,
thiếu cơ sở hiện thực nhưng chứa đựng nhiều tư tưởng nhân đạo sâu sắc vì nó góp
phần xóa bỏ quan niệm ích kỷ hẹp hòi, giải phóng tư tưởng con người khỏi gông cùm
của ý thức hệ phong kiến.
Heghen
Ông chịu ảnh hưởng rất lớn từ tư tưởng của Cantơ, một phần từ các tác phẩm
của Heraclitus và Spinoza. Ông triển khai di sản triết học của Cantơ và hình thành nên
thuyết duy tâm siêu hình học của mình.
Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại
Trang 47
Ông đề cập về con người và khả năng lớn lao của lý trí con người. Hegel đã
thiết lập mệnh đề tổng quát rằng “cái gì có lý tính là hiện thực và cái gì hiện thực là lý
tính”, từ mệnh đề này ông đi đến kết luận rằng bất cứ cái gì tồn tại đều có thể hiểu
được. Điều này ông đi ngược lại với những gì mà Cantơ đã đề cấp đến nhưng cho là
không thể giải quyết được trong nhận thức của lý trí thuần tuý như: Vấn đề Thượng
Đế, Bản Ngã và Vũ trụ. Bằng tổng hợp triết học đồ sộ của mình, Hegel tin lý trí con
người có thể lý giải tất cả mọi vấn đề của thực tại.
Riêng vấn đề con người, khác với Cantơ, Hegel cho rằng các phạm trù không
phải như là những quá trình của tinh thần mà như là những thực tại khách quan có sự
tồn tại độc lập với cá thể tư duy. Ông xem xét những chủ đề về sự tha hóa của con
người khỏi Thượng Đế và sự phục hồi của sự duy nhất bị đánh mất giữa cái hữu hạn
và cái vô hạn, sự vô hạn này là đời sống sáng tạo vốn ôm ấp mọi tư tưởng trong một
vũ trụ duy nhất và đó chính là Thượng Đế hay Toàn Thể hoặc là Thực tại như là một
toàn thế.
Trong tác phẩm chính đầu tiên của ông là Hiện tượng luận về tinh thần
(Phenomenology of the Spirit), Hegel đề cập đến khả năng biện chứng của con người,
“khởi đi với những mức độ thấp nhất của ý thức và công trình của con người một cách
biện chứng hướng đến mức độ mà ở đó tâm trí con người đạt tới quan điểm tuyệt đối”.
Phoiơbắc
Vốn là người có tư tưởng cách tân, Phoiơbắc mơ tới việc thiết kế những đồ án cho
việc cải cách triết học và ông thực sự đã làm như vậy trong 2 tác phẩm: Những luận
điểm dự thảo cho cuộc cải cách triết học (1842), Những luận đề cơ bản của triết học
tương lai (1843). Trong các tác phẩm đó ông đã khai mở một hướng đi mới cho các
nhà triết học hậu thế, đó là truy tìm bí mật của triết học ngay trong giới tự nhiên và
con người: “Hãy quan sát giới tự nhiên và con người, bạn sẽ thấy trong đó những bí
mật của triết học". “Quan điểm của tôi chỉ có thể biểu đạt trong hai từ: Giới tự nhiên
và con người". Với cách đặt vấn đề như vậy, người thiết kế đồ án triết học mới này đi
sâu vào việc nghiên cứu bản chất con người bắt đầu từ việc truy tìm:
1) mối quan hệ giữa con người và giới tự nhiên,
2) mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại,
3) mối quan hệ giữa người và người,
4) mối quan hệ giữa người và thần.
Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại
Trang 48
Tiếp thu những thành tựu của khoa học tự nhiên trên nền tảng của chủ nghĩa duy
vật nhân bản, Phoiơbắc cho rằng, con người không phải là sản phẩm của thượng đế
như các nhà thần học quan niệm, nó cũng không phải là sự tha hoá của ý niệm tuyệt
đối như Heghen nói, mà là sản phẩm của giới tự nhiên, ông viết: "Giới tự nhiên là ánh
sáng, điện từ, từ tính, không khí, nước, lửa, đất, động vật, thực vật, là con người, bởi
vì con người là một thực thể hoạt động thiếu tự chủ và vô thức". Như vậy, sự phát sinh
và tồn tại của con người cũng giống như sự phát sinh và tồn tại của của các hiện tượng
tự nhiên khác, chỉ có điều khác là: con người là sản phẩm tiến hoá cao nhất của giới tự
nhiên, là một sinh vật bậc cao, có tính vượt trội so với các loài động vật khác ở đời
sống tinh thần của nó: "Sự khác biệt căn bản giữa loài người và loài vật là gì? Câu trả
lời chung rất đơn giản là: đó là sự khác nhau trong ý thức đúng với nghĩa chân chính
của từ này... Bởi ý thức theo nghĩa chính xác chỉ có ở chỗ, khi chủ thể có khả năng
nhận thức được loài của mình, bản chất của mình. Động vật nhận thức mình như một
cá thể, nó chỉ làm chủ được quá trình tự cảm giác mà thôi, chứ không phải như một
loài...bởi vậy, động vật sống đơn giản một mình, còn con người sống có bạn. Đời sống
nội tâm của con vật hoà đồng với thế giới bên ngoài, còn con người sống với cả hai
chiều: nội tâm và thế giới bên ngoài. Đời sống nội tâm của con người liên quan mật
thiết với loài và bản chất của nó. Con người suy nghĩ, bàn luận và nói với chính
mình".
Toàn bộ mối quan hệ giữa giới tự nhiên và con người phản ánh mối quan hệ giữa
thế giới vô cơ và thế giới hữu cơ, phản ánh tiến trình tiến hoá của sự sống, theo nghĩa
thế giới vô cơ là tiền đề, là cơ sở nền tảng của mọi sự sống nói chung, của đời sống
con người nói riêng. Con người chỉ có thể tồn tại trong giới tự nhiên, trong sự tiếp xúc
với thế giới khách quan bên ngoài nó, và cũng chính thế giới này quy định sự tồn tại
và phát triển của các giác quan con người chứ không phải ngược lại như chủ nghĩa
duy tâm chủ quan khẳng định. Ánh sáng tồn tại không phải để cho con mắt nhìn, mà
con mắt tồn tại bởi vì có ánh sáng, tương tự như vậy, không khí tồn tại không phải để
cho con người hít thở mà con người hít thở bởi vì có không khí, bởi vì, nếu không có
không khí thì sẽ không có sự sống. Tồn tại một mối quan hệ tất yếu giữa thế giới vô
cơ và thế giới hữu cơ. Mối quan hệ qua lại này chính là cơ sở, là bản chất của sự sống.
Bởi vậy, chúng ta không có căn cứ nào để giả định rằng, nếu như con người có nhiều
cảm giác hay nhiều cơ quan thì nó sẽ hiểu biết được nhiều thuộc tính hay nhiều sự vật
Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại
Trang 49
của tự nhiên hơn... con người có vừa đủ những giác quan cần thiết để cảm nhận thế
giới trong tính toàn vẹn và tính tổng thể của nó.
Từ việc quan sát hình thể bên ngoài của con người,.cho đến mọi hoạt động lao
động sản xuất cũng như hoạt động tinh thần của nó, Phoiơbắc cho rằng, con người là
một sinh vật có hình thể vật lý -sinh lý ở trong không gian và thời gian, nhờ vậy nó có
năng lực quan sát và suy nghĩ vượt trội so với các loài sinh vật khác. Bản chất con
người là một cái gì đó thống nhất toàn vẹn giữa hai phương diện thể xác (tồn tại) và
tinh thần (tư duy). Sự thống nhất toàn vẹn này đảm bảo cho con người có thể tồn tại
và phát triển như một sinh vật cao nhất, hoàn thiện nhất trong mọi sinh vật hiện có.Và
sai lầm của chủ óc, nghĩa duy tầm là sự toan tính thủ tiêu sự thống nhất toàn vẹn đó
của con người, tách rời tư duy con người khỏi tồn tại của nó, biến tư duy thành một
thực thể siêu tự nhiên có khả năng sáng tạo nên thế giới vật chất. Còn sai lầm của chủ
nghĩa nhị nguyên là đánh đồng tư duy và tồn tại, coi chúng như những thực thể tồn tại
độc lập bên cạnh nhau đó là một sụ khẳng định vòng vo, là lối nói nửa vời, tách đôi
trái ngược.
Phê phán những quan điểm sai lầm của chủ nghĩa duy tầm và chủ nghĩa nhị
nguyên trong việc tách đôi thể xác và tinh thần, tồn tại và tư duy, Phoiơbắc đã thừa
nhận một cách dứt khoát rằng quan hệ thực sự của tồn tại đối với tư duy là tồn tại -
chủ thể, tư duy - thuộc tính. Tư duy xuất phát từ tồn tại, chứ không phải tồn tại xuất
phát từ tư duy… cơ sở của tồn tại nằm ngay trong tồn tại chính là cảm tính, là nguyên
lý trí tuệ là sự tất yếu và chân lý... bản chất của tồn tại với tư cách một tồn tại chính là
bản chất của giới tự nhiên. Tại sao tồn tại là chủ thể, còn tư duy là thuộc tính (của
chính chủ thể đó)? Để trả lời câu hỏi này, theo Phoiơbắc, chúng ta cần đến từ đâu đến,
bộ óc từ đâu đến, cơ quan cơ thể từ đâu đến, thì tinh thần cũng đến từ đấy ngay cả
hoạt động tinh thần cũng là việc làm của cơ thể, của đầu óc con người, hoạt động đó
khác với các hoạt động khác ở chỗ, nó là hoạt động của đầu óc.
Không phải là người nghiên cứu sâu về sinh lý học, song Phoiơbắc cũng nhận
thấy rằng, mỗi con người cụ thể bằng xương bằng thịt đang sống và hoạt động là
những bằng chứng sinh động về sự thống nhất giữa thể xác và tinh thần, giữa phương
diện vật lý và phương diện tâm lý. Sự thống nhất này phản ánh sự thống nhất giữa cấu
trúc và chức năng, giữa giải phẫu học và sinh lý học. Và cũng từ đó ông dễ dàng rút ra
một kết luận triết học duy vật rằng, tư duy, ý thức của con người không là cái gì khác
Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại
Trang 50
như là thuộc tính vốn có của một dạng vật chất có tổ chức cao - bộ óc con người.
Chính ở đây, ông đã phần nào phỏng đoán được nội dung vấn đề cơ bản của triết học,
điều mà sau này Ăngghen đã phát biểu một cách rõ ràng hơn trong tác phẩm Lutvich
Phơbách và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức.
Sau khi công nhận một cách dứt khoát rằng, tồn tại là chủ thể, tư duy là thuộc
tính, ý thức là sản phẩm của bộ óc con người, Phoiơbắc đi đến việc tìm hiểu sâu hơn
bản chất tự nhiên - sinh học của con người. "Bản chất chung của con người là gì?
Những nhân tính cơ bản trong con người là gì? Đó là lý tính, ý chí và trái tim. Con
người hoàn thiện có năng lực tư duy, sức mạnh ý chí và nguồn lực tình cảm. Năng lực
tư duy chính là ánh sáng của nhận thức, sức mạnh của ý chí chính là năng lượng của
tính cách, nguồn lực tình cảm chính là tình yêu... Trong ý chí, tư duy và tình cảm luôn
chứa đựng bản chất tối cao, tuyệt đối của con người và mục đích tồn tại của nó... con
người tồn tại để nhận thức, yêu thương và mong muốn. Nhưng mục đích của lý tính,
của ý chí, của tình yêu là gì? Là để làm cho con người trở thành người tự do". Đoạn
trích này là một văn bản điển hình thuộc Chương I với nhan đề Bản chất chung của
con người trong tác phẩm Bản chất Kitô giáo, do Phoiơbắc viết vào năm 1841. Qua
những lời lẽ đó, nhà triết học cổ điển Đức muốn chứng minh rằng, bản chất chung của
con người là tổng hoà mọi khát vọng chính trị, mọi năng lực nhận thức và nhu cầu tự
nhiên - sinh học đã trầm tích trong quá trình phát triển lịch sử lâu dài của nó.
II.4.2 Tư tưởng xã hội
Cantơ
Thừa nhận và phát triển tư tưởng về khế ước xã hội, Cantơ cho rằng: Nhà nước là sự
liên kết của mọi người trong khuôn khổ pháp luật nhằm giám sát và bảo đảm bình
đẳng cho mọi công dân. Nhà nước ra đời không phải là ngẫu nhiên, mà do mâu thuẫn
của xã hội nhằm giải quyết những đối kháng xã hội, điều hoà sự phát triển của xã hội
theo hướng ngày càng hoàn thiện. Cantơ mong muốn giải quyết mâu thuẫn đó bằng
hòa bình, ông muốn xóa bỏ chiến tranh vì theo ông, chiến tranh phá hoại các chuẩn
mực đạo đức của con người.
Mặc dù quan niệm về chính trị xã hội của Cantơ còn hạn chế ở chỗ chưa nhận
thấy nền tảng kinh tế làm nảy sinh các mặt khác nhau của xã hội, nhưng nó đã bao
hàm nhiều giá trị tư tưởng quý báu. Nó đặt nền móng cho quan điểm duy vật lịch sử
sau này.
Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại
Trang 51
Hegen
Hêgen là một trong những nhà triết học tiền bối, có nhiều đóng góp trong việc
phát triển lý luận về nhà nước pháp quyền tư sản. Ông đã dùng phép biện chứng, luận
chứng cho sự tất yếu ra đời của hình thái Nhà nước pháp quyền tư sản.
Nhà nước pháp quyền tư sản, theo Hêgen, là kiểu hình thái Nhà nước có tính
lịch sử toàn thế giới thay thế hình thái Nhà nước kiểu La Mã. Nhà nước này được hình
thành dựa trên 2 nền tảng là gia đình và xã hội công dân. Những giai đoạn quan trọng
trong quá trình hình thành Nhà nước pháp quyền là:
- Hình thành xã hội công dân: Trong thời kỳ này, cái cá nhân đặc thù của tất cả
mọi người (sở hữu tư nhân? cá thể, lợi ích cá nhân…) được thừa nhận, xã hội giàu có
rất nhanh, nhưng mối quan hệ giữa người với người thì lại cực kỳ căng thẳng, như chó
sói với chó sói” (do chủ nghĩa cá nhân phát triển), đạo đức của xã hội dường như bị
phá vỡ. Tuy nhiên, xã hội công dân sẽ dần dần đi vào trật tự, đi vào quỹ đạo phát triển
hợp lý nhờ sự hình thành và củng cố các thiết chế của nó là cảnh sát, toà án, các hiệp
hội và sự hình thành của thiết chế nhà nước chính trị. Một số triết gia coi giai đoạn
này tương ứng với giai đoạn phát triển ban đầu, “sơ khai”, “hoang dã” của Nhà nước
tư sản.
- Hình thành nhà nước chính tri: Nhà nước chính trị chỉ có thể được hình thành
trên cơ sở trong xã hội đã có thiết chế xã hội công dân. Đây là thiết chế quyền lực đối
nội (thiết chế quyền lực nhằm đối phó với bên ngoài là chính quyền quân sự). Sự phi
chính trị của lực lượng cảnh sát và quận đội trong các nước tư bản phát triển hiện nay,
có phần bắt nguồn từ các quan điểm triết học về xã hội công dân và Nhà nước chính
trị của Hêgen. Nhà nước chính trị ra đời nhằm khắc phục các hạn chế của thiết chế gia
đình và xã hội công dân.
Theo Hêgen, nhà nước chính trị thể hiện sự thống nhất quyền lực sống động
trên cơ sở phân hoá, khác biệt hợp lý của 3 loại quyền lực: 1) quyền của cái phổ quát
(đại diện cho ý chí của tất cả các tầng lớp xã hội), nói cách khác, đó là quyền lập pháp.
Thiết chế tương ứng với nó là nghị viện (Thượng nghị viện và Hạ nghị viện). 2)
Quyền của cái đặc thù (giải quyết các vấn đề đặc thù, liên quan đến từng tầng lớp,
trường hợp cụ thể trên cơ sở các luật lệ phổ quát do nghị viện ban hành). Đó là cơ
quan hành pháp. Thiết chế tương ứng là chính phủ. 3) Quyền của cái đơn nhất, nói
cách khác, đó là quyền của nguyên thủ quốc gia, người ký các quyết định của nhà
Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại
Trang 52
nước và có một số quyền phủ quyết đối với nghị viện (nhiều chuyên gia ngày nay coi
tư pháp là cơ quan quyền lực thứ 8, nhưng theo Hêgen và nhiều triết gia khác thì tư
pháp chỉ là thiết chế của xã hội công dân). Trong Nhà nước pháp quyền, quyền lực
của cái đơn nhất (nguyên thủ quốc gia) không phải là thứ quyền lực tuỳ tiện như trong
các kiểu Nhà nước khác, mọi văn bản để nguyên thủ quốc gia ký đều do các cơ quan
chức năng chuẩn bị kỹ lưỡng, cho nên, về thực chất, chữ ký của nguyên thủ quốc gia
chỉ có ý nghĩa, theo cách nói của Hêgen, là “đánh dấu chấm trên đầu chữ i”.
Theo Hêgen, mỗi dân tộc có quyền có hình thái Nhà nước đặc thù phù hợp với
trình độ phát triển của mình, nhưng thời đại có quyền cao hơn. Thời đại sẽ không
thèm “đếm xỉa” đến quyền đặc thù của các quốc gia nếu các quyền này đi ngược lại xu
thế phát triển của nó. Dân tộc nào không nắm bắt được tinh thần thời đại và vươn lên
hoà nhập với thời đại thì bất hạnh là điều không tránh khỏi.
Quan niệm nhà nước pháp quyền của Hêgen hoàn toàn khác với quan niệm
Nhà nước pháp trị. Nhà nước pháp quyền trước hết phải là một Nhà nước hợp lý, chỉ
có thể được hình thành trong xã hội hiện đại (khi đã có xã hội công dân). Luật pháp
của Nhà nước pháp quyền nghiễm nhiên được đề cao, không cẩn bất cứ một áp lực
nào, vì nó là sản phẩm của một Nhà nước hợp lý. Sự đề cao pháp luật chỉ là hệ quả
chứ không phải là tiền đề của Nhà nước pháp quyền. Không phải cứ đề cao pháp luật
là có được Nhà nước pháp quyền. Theo Hêgen, Nhà nước hợp lý là Nhà nước mà
trong đó, sự thống nhất giữa ý chí của cá nhân với quy luật phát triển tất yếu của xã
hội được đảm bảo. Muốn thế, Nhà nước này phải là một Nhà nước chính trị, sự thống
nhất của quyền lực là sự thống nhất hữu cơ – thống nhất trên cơ sở phân hoá, đối lập
hợp lý của 3 thiết chế quyền lực: 1) Nghị viện: cơ quan lập pháp, đại diện cho ý chí
của toàn dân, 2) Chính phủ: cơ quan hành pháp, giải quyết công việc hàng ngày của
đất nước trên cơ sở các quy định pháp luật, 3) Nguyên thủ quốc gia: người đứng đầu
đất nước, có quyền quyết định cuối cùng đối với các công việc của đất nước. Nhà
nước này chỉ có thể được hình thành khi xã hội công dân đã ra đời. Hai nền tảng cơ
bản của Nhà nước pháp quyền là gia đình và xã hội công dân.
Gia đình là thực thể luân lý trực tiếp, có nền tảng là sự đồng nhất cảm tính, đó
là tình yêu. Nhưng do nền tảng của gia đình là cái cảm tính nên các quy định của gia
đình dễ mang tính chủ quan và phiến diện.
Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại
Trang 53
Xã hội công dân là thiết chế bảo vệ quyền của cái cá nhân đặc thù, sự khác biệt.
đối lập. Không có xã hội công dân thì không có nhân quyền. Nền tảng của xã hội công
dân là cái trí tính (logic hình thức, tư duy siêu hình). Trí tính và gắn liền với nó là
nhân quyền trừu tượng (tách rời với quốc quyền) cũng phiến điện, có thể đẩy mối
quan hệ giữa người với người đến chỗ thù địch, đối xử với nhau như “chó sói với chó
sói”, Xã hội công dân cũng là nơi ý thức đạo đức được khẳng định và phát triển.
Hêgen cho rằng, nhân quyền thể hiện quyền tự do của con người đối với tồn tại
bên ngoài, trước hết là các sản phẩm lao động do chính mình làm ra (quyền sở hữu, ký
kết hợp đồng kinh tế, quyền thành lập và tham gia các hiệp hội…). Đạo đức thể hiện
quyền tự do của con người đối với chính bản thân mình: con người lấy mình làm đối
tượng, tự bắt mình tuân theocác khuôn mẫu hành vi, ứng xử mà mình cho là tất, thiện.
Chính vì thế, hành vi đạo đức mới là hành vi tự nguyện. Quyền của đạo đức cao hơn
nhân quyền. Tuy nhiên, cả nhân quyền và đạo đức cũng chỉ là những quyền tự do có
tính hình thức, phiến diện, không thực chất nếu không phù hợp với quốc quyền, với
luật pháp của Nhà nước pháp quyền.
Nhà nước pháp quyền là sự thống nhất biện chứng “chân lý” của gia đình và xã
hội công dân. Nền tảng của nhà nước là cái lý tính (tư duy biện chứng). Cái lý (thể
hiện qua các quy định pháp luật) của Nhà nước pháp quyền giống như các mạch máu
xuyên suốt các thiết chế xã hội công dân và gia đình, thâm nhập vào các quy định cảm
tính của gia đình và trí tỉnh của xã hội công dân, khắc phục tính chủ quan, phiến diện,
sự hạn chế của chúng. Trong Nhà nước pháp quyền, tình yêu (gia đình), nhân quyền,
đạo đức (xã hội công dân) và cái lý tính (Nhà nước chính trị) thống nhất với nhau.
Theo Hêgen, Nhà nước sẽ tồn tại vĩnh cửu. Quyền của Nhà nước chỉ thấp hơn quyền
của thời đại.
Phoiơbắc
Trong quan niệm về tự nhiên, Phoiơbắc là nhà duy vật; còn trong quan niệm về
xã hội ông lại thể hiện quan điểm duy tâm. Ông khẳng định những thời kỳ lịch sử loài
người sở dĩ khác nhau chỉ do những thay đổi các hình thức tôn giáo; thay thế tôn giáo
cũ bằng tôn giáo mới sẽ làm cho xã hội tiến lên. Ở đây, Phoiơbắc chưa thấy được vai
trò của thực tiễn xã hội quyết định sự vận động phát triển của xã hội loài người.
Khi bàn đến tôn giáo, Phoiơbắc cho rằng, tôn giáo là sản phẩm tất yếu của tâm
lý cá nhân và của sự tưởng tượng của con người. Tôn giáo thể hiện sự mềm yếu, bất
Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại
Trang 54
lực của con người trước sức mạnh tự nhiên và điều kiện của xã hội. Chính con người
đã bày đặt ra thần thánh bằng cách trìu tượng hóa bản chất con người. Do vậy, cần
thay thế tôn giáo cũ bằng thứ tôn giáo mới không cần có thần thánh, chúa trời mà lấy
tình yêu giữa người với người làm nền tảng.
Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại
Trang 55
CHƯƠNG III. SO SÁNH TƯ TƯỞNG CON NGƯỜI, XÃ HỘI TRONG TRIẾT
HỌC PHƯƠNG TÂY TỪ CỔ ĐẠI ĐẾN CẬN ĐẠI VÀ TRIẾT HỌC PHƯƠNG
ĐÔNG
III.1. Quan điểm về con người trong triết học Phương Đông.
Một trong những vấn đề trọng tâm của triết học phương Đông là vấn đề con
người. Khi bàn về con người, triết học phương Đông thường đi sâu vào các vấn đề về
nguồn gốc, bản chất con người,… để tìm ra con đường, phương pháp giải phóng con
người, mưu cầu một cuộc sống hạnh phúc cho con người.
III.1.1 Quan điểm về con người trong triết học Ấn Độ:
Triết học Ấn Độ rất phong phú, huyền bí với Kinh Vêđa, Kinhpanishad, đạo
Jaina, đạo Phật và các trào lưu triết học mang tính hệ thống, chặc chẽ như: triết học
Lôkayatta, Vaisêsika, Nyaya, Yôga, Vêđanta… đã có nhưng tư tưởng triết học rất
khác nhau về con người. Điểm nổi bật của quan điểm về con người trong triết học Ấn
Độ là luôn hướng về đời sống tâm linh, cố gắng tìm hiểu bản chất con người và chỉ ra
con đường giải phóng cho con người. Về vấn đề con người và giải phóng con người
đã được các nhà triết học Ấn Độ bàn luận một cách khá rộng rãi ngay từ thời cổ đại.
Điển hình như sau:
Kinh Upanishad: Con người bao gồm thể xác và linh hồn (átman).
- Linh hồn sống của con người là sự biểu hiện / bộ phận của “tinh thần tối
cao” (Brahman).
- Thể xác của con người là cái “vỏ bọc” của linh hồn, là nơi trú ngụ tạm thời
của linh hồn bất tử.
Phật giáo: Con người là sự kết hợp giữa danh & sắc, do vô minh mang lại
- Cuộc sống trần thế của con người chỉ là sống gửi, đầy khổ ải; on người phải
hướng tới cuộc sống vĩnh cửu của mình - niết bàn.
- Con người phải diệt trừ dục vọng, khắc phục vô minh, từ bỏ tham, sân, si; bằng
cách tự giác thực hành “bát chánh đạo”, “tam học”, “lục độ”, phải hiểu biết “tứ
diệu đế”, v.v.
Phái Lôkayata đã có quan điểm duy vật khi cho rằng rằng, bốn yếu tố (đất, nước,
lửa, gió) là bản nguyên vật chất từ đó sinh ra thế giới vạn vật và con người.
III.1.2 Quan điểm về con người trong triết học Trung Quốc:
Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại
Trang 56
Quan điểm về con người trong triết học Trung Quốc rất đa dạng và phức tạp, thậm chí
xung đột, mâu thuẫn nhau hết sức gay gắt. Nhưng nhìn chung, các trường phái triết
học điều lấy con người làm trung tâm và mục tiêu nhận thức, đồng thời đề cao tính
nhân văn, khẳng định giá trị của con người đối với chính bản thân mình và đối với thế
giới bên ngoài.
Nho giáo: Con người bị quyết định bởi thiên mệnh
- “Thiên mệnh chi vị tính, suất tính chi vị đạo, tu đạo chi vị giáo” (Khổng
Tử);
- Quan điểm của Mạnh Tử : Nhân chi sơ, tính bản thiện
Mạnh Tử cho rằng bản chất con người vốn là thiện, tính thiện đó là do thiên
phú chứ không phải là do con người lựa chọn. Nếu con người biết giữ gìn thì làm cho
tính thiện ngày càng mạnh thêm; nếu không biết giữ gìn sẽ làm cho nó ngày càng mai
mọt đi thì con người trở nên nhỏ nhen, ti tiện không khác gì loài cầm thú.
Từ đó, Mạnh Tử kết luận: bản chất con người là thiện nhưng con người hiện
thực có thể là ác, đó là do xã hội rối loạn, luân thường đạo lý bị đảo lộn. Cho nên, để
thiết lập quốc gia thái bình thịnh trị thì phải trả lại cho con người tính thiện bằng
đường lối chính trị lấy nhân nghĩa làm gốc.
Tuân Tử: Nhân chi sơ, tính bản ác: Bản tính con người khi sinh ra đã ác. Tuy
nhiên, Tuân tử vẫn tin vào khả năng cải tạo con người. Ông nói: “Nhân chi tính ác, kỳ
thiện giả ngụy dã” (Bản tính của người là ác, những điều thiện là do con người đặt ra),
có nghĩa là tuy con người có bản chất xấu, nhưng bản chất đó có thể cải tạo được nhờ
cái thiện do con người tạo ra – cái thiện ấy là sản phẩm của giáo dục, lễ nghĩa, hình
pháp, mà Tuân tử đặc biệt coi trọng.
Đổng Trọng Thư, một người kế thừa Nho giáo theo khuynh hướng duy tâm cực
đoan quan niệm rằng trời và con người có thể thông hiểu lẫn nhau (thiên nhân cảm
ứng). Nhìn chung, đây là quan điểm duy tâm, quy cuộc đời con người vào vai trò
quyết định của “thiên mệnh”.
Mặc gia: chống lại Thiên mệnh, đưa ra Thiên ý
- Không có số mệnh; chỉ có Thiên ý [ý của Trời (và của Quỷ thần) muốn mọi
người yêu nhau không phân biệt sang hèn, là khuôn phép của hành vi con người].
- Nếu thuận theo ý Trời, con người sẽ được giàu sang, trường thọ, & ngược lại.
Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại
Trang 57
- Nếu nỗ lực làm việc, tiết kiệm, con người sẽ no đủ, & ngược lại.
- Con người phải thực hành Kiêm ái, Thượng đồng, Thượng hiền,…
Đạo gia: Con người sinh ra từ Đạo (tự nhiên), do đó con người phải sống vô vi
(hợp với tự nhiên), không nên tranh đoạt biết xa lánh đời để trở về với tự nhiên
(Lão Tử)
Pháp gia: Con người ta sinh ra vốn đã có sẵn lòng tham dục, tư lợi; mọi quan hệ
xã hội đều được xây dựng trên cơ sở tính tốn lợi ích cá nhân. Vì thế, kẻ thống trị
phải căn cứ vào tâm lý tránh hại, cầu lợi, vị kỷ của con người mà định ra pháp luật
(để thưởng phạt) nhằm duy trì trật tự xã hội.
Âm dương gia: Con người được tạo thành âm dương / ngũ hành,…
Tóm lại, triết học Trung Quốc khi bàn về con người đã đưa ra nhiều quan điểm hết
sức phong phú và sâu sắc, nhiều khi mâu thuẫn hết sức gay gắt, điều đó phản ánh cuộc
đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật vô thần với quan điểm duy tâm,tôn giáo. Nhưng cách
trình bày nhiều khi chồng chéo nhau, xâm nhập nhau, lọc bỏ, tiếp thu lẫn nhau. Do
vậy, khó phân biệt thành trường phái, xu hướng khác nhau. Một trong những tư tưởng
độc đáo về con người triết học Trung Quốc là tư tưởng “thiên thời hợp nhất”, đề cao
con người nhưng không tuyệt đối hóa con người, chủ trương giữ gìn sự cân bằng, ổn
định mối quan hệ tự nhiên-xã hội; quan hệ giữ con người với con người. Khi bàn về
con người, các nhà triết học Trung Quốc chỉ quan tâm đến các vấn đề như: “tính
người”, “tâm người”v.v…Nghĩa là chỉ bản đến các phẩm chất tinh thần, ý thức, tâm
lý, tư tưởng của con người. Chính vì vậy mà các tư tưởng triết học về xã hội-nhân văn
đặc biệt phát triển, còn tư tưởng triết học về tự nhiên lại đơn giản, nghèo nàn.
III.1.3 Nhận xét
Như vậy, có thể thấy Triết học Phương Tây từ cổ đại đến cổ đại và Triết học
Phương Đông có điểm chung là lấy con người làm đối tượng nghiên cứu và tư tưởng
về con người cũng có nhiều nét tương đồng. Cả hai nền triết học giai đoạn này có
những điểm giao thoa, đặc biệt là quan điểm về con người, về linh hồn và thể xác, về
đạo đức con người….
Tuy nhiên có thể nhận thấy sự khác biệt rõ ràng giữa hai nền triết học này như
sau:
Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại
Trang 58
- Triết học Phương Đông nhấn mạnh sự thống nhất trong mối quan hệ giữa con
người và vũ trụ trên cơ sở nguyên tắc “thiên nhân hợp nhất”, sự hòa hợp giữa con
người và vũ trụ, như Mạnh Tử đã từng nói “vạn vật đều có trong ta”. Trong khi đó,
triết học phương Tây lại tách con người ra khỏi vũ trụ, coi con người là chủ thể, là
chúa tể để nghiên cứu chinh phục vũ trụ.
- Do thế giới quan triết học khác nhau nên hướng tiếp cận cũng có tính chất
khác nhau. Hướng tiếp cận nghiên cứu trong Triết học Phương Đông mang tính hướng
nội, hay nói cách khác, nghiên cứu thế giới cũng là để làm rõ con người và vấn đề bản
thể luận khá mờ nhạt. Ngược lại, hướng tiếp cận nghiên cứu trong Triết học Phương
Tây mang tính hướng ngoại, hay nghiên cứu con người để giải thích thế giới khách
quan và bản thể luận luận về vũ trụ in dấu đậm nét.
- Triết học Phương Tây quan tâm mổ xẻ mặt sinh học, tâm lý con người, đề cao
cái tự nhiên – mặt sinh vật trong con người, ít chú ý tới mặt xã hội của con người,
chú ý giải phóng con người về mặt nhận thức, có lúc đề cao con người nhân vị, con
người cá nhân đến cực đoan trong khi triết học Phương Đông lại tập trung, quan tâm
tới mối quan hệ người với người và đời sống tâm linh, tình cảm của con người, ít quan
tâm tới mặt sinh vật của con người. Triết học phương Đông chủ yếu nghiên cứu mặt
đạo đức con người thiện hay ác trên lập trường của giai cấp thống trị nên nghiên cứu
con người là để cai trị con người, chứ không phải để giải phóng con người.
III.2. Quan điểm về xã hội trong triết học Phương Đông
III.2.1 Quan điểm về xã hội trong Triết học Ấn Độ cổ - trung đại.
Triết học Ấn Độ cổ - trung đại đã đặt ra và cố giải quyết nhiều vấn đề, song
những vấn đề được ưu tiên giải quyết là nhóm các vấn đề thuộc về nhân sinh, nhằm
tìm kiếm con đường giải thoát chúng sinh ra khỏi thực tế xã hội luôn xung độ đẳng
cấp và chủng tộc khắc nghiệt.
+ Tư tưởng Upanisad: tính bất biến của chế độ đẳng cấp.
+ Phật giáo phản đối chế độ đẳng cấp, tố cáo bất công, đòi công bằng bình đẳng xã
hội. Dù Phật giáo mang tính duy tâm chủ quan, thần bí, không tưởng nhưng chứa tính
nhân bản, nhân đạo sâu sắc.
III.2.2 Quan điểm về xã hội trong Triết học Trung Hoa cổ - trung đại.
Triết học Trung Hoa cổ - trung đại tập trung giải quyết những vấn đề do thực
tiễn đạo đức - chính trị - xã hội của thời đại đặt ra.
Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại
Trang 59
Nho gia:
Khổng Tử chú trọng Tam đức “Người quân tử có trí nên không nhầm lẫn, có
nhân nên không buồn phiền, có dũng nên không có gì phải kinh sợ”
Mạnh Tử coi trọng Tứ đức
Đổng Trọng Thư đề cao Ngũ thường “trời có ngũ hành, xã hội có ngũ luân,
người có ngũ thường”.
Nhận xét: Nho gia đưa ra mẫu người quân tử (cai trị XH bằng phẩm chất đạo
đức) nhằm xây dựng xã hội đại đồng (tam cương).
Để trở thành người quân tử phải lấy tu thân làm gốc; tu thân rồi tề gia, trị quốc,
bình thiên hạ;
Muốn tu thân phải đạt đạo, đạt đức, biết thi, thư, lễ, nhạc;
Muốn hành động hiệu quả phải thực hành đường lối nhân trị & chính danh.
+ Hán Nho: Đến đời Hán, Đại Học & Trung Dung được gộp vo Lễ Ký. Hán Vũ
Đế nghe theo Đổng Trọng Thư đưa Nho giáo lên hàng Quốc giáo (hệ tư tưởng -đề cao
quyền lực của giai cấp thống trị, coi Thiên tử là con trời, dùng lễ trị để che đậy pháp
trị).
+ Tống Nho: Đến đời Tống, Đại Học, Trung Dung được tách ra khỏi Lễ Ký và
cùng với Luận ngữ và Mạnh Tử tạo nên bộ Tứ Thư. Tứ Thư & Ngũ Kinh là kinh điển
Nho gio. Chu Hy, Trình Hạo, Trình Di đã bổ sung các yếu tố tâm linh và siêu hình để
đo tạo quan lại và cai trị nhân dân.
Nhận xét: Triết học Nho gia quan điểm về xã hội thông qua quan điểm về
người quân tử. Một xã hội lý tưởng là một xã hội được người quân tử cai trị. Tuy
nhiên, người quân tử và xã hội đại đồng mãi mãi chỉ là một lý tưởng.
Đạo gia:
+ XH càng xa đạo càng có nhiều mâu thuẫn (tai họa). Thủ tiêu mâu thuẫn trong
XH bằng cách: Đẩy mạnh 1 trong 2 mặt đối lập để tạo ra sự chuyển hóa (phản phục)
hay cắt bỏ 1 trong 2 mặt đối lập để làm cho mặt kia tự mất đi (quân bình).
+ Hành động hay nhất là không can thiệp đến việc đời, nhưng nếu phải làm thì
hãy làm cái không làm một cách kín đáo (vô vi).
+ Thánh nhân trị vì thiên hạ bằng vô vi Xóa mọi ràng buộc về đạo đức, pháp
luật; Trả lại cho con người cái bản tính tự nhiên của nó.
Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại
Trang 60
+ XH lý tưởng là XH nguyên thủy chất phác, tự nhiên (vô vi): con người tách
khỏi XH, hòa tan vào đạo (nước nhỏ dân ít biệt lập; không dùng thuyền, xe, gươm
giáo…; bỏ văn tự, tư lợi, không học hành...).
Mặc gia:
Chủ thượng đồng (thống nhất tư tưởng, hành động mọi người trong XH, đồng
thuận trên dưới), thượng hiền (tiến cử & sử dụng người tài trong việc công; phế bỏ
quan bất tài…), tiết dụng, tiết táng, phi nhạc, phi công…Về chính trị, Mặc gia đại biểu
cho tầng lớp tiểu tư hữu đang bị phá sản trong thời Chiến quốc chủ trương thỏa hiệp.
Pháp gia
+ Đời sống XH luôn biến đổi Không có khuôn mẫu chung cho mọi XH, không
có pháp luật luôn đúng Pháp luật biến chuyển theo thời đại thì thiên hạ trị, còn thời
thế thay đổi mà phép trị dân không đổi thì thiên hạ loạn.
+ Bản tính con người là ác Trong XH người tốt ít, kẻ xấu nhiều Muốn XH trị
không nên chờ số ít làm việc thiện (nhân nghĩa trị), mà phải ngăn số đông làm điều ác
(pháp trị).
+ Phải nắm lấy cái lý của vạn vật luôn biến hóa mà hành động cho phù hợp, phải
căn cứ vào nhu cầu của lịch sử, đặc điểm của thời thế mà lập ra chế độ, chính sách trị
nước thích hợp.
Có thể nói, thuyết pháp trị của Hàn Phi nói riêng, của Pháp gia nói chung chủ
trương lấy pháp luật làm căn bản trong cai trị đất nước, chủ trương nhà cầm quyền
không phải chú trọng nhiều đến việc tu thân theo nghĩa là đặt ra luật pháp cho rõ ràng
và ban bố cho mọi người cùng biết để tuân theo nghiêm chỉnh. Vì vậy, về nguyên tắc,
chủ trương pháp trị đối lập với chủ trương nhân trị. Nhưng xét cho cùng, pháp trị cũng
chỉ là một hình thức cụ thể của nhân trị mà thôi. Bởi vì muốn thi hành được các chủ
trương phái pháp gia nêu ra, xã hội cũng cần một đấng minh quân, một nhà vua sáng
suốt, am hiểu nguyên tắc pháp trị và chịu khép mình theo nguyên tắc đó. Trong thời
đại bấy giờ, chủ trương của phái Pháp gia dùng pháp luật để trị nước là đúng đắn.
III.2.3 Nhận xét:
So sánh với tư tưởng về xã hội trong Triết học phương Tây từ cổ đại tới cận đại
nói trên thì có thể nhận thấy rằng, quan điểm về xã hội trong hai nền Triết học đều có
điểm chung là tư tưởng xã hội được nghiên cứu trên lập trường, tư tưởng của giai cấp
thống trị, cùng đạt tới một mục tiêu chung về xây dựng một xã hội lý tưởng, một nhà
Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại
Trang 61
nước/triều đại cai trị đảm bảo được hạnh phúc của con người. Tuy nhiên, có thể thấy,
tư tưởng về xã hội trong Triết học phương Tây từ cổ đại đến cận đại được phản ánh đa
dạng hơn trong các giai đoạn phát triển của lịch sử, từ chế độ chiếm hữu nô lệ, sang
chế độ phong kiến và qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Do vậy, tư tưởng về xã hội đã có
những phát triển nhất định để phản ánh yêu cầu thực tiễn hình thành trong các chế độ
xã hội khác nhau này. Các tư tưởng trong Triết học phương Đông nói chung và tư
tưởng về xã hội nói riêng không mang tính đột phá mà chủ yếu là được kế thừa và
phát triển qua các giai đoạn khác nhau. Vì vậy, sự xung đột trong tư tưởng dù có ít
nhiều nhưng không gay gắt như trong Triết học phương Tây. Ngoài ra, do chế độ
phong kiến kéo dài nên những tư tưởng về xã hội trong Triết học phương Đông, đặc
biệt là Triết học Trung Hoa cổ đại chủ yếu phục vụ giai cấp thống trị và liên quan mật
thiết tới việc xây dựng một xã hội lý trưởng quân minh – tôi trung do người quân tử
cai trị.
Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại
Trang 62
CHƯƠNG IV: SO SÁNH TƯ TƯỞNG CON NGƯỜI, XÃ HỘI TRONG TRIẾT
HỌC PHƯƠNG TÂY TỪ CỔ ĐẠI TỚI CẬN ĐẠI VÀ TRIẾT HỌC MARX
IV.1 Tư tưởng của triết học Marx- Lenin về con người xã hội:
Triết học Mác đã kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử triết học, đồng thời
khẳng định con người hiện thực là sự thống nhất giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội.
Tiền đề vật chất đầu tiên quy sự tồn tại của con người là giới tự nhiên. Cũng do
đó, bản tính tự nhiên của con người bao hàm trong nó tất cả bản tính sinh học, tính loài
của nó. Yếu tố sinh học trong con người là điều kiện đầu tiên quy định sự tồn tại của con
người. Vì vậy, có thể nói: Giới tự nhiên là "thân thể vô cơ của con người"; con người là
một bộ phận của tự nhiên; là kết quả của quá trình phát triển và tiến hoá lâu dài của môi
trường tự nhiên.
Tuy nhiên, điều cần khẳng định rằng, mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy
nhất quy định bản chất con người. Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con
người với thế giới loài vật là phương diện xã hội của nó. Trong lịch sử đã có
những quan niệm khác nhau phân biệt con người với loài vật, như con người là động
vật sử dụng công cụ lao động, là "một động vật có tính xã hội", hoặc con người
động vật có tư duy... Những quan niệm trên đều phiến diện chỉ vì nhấn mạnh một
khía cạnh nào đó trong bản chất xã hội của con người mà chưa nêu lên được nguồn
gốc của bản chất xã hội ấy
Với phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác nhận thức vấn đề con
người một cách toàn diện, cụ thể, trong toàn bộ tính hiện thực xã hội của nó, mà
trước hết là lao động sản xuất ra của cải vật chất. "Có thể phân biệt con người với súc
vật, bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân
con người bắt đầu bằng sự tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản
xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình - đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể của
con người quy định. Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người
đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình".
Thông qua hoạt động sản xuất vật chất; con người đã làm thay đổi, cải biến
giới tự nhiên: "Con vật chỉ sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì tái sản
xuất ra toàn bộ giới tự nhiên"
Tính xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất; hoạt
động sản xuất vật chất biểu hiện một cách căn bản tính xã hội của con người.
Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại
Trang 63
Thông qua hoạt động lao động sản xuất, con người sản xuất ra của cải vật chất và
tinh thần, phục vụ đời sống của mình; hình thành và phát triển ngôn ngữ và tư duy;
xác lập quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết định hình thành bản chất
xã hội của con người, đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã
hội.
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển của
con người luôn luôn bị quyết định bởi ba hệ thống quy luật khác nhau, nhưng
thống nhất với nhau. Hệ thống các quy luật tự nhiên như quy luật về sự phù hợp cơ
thể với môi trường, quy luật về sự trao đổi chất, về di truyền, biến dị, tiến
hóa... quy định phương diện sinh học của con người. Hệ thống các quy luật tâm
lý ý thức hình thành và vận động trên nền tảng sinh học của con người như hình
thành tình cảm, khát vọng, niềm tin, ý chí. Hệ thống các quy luật xã hội quy định
quan hệ xã hội giữa người với người. Ba hệ thống quy luật trên cùng tác động, tạo
nên thể thống nhất hoàn chỉnh trong đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học
và mặt xã hội. Với phương pháp luận duy vật biện chứng, chúng ta thấy rằng quan
hệ giữa mặt sinh học và mặt xã hội, cũng như nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội
trong mỗi con người là thống nhất. Mặt sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên của
con người, còn mặt xã hội là đặc trưng bản chất để phân biệt con người với loài
vật. Nhu cầu sinh học phải được "nhân hóa" để mang giá trị văn minh con người,
và đến lượt nó, nhu cầu xã hội không thể thoát ly khỏi tiền đề của nhu cầu sinh
học. Hai mặt trên thống nhất với nhau, hoà quyện vào nhau để tạo thành con người
viết hoa, con người tự nhiên - xã hội.
Để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, K. Marx đã nêu lên luận đề nổi
tiếng trong tác phẩm Luận cương về Phoiơbắc: "Bản chất con người không phải là
một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản
chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội". Luận đề trên khẳng định
rằng, không có con người trừu tượng, thoát ly mọi điều kiện, hoàn cảnh lịch
sử xã hội. Con người luôn luôn cụ thể, xác định, sống trong một điều kiện lịch
sử cụ thể nhất định, một thời đại nhất định. Trong điều kiện lịch sử đó, bằng
hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần
để tồn tại và phát triển cả thể lực và tư duy trí tuệ. Chỉ trong toàn bộ các mối
quan hệ xã hội đó (như quan hệ giai cấp, dân tộc, thời đại; quan hệ chính trị, kinh
Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại
Trang 64
tế; quan hệ cá nhân, gia đình, xã hội...) con người mới bộc lộ toàn bộ bản chất xã
hội của mình. Điều cần lưu ý là luận đề trên khẳng định bản chất xã hội không có
nghĩa là phủ nhận mặt tự nhiên trong đời sống con người. Song, ở con người, mặt
tự nhiên tồn tại trong sự thống nhất với mặt xã hội; ngay cả việc thực hiện những
nhu cầu sinh vật ở con người cũng đã mang tính xã hội. Quan niệm bản chất con
người là tổng hoà những quan hệ xã hội mới giúp cho chúng ta nhận thức đúng đắn,
tránh khỏi cách hiểu thô thiển về mặt tự nhiên, cái sinh vật ở con người.
IV.2 Nhận xét:
Từ tư tưởng vê con người của triết học Marx và triết học trước Marx chúng
ta có thể thấy rõ điểm khác khác biết về tư tưởng con người đó là triết học trước
Marx đã không nhận thấy phương diện xã hội của con người mà nhờ đó con
người mới tiến hoá khác biệt với các loài động vật khác. Chính sự tác động của
phương diện xã hội mà xã hội loài người phát triển hình thành các hình thái nhà
nước theo thời gian. Điểm khác biệt thứ hai là triết học Marx đã sử dụng phương
pháp duy vật biện chứng khắc phục hạn chế của phương pháp duy tâm hay duy
vật ngây thơ chất phác của triết học thời kỳ cổ đại và trung đại và khắc phục hạn
chế phương pháp siêu hình của triết học thời kỳ phục hung cận đại hay phương
pháp duy vật biện chứng không triệt để của Hegel. Điểm khác biệt thứ ba là theo
Marx- Lênin không có con người trừu tượng, thoát ly mọi điều kiện, hoàn cảnh
lịch sử xã hội. Con người luôn luôn cụ thể, xác định, sống trong một điều kiện lịch
sử cụ thể nhất định, một thời đại nhất định.
Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại
Trang 65
KẾT LUẬN
Trong Triết học phương Tây từ cổ đại tới cận đại nói riêng và Triết học
phương Tây nói chung cũng như Triết học phương Đông, vấn đề con người, xã hội
luôn nằm trong số các vấn đề thu hút sự tham gia nghiên cứu của các triết gia tiêu
biểu qua các thời kỳ và giai đoạn. Tư tưởng của các triết gia về các vấn đề này
phản ánh thực tiễn điều kiện, hoàn cảnh kinh tế xã hội tại các giai đoạn này. Tuy
còn có những hạn chế nhất định do các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội nhất định
quy định tại thời điểm đó cũng như những hạn chế trong phương pháp tiếp cận
nhưng Triết học phương Tây từ cổ đại tới cận đại đã đánh dấu sự xuất hiện và phát
triển những tư tưởng mới, tiến bộ về con người, xã hội, đặt nền móng cho sự phát
triển nói chung của Triết học phương Tây. Những tư tưởng này sau này đã được
Marx, Ph. Ănghen và Lênin phân tích sâu sắc, chỉ ra những mặt hạn chế, kế thừa
những điểm mới, tiến bộ và phát triển một cách toàn diện các tư tưởng về con
người và xã hội.
Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại
Trang 66
Tài liệu tham khảo
1. Bùi Văn Hóa, Triết học Phương Tây, tài liệu giảng dạy, ĐHKHXHNV.
2. Đỗ Minh Hợp-Nguyễn Thanh-Nguyễn Anh Tuấn, Đại Cương Lịch Sử Triết Học
Phương Tây, NXB Tổng Hợp Tp HCM, 2003.
3. Hà Thúc Minh, Triết học cổ Hy Lạp La Mã, NXB. Mũi Cà Mau, 1997..
4. Nguyễn Hóa, Triết học cổ hy lạp giảng yếu, NXB. Thanh Niên, 2007.
5. Nguyễn Ngọc Thu - Bùi Văn Mưa, Đại Cương Lịch Sử Triết Học, NXB Tổng Hợp
TPHCM, 2003
6. Nguyễn Tiến Dũng, Lịch Sử Triết Học Phương Tây, NXB Tổng Hợp TP. HCM,
2006.
7. Trịnh Đình Thanh, Khái lược lịch sử triết học Phương Tây, Tài liệu giảng dạy, Đại
học Mở TPHCM, 2009.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại.pdf