Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ

PHẦN MỞ ĐẦU Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế Việt Nam ta đang ngày một tiến lên sánh vai cùng các cường quốc năm châu trên thế giới, đang dần khẳng định vị thế của mình với các nước bạn về một nền độc lập, tự do, dân chủ. Để đạt được thành quả này là cả một quá trình đấu tranh gian khổ với những hy sinh mất mát không thể bù đắp được của bao thế hệ cha ông chúng ta. Và cũng để có và giữ được nền độc lập dân chủ của nước nhà thì ngoài sự cống hiến, hy sinh của cả một dân tộc, trong đó có những người con “kiệt xuất” với phẩm chất anh dũng, kiên cường, không sợ khó, sợ khổ, sẵn sàng hy sinh cho tổ quốc. Người thanh niên tên Nguyễn Tất Thành đã một mình bôn ba khắp năm châu bốn bể để tìm ra con đường mang lại độ lập tự do cho tổ quốc mình. Nhắc tới người là nhắc tới một vị anh hùng dân tộc, một danh nhân văn hoá của nhân loại, một vị lãnh tụ tài ba và đặc biệt là người cha già kình yêu của dân tộc. Học tập ở người là học tập cả một kho tàng kiến thức quý giá mà không một sách vở nào có thể dạy nổi. Thật may mắn cho chúng ta vì được sinh ra, lớn lên và hưởng trọn những thành quả mà cả đời người đã cống hiến, Qua thời gian học tập, nghiên cứu, tìm tòi trên sách vở, báo chí, đặc biệt là sự chỉ dạy tận tình của Thầy cô giúp chúng ta tiếp cận với hệ thống tư tưởng của người, cho chúng ta hiểu được tầm quan trọng của hệ thống tư tưởng này trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước. Hơn nữa đã giúp chúng ta hiểu rõ hơn thế nào là độc lập, tự do, dân chủ. Chính vì tầm quan trọng này và mong muốn được tìm hiểu, học hỏi cũng như chia sẻ những hiểu biết nhỏ bé của mình mà nhóm chúng tôi quyết định chọn đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ”. Để hoàn thành bài viết của mình, chúng tôi đã sử dụng một số phương pháp duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin, phương pháp phân tích, so sánh, diễn dịch, quy nạp kết hợp với phương pháo tổng hợp để làm rõ vấn đề của bài viết. để hiểu rõ vấn đề “Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ” xin kính mời Thầy và các bạn cùng đi vào phần nội dung chi tiết.

doc38 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3638 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
các thành viên cử ra mà đứng đầu là một Già làng. Về sau chế độ tư hữu ruộng đất phát triển thu hẹp dần chế độ ruộng đất công của làng xã và sự phân hoá xã hội bên trong cũng càng ngày càng nâng cao. Quá trình đó diễn ra cùng với quá trình phong kiến hoá công xã nông thôn. Nhưng nói chung, tàn dư của công xã nông thôn ở những mức độ tồn tại khác nhau tùy từng lúc và từng nơi, vẫn được bảo lưu lâu dài trong xã hội Việt Nam cổ truyền. Tất nhiên ở đây có sự khác biệt giữa làng xã miền Bắc và miền Nam do nhiều hoàn cảnh và điều kiện lịch sử quy định. Trên cơ sở quan hệ cộng đồng công xã đó, hình thành và bảo tồn một loạt phong tục tập quán gọi chung là "lệ làng" ít nhiều phản ánh tính chất dân chủ công xã. Nó được biểu thị trong mối quan hệ tương đối bình đẳng giữa các thành viên trong việc chia ruộng đất công và trong các sinh hoạt cộng đồng, trong sự tôn trọng người già bất cứ thuộc đẳng cấp nào, trong việc thừa nhận vai trò to lớn của người mẹ và người phụ nữ trong đời sống gia đình và làng xã. Tư tưởng dân chủ công xã có mặt tích cực của nó trong đời sống xã hội lúc bấy giờ, nhưng cũng gắn liền với tính cục bộ, địa phương của công xã và những hẹp hòi của các hình thức dân chủ công xã. Công xã chỉ thừa nhận quyền bình đẳng và dân chủ giữa các thành viên khi họ là thành viên của công xã, là bộ phận tạo thành của cộng đồng, nhưng hoàn toàn không công nhận quyền của cá nhân, của con người với tư cách là một thực thể độc lập. Dân chủ công xã không dựa trên sự giải phóng con người và tôn trọng quyền của con người, mà trói chặt con người trong quan hệ cộng đồng và chỉ bảo đảm quyền lợi bình đẳng của con người với tư cách là thành viên của cộng đồng. Việt Nam trước cách mạng chưa hề trải qua một hình thức tồn tại của nền cộng hoà dân chủ, mà chỉ có một chính thể duy nhất là chế độ quân chủ. Cho đến trước thế kỷ XV, nhất là trong thời Lý, Trần, chế độ quân chủ tập quyền đã được xác lập vững vàng, nhưng chưa mang tính chất chuyên chế quan liêu nặng nề. Nhưng từ thế kỷ XV trở đi, chế độ quân chủ chuyển sang mô hình Nho giáo với tính chất chuyên chế quan liêu càng ngày càng nặng nề. Và cũng từ đó, mối quan hệ giữa vua quan và dân càng ngày càng tách rời và đối lập, những chủ trương và hình thức dân chủ của các vương triều trước không còn được kế tục nữa. Qua sự phân tích những cơ sở kinh tế, xã hội, chính trị đã từng làm nẩy sinh và bảo tồn, phát triển trong mức độ nào đó những tư tưởng và hình thức dân chủ trong xã hội Việt Nam cổ truyền, chúng ta có thể rút ra mấy nhận xét: + Không thể phủ nhận được sự tồn tại của một số tư tưởng và hình thức dân chủ nào đó trong đời sống xã hội và trong truyền thống Việt Nam. + Những tư tưởng và hình thức dân chủ đó thực chất là dân chủ nông dân nẩy sinh trong cuộc đấu tranh xã hội của những người sản xuất nhỏ mà đỉnh phát triển cao nhất là chủ nghĩa bình quân, là dân chủ công xã dựa trên sự bảo tồn quan hệ cộng đồng công xã và một số biện pháp thân dân của các vương triều tiến bộ trong điều kiện phân hoá giai cấp chưa gay gắt và trước yêu cầu bức thiết của nhiệm vụ giữ nước. + Có thể coi đó là những yếu tố dân chủ và xã hội chủ nghĩa như cách nói của V. I. Lênin, và cần trân trọng nó khi nghiên cứu và đánh giá di sản văn hoá truyền thống. Nhưng từ đó khuếch đại lên thành một truyền thống dân chủ mạnh mẽ của nhân dân ta thì không phản ánh đúng sự thật lịch sử và dễ đánh lừa, ru ngủ chúng ta một cách nguy hiểm trước thực tế chúng ta đang ra sức khắc phục tình trạng mất dân chủ hiện nay và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. + Những yếu tố dân chủ trong truyền thống Việt Nam còn quá thấp và quá yếu so với yêu cầu xây dựng nền dân chủ hiện nay. Hơn nữa trong truyền thống Việt Nam, dân chủ nông dân với tư tưởng bình quân chủ nghĩa và dân chủ công xã lấy quan hệ cộng đồng để trói buộc con người còn có mặt di hại cho nền dân chủ hiện nay và là cội nguồn tư tưởng của một số mặt tiêu cực trong xã hội đang diễn ra hàng ngày. Công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước hôm nay phải xuất phát từ di sản lịch sử và văn hoá của quá khứ để lại, trong đó có những mặt mạnh và ưu việt cần được kế thừa và phát huy, những mặt yếu và lỗi thời cần được khắc phục để vươn lên tiếp nhận những xu thế và thành tựu của thời đại. Nền dân chủ chúng ta đang xây dựng hiện nay có kế thừa một số yếu tố dân chủ của di sản truyền thống, nhưng cũng phải khắc phục nhiều hạn chế và di hại của quá khứ. Quá trình dân chủ hoá là một quá trình mới mẻ trong lịch sử Việt Nam do đó đòi hỏi chúng ta phải có những bước đi thích hợp và khẩn trương nhằm xây dựng một nền dân chủ Việt Nam vừa phù hợp với văn hoá và truyền thống Việt Nam, vừa bắt kịp sự tiến hoá của thời đại III. DÂN CHỦ TRONG CÁC LĨNH VỰC CỦA ĐỜI SỐNG XÃ HỘI Dân chủ thể hiện ở việc đảm bảo quyền con người, quyền công dân. Dân chủ trong xã hội Việt Nam được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội… Trong đó dân chủ thể hiện trên lĩnh vực chính trị lá quan trọng nhất, nổi bật nhất và được biểu hiện tập trung trong hoạt động của nhà nước, bởi vì quyền lực của nhân dân được thể hiện trong hoât động của nhà nước với tư cách nhân dân có quyềnlực tối cao. Hồ Chí Minh khẳng định cả trên quan điểm lẫn trên thực tế việc khi có nhà nước mới – nhà Nước Việt nam Dân Chủ Cộng Hoà – nhân dân cử ra, tổ chức nên bộ máy nhà nước cũng như toàn bộ hệ thống chính trị. Quan niệm dân chủ, theo Hồ Chí minh còn biểu hiện ở phương thức xã hội. Khẳng định một chế độ dân chủ ở nước ta là “ bao nhiêu lợi ích cũng vì dân”, “ quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”, đồng thời Người cũng chỉ ra phương thức tổ chức, hoạt động của xã hội nước ta muốn khẳng định là một nước dân chủ thì phải có cấu tạo quyền lực xã hội mà ở đó người dân, cả trực tiếp, cả gián tiếp qua dân chủ đại diện, một hệ thống chính trị do “dân cử ra” và “do dân tổ chức nên”. Để hiểu rõ về vấn đề dân chủ trong các lĩnh vực trên chúng ta cùng tìm hiểu nội dung chi tiết. 1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền làm chủ của nhân dân Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ nói chung và về quyền làm chủ của nhân dân nói riêng là kết quả của sự nhận thức sâu sắc về vai trò của nhân dân trong lịch sử, là kết quả của sự kết hợp giữa tư tưởng thân dân truyền thống ở phương Đông và quan điểm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng trong học thuyết Mác- Lênin. Kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, giữa lý luận và thực tiễn – Hồ Chí Minh đã nâng tư tưởng dân chủ lên một tầm cao mới vừa mang tính khoa học, vừa mang tính nhân văn sâu sắc. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân dân là người giữ vai trò quyết định trên tất cả các lĩnh vực: từ kinh tế, chính trị đến văn hóa, xã hội, từ những chuyện nhỏ có liên quan đến lợi ích của mỗi cá nhân đến những chuyện lớn như lựa chọn thể chế, lựa chọn người đứng đầu Nhà nước. Người dân có quyền làm chủ bản thân, nghĩa là có quyền được bảo vệ về thân thể, được tự do đi lại, tự do hành nghề, tự do ngôn luận, tự do học tập… trong khuôn khổ luật pháp cho phép. Người dân có quyền làm chủ tập thể, làm chủ địa phương, làm chủ cơ quan nơi mình sống và làm việc. Người dân có quyền làm chủ các đoàn thể, các tổ chức chính trị xã hội thông qua bầu cử và bãi miễn. Đúng như Hồ Chí Minh nói: "Mọi quyền hạn đều của dân". Cán bộ từ Trung ương đến cán bộ ở các cấp các ngành đều là "đầy tớ" của dân, do dân cử ra và do dân bãi miễn. Vì sao dân có quyền hạn to lớn như vậy? Người giải thích: dân là gốc của nước. Dân là người đã không tiếc máu xương để xây dựng và bảo vệ đất nước. Nước không có dân thì không thành nước. Nước do dân xây dựng nên, do dân đem xương máu ra bảo vệ, do vậy dân là chủ của nước. Nhân dân đã cung cấp cho Đảng những người con ưu tú nhất. Lực lượng của Đảng có lớn mạnh được hay không là do dân. Nhân dân là người xây dựng, đồng thời cũng là người bảo vệ Đảng, bảo vệ cán bộ của Đảng. Dân như nước, cán bộ như cá. Cá không thể sinh tồn và phát triển được nếu như không có nước. Nhân dân là lực lượng biến chủ trương, đường lối của Đảng thành hiện thực. Do vậy, nếu không có dân, sự tồn tại của Đảng cũng chẳng có ý nghĩa gì. Đối với Chính phủ và các tổ chức quần chúng cũng vậy. Tóm lại, nhân dân là lực lượng dựng xây đất nước, là lực lượng hợp thành, nuôi dưỡng, bảo vệ các tổ chức chính trị, do vậy nhân dân có quyền làm chủ đất nước, làm chủ chế độ, làm chủ tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Làm thế nào để dân thực hiện được quyền làm chủ của mình? Đây là vấn đề được Hồ Chí Minh hết sức quan tâm. Theo Hồ Chí Minh, từ xưa đến nay, nhân dân bao giờ cũng là lực lượng chính trong tất cả các xã hội, trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhưng trước Cách mạng Tháng Mười Nga, trước học thuyết Mác- Lênin, chưa có cuộc cách mạng nào giải phóng triệt để cho nhân dân, chưa có học thuyết nào đánh giá đúng đắn về nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, người dân chỉ thực sự trở thành người làm chủ khi họ được giáo dục, khi họ nhận thức được rõ ràng đâu là quyền lợi họ được hưởng, đâu là nghĩa vụ họ phải thực hiện. Để thực hiện được điều này, một mặt, bản thân người dân phải có ý chí vươn lên, mặt khác, các tổ chức đoàn thể phải giúp đỡ họ, động viên khuyến khích họ. "Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu" và nếu nhân dân không được giáo dục để thoát khỏi nạn dốt thì mãi mãi họ không thể thực hiện được vai trò làm chủ. Người dân chỉ có thể thực hiện được quyền làm chủ khi có một cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của họ. Đảng phải lãnh đạo xây dựng được một Nhà nước của dân, do dân, vì dân; với hệ thống luật pháp, lấy việc bảo vệ quyền lợi của dân làm mục tiêu hàng đầu, xây dựng được đội ngũ cán bộ, đảng viên xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. 2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong lĩnh vực chính trị Có lẽ, không cần nhiều bằng chứng để chứng minh dân chủ hóa là tất yếu, một phần bởi dân chủ hóa đang ngày càng trở thành khuynh hướng chính trị chủ đạo của toàn thế giới. Đây là quá trình không thể trì hoãn, bởi nếu một nhà nước không tự dân chủ hóa mình thì thế giới, hay nói đúng hơn là những đòi hỏi chính trị toàn cầu, sẽ buộc nhà nước đó phải tiến hành dân chủ hoá. Và như thế có nghĩa là thay đổi do sức ép từ bên ngoài chứ không phải tự thân. Nếu không làm như vậy, nhà nước đó sẽ trở thành một bộ phận biệt lập trong mọi tiến trình quốc tế và không còn cơ hội tồn tại. Mặt khác, chỉ có các thể chế dân chủ mới phát huy được quyền tự do của con người và chỉ khi nào có tự do thì con người mới phát huy được năng lực sáng tạo. Chính sáng tạo làm cho tất cả các cộng đồng người có sức cạnh tranh và để mỗi con người tìm thấy sức mạnh của chính nó. Cùng với thời gian, dân chủ hóa không phải là đòi hỏi chính trị nữa mà là đòi hỏi phát triển. Những đòi hỏi phát triển không phải là ý muốn chủ quan rằng phát triển hay không phát triển mà nếu không phát triển là không còn cơ h ội tồn tại. Trong thời đại của chúng ta, con người là một tài nguyên, thậm chí là loại tài nguyên đặc biệt. Chính vì thế có thể nói, các nước đang phát triển với lợi thế về nguồn nhân lực là những dân tộc có ưu thế. Nếu không phát huy được năng lực của loại tài nguyên đặc biệt này thì các nước thế giới thứ ba không những không phát triển mà thậm chí không tồn tại được. Tuy nhiên, cũng đã đến lúc các nước này phải nhận ra rằng, sự đông dân, đồng thời, là một con dao hai lưỡi. Không có một chế độ lãnh đạo hợp lý thì sự đông dân là một gánh nặng. Nước CHND Trung Hoa là một ví dụ. Hơn một tỷ nhân dân Trung Quốc đã từng là gánh nặng của nhà nước và đến nay vẫn thế; nhưng sau hơn 20 năm đổi mới thì sự đông dân ấy đang trở thành một lợi thế. Chế độ chính trị giữ một vai trò cực kỳ quan trọng trong việc giải quyết bài toán nhân lực này. Việt Nam cũng vậy. Do đó, nếu không xây dựng chế độ dân chủ để tự do trở thành cảm hứng cơ bản khích lệ con người tham gia một cách hiệu quả vào quá trình cạnh tranh toàn cầu thì không thể phát triển được. Trong thời đại ngày nay, chúng ta phải trở thành thị trường vì chỉ có như vậy mới có thể phát triển và làm tăng cả năng lực lẫn thu nhập của con người. Thu nhập không tăng lên thì sức mua của cộng đồng không tăng và sức mua không tăng thì chúng ta sẽ không có thị trường nào khác ngoài thị trường lao động đơn giản. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật, những ngành sản xuất đòi hỏi lao động giản đơn ít đi và thị trường lao động đơn giản sẽ mất dần giá trị. Muốn nâng cao chất lượng của thị trường lao động thì phải đầu tư vào giáo dục - đào tạo. Mặt khác, không thể tiếp tục chỉ vay mượn hay sử dụng đầu tư nước ngoài để phát triển những nguồn nội lực. Những nhà nước phi dân chủ không thể trốn tránh quá trình dân chủ hóa xã hội. Người ta vẫn tưởng rằng, nhân dân đang ủng hộ nhà nước bằng lao động của mình nhưng đến một lúc nào đấy, các nhà nước phi dân chủ sẽ phải đối mặt với những cuộc cách mạng hay sự cướp bóc dưới hình thức cách mạng. Những năm cuối thế kỷ XX, chúng ta đã chứng kiến sự sụp đổ của các chế độ độc tài như Mohamed Suharto, Joseph Estrada, Saddam Hussein... Rõ ràng, những phương pháp chuyên chính có thể kéo dài tuổi thọ các thể chế chính trị độc tài nhưng không thể nào giúp nó tránh khỏi sự sụp đổ. 3. Tư tưởng hồ chí minh về dân chủ trong lĩnh vực kinh tế Lãnh đạo chính quyền thực hiện các chủ trương, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội theo nghị quyết đại hội của đảng bộ, chi bộ xã và của cấp trên; phát triển nông, lâm, ngư, diêm nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, tạo thêm việc làm mới cho người lao động; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, động viên nhân dân làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước; xây dựng nông thôn giàu đẹp, văn minh. Thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, quản lý và sử dụng đất hợp lý, tích cực chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, tăng giá trị thu nhập trên một đơn vị diện tích; thực hiện nhiệm vụ xây dựng cơ sở hạ tầng (điện, đường, trường, trạm...) theo phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm; quản lý và sử dụng tốt các nguồn vốn vay, vốn nhân dân đóng góp và các nguồn vốn khác; phát triển sự nghiệp văn hoá, giáo dục, y tế, bảo vệ môi trường, thực hiện tốt các chính sách xã hội, xoá đói, giảm nghèo 4. Tư tưởng hồ chí minh về dân chủ trong lĩnh vực văn hoá - xã hội a) Về văn hoá: Tiếp tục mở rộng các hoạt động văn hoá, nhằm nâng cao đời sống văn hoá vui tươi lành mạnh và trình độ văn hoá của nhân dân để phục vụ nhiệm vụ củng cố miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà. Tăng cường công tác xuất bản; chú trọng xây dựng cơ sở đầu tiên cho nền điện ảnh Việt Nam; phát triển vững chắc ngành sân khấu và ca vũ; lập thêm tủ sách và nhà văn hoá, câu lạc bộ ở các cơ sở và tăng cường lãnh đạo sinh hoạt văn nghệ, văn hoá của quần chúng; đẩy mạnh và lãnh đạo phong trào thể dục thể thao. Đồng thời phải nâng cao chất lượng của nền văn học, nghệ thuật; đào tạo bồi dưỡng thêm nhiều tài năng mới, chú trọng khai thác hơn nữa vốn cũ văn hoá dân tộc và tăng cường trao đổi văn hoá với các nước; học tập kinh nghiệm các nước tiên tiến. b) Về giáo dục: Tiếp tục đẩy mạnh phong trào thanh toán nạn mù chữ, đặc biệt chú trọng giậy văn hoá cho các cán bộ cơ sở, có kế hoạch mở rộng phong trào học tập trong các cơ quan, xí nghiệp, quân đội. Đối với giáo dục phổ thông, chủ yếu là phát triển tuỳ theo khả năng, và nâng cao chất lượng cấp 2 và 3, chú ý đào tạo và bồi dưỡng giáo viên, tăng cường số lượng và chất lượng các sách giáo khoa, ban hành chính sách cụ thể đối với các trường dân lập và tư thục, tăng cường lãnh đạo giáo dục miền núi, súc tiến việc nghiên cứu đặt chữ viết cho các dân tộc thiểu số, và có kế hoạch hướng dẫn các lớp vỡ lòng. Về đại học và chuyên nghiệp, cần củng cố những cơ sở đã có và phát triển từng bước. Tăng cường việc giáo dục chính trị và tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin, ra sức bồi dưỡng và đào tạo giáo sư, chú ý rút kinh nghiệm cải tiến chương trình. Xây dựng cơ sở nghiên cứu khoa học. Cải tiến việc bổ túc văn hoá cho cán bộ công nông để đưa vào các trường đại học, chuyên nghiệp. c) Về y tế: Mở rộng phong trào vệ sinh phòng bệnh, nâng cao chất lượng các cơ sở chữa bệnh, kiện toàn việc đào tạo và bồi dưỡng cán bộ các cấp, cải tiến và tăng cường việc sản xuất, nhập nội thuốc và sử dụng nguyên liệu trong nước. Đặc biệt chú ý công tác y tế và vệ sinh ở miền núi, công tác bảo vệ sản phụ và hài nhi. Y tế công trường, nông trường, xí nghiệp, cơ quan cần chú trọng để làm tốt hơn nữa nhiệm vụ bảo vệ và bồi dưỡng sức khoẻ cho công nhân và cán bộ, nhất là phụ nữ. Việc nghiên cứu đông y và sử dụng hợp lý, theo khả năng lực lượng đông y cũng như học tập kinh nghiệm y học tiên tiến của các nước bạn và thế giới, cần được tổ chức tích cực và chu đáo hơn, để xây dựng và phát triển nền y tế nhân dân. d) Về công tác thương binh: Phổ biến sâu rộng trong nhân dân chính sách đối với thương binh, bệnh binh và gia đình liệt sĩ, chú ý thương binh, bệnh binh về xã, nhất là thương binh, bệnh binh miền Nam tập kết. e) Về cứu tế xã hội: Nghiên cứu kế hoạch giải quyết lâu dài nạn thiếu ăn của nhân dân các vùng úng thuỷ, đồng cao, dẻo cao, men bể; tích cực cải tạo các trẻ lưu manh, gái điếm; tìm hiểu tình hình các trẻ mồ côi do chiến tranh gây ra, để nghiên cứu cách giải quyết. Để thúc đẩy công tác văn hoá xã hội tiến mạnh hơn nữa, Quốc hội nhận thấy cần phổ biến cho nhân dân và cán bộ vai trò quan trọng của công tác văn hoá, xã hội, trong sự nghiệp kiết thiết quốc gia, cần thi hành những chủ trương, đảm bảo việc đoàn kết, giáo dục, sử dụng mọi khả năng của trí thức, đãi ngộ trí thức đúng với cống hiến và tài năng. Hiện nay công tác văn hoá xã hội đã đạt được một cơ sở tương đối vững chắc. Với sức sống mạnh mẽ của nhân dân ta, với việc hoàn thành khôi phục kinh tế năm 1957, với sự cố gắng của cán bộ, Quốc hội tin tưởng rằng: công tác văn hoá xã hội sẽ góp phần đắc lực vào công cuộc củng cố miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà. f) Về lĩnh vực tôn giáo Chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam được xây dựng trên quan điểm cơ bản của học thuyết Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo và căn cứ vào đặc điểm tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam. Tư tưởng nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước Việt Nam là tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân; đoàn kết tôn giáo, hòa hợp dân tộc. Tinh thần đó được Đảng và Nhà nước Việt Nam thể hiện bằng hệ thống chính sách phù hợp với từng giai đoạn cách mạng và đã có từ khi mới thành lập Đảng. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn có quan điểm, thái độ rõ ràng về tín ngưỡng, tôn giáo. Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng năm 1991 đã khẳng định: "Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đảng và Nhà nước ta tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân, thực hiện bình đẳng, đoàn kết lương giáo và giữa các tôn giáo. Khắc phục mọi thái độ hẹp hòi, thành kiến, phân biệt đối xử với đồng bào có đạo, chống những hành vi lợi dụng tôn giáo phá hoại độc lập dân tộc và đoàn kết dân tộc, chống phá chủ nghĩa xã hội, ngăn cản tín đồ làm nghĩa vụ công dân". Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cũng ghi rõ: "Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, đồng thời chống việc lợi dụng tín ngưỡng để làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và nhân dân". Những quan điểm của Đảng ta từ ngày thành lập đến nay chứng minh rằng Đảng coi quyền tự do tín ngưỡng là một nhu cầu quan trọng của con người, là một trong những quyền công dân, quyền chính đáng của con người. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn tôn trọng đức tin của đồng bào theo tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau; tôn trọng quyền được theo bất cứ tôn giáo nào cũng như quyền không theo tôn giáo nào, mong muốn cho người dân theo tôn giáo được "phần hồn thong dong, phần xác ấm no". Cả nước có 56.125 chức sắc, nhà tu hành, chưa kể hàng vạn người hoạt động bán chuyên nghiệp của các tổ chức tôn giáo, trong đó Phật giáo có 33.066 tăng ni; Thiên chúa giáo có 42 giám mục, 2.700 linh mục và 11.282 tu sĩ, Tin lành có 492 mục sư, giảng sư và truyền đạo; Cao Đài có 8.340 chức sắc, chức việc; Phật giáo Hoà hảo có 982 chức việc và Hồi giáo có 699 chức sắc; 3 học viện Phật giáo với trên 1.000 tăng ni sinh, 30 trường trung cấp Phật học, 4 trường cao đẳng phật học với 3.940 tăng ni sinh theo học. Giáo hội Thiên chúa giáo có 6 Đại chủng viện với 1.085 chủng sinh và 1.712 chủng sinh dự bị. Viện Thánh kinh thần học của Tổng liên hội Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam) đã chiêu sinh hai khoá với 150 học sinh. Hiện có hàng trăm người của các tôn giáo đang theo học thạc sĩ, tiến sĩ ở các nước trên thế giới. Cả nước hiện có 22.000 cơ sở thờ tự, trong đó có nhiều cơ sở được xây dựng mới, xây dựng lại khang trang, đẹp đẽ. Đó là bằng chứng sinh động về đảm bảo tự do tín ngưỡng, tôn giaó là nguyên tắc hàng đầu và nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam vì cuộc sống tinh thần của hàng triệu tín đồ các tôn giáo và cũng là những công dân của Việt Nam. Đánh giá sự trưởng thành và những đóng góp của Ban Tôn giáo Chính phủ, năm 2002, Nhà nước trao tặng Huân chương Độc lập hạng Nhất và để khẳng định truyền thống của ngành quản lý Nhà nước về tôn giáo và xác lập cơ chế quản lý theo ngành - một ngành vốn có nhiều nét đặc thù, nhạy cảm, ngày 27-5-2005, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 445/QĐ-TTg lấy ngày 2-8 hằng năm là Ngày truyền thống của ngành quản lý Nhà nước về tôn giáo. Đây là phần thưởng cao quý của Đảng và Nhà nước dành cho các thế hệ làm công tác tôn giáo trong cả nước. (Nguồn tư liệu: Ban Tôn giáo Chính phủ, TTXVN và Công báo) IV. THỰC HÀNH DÂN CHỦ 1. Xây dựng và hoàn thiện các chế độ dân chủ rộng rãi Ngay từ năm 1941, trong chương trình của Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh), Hồ Chí Minh đã “thiết kế” một chế độ dân chủ cộng hoàcho nước ta sau khi cuộc cách mạng do nhân dân thực hiện thắng lợi. đó là chương trình thực hiện mục tiêu dân chủ, xác định rõ quyền và trách nhiệm của nhân dân trước vận mệnh của nước nhà; gắn độc lập, tự do của tổ quốc với quyền lợi của từng người dân. Chương trình Việt Minh đã khơi dậy sức mạnh vô biên của nhân dân giành chính quyền về tay mình.Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, một tuyên bố về chế độ dân chủ ở Việt Nam đã được Hồ Chí Minh nêu trong bảnTuyên ngôn độ lập khia sinh nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà ngày 2-9-1945, trong đó các giá trị về dân chủ được gắn liền với đất nước độ lập, tự do, hạnh phúc. Dân chủ ở nuớc Việt Nam mới được thể hiện và mới được đảm bảo trong đạo luật cơ bản nhất là các Hiến pháp do Hồ Chí Monh chủ trì xây dựng và được Quốc hội thông qua. Hiến pháp năm 1946, bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, thể hiện rõ nhất và thấm đậm nhất tư tưởng dân chủ của Hồ Chí minh. Hiến pháp năm 1946 đặt cơ sở pháp lý đầu tiên cho việc thực hiện quyền lực của nhân dân. Với trách nhiệm chủ trì việc soạn thảo hiến pháp năm 1959, Hồ Chí Minh lại một lần nữa khẳng định quan niệm đảm bảo dân chủ trong việc xác lập quyền lực của nhân dân trong hiến pháp. Cơ chế thực hiện quyền lực của nhân dân trong bản Hiến pháp năm 1959 được phát triển, cụ thể hoá thêm. Điều đó thể hiện rõ ở các điều về quyền lực của nhân dân (Điều 4); vấn đề đại biểu của nhân dân trong Quốc hội và hội đồng nhân dân (Điều 5) và đặc biệt ở điều 6 ghi rõ: “Tất cả các cơ quan nhà nước đầu phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát củ nhân dân. Tất cả các nhân viên cơ quan nhà nước đều phải trung thành với chế độ dân chủ của nhân dân, tuân theo Hiến pháp và pháp luật, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân”. Hồ Chí Minh chú trọng đảm bảo quyền lực của giai cấp, tầng lớp, các cộng đồng dân tộc trong thể chế chính trị nước ta. Đối với giai cấp công nhân, Hồ Chí Minh khẳng định rằng, công nhân có quyền thực sự trong xí nghiệp, và từ làm chủ về tư liệu sản xuất, họ phải được làm chủ trong việc quản lý, làm chủ trong việc phân phối sản phẩm lao động. Đối với nông dân, Hồ Chí Minh cho rằng, bao giờ ở nông thôn người dân thực sự nắm chính quyền, nông dân phải được giải phóng, thì mới có dân chủ thực sự. Hồ Chí Minh đánh giá cao vai trò của tầng lớp trí thức trong tiến trình dân chủ hoá ở Việt Nam và cho rằng lao động trí óc có nhiệm vụ rất quan trọng trong sự nghiệp kháng chiến kiến quốc. Người đặc biệt quan tâm giải phóng phụ nữ để phụ nữ bình đẳng với nam giới, thực sự tham gia tích cực vào các công việc xã hội. Người cũng đề cao vai trò làm chủ đất nước của thanh, thiếu niên. Đối với một quốc gia đa dân tộc như ở Việt nam, Hồ Chí Minh quan tâm đấn việc đảm bảo quyền làm chủ của tất cả nhân dân các dân tộc và cho rằng, phải làm cho các dân tộc làm chủ đất nước, mau chóng phát triển kinh tế, văn hoá, thực hiện các dân tộc bình đẳng về mọi mặt. 2. Phát huy dân chủ đi đôi với tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, đảm bảo thật sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân Để vượt lên tình trạng thấp kém của nền kinh tế, rút ngắn khoảng cách về trình độ phát triển giữa nước ta với nhiều nước trên thế giới, trong điều kiện cạnh tranh quốc tế quyệt liệt hiện nay, ta không có con đường nào khác là phải “phát huy cao độ nội lực của dân tộc”, mà một trong những nhân tố cơ bản lảm nên nội lực đó là phát huy dân chủ. Chính khát vọng dân chủ đã tạo lên sức mạnh kiên cường dấu tranh cho độc lập, tự do. Giành được chình quyền về tay nhân dân rồi thì quyền làm chủ thật sự của người dân là nội dung đích thực của độc lập tự do. Bởi như Bác Hồ đã nói: “Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Trong cuộc chiến đấu khẩn chương và quyết liệt chống kẻ thù xâm lược, nhiều công việc cấp bách phải được giải quyết kịp thời và tập trung ở cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước. Khi chuyển sang hoà bình, xây dựng, trong điều kiện kho khăn phức tạp của tình hình đất nước hiện nay thì mở rộng dân chủ là một nhiệm vụ quan trong và cấp thiết để khai thác được sức mạnh vô tập của nhân dân ta trong sự nghiệp đổi mới, mở của, hội nhập với thế giới. Qua thực tế hơn 15 năm đổi mới, Đảng ta đã chỉ ra rằng nơi nào thực hiện được dân chủ, phát huy được trì tuệ của đông đảo cán bộ và nhân dân, thì nhất định thành công. Ngược lại, nơi nào để mất dân chủ, gây ra sự bất mãn trong quần chúng thì noi đó không tránh khỏi kho khăn và dẫn tới những hậu quả đáng tiếc. Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Dân chủ, sáng kiến, hăng hái, ba điều đó rất quan hệ với nhau. Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến“. Bởi vậy, Ngưới nhắc nhở: ”Phải thật sự tôn trọng quềyn làm chủ của nhân dân. Tuyệt đối không được lên mặt “Quan cách mạng“ ra lệnh ra oai“. Điều cần chú ý trong tư duy Hồ Chí Minh về dân chủ thì dân chủ của ta phải là “Dân chủ thật sự“, “Nước ta phải đi đến dân chủ Thực sự“ Chúng ta phải ra sức thực hiện những cải cách xã hội, để nâng cao đời sống của nhân dân, thực hiện dân chủ thực sự”, Nhiều lần Người nhắn đi nhắc lại hai chữ “Thật sự“ , ”Thực sự“ như là một thuộc tình cơ bản không thể thiếu của nền dân chủ của chế độ ta nò vốn xa lạ với thứ dân chủ trừu tượng, dân chủ hình thức mà người ta dễ dàng nghĩ tới là dân chủ trong xã hội tư sản. Qua đó, có thể thấy dân chủ lả một nội dung lờn trong tư tương Hồ Chí Minh. Theo người, thực hành dân chủ là cái chìa khó vạn năng có thể giải quyết được mọi khó khăn. mọi chủ trương, đường lối, thuộc tất cả các lĩng vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội …Đều được người xem xét và giải quyết từ địa vị người làm chủ và quyền làm chủ của nhân dân, Để người dân được hưởng quyền dân chủ trong thực tế, không chỉ xác nhận quyền đó trong hiến pháp và pháp luật, Chủ Tịch Hồ Chí Minh còn tạo điều kiện vật chất và văn hoá để người dân cao nâng cao năng lực làm chủ: nâng cao dân trí, bồi dưỡng văn hoá chính trị, phát triển tính tích cực trong dân, mở mang kinh tế, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, khuyến khích nhân dân tham gia giám sát công việc của các cơ quan nhà nước, từ dưới lên trên. Phát huy dân chủ phải kết hợp chặt chẽ tăng cường pháp chế, thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật, theo pháp luật. Nhà nước ta phải tiếp tục thể chế hoá bằng pháp luật các quyền dân chủ của người dân trên các lĩnh vực đời sống, đặc biệt là trong hoạt động kinh tế. Đồng thời, phải đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng và chống vi phạp pháp luật, đảm bảo cho mỗi công dân đều được bình đẳng trước pháp luật, đảm bảo mọi hành vi vi phạm pháp luật đều được xét sử nghiêm minh, đúng người, đúng tội, không phân biệt người đó là ai, để đem lại niềm tin cho nhân dân vào tính nghiêm minh của pháp luật nhà nước ta . 3. Xây dựng các tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội vững mạnh để đảm bảo dân chủ trong xã hội 3.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng tổ chức Đảng để đảm bảo dân chủ Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ, người chiến sĩ vĩ đại của dân tộc Việt Nam đã hiến dâng cả cuộc đời mình cho độc lập, tự do và công lý của nhân dân ta và nhân loại yêu chuộng hoà bình trên toàn thế giới. Rời Tổ quốc từ năm 1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã trải qua những năm dài hoạt động cách mạng đầy sôi nổi và gian khó, tìm thấy chân lý và đường đi để đưa dân tộc Việt Nam sánh vai cùng bạn bè quốc tế. Lịch sử đã chứng minh rằng, người cộng sản Hồ Chí Minh đã từng bước vận dụng sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn của nước ta, để giải quyết những đòi hỏi cấp bách của thời cuộc. Không chỉ sáng lập một chính đảng mácxít lêninnít kiểu mới cho giai cấp vô sản Việt Nam, Người còn thành công trong việc xây dựng và thực hiện dân chủ trong nội bộ Đảng, để Đảng ta thực sự vững mạnh, thực sự là người lãnh đạo, người đầy tớ trung thành của nhân dân. Không ngoài mục tiêu giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và giải phóng xã hội, ngay từ khi mới ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thức sâu sắc rằng: Để có thể đưa sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta đi tới thắng lợi hoàn toàn, thì nhất định Đảng phải được “tổ chức một cách dân chủ. Điều đó có nghĩa là tất cả mọi công việc của Đảng đều được toàn thể các đảng viên, hoàn toàn bình quyền và không có ngoại lệ nào, tiến hành trực tiếp hoặc thông qua các đại biểu; đồng thời tất cả những người có trách nhiệm trong Đảng, tất cả các ban lãnh đạo của Đảng, tất cả các cơ quan của Đảng đều được bầu ra, đều có trách nhiệm phải báo cáo và có thể bị bãi miễn”[11]. Không phải ngẫu nhiên, ngay từ những năm hoạt động thực tiễn và lý luận ở Quảng Châu nhằm chuẩn bị cho sự ra đời của một chính đảng vô sản kiểu mới ở Việt Nam, và trong suốt quá trình sáng lập, rèn luyện Đảng ta, Hồ Chí Minh lại luôn quan tâm đặc biệt đến vấn đề thực hiện dân chủ trong nội bộ Đảng trên cả hai nội dung: - Bình đẳng là tiền đề của dân chủ trong Đảng - Dân chủ nhất trong nội bộ Đảng chính là cách làm việc, cách lãnh đạo, cách thức tự phê bình và phê bình của cán bộ đảng viên. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: Ở trong Đảng, mọi đảng viên đều phải quán triệt sâu sắc nguyên tắc tập trung trên nền tảng dân chủ và dân chủ nhưng phải dưới sự chỉ đạo tập trung, và vì thế nhất định không được tự do hành động, dân chủ quá trớn. Trong bài: Phải làm theo kỷ luật của Đảng, tháng 8/1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng viết: “Chủ trương của Đảng ta là: trong nội bộ thì mở rộng dân chủ, tự phê bình và phê bình. Nguyên tắc tổ chức thì cực kỳ nghiêm, tức là bất kỳ ở hoàn cảnh nào, mọi đảng viên và cán bộ cũng phải thật thà và triệt để chấp hành chính sách và nghị quyết của Đảng”. Đó chính là thực hiện dân chủ trong nội bộ Đảng một cách nghiêm túc nhất. Thấu hiểu hoàn cảnh cụ thể của đất nước mình, muốn cho Đảng mạnh, hơn ai hết, Hồ Chí Minh hiểu rằng, mặc dù là tổ chức của những người con ưu tú nhất, song Đảng cũng ở trong xã hội. Xuất thân từ nhiều thành phần khác nhau, mỗi cán bộ, đảng viên bên cạnh bầu nhiệt huyết cách mạng, sẵn sàng hy sinh cho độc lập, tự do của Tổ quốc, vẫn còn đâu đó những tàn dư của tư tưởng phong kiến trong mình. Là người lãnh đạo, nhưng Đảng Cộng sản Việt Nam không phải là một tổ chức để làm quan, phát tài. Dù đang làm nhiệm vụ gì, ở đâu và đảm nhiệm bất cứ cương vị công tác nào, mỗi đảng viên trong Đảng đều phải là đầy tớ của nhân dân, có quyền bình đẳng trước tổ chức, điều lệ, mục đích, lý tưởng và nhiệm vụ cao cả của Đảng. Điều đó có nghĩa là, người đảng viên không phấn đấu để giành những đặc quyền, đặc lợi do vị trí đảm nhiệm mang lại, mà phải phấn đấu để “giành lấy những quyền ngang nhau và những nghĩa vụ ngang nhau” trước Đảng, trước Tổ quốc và Nhân dân. Không phân biệt cấp bậc, không màng tới ngôi thứ, địa vị, mỗi khi nói về nhiệm vụ của người đảng viên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đều khẳng định: Mỗi người đảng viên, mỗi người cán bộ từ trên xuống đều phải hiểu rằng: mình vào Đảng để làm đầy tớ cho dân, là công bộc của dân. Trước Đảng và Nhân dân, ai nấy đều bình đẳng, có khác chăng là: Đảng viên mà là cán bộ, lại là những cán bộ cấp càng cao thì trách nhiệm càng lớn. Bởi trong tay những cán bộ cấp cao đó, phương tiện, công cụ, quyền lực rộng hơn, dễ đem lại những lợi ích thiết thực hơn, song ngược lại, những hậu quả xấu, những tác động của những công việc họ làm cũng vì vậy mà lớn hơn rất nhiều. Vì thế, Người nhấn mạnh, bình đẳng và dân chủ không đồng nghĩa với cào bằng, với bình quân chủ nghĩa, và Hồ Chí Minh đã từng viết trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc (10/1947) về trách nhiệm của người đảng viên như sau: “Nhất là những người cán bộ và lãnh tụ, càng phải làm cho xứng đáng lòng tin cậy của Đảng, của dân tộc” [7]. Xác định rõ rằng, dân chủ trong nội bộ Đảng chính là tạo mọi điều kiện để tất cả các đảng viên có thể tham gia đóng góp ý kiến cho Đảng, Người yêu cầu: “Phải thật sự mở rộng dân chủ để tất cả đảng viên bày tỏ hết ý kến của mình; phải gom góp ý kiến của đảng viên để giúp đỡ Trung ương” [6], nhằm tránh bệnh chuyên quyền, độc đoán, dẫn đến những hậu quả khôn lường. Từ những đúc kết trong thực tiễn, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Cán bộ, đảng viên vẫn ít sáng kiến, ít hăng hái, bởi trước hết và căn bản “là vì cách lãnh đạo của ta không được dân chủ” thực sự, dân chủ triệt để.  Chăm lo đến vấn đề thực hiện dân chủ trong Đảng, đặc biệt hơn khi Đảng ta đã trở thành Đảng cầm quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn lưu tâm đến cách thức làm việc, đến tác phong và lề lối làm việc của người cán bộ, đảng viên. Cũng theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, việc thực hiện dân chủ trong nội bộ Đảng chính là biết lắng nghe những người cộng sự, dù người đó không thuộc cánh hẩu với mình, lắng nghe ý kiến đóng góp của quần chúng trước khi quyết định một vấn đề. Trong nguyên tắc sinh hoạt Đảng, trước khi quyết định bất cứ vấn đề nào, đảng viên phải hết sức thảo luận, phát biểu ý kiến và khi đa số đã quyết nghị thì tất cả các đảng viên đều phải chấp hành, bởi thế, Hồ Chí Minh từng nói: Không chỉ giữ chủ nghĩa cho vững, quyết đoán, dũng cảm mà “phục tùng đoàn thể” cũng là một nguyên tắc để thực hiện dân chủ trong nội bộ Đảng. Dân chủ giữa cấp trên và cấp dưới, giữa nam và nữ, giữa người già và người trẻ trong Đảng là dân chủ thực sự, dân chủ thành tâm, dân chủ để đoàn kết thống nhất thành một khối, là “dân chủ thật thà trong Đảng”. Dân chủ trong Đảng, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, còn là dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm và nâng cao tinh thần phụ trách trước tổ chức, vì lợi ích của Tổ quốc và nhân dân. Dân chủ phải trở thành một nguyên tắc, một nề nếp và thực hành dân chủ để làm cho mọi cán bộ đảng viên “ai cũng được hưởng quyền dân chủ, tự do” thì Đảng mới có nguồn sức mạnh nội lực để chống lại những thói hư, tật xấu, những tàn dư của chủ nghĩa cá nhân. Tham ô, lãng phí, quan liêu - những căn bệnh xấu là kẻ thù của công cuộc xây dựng một chế độ xã hội mới, đồng thời cũng là kẻ thù của người cán bộ đảng viên. Vì vậy, chống lại những căn bệnh đó, chống lại thứ “kẹo bọc đường”, chính là góp phần thực hiện dân chủ trong Đảng.  Tuy nhiên, trong khi nêu cao và thực hiện dân chủ trong nội bộ Đảng, Người không quên nhắc nhở rằng, dân chủ trong nội bộ Đảng, nhưng dân chủ theo kiểu bị cắt xén, dân chủ nửa vời, không đầy đủ sẽ nhanh chóng chuyển sang bè cánh, phe phái, và hơn thế nữa, đó là lý thuyết “dân chủ” nhưng thực tế “quan chủ”. Dân chủ trong nội bộ Đảng theo Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là tạo ra những điều kiện thuận lợi nhất để mỗi đảng viên làm chủ công việc mà mình được giao phó, làm cho họ tự ý thức và phát huy được vai trò người làm chủ của mình, tránh được tình trạng “nội bộ Đảng âm u, cán bộ trở nên những cái máy, trong lòng uất ức, không dám nói ra, do uất ức mà hoá ra oán ghét, chán nản” [2]. Với Hồ Chí Minh, dân chủ trong Đảng đồng nghĩa với “không khi nào được dùng mệnh lệnh” và phải chú ý để kiểm tra công tác Đảng của các tổ chức cấp dưới. Đề cập đến dân chủ trong nội bộ Đảng, không chỉ yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên mạnh bạo đề ra ý kiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nhắc nhở mỗi người hãy luôn luôn thực hiện tự phê bình và phê bình như “rửa mặt hàng ngày”. Theo Người, chỉ có một Đảng chân chính cách mạng thực sự dân chủ mới dám mạnh dạn phê bình, hoan nghênh phê bình và kiên quyết sửa chữa. Lề lối làm việc phải dân chủ, cấp trên phải thường xuyên kiểm tra cấp dưới và ngược lại, cấp dưới cũng phải thường xuyên phê bình cấp trên, để nội bộ Đảng luôn thống nhất. Cũng theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, mỗi người cán bộ, khi được góp ý kiến phê bình (dù có những điều chưa hẳn đúng), cũng chớ nên quở trách, giễu cợt cán bộ đã phê bình mình. Thái độ cầu thị của cấp trên, sự thành tâm của cấp dưới khi tiến hành phê bình công khai và phê bình một cách có văn hoá, sẽ giúp mỗi người hiểu nhau hơn, xích lại gần nhau, đó mới thực sự là dân chủ trong nội bộ Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Dân chủ thực chất là một biện pháp, biện pháp có tính nguyên tắc để xây dựng Đảng ta thành một Đảng Cộng sản luôn trong sạch vững mạnh theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Hơn 70 năm xây dựng và trưởng thành, Đảng ta không khi nào rời xa nguyên tắc đó, bởi Đảng nhận thức sâu sắc rằng, khi dân chủ trong nội bộ Đảng không được thực hiện và thực hiện không đầy đủ, sức mạnh của sự đoàn kết thống nhất trong Đảng sẽ không còn. Đẩy mạnh công cuộc xây dựng và chỉnh đốn Đảng, để Đảng thực sự xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ trung thành của nhân dân như mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì phải thực hiện dân chủ trong Đảng. Kỷ niệm 117 năm ngày sinh của Người và để thoả lòng mong ước của Người, chúng ta càng khôn nguôi nhớ lời Người căn dặn: “ Làm cho Đảng mạnh, thì phải mở rộng dân chủ” [5], mở rộng phê bình và tự phê bình, “nhất là phê bình từ dưới lên”. 3.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa đảm bảo nền dân chủ Để xây dựng nhà nước XHCN đảm bảo dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh thì phải xây dựng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội như sau: Về chính trị, Hồ Chủ Tịch chỉ rõ: chế độ dân chủ XHCN thì bao nhiêu quyền lực là của dân, sức mạnh đều ở nơi dân, bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Chế độ dân chủ XHCN, nhà nước XHCN… thực chất là của nhân dân do nhân dân và vì nhân dân. Nhân dân được quyền làm chủ nhà nước bằng cách có quyền giới thiệu các đại biểu tham gia vào bộ máy chính quyền các cấp từ trung ương đến địa phương, tham gia đóng góp ý kiến xây dựng pháp luật, xây dựng bộ máy và cán bộ nhân viên nhà nước. Nhà nước CHXHCNVN là cơ quan nắm và thực thi quyền lực của nhân dân, quản lý XH bằng hệ thống pháp luật và các thiết chế dưới luật. Các tổ chức chính trị – XH là đại diện cho các tầng lớp nhân dân, là công cụ để qua đó nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình. Như vậy hệ thống chính trị XHCN ở nước ta lấy CN Mác – Lênin và tư tưởng HCM làm nền tảng tư tưởng – lý luận trong hoạt động, nhất nguyên về chính trị đặt dưới sự lãnh đạo duy nhất của một Đảng tiên phong của giai cấp công nhân đó là ĐCSVN, hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, nhân dân bầu ra các đại biểu của mình bằng hình thức trực tiếp và đại diện. Về kinh tế thì dựa trên chế độ công hữu về TLSX toàn XH đáp ứng sự phát triển ngày càng cao của LLSX thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của toàn thể nhân dân lao động. Nhân dân được làm chủ TLSX chủ yếu của XH, nhân dân được tham gia vào quá trình quản lý SX, quá trình phân phối sản phẩm XH, không ngừng được nâng cao đời sống vật chất. Bản chất kinh tế bộc lộ đầy đủ qua quá trình ổn định chính trị, phát triển SX và nâng cao đời sống toàn XH dưới sự lãnh đạo của Đảng, Mác – Lênin và sự quản lý, hướng dẫn, giúp đỡ của nhà nước XHCN. Về tư tưởng – văn hóa thì nền dân chủ XHCN lấy hệ tư tưởng Mác – Lênin đó là hệ tư tưởng giai cấp công nhân làm nền tảng, chủ đạo. Kế thừa và phát huy tinh hoa văn hóa truyền thống, tiếp thu những giá trị tư tưởng, văn hóa văn minh, tiến bộ XH. Nhân dân được làm chủ những giá trị văn hóa tinh thần, được nâng cao trình độ văn hóa và có điều kiện để phát triển cá nhân. Những cái đó sẽ trở thành mục tiêu, động lực để xây dựng CNXH. 3.3. Xây dựng mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội vững mạnh để đảm bảo dân chủ Đối với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Cấp ủy lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân bằng nghị quyết, chương trình hành động, bằng công tác cán bộ, công tác kiểm tra và vai trò gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong các tổ chức đó. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân có trách nhiệm cụ thể hoá các chủ trương, nghị quyết của tổ chức đảng, thực hiện nghiêm chế độ báo cáo về tình hình hoạt động và đề xuất, kiến nghị về sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy. Định kỳ (3 tháng, 6 tháng, 1 năm) hoặc đột xuất khi có yêu cầu, cấp ủy làm việc với các đoàn thể, nắm tình hình hoạt động của từng đoàn thể để có biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời. Xây dựng Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân ở xã vững mạnh, thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ theo luật định và điều lệ của mỗi đoàn thể. Thực hiện tốt các chính sách về dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước, xây dựng khối đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thi đua thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ được giao. Tham gia xây dựng, bảo vệ đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và các nhiệm vụ của địa phương, trước hết là những chủ trương, chính sách về nông nghiệp, nông dân và nông thôn. Đối với hội đồng nhân dân. Cấp ủy lãnh đạo hội đồng nhân dân bằng chủ trương, nghị quyết, công tác cán bộ, công tác kiểm tra và thông qua các đảng viên là đại biểu hội đồng nhân dân. Trước mỗi kỳ họp hội đồng nhân dân, chủ tịch hội đồng nhân dân phải báo cáo với cấp ủy về thời gian, chương trình, nội dung kỳ họp để cấp ủy cho ý kiến chỉ đạo đảm bảo cho kỳ họp đạt kết quả, đúng luật, đúng định hướng của tổ chức đảng. Đối với ủy ban nhân dân. Cấp ủy lãnh đạo ủy ban nhân dân bằng chủ trương, nghị quyết, bằng công tác cán bộ và công tác kiểm tra. Thường xuyên kiểm tra ủy ban nhân dân trong việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ, kịp thời phát hiện, khắc phục những việc chưa đúng, nếu có sai phạm nghiêm trọng, cấp ủy yêu cầu tạm dừng thực hiện và kiến nghị với cấp ủy, chính quyền cấp trên giải quyết. Định kỳ (hằng tháng, quý, 6 tháng, 1năm) hoặc đột xuất khi có yêu cầu, chủ tịch ủy ban nhân dân báo cáo với cấp ủy về tiến độ và kết quả thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng hoặc những chuyên đề công tác được phân công. V. VIỆT NAM ĐỒI VỚI THẾ GIỚI TRÊN PHƯƠNG DIỆN DÂN CHỦ Ngay sau khi công bố báo cáo về tình hình nhân quyền trên thế giới, trong đó vu cáo Việt Nam vi phạm nhân quyền, ngày 3-4, Hạ nghị sĩ Mỹ C.Smith họp báo công bố việc đưa cái gọi là dự luật nhân quyền Việt Nam ra Hạ viện Mỹ để xem xét và thông qua. Đây là việc làm thô bạo, xâm phạm độc lập chủ quyền của Việt Nam. Như mọi năm, năm nay, Bộ Ngoại giao Mỹ lại làm một báo cáo về tình hình nhân quyền trên thế giới, phán xét tình hình vi phạm nhân quyền ở nước này, nước khác, trong đó có Việt Nam. Bản báo cáo là sự vu cáo trắng trợn, xuyên tạc, đổi trắng thay đen tình hình thực tế nhân quyền ở Việt Nam. Việc làm này là sự vi phạm công pháp quốc tế, can thiệp thô bạo công việc nội bộ của một quốc gia có chủ quyền. Bản báo cáo của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ về tình hình nhân quyền ở Việt Nam cũng vẫn với những luận điệu cũ rích về cái gọi là "đàn áp tôn giáo, dân tộc", "đàn áp những người bất đồng chính kiến"... Thật kỳ quặc, những điều mà bất cứ một chính phủ chân chính nào đều phải làm và Chính phủ Việt Nam đã làm để củng cố sự ổn định chính trị - xã hội, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, trong con mắt định kiến bệnh hoạn của họ lại thành ra là vi phạm nhân quyền. Cần phải khẳng định rằng, ở Việt Nam không có đàn áp tôn giáo, đàn áp các dân tộc thiểu số; không có đàn áp những người bất đồng chính kiến. Chỉ có việc làm thực thi pháp luật, bảo vệ kỷ cương phép nước đối với một số ít kẻ đội lốt tôn giáo, dân tộc đòi tự do tín ngưỡng, đòi quyền tự trị, lừa mị nhân dân, để kích động nhân tâm, phá vỡ sự ổn định chính trị - xã hội, chuẩn bị cho những mưu đồ đen tối, và những hành động phi pháp... Đương nhiên, đối với những kẻ như vậy thì chính quyền nhân dân phải trừng trị, trừng trị theo đúng nền pháp chế Việt Nam, theo nguyện vọng của nhân dân. Thực tế tình hình nhân quyền ở Việt Nam, mọi người dân đang được hưởng, ngày càng được bổ sung và hoàn thiện. Nhiều người nước ngoài đến Việt Nam thừa nhận: Nhân dân Việt Nam đang được hưởng thành quả của sự nghiệp giải phóng dân tộc, chống chủ nghĩa thực dân, đế quốc, được sống trong độc lập, tự do, cơm no, áo ấm. Và đối với quan niệm của nhân dân Việt Nam thì đó là quyền con người cơ bản nhất. Thực hiện đường lối đổi mới, một quyền con người cơ bản nữa được thể hiện ở Việt Nam là quyền tự do trong kinh tế, quyền được phát huy mọi khả năng và sở trường để làm giàu trong khuôn khổ pháp luật, làm giàu cho mình và cho xã hội. Ở Việt Nam hiện nay, lao động giỏi là vinh quang, những tài năng quản lý và kinh doanh được tôn vinh; sáng tạo khoa học và công nghệ có ích cho phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân được khuyến khích, cổ vũ. Ai cũng phải công nhận rằng, ngày nay, những công dân Việt Nam tự do phát biểu chính kiến của mình về mọi vấn đề. Sự đồng thuận trong xã hội ngày nay trải qua tranh luận dân chủ rộng rãi mới đạt được. Cho nên sự phê phán về tình trạng nhân quyền Việt Nam do các thế lực thù địch ở bên kia đại dương dựng lên chẳng có mảy may giá trị. Chúng ta tin ở sự đúng đắn và hiệu quả của nền dân chủ Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Cần phải nhận thức rằng dân chủ và nhân quyền mà các thế lực thù địch muốn áp đặt vào Việt Nam hòng thay thế cho thể chế dân chủ do cách mạng Việt Nam tạo nên sau gần ba phần tư thế kỷ đấu tranh dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, là một hành động cực kỳ nguy hiểm. Lịch sử thế kỷ 20 chứng tỏ rằng, đó là một trong những công cụ phá hoại chế độ xã hội chủ nghĩa, đã góp phần vào việc làm cho Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Ấu sụp đổ vào đầu những năm chín mươi của thế kỷ trước. Chính vì vậy, chúng ta càng nâng cao cảnh giác, sẵn sàng làm thất bại mọi âm mưu và hành động phá hoại của các thế lực thù địch núp dưới chiêu bài “tự do”, “dân chủ”, nhân quyền”… Trong tình hình thế giới hiện nay, một trong những nội dung cơ bản bảo vệ nhân quyền chân chính là phải đấu tranh cho hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội; đấu tranh để các quốc gia dân tộc sống trong tình thân ái, hợp tác với nhau cùng phát triển. Ngày nay, bảo vệ hòa bình, ngăn chặn chiến tranh xâm lược, đối với từng quốc gia, từng vùng lãnh thổ, trở thành một nội dung quan trọng nhất cho cuộc đấu tranh cho nhân quyền. PHẦN KẾT LUẬN Như vậy qua bài viết trên chúng ta có thể khẳng định rằng tư tưởng Hồ chí minh về dân chủ có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn, sâu sắc, định hướng cho việc xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ, Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam. Học tập và quán triệt tư tưởng này để xây dựng nhà nước ngang tầm nhiệm vụ của giai đoạn cách mạng mới là hết sức cần thiết. Về cơ bản bài viết đã giải đáp được thế nào là dân chủ, giúp chúng ta hiểu sâu thêm về quan niệm củ Hồ Chí Minh về dân chủ. Đặc biệt là đã làm rõ được vấn đề về dân chủ trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội cũng như làm bật lên nội dung của thực hành dân chủ, làm thế nào để xây dựng Đảng bộ, Nhà nước, Mặt trận và các ban nghành đoàn thể đảm bảo dân chủ và công bằng xã hội. Bên cạnh đó còn giúp chúng ta hiểu hơn về dân chủ của nước ta qua các gia đoạn lịch sử và Việt Nam đối với thế giới trên phương diện dân chủ. Thế hệ trẻ chúng ta ngoài việc không ngừng học tập, rèn luyện, trau rồi kiến thức chuyên nghành thì cần phải có những kiến thức xã hội cần thiết và hơn thế là những kiến thức về hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Sống, học tập và rèn luyện theo tấm gương của Người, góp phần xây dựng nước nhà ngày một giàu đẹp, dân chủ, văn minh. Như vậy, trên tinh thần muốn đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào việc giúp mọi người hiểu sâu sắc hơn vấn đề dân chủ và thực hành dân chủ trong đời sống xã hội mà nhóm chúng tôi đã thực hiện bài viết này. Nhưng do nhiều khó khăn cũng như kinh nghiệm nghiên cứu còn rất thiếu nên không thể tránh khỏi những thiếu xót và hạn chế nhất định. Chúng tôi rất mong nhận được sự góp ý từ phía thầy cô và các bạn để bài tiểu luận này được hoàn thiện hơn. PHẦN PHỤ LỤC Hội nghị \ Bác với các cán bộ Bác với mô hình xây dựng Hà Nội Bác Hồ với các chiến sĩ Đoàn kết các dân tộc và quan tâm chăm sóc người cao tuổi Bác luôn luôn dành sự quan tâm cho chị em phụ nữ Bác Hồ động viên khen, ngợi các cháu Bác tới thăm xưởng dệt DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ban Tôn giáo Chính phủ, TTXVN và Công báo 2. Báo nhân dân, ngày 2/9/1951 3. Dangbo.most.gov.vn 4. Hội đồng Trung Ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa hoc Mác-lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Giáo trình Tư Tưởng Hồ Chí Minh. 5. Hồ Chí Minh, Sđd, tập 7, tr.241 6. Hồ Chí Minh, Sđd, tập 10, tr.118 7. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, H.2000, tập 5, tr.253 8. Nhandan.org.vn 9. Quy định số 95-QĐ/TW ngày 3-3-2004 của Ban Bí thư về chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ cơ sở xã 10. Trường Đại Học Công Nghiệp Tp. Hồ Chí Minh. Đề cương bài giảng Tư tưởng Hồ Chí Minh 11. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến Bộ, M, 1978, tiếng Việt, tập 14, tr.324 MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTTHCM005 KILOBOOKS.COM.doc
  • pdfTTHCM005 KILOBOOKS.COM.pdf
Luận văn liên quan