Ý thức được giá trịcủa đạo Phật đối với nhân loại trong sứ
mạng cao quý nêu trên và trước sựtiến hóa vô cùng của khoa học,
kỹthuật, tin học, truyền thông, báo chí, trình độdân trí ngày càng
cao, nâng địa vịcon người trên thếgiới trởthành nhân bản, đạo Phật
cần dấn thân đi vào cuộc đời đểchuyển hoá cuộc đời, qua chất liệu
từbi – hỷxả– trí tuệ
Nhiều nhà tưtưởng, nhà khoa học, nghiên cứu hoặc các nhà
tâm linh đều có chung một nhận định: Tinh thần Phật giáo là giải
pháp thích hợp cho mọi thời đại để đem lại an lạc và hạnh phúc cho
loài người và vạn vật trên hành tinh nầy, vì đạo Phật là tôn giáo hòa
bình, thực dụng, luôn luôn “tùy duyên bất biến” và có nội dung hàm
súc qua 3 chặng đường Giới Định Huệ, làm khai triển Tánh Phật,
nơi đó đầy đủtâm đức: Bi Trí Dũng.
34 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3140 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tư tưởng triết học của phật giáo và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hóa tinh thần của người việt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nương vào hiện tượng sinh lý, vật lý.
Nói nương nhau để phát sinh chứ không phải các hiện tượng sinh lý, vật lý sinh ra
Tư tưởng triết học Phật giáo và những ảnh hưởng … Trang 7
Tiểu luận triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa
các hiện tượng tâm lý.
Hiểu như vậy thì thấy rõ không phải tâm sinh vật hay vật sinh tâm. Những
hiện tượng sinh lý vật lý và những hiện tượng tâm lý ấy chỉ tương sinh tương thành.
2.2.2 Quy trình, con đường và phương pháp nhận thức
Sự nhận thức phát triển theo hai con đường tư trào là hướng nội và hướng
ngoại. Phật giáo thường quan tâm đến tư trào hướng nội tức là mỗi người tự chiêm
nghiệm suy nghĩ của bản thân. Có hai phương pháp để nhận thức là :
¾ Tiệm ngộ: là sự giác ngộ, nhận thức một các dần dần, có tính chất là “trí
hữu sư”.
¾ Đốn ngộ: là sự giác ngộ bộc phát, bùng nổ có tính chất là “trí vô sư”.
Với hai phương pháp ấy sự nhận thức Phật giáo được chia làm hai giai đoạn:
¾ Giai đoạn một là từ tùy giác đến thể nhập. Nhận thức bắt đầu từ cảm giác
và phụ thuộc vào cảm giác đưa lại. Kết quả là con người biết được cái tiếp xúc giữa
thế giới khách quan và giác quan của con người và từ sự tiếp xúc này tạo nên yếu
tố “thọ” trong ngũ uẩn. Theo nhà Phật nói chữ thọ ở đây là sự tiếp xúc của sáu căn
với sáu trần tạo nên yếu tố thọ. Căn cứ ở đây là những khả năng nhận thức của các
giác quan. Trần là loại kích thích từ thế giới bên ngoài. Nếu kích thích tương ứng
với các căn thì con người có cảm giác. Sáu căn là: nhăn, nhỉ, tù, thiệt, thân, ý. Sáu
trần là: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. “Thọ”, cho chúng ta nhận biết được những
hiện tượng riêng lẻ, những cái bề ngoài, ngẫu nhiên. Trong một số trường hợp khác
gọi đó là kinh nghiệm. Từ những tri thức cảm tính kinh nghiệm nêu trên, con người
sẽ đi sâu để nhập vào bản thể của sự vật để biết được cái bên trong, bản chất đó là
tri thức định lý.
¾ Giai đoạn hai là sự nhận thức đi từ cái tâm tại đến cái tâm siêu thể. Từ kết
quả của giai đoạn trước, con người bắt được cái tâm tính của những sự vật hữu hình
tái thế và đặc biệt là cái tâm ở trong mỗi con người và nâng lên để nắm được cái
tâm siêu thoát, cái tâm trung.
Để đạt được sự nhận thức đó thì có nhiều phương pháp song hai phương pháp
sau: Tam học và Tam huệ là chủ yếu.
¾ Tam học là giới, định, tuệ.
Tư tưởng triết học Phật giáo và những ảnh hưởng … Trang 8
Tiểu luận triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa
− Giới: gồm có những phương tiện để thay đổi lối suy nghĩ, lối sinh hoạt
hàng ngày của con người sống theo đạo, thích hợp với đạo là luôn hướng về thiện.
− Định: là đình chỉ mọi tư tưởng xấu, ý nghĩ xấu và còn là tập trung tư
tưởng suy nghĩ để làm mọi việc yên lành.
− Tuệ: là trí tụê sáng suốt, đã thấu được lý vô thường, vô ngã, do đó chỉ nghĩ
đến làm việc thiện, mưu lợi cho chúng sinh.
¾ Tam huệ là văn, tu, tư.
− Văn: là nghe pháp Phật, hiểu rõ ý nghĩa, quan niệm được bản tính thanh
tịnh, sáng suốt của mình, do đó mà có một lòng tin vững chắc nơi Phật pháp.
− Tư: là suy nghĩ về các pháp Phật đã nghe được, học được đi đến giác ngộ
bản lai tư tính của mình.
− Tu: là nương theo trí tuệ, bắt đầu trực nhận được bản tính chân như, mà tụ
tập gột rửa những thói quen mà lầm từ nhiều kiếp để lại đi đến nhập với một pháp
giới tính.
Các phương pháp trên đã phá tan các kiến chấp sai lầm chấp ngã, chấp pháp
để đi đến trung đạo và nhận rõ trung đạo là chẳng có, chẳng không. Với nhận thức
như thế, người tu hành sẽ được sống trong sự giải thoát, sinh tử luân hồi sẽ không
còn nữa.
2.3 Nhân sinh quan Phật giáo
Từ một vũ trụ quan căn cứ trên những thuyết nhân duyên sinh, thuyết sự vật
duyên khởi,... chúng ta sẽ tìm hiểu về những quan niệm của đạo Phật về vấn đề
nhân sinh quan. Ở đây chúng ta sẽ lần lượt trả lời các câu hỏi:
¾ Có phải cuộc sống chỉ toàn là đau khổ? Và vấn đề giải thoát trong đạo
Phật là gì?
¾ Con người là gì? Từ đâu mà sinh ra? Chết rồi đi đâu? Vị trí của con người
trong đạo Phật.
¾ Quan niệm của Phật về các vấn đề: bình đẳng, tự do, dân chủ...
Trước khi trả lời các câu hỏi trên chúng ta sẽ tìm hiểu và phân tích Tứ diệu đế
vì đây là giáo lý kinh điển của Phật giáo bao quát toàn bộ các vấn đề trên.
Tư tưởng triết học Phật giáo và những ảnh hưởng … Trang 9
Tiểu luận triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa
2.3.1 Tứ diệu đế
Tứ diệu đế còn gọi là tứ chân đế hay tứ thánh đế, là bài thuyết pháp đầu tiên
của Phật sau khi thành đạo tại vườn Lộc Uyển cho năm từ khưu trước kia đi theo
Phật. Tứ đế là đạo lý căn bản của Thanh Văn Thừa, đồng thời cũng là cơ sở của các
thuyết khác trong giáo lý Phật. Tứ đế gồm có: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế.
a) Khổ đế
Trong tứ diệu đế, Phật đưa ra đầu tiên vấn đề khổ, rồi giảng cho ta thấy vì sao
mà khổ, phương pháp diệt khổ và con đường đi đến diệt khổ.
Nói như thế có người hiểu lầm cho rằng đạo Phật chủ trương cuộc đời chỉ toàn
là khổ, và đạo Phật là đạo yếm thế. Thực ra, đạo Phật nhìn cuộc đời một cách khách
quan, không ru người ta vào một giấc mơ Niết Bàn hay cực lạc và cũng không làm
cho người ta sợ hãi, chán nản bởi những đau khổ trong cuộc sống. Phật chỉ cho
chúng ta nhận thức sự vật, cuộc đời theo chân tướng của nó và chỉ dẫn cho chúng ta
đi đến giải thoát.
Danh từ Dukkha của tiếng Xantít ta thường dịch là khổ là chưa thật hết nghĩa
nên mới dẫn đến những hiểu lầm trên.
Trong phép tướng duy thức có nói đến ba loại thụ: khổ thụ, lạc thụ, xả thụ.
Như vậy không phải chỉ có khổ thụ mà còn có lạc thụ. Đối với cảnh nghịch sinh ra
khổ thụ nhưng đối với cảnh thuận thì sinh ra lạc thú. Các cảnh có thể làm cho
người ta vui hoặc khổ hoặc không vui, không khổ. Đạo phật không phủ nhận những
cảm giác vui (lạc thú) của cuộc đời mà còn phân tích ra nhiều hình thức vui. Nhưng
những cái vui ấy, cũng như những cái khổ ấy đều bao gồm trong danh từ Dukkha,
vì những cái vui, cũng như những cái khổ ấy đều là vô thường hư giả.
Dù người tu hành chứng được những trạng thái thiền định cao siêu thì những
lạc thú siêu thoát ấy vẫn là Dukkha vì những người tu hành ấy chưa thoát khỏi tam
giới vô thường, hư giả.
Khổ thụ và lạc thụ đều là Dukkha cả, do đó chúng ta phải diệt là diệt cái
Dukkha ấy chứ không phải là tránh khổ, tìm vui như thế gian thường hiểu, thường
lầm.
Theo cách phân tích khác, Phật chia cái khổ ra làm 8 loại:
Tư tưởng triết học Phật giáo và những ảnh hưởng … Trang 10
Tiểu luận triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa
1. Sinh khổ: đã có sinh là có khổ vì đã sinh nhất định có diệt, bị luật vô
thường chi phối nên khổ.
2. Lão khổ: người ta mong muốn trẻ mãi nhưng cái già theo thời gian vẫn cứ
đến. Cái già vào mắt thì mắt bị mờ đi, cái già vào lỗ tai thì tai bị điếc, vào da,
xương tủy thì da nhăn nheo, xương tủy mệt mỏi. Cái già tiến đến đâu thì suy
yếu đến ấy làm cho người ta phiền não.
3. Bệnh khổ: trong cuộc sống, thân thể thường ốm đau, nhất là khi già yếu,
thân thể suy nhược, bệnh tật dễ hoành hành làm cho người ta đau khổ.
4. Tử khổ: là cái khổ khi người ta chết. Chứng sinh do nghiệp báo chịu cái
thân nào thì gắn bó với cái thân ấy coi như cái thân duy nhất của mình thì khi
chết thì phiền não vô cùng.
5. Cầu bất đắc khổ (thất vọng): người ta thường chạy theo những điều mình
ưa thích, mong cầu hết cái này đến cái khác. Khi chưa cầu được thì phiền não,
khi cầu được rồi thì phải lo giữ nó, nếu nó mất đi thì lại luyến tiếc.
6. Ái biệt ly khổ: nỗi khổ khi phải chia ly.
7. Oán tắng hội khổ: những điều mình chán ghét thì nó cứ tiến đến bên mình.
8. Ngũ ấm xí thịnh khổ: ngũ ấm ấy là sắc ấm, thụ ấm, tưởng ấm, hành ấm,
thức ấm. Ngũ ấm ấy che lấp trí tuệ, phải chịu cái khổ luân hồi trong vô lượng
kiếp.
b) Tập đế
Nếu chúng ta muốn tự mình thoát khỏi khổ đau, trước hết chúng ta phải tìm ra
nguyên nhân, đó là Tập đế. Những nguyên nhân đó không phải tìm đâu xa mà ở
ngay trong mỗi chúng ta. Nguyên nhân thì có nhiều nhưng có thể tóm lại như sau:
1. Tham: là tham lam.
2. Sân: là giận dữ.
3. Si: là si mê, mờ ám.
4. Mạn: là tự nâng cao mình lên, hạ người khác xuống.
5. Nghi: là nghi ngờ, không có lòng tin.
6. Thân kiến: tưởng thân thể là thực có là trường tồn.
Tư tưởng triết học Phật giáo và những ảnh hưởng … Trang 11
Tiểu luận triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa
7. Biên kiến: sự hiểu biết một mặt như chấp đoạn, chấp thưởng.
8. Tà kiến: sự hiểu biết không đúng, là chấp theo lối tà, không chân chính,
trái với sự thật, trái với quy luật nhân quả.
9. Kiến thử: chấp nhặt hiểu biết sai trái của riêng mình là đúng.
10. Giới cấm thủ: tu hành không chính đạo.
Ba nguyên nhân chính (tham, sân, si) Phật còn gọi là tam độc, là nguồn gốc
của mọi sự khổ. Nguyên nhân của tam độc là do ái dục và vô minh được thể hiện
trong công thức sau:
Nghiệp
Ái dục + Vô minh → Sự khổ.
Ái dục: là tham ái, yêu thích do cảm thụ đi đến say đắm trước những cảnh yêu
thích, vừa lòng, chán ghét cảnh trái ý. Vì say đắm với những cảnh nên rong ruổi
theo cảnh, bám lấy cảnh hình thành nên tham vọng và ước muốn.
Vô minh: là mê lầm, không sáng suốt. Đối với những hiện tượng trụ không
nhận rõ chân tướng, thực tướng của nó là sự chuyển biến không ngừng, là vô
thường mà lại lầm tưởng các hiện tượng đó là thực có, là thường còn. Vô minh che
lấp ta không nhận thấy được chân tâm mà luôn luôn chạy theo vọng tâm, làm ta
thấy có thân, có cảnh, có ta, có người của ta và thấy quý thân ta, không quan tâm
đến người sống quanh ta.
Nghiệp: là những hoạt động về thân thể, về lời nói nên Phật gọi là thân nghiệp,
khẩu nghiệp và ý nghiệp. Kết quả của hành động ấy gọi là nghiệp báo. Không phải
hoạt động nào của ta cũng gây nghiệp báo. Những việc như: đi, đứng, nhìn, ngồi,...
thì không gây nghiệp báo. Nghiệp có hai loại: Nghiệp thiện và nghiệp ác. Như vậy,
Phật đặt số mệnh của con người trong chính tay họ. Tự con người đã gây nên nỗi
khổ cho mình.
Tập đế là một chân lý thể hiện tính biểu chứng sâu sắc trong mối quan hệ nhân
quả và đã tìm tới các nguyên nhân rất đa dạng, phong phú. Các nguyên nhân ấy
quan hệ với nhau, cái nào cũng có thể làm nhân làm duyên cho cái khác, như làn
sóng trên mặt biển, lớp trước là lớp nhân là duyên cho lớp sau và cứ thế tiếp diễn.
Nhưng cái hạn chế của tập đế là chưa đề cập đến nguyên nhân từ xã hội. Đặc biệt là
Tư tưởng triết học Phật giáo và những ảnh hưởng … Trang 12
Tiểu luận triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa
chưa nhắc tới quan hệ giai cấp, bóc lột trong xã hội. Luận điểm này thể hiện rõ từ
trào hướng nội trong nhận thức luận Phật giáo.
c) Diệt đế
Diệt đế là tích quả Niết bàn do thực hành tịnh nghiệp mà đạo đế mang lại.
Diệt đế là trừ diệt sự khổ để đi đến chỗ an lạc là chỗ kết nghiệp đã hết không
còn luân hồi sinh tử nữa.
Có tịnh nghiệp tất sinh tịnh quả. Ấy là khi diệt đế vọng niệm không còn khởi
lên, tâm hồn luôn an trụ trong cảnh vắng lặng là do cảnh giới Niết Bàn.
Niết Bàn có bốn đặc điểm: Thường – Lạc – Ngã – Tịnh.
Thường là thường còn, không biến đổi.
Lạc là an lạc, giải thoát hết phiền não, thâm tâm tự tại.
Ngã là chân ngã, chân thực, thường còn.
Tịnh là thanh tịnh, trong sạch không còn ô nhiễm.
Niết Bàn là sự chấm dứt mọi phiền não được thực hiện không phải ở một nơi
nào khác, một cõi nào khác mà thực hiện ngay trong cõi thế gian này, nhờ sự tu
hành nghiêm túc mang lại cho ta mọi trạng thái tinh thần đặc biệt: Trạng thái an lạc,
siêu thoát, tịnh diệt.
Phật dạy rằng: khi môn đệ làm cho lòng mình sạch hết tham lam, nóng giận và
si mê thì môn đệ đã đến được bến giác, tức là cảnh giới Niết Bàn. Do đó, con người
phải dày công tu dưỡng, xoá bỏ được lửa dục, lửa sân, lửa si mê để chứng được
cảnh giới Niết Bàn ngay trong cõi đời hiện tại.
d) Đạo đế
Đạo đế là con đường, là môn pháp hướng dẫn cho chúng sinh đạt được đến
quả giải thoát, ra khỏi luân hồi sinh tử.
Pháp môn tu dưỡng ra khỏi luân hồi sinh tư rất nhiều, nhưng thường được đề
cao là phương pháp 37 đạo phẩm. Phương pháp này gồm có:
1. Tứ niệm xứ: 4
2. Tứ chính cần: 4
3. Tứ như ý túc: 4
Tư tưởng triết học Phật giáo và những ảnh hưởng … Trang 13
Tiểu luận triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa
4. Ngũ cân: 5
5. Ngũ lực: 5
6. Bát chính đạo: 8
7. Thất giác : 7
Trong 37 đạo phẩm, bát chính đạo là quan trọng nhất. Nó là con đường giúp
người ta thoát khỏi phiền não, đau khổ đi tới cảnh giới Niết Bàn tự tại, an lạc. Bát
chính đạo gồm có:
1. Chính ngữ: tu nghiệp thanh tịnh, không phát ra lời nói sai trái.
2. Chính nghiệp: hành động chân chính, mang lại lợi ích cho mọi người.
3. Chính mệnh: sống bằng nghề nghiệp chân chính.
4. Chính tịnh tiến : tiến tới trên con đường đạo, không đi vào các đường tà.
5. Chính niệm: tâm trí luôn luôn nghĩ đến đạo lý vô ngã, diệt trừ những kiến
chấp mê lầm, đoạt trừ những tư tưởng, hành động bất chính.
6. Chính định: giữ tâm vắng lặng không một vọng niệm khởi lên để trí tuệ
xuất hiện, chứng quả tu đà hoàn.
7. Chính kiến: kết quả của việc sống, tư duy con người phải có ý biến lấy
tiêu biểu là các vị Phật.
8. Chính tư duy: sau khi có niệm khởi, con người sẽ tư duy, suy nghĩ một
cách chân chính, làm chủ được dòng tư duy.
Để đi qua tám con đường trên thì không ngoài ba nguyên tắc: giới, định, tuệ
hay còn gọi là tam học. Các nguyên tắc này có sự liên hệ mật thiết bổ sung cho
nhau.
Với pháp tứ diệu đế Phật muốn cho chúng sinh thấy 2 cảnh giới khác nhau là
Niết Bàn và Thân Lụy: một con đường giác ngộ, an lạc và một con đường mê lầm
tội lỗi. Và cùng phương pháp tứ diệu đế, bây giờ chúng ta có thể trả lời được các
câu hỏi đã đặt ra ở trên.
2.3.2 Những quan điểm về nhân sinh quan Phật giáo
a) Con người
Con người là sự kết hợp của ngũ uẩn (sắc, thụ, tưởng, hành, thức) gồm hai yếu
Tư tưởng triết học Phật giáo và những ảnh hưởng … Trang 14
Tiểu luận triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa
tố chính: yếu tố sinh lý (sắc) và yếu tố tinh thần (thụ, tưởng, hành, thức).
Yếu tố tinh thần chỉ phát huy tác dụng khi nó được gắn với một thân thể. Sắc
thân chỉ tồn tại trong một thời gian rồi bị huỷ diệt.
Như vậy, con người chỉ là một giả hợp sinh lý tuân theo quy luật: sinh, tục, dị,
diệt. Con người là do nhân duyên hòa hợp, không có một đấng tối thượng siêu
nhiên tạo ra con người cũng như con người không phải tự nhiên mà sinh ra. Khi
nhân duyên hòa hợp thì con người sinh, khi nhân duyên tan rã thì con người chết.
Song chết chưa phải là hết, linh hồn cũng không bất tử chuyển từ kiếp này sang
kiếp khác. Con người ở kiếp này sinh ra thì con người ở kiếp trước diệt, nhưng con
người ở kiếp sau không phải là con người ở kiếp trước nhưng cũng không khác với
con người ở kiếp trước. Con người không phải là một thực thể trường tồn mà chỉ là
một giả hợp của ngũ uẩn. Trong thời gian ngũ uẩn kết hợp, các việc thiện, ác được
thực hiện. Con người gây nghiệp và tạo ra một động lực làm xuất hiện nghiệp báo ở
kiếp sau.
Từ nhận thức trên, con người tu Phật lúc nào cũng phải cẩn thận trong một ý
nghĩ, lời nói việc làm.
b) Nhân vị trong đạo Phật
Đạo Phật là đạo chủ trương tự do, bình đẳng, từ bi.
¾ Tự do theo quan niệm của Phật là con người sống trong an lạc, giải thoát,
không có áp bức, nô lệ, cũng không bị chi phối bởi ngũ dục. Con người bị ràng
buộc bởi ngoại cảnh và một phần bởi nội tâm. Những sự áp bức, những day dứt gây
ra bởi dục vọng còn khắc nghiệt bằng vạn ngoại cảnh. Nhà lao, cường quyền, tham
nhũng, tàn ác còn chưa khắc nghiệt bằng cái ta ích kỷ. Từ đó, Phật chú trọng đến
giải phóng con người ra khỏi xiềng xích của dục vọng bằng phương pháp tu hành
diệt dục. Để sống tự do Phật tử phải đấu tranh với bản thân mình để diệt trừ dục
vọng và đấu tranh để chống mọi sự áp bức bất công.
¾ Ở một thời đại cổ xưa cách chúng ta trên 25 thế kỷ Phật đã có một quan
niệm hết sức tiến bộ đối với vấn đề bình đẳng trong xã hội. Phật đã từng nói:
“Không có đẳng cấp trong dòng máu đỏ như nhau, trong dòng nước mắt cũng mặn
như nhau. Mỗi người sinh ra không phải ai cũng mang sẵn dây chuyền ở cổ hay dấu
Tư tưởng triết học Phật giáo và những ảnh hưởng … Trang 15
Tiểu luận triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa
tica trên trán (dấu hiệu đẳng cấp của Ấn Độ)” ( trích từ Website thuvienhoasen.org).
Và những quan niệm đó được Phật thực hiện ngay trong giáo hội của mình. Phật
thu nạp vào giáo hội của Người tất cả mọi đẳng cấp, không phân biệt sang hèn,
giàu nghèo. Không dừng lại ở sự bình đẳng giữa con người với con người mà Phật
còn đi xa hơn, nêu lên sự bình đẳng giữa các chúng sinh đều có Phật tính như nhau
và đang cùng nhau: người trước, vật sau, tiến bước trên con đường giải thoát.
¾ Người ta gọi đạo Phật là đạo từ bi, người tu hành là người giàu lòng từ bi.
Từ là hiền hòa, cho vui. Bi là thương xót, cứu khổ. Từ bi là đem lại an lạc, hạnh
phúc cho người khác, cứu khổ, cứu nạn cho chúng sinh, quên đi mọi ích lợi của bản
thân mình. Nhưng từ bi không phải là thủ tiêu mọi sự đấu tranh, giữ thái độ tiêu
cực, thụ động trước mọi sự bất công, áp bức, tham nhũng. Có sức mạnh hung bạo
thì phải có sức mạnh của từ bi để chống lại. Sức mạnh đó thể hiện bằng sự giáo hóa
và bằng cả bạo lực, bạo lực từ bi. Hai chữ từ bi càng đẹp biết bao nhiêu đối với
những con người thực tâm tu luyện thì càng xấu xa bao nhiêu đối với những kẻ lợi
dụng đạo để mưu cầu lợi ích cho mình. Vấn đề giải thoát là vấn đề cơ bản trong
đạo Phật vì mục đích cuối cùng của đạo Phật là giải thoát con người khỏi cuộc sống
đau khổ trong vô minh. Việc giải phóng này là con người phải tự lực đảm nhiệm,
không ai có thể làm thay được và mỗi người phải coi sự giải thoát là cứu cánh cuối
cùng của cuộc đời.
Như vậy, đạo Phật đã đặt con người lên một vị trí hết sức quan trọng và cao
quý. Hạnh phúc của con người là do con người xây đắp nên. Con người thấm
nhuần giáo lý Phật, con người vị tha, từ bi, hỉ xả sẽ kiến lập một xã hội hòa bình, an
lạc, công bằng, mọi người sống vì lợi ích của nhau, của tập thể. Trái lại, con người
ích kỷ chỉ biết mình, hại người, con người sống tàn bạo, độc ác thì cái gì trong tay
con người cũng sẽ trở thành khí cụ sát hại và xã hội của những con người ấy là xã
hội của địa ngục, xã hội áp bức bóc lột.
Tư tưởng triết học Phật giáo và những ảnh hưởng … Trang 16
Tiểu luận triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa
CHƯƠNG 2: ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG
VĂN HÓA TINH THẦN CỦA NGƯỜI VIỆT
1. Sơ lược sự hình thành và phát triển của Phật giáo Việt Nam
Phật giáo được du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, ngay từ đầu Công nguyên
với truyện cổ tích Chử Đồng Tử (ở Hưng Yên ngày nay) học đạo của một nhà sư
Ấn Độ. Luy Lâu (thuộc tỉnh Bắc Ninh) là trị sở của quận Giao Chỉ sớm trở thành
trung tâm Phật giáo quan trọng. Các truyền thuyết về Thạch Quang Phật và Man
Nương Phật Mẫu xuất hiện cùng với sự giảng đạo của Khâu Đà La (Ksudra) trong
khoảng các năm 168 – 189.
Do tiếp thu Phật giáo trực tiếp từ Ấn Độ nên từ Buddha (bậc giác ngộ) được
phiên âm trực tiếp thành “Bụt”, từ “Bụt” được dùng nhiều trong các truyện dân
gian. Phật giáo Việt Nam lúc ấy mang màu sắc của Tiểu thừa, Bụt được coi như
một vị thần chuyên cứu giúp người tốt, trừng phạt kẻ xấu. Sau này, vào thế kỷ thứ 4
– 5, do ảnh hưởng của Đại thừa đến từ Trung Quốc mà từ “Bụt” bị mất đi và được
thay thế bởi từ “Phật”. Trong tiếng Hán, từ Buddha được phiên âm thành “Phật đà”,
“Phật đồ” rồi được rút gọn thành “Phật”.
Phật giáo ăn sâu, bám rễ vào Việt Nam từ rất sớm. Đến đời nhà Lý, nhà Trần,
Phật giáo phát triển cực thịnh, được coi là quốc giáo, ảnh hưởng đến tất cả mọi vấn
đề trong cuộc sống. Đến đời nhà Hậu Lê thì Nho giáo được coi là quốc giáo và Phật
giáo đi vào giai đoạn suy thoái. Đến đầu thế kỷ 17, vua Quang Trung cố gắng chấn
hưng đạo Phật, chỉnh đốn xây chùa, nhưng vì mất sớm nên việc này không có nhiều
kết quả. Đến thế kỷ 20, mặc dù ảnh hưởng mạnh của quá trình Âu hóa, Phật giáo
Việt Nam lại phát triển mạnh mẽ khởi đầu từ các đô thị miền Nam với các đóng
góp quan trọng của các nhà sư Khánh Hòa và Thiện Chiếu.
Tóm lại, lịch sử Phật giáo Việt Nam trải qua bốn giai đoạn:
¾ Từ đầu công nguyên đến hết thời kỳ Bắc thuộc là giai đoạn hình thành và
phát triển rộng khắp
¾ Thời nhà Lý – nhà Trần là giai đoạn cực thịnh
¾ Từ đời Hậu Lê đến cuối thế kỷ 19 là giai đoạn suy thoái
Tư tưởng triết học Phật giáo và những ảnh hưởng … Trang 17
Tiểu luận triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa
¾ Từ đầu thế kỷ 20 đến nay là giai đoạn phục hưng.
Trên bước đường truyền bá và hội nhập, Phật giáo luôn luôn cố gắng thực
hiện hai điều đó là khế lý và khế cơ. Khế lý là nói về mặt tư tưởng nhờ khế lý nên
dù ở thời gian và không gian nào, giáo lý Phật đà vẫn hợp với chân lý, tư tưởng vẫn
luôn luôn phong phú, sâu sắc mà vẫn giữ được bản chất của mình và chỉ có một vị
đó là vị giải thoát.
Khế cơ thiên về mặt lịch sử, nhờ khế cơ nên dù trong hoàn cảnh và quốc độ
nào thì sự sinh hoạt, thể hiện, truyền đạt cũng luôn luôn đa dạng. Tùy theo phong
tục tập quán của mỗi quốc gia mà vẫn không hề mất gốc (Phật giáo). Nói một cách
khác thì có thể tùy nghi phương tiện theo từng vùng miền để truyền bá giáo lý Phật
đà nhưng không làm mất đi bản sắc của Phật giáo là ứng hợp với mọi tầng lớp và
căn cơ chúng sinh.
Tên gọi tuy có khác nhưng giáo lý vẫn là một nên gọi là khế lý, dù một mà
không phải một, nên có lắm tên Phật giáo Việt Nam, Phật giáo Tây Tạng, Phật giáo
Thái Lan, v.v. tất cả đều có tên chung là Phật giáo. Đây gọi là khế cơ là bản địa hóa,
hay sắc thái Phật giáo của từng vùng miền.
Khi Phật giáo được truyền vào Việt Nam đã được các vị thiền sư người Việt
bản địa hóa, khiến Phật giáo hòa mình vào lòng dân tộc tạo nên một sắc thái đặc
biệt của riêng Việt Nam. Phật giáo đã cùng sinh tồn cùng dân tộc. Điểm này dễ
dàng nhận thấy trong những thời đại hưng thịnh của đất nước như Đinh, Lê, Lý
Trần đều là những lúc Phật giáo cũng song hành hưng thịnh và các vị thiền sư có vị
trí quan trọng trong các triều đại đó.
2. Một số đặc điểm của Phật giáo Việt Nam
2.1 Tính tổng hợp
Tổng hợp là một trong những đặc tính của lối tư duy nông nghiệp, chính vì thế
tổng hợp là đặc tính nổi bật nhất của Phật giáo Việt Nam.
2.1.1 Tổng hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng truyền thống
Phật giáo thờ Phật trong chùa, tín ngưỡng truyền thống Việt Nam là thờ thần
trong miếu và thờ Mẫu trong phủ, bốn vị thần được thờ nhiều nhất là Tứ pháp: Mây
– Mưa – Sấm – Chớp. Tuy nhiên bốn vị thần này đã được “Phật hóa”. Các pho
Tư tưởng triết học Phật giáo và những ảnh hưởng … Trang 18
Tiểu luận triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa
tượng này thường được gọi tượng Phật Pháp Vân, Phật Pháp Vũ, Phật Pháp Lôi và
Phật Pháp Điện, trên thực tế các tượng này hoàn toàn điêu khắc theo tiêu chuẩn của
một pho tượng Phật. Nghĩa là đầy đủ 32 tướng tốt cùng 80 vẻ đẹp, mà một trong
những nét tiêu biểu chính là tướng nhục kế, những khế ấn, và khuôn mặt đầy lòng
từ mẫu... Các hệ thống thờ phụ này tổng hợp với nhau tạo nên các ngôi chùa “tiền
Phật, hậu thần” hay “tiền Phật, hậu Mẫu”. Người Việt Nam đưa các vị Thần, Thánh,
Mẫu, thành hoàng thổ địa, anh hùng dân tộc... vào thờ trong chùa. Đa số các chùa
còn để cả bia hậu, bát nhang cho các linh hồn đã khuất.
2.1.2 Tổng hợp giữa các tông phái Phật giáo
Các tông phái Phật giáo Đại thừa sau khi du nhập vào Việt Nam trộn lẫn với
nhau. Dòng thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi pha trộn với Mật giáo. Nhiều vị thiền sư đời
Lý như Vạn Hạnh, Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không,... đều giỏi pháp thuật và
có tài thần thông biến hóa. Thiền tông còn kết hợp với Tịnh Độ tông như là trong
việc tụng niệm Phật A Di Đà và Bồ Tát.
Các điện thờ ở chùa miền Bắc có vô cùng phong phú các loại tượng Phật, bồ
tát, la hán của các tông phái khác nhau. Các chùa miền Nam còn có xu hướng kết
hợp Tiểu thừa với Đại thừa. Nhiều chùa mang hình thức Tiểu thừa (thờ Phật Thích
Ca Mâu Ni, sư mặc áo vàng) nhưng lại theo giáo lý Đại thừa; bên cạnh Phật Thích
Ca Mâu Ni còn có các tượng Phật nhỏ khác, bên cạnh áo vàng còn có áo nâu, áo
lam.
2.1.3 Tổng hợp giữa Phật giáo với các tôn giáo khác
Tín ngưỡng truyền thống đã tiếp nhận Phật giáo ngay từ đầu Công nguyên.
Sau đó Phật giáo cùng tín ngưỡng truyền thống tiếp nhận Đạo giáo. Rồi tất cả cùng
tiếp nhận Nho giáo để làm nên “Tam giáo đồng nguyên” (cả ba tôn giáo có cùng
một gốc) và “Tam giáo đồng quy” (cả ba tôn giáo có cùng một mục đích). Ba tôn
giáo trợ giúp lẫn nhau: Nho giáo lo tổ chức xã hội, Đạo giáo lo thể xác con người,
Phật giáo lo tâm linh, kiếp sau của con người. Trong nhiều thế kỷ, hình ảnh “Tam
giáo tổ sư” với Thích Ca Mâu Ni ở giữa, Lão Tử ở bên trái, Khổng Tử ở bên phải
đã in sâu vào tâm thức mọi người Việt.
Ngoài ra Phật giáo Việt Nam còn được hòa trộn với tất cả các tôn giáo khác để
Tư tưởng triết học Phật giáo và những ảnh hưởng … Trang 19
Tiểu luận triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa
hình thành Đạo Cao Đài vào thập niên 1920 với quan điểm là “Thiên nhân hợp
nhất” và “Vạn giáo nhất lý”.
2.2 Tính hài hòa âm dương
Sau tính tổng hợp, hài hòa âm dương là một trong những đặc tính khác của lối
tư duy nông nghiệp, nó ảnh hưởng rất lớn đến Phật giáo Việt Nam làm cho Phật
giáo Việt Nam có phần thiên về nữ tính.
Các vị Phật Ấn Độ xuất thân là nam giới, khi vào Việt Nam bị biến thành
“Phật ông – Phật bà”. Phật Bà Quan Âm (biến thể của Quán Thế Âm Bồ Tát) là vị
thần hộ mệnh của vùng Nam Á nên còn được gọi là Quan Âm Nam Hải. Ngoài ra
người Việt còn có những vị Phật riêng của mình như Man Nương Phật Mẫu (tên
khác: Phật Mẫu), Quan Âm Thị Kính (tên khác: Quan Âm Tống Tử), Quan Âm
Diệu Thiện (tên khác: Phật Bà Chùa Hương, Bà chúa Ba).
2.3 Tính linh hoạt
Phật giáo Việt Nam còn có một đặc điểm là rất linh hoạt, mà nhà Phật thường
gọi là “tùy duyên bất biến; bất biến mà vẫn thường tùy duyên” nghĩa là tùy thuộc
vào tình huống cụ thể mà người ta có thể tu, giải thích Phật giáo theo các cách khác
nhau. Nhưng vẫn không xa rời giáo lý cơ bản của nhà Phật. Ví dụ: Các vị bồ tát,
các vị hòa thượng đều được gọi chung là Phật, Phật Bà Quan Âm (vốn là bồ tát),
Phật Di Lặc (vốn là hòa thượng),... Ngoài ra Phật ở Việt Nam mang dáng dấp hiền
hòa và dân dã: ông Bụt Ốc (Thích Ca tóc xoăn), ông Nhịn ăn mà mặc (chỉ Thích Ca
Tuyết Sơn),... Trên đầu Phật Bà Chùa Hương còn có lọn tóc đuôi gà rất truyền
thống của phụ nữ Việt Nam.
3. Những ảnh hưởng của Phật giáo đến đời sống văn hóa tinh thần của
người Việt
3.1 Những ảnh hưởng tích cực
Từ khi du nhập Việt Nam đến nay, Phật giáo đã tồn tại và gắn liền với lịch sử
dân tộc, nó ngấm sâu vào tư duy và trở thành một bộ phận văn hóa, nếp sống của
người Việt. Vậy nó ảnh hưởng đến đời sống văn hóa tinh thần của người Việt Nam
ra sao?
3.1.1 Phật giáo đã ảnh hưởng đến tư duy, tập tục tín ngưỡng của người dân
Tư tưởng triết học Phật giáo và những ảnh hưởng … Trang 20
Tiểu luận triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa
Việt
a) Tư duy
Tư duy người Việt là chú ý nhiều tới các quan hệ. Người Việt Nam cũng
như phương Đông cho rằng không có gì là trường tồn, đứng yên mà vạn vật luôn
vận động, biến đổi không ngừng. Vì vạn vật sinh sinh, hóa hóa, sắc sắc, không
không nên cái ta thấy được chỉ là những mối liên hệ thấp thoáng giữa các trạng thái
của sự vật trong quan hệ với những sự vật khác. Để chỉ những mối liên hệ, Phật
giáo có luật nhân quả. Không có cái tôi độc lập, không có thế giới tách rời “cái tôi”,
không có “cuộc sống” tách rời – tất cả những cái đó là những tương tác chặt chẽ và
chỉ bị tách rời nhau trong tưởng tượng. Do vậy mà người phương Đông, Việt Nam
theo đạo Phật thường để ý nhiều đến mối quan hệ, chủ yếu cảm tính, đạo đức nên
nhiều nhìn nhận sai lệch, có tính chủ quan duy ý trí. Do đó, cuộc sống người Việt
Nam thường chú ý nhiều đến quan hệ họ hàng, làng xóm, xã hội sao cho khôn khéo,
tế nhị.
Tư duy người Việt Nam ta trong truyền thống là hướng nội. Hướng ngoại
là thiên về nghiên cứu thế giới vật chất bên ngoài. Hướng nội là thiên về nghiên
cứu thế giới tinh thần bên trong. Do đạo Phật quan niệm vạn vật đồng nhất thể, nên
bản thể vũ trụ cũng tiềm ẩn trong mỗi con người. Điểm này khiến người Việt trong
cuộc sống đề cao cái tâm, lối sống tình cảm. Cách suy nghĩ và lối sống mang nặng
màu sắc tình cảm, một mặt giúp nhân dân ta trong những thời hoạn nạn, thiên tai,
địch họa... nhưng nó cũng làm hạn chế sự tiến bộ của khoa học – kỹ thuật.
Tư duy người Việt có thêm 1 loạt khái niệm lấy từ Phật giáo. Những khái
niệm đó góp phần làm tăng những khái niệm mang tính triết lý của người Việt,
khiến tư duy người Việt mang tính khái quát hơn, trừu tượng hơn. Nhiều từ ngữ
Phật giáo đã được người dân Việt Nam sử dụng trong đời sống hằng ngày, một
cách tự nhiên và nhuần nhuyễn, như là tiếng phổ thông, thậm chí người sử dụng nó
cũng không biết được nguồn gốc xuất xứ là Phật giáo. Thí dụ, hai chữ “tội nghiệp”
(Tội nghiệp là tội của nghiệp), “Hằng hà sa số” (là một hình ảnh Phật thường dùng
khi thuyết pháp để diễn tả số lượng rất nhiều). Từ “Bụt” trong câu “Hiền như Bụt”
vì họ quan niệm Phật như một ông Thần có rất nhiều quyền năng, nhưng lại rất là
hiền từ, chỉ cứu người chứ không bao giờ làm hại người. Thậm chí họ còn nói đùa
Tư tưởng triết học Phật giáo và những ảnh hưởng … Trang 21
Tiểu luận triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa
“lành như Bụt đất” mà không sợ gì cả. Ngoài ra, ảnh hưởng của Phật giáo lên cách
tư duy còn thể hiện ở quan niệm về sự phát triển của vạn vật qua 4 giai đoạn: sinh
(ra đời, xuất hiện), trụ (tồn tại, hiện hữu), dị (phát triển, tiến hoá, biến đổi) và diệt
(tử, chết, biến mất), còn ở con người đó là sinh, lão, bệnh, tử. Đó là sự phát triển tự
nhiên, tất yếu của mọi sự vật, hiện tượng, mọi sự sống. Các khái niệm “vô thường”,
“vô ngã” cũng ảnh hưởng nhiều tới hệ tư tưởng phong kiến Việt Nam.
Tư tưởng từ bi của Phật giáo thấm đẫm trong tâm hồn Việt từ người bình dân
đến kẻ trí thức, thể hiện trong truyện kể dân gian cũng như trong thơ văn bác học.
Trong truyện kể dân gian, bao giờ Phật cũng hiện lên để cứu khổ, cứu nạn cho con
người. Lấy ở vở chèo Quan Âm Thị Kính nổi tiếng vì lời hay múa đẹp, vì nỗi oan
tình được cửa Từ Bi cứu vớt mà không minh được oan. Câu chuyện Phật giáo Triều
Tiên đó phù hợp với người Việt Nam đến nỗi không mấy ai nhớ đó là câu chuyện
của Triều Tiên. Bởi lẽ, tư tưởng Từ Bi Bác ái của nhà Phật đã được diễn đạt hết sức
dân gian, hết sức Việt Nam và có lẽ Việt Nam hơn Truyện Kiều. Một điều đáng nói
ở đây là câu chuyện Quan Âm Thị Kính được thể hiện bằng chèo, một hình thức
nghệ thuật dân gian hơn cả văn thơ lục bát vốn cũng mang đậm tính dân gian. Phật
giáo đã thổi vào tâm hồn người Việt một làn gió mát Từ Bi. Chất Từ Bi của nhà
Phật thấm sâu không những trong những nghệ sĩ dân gian vô danh mà còn đi sâu
vào lòng những người dân bình dị. Đó là độ thấm sâu của tư tưởng Phật giáo vào
văn hóa Việt Nam chứ không phải tất cả tư tưởng Tứ Diệu Đế của Phật giáo. Phật
giáo vào Việt Nam mang đậm tính dân gian đến nỗi những người dân mặc dù theo
Phật giáo nhưng ít có hiểu biết về Phật. Phật giáo có ảnh hưởng với văn hóa Việt
Nam trong suốt chiều dài lịch sử đất nước. Hiện nay Phật giáo vẫn còn là một tác
nhân tác động mạnh trong xã hội. Chúng ta dễ nhận thấy Phật giáo đã mang đến
cho người Việt những ngôi chùa cổ kính, những pho tượng bề thế rải khắp xóm
làng làm tăng lòng từ bi và hướng thiện của người bình dân. Phật giáo đã đưa đến
một trung tâm văn hóa làng một thời sôi động. Phật giáo cũng đã mang đến trong
tâm hồn người Việt một đời sống tâm linh sâu đậm từ khi du nhập cho đến nay.
Trong lịch sử, Phật giáo cũng luôn gắn liền với vận mệnh của dân tộc. Đến thế kỷ
XX, Phật giáo với những nhà sư Tây học đã đóng góp một phần nhỏ trong sự thành
công của cách mạng, mở ra một nước Việt Nam độc lập. Chỉ những nhà sư và tín
Tư tưởng triết học Phật giáo và những ảnh hưởng … Trang 22
Tiểu luận triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa
đồ đi theo cách mạng mới có tác động tích cực hơn.
b) Tập tục tín ngưỡng
Bởi lòng vị tha, từ bi, bác ái của đạo Phật đã ăn sâu vào tâm trí người dân Việt,
nên đời sống tâm linh hướng Phật ngày càng nhiều như đi chùa, hái lộc, ăn chay
niệm Phật. Những ngày rằm, mồng một, những ngày lễ tết, hay những ngày đại lễ
Phật Đản, Vu Lan (được tổ chức trọng thể ở chùa Vĩnh Nghiêm và nhiều chùa khác
hàng năm), đông đảo khách thập phương với đủ mọi thành phần đã quy tụ về chùa.
Thông qua các đại lễ, họ cảm thấy gắn bó với nhau hơn, tình yêu quê hương đất
nước được khơi dậy (ân đất nước), nhớ ơn tổ tiên, ông bà, cha mẹ đã có công nuôi
lớn, dưỡng dục mình (ân cha mẹ).
3.1.2 Hình tượng Phật giáo xuất hiện trong ca dao dân ca, truyện dân gian, tác
phẩm văn học, thơ ca,..., điêu khắc, hội họa
Thật vậy, những buổi trưa hè nóng bức, vẳng bên tai ta nghe những lời ca dao
tục ngữ của người mẹ hát ru con, cho đến các cụ già vừa ngâm thơ, vừa làm các
công việc tỉ mỉ vụn vặt của vườn tược hay đồng áng.
“Linh đinh qua cửa thần phù,
Khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm”. (Thuyết của đạo Phật)
Rồi đến các truyện dân gian xa xưa mà người Việt Nam ai nấy đều biết như
truyện Tấm Cám, truyện Con Muỗi... đều có nội dung Phật giáo rõ rệt: Tấm, con
người lành, dù bị hại nhưng vẫn không chết, khi thì làm trái thị, khi thì làm chim
hoàng anh, và cuối cùng nhờ sự che chở của ông Bụt từ bi, vẫn đoàn tụ được với
hoàng tử người yêu, còn bà mẹ ghẻ ác độc phải ăn mắm xác chết con mình. Đó là
thuyết nhân quả nghiệp báo, thuyết luân hồi, thuyết từ bi của đạo Phật. Người vợ
đẹp nhưng tà dâm trong truyện Con Muỗi phải tái sanh làm con muỗi... Những
truyện như vậy nhiều lắm, chứng tỏ đạo Phật đã đi sâu vào trong đời sống xa xưa.
Sau này, triết lý đạo Phật được thơ ca hóa trong Truyện Kiều của Nguyễn Du
đến mức độ tuyệt diệu, đến nỗi người Việt Nam, nam cũng như nữ, già cũng như
trẻ đều như thấy mình một phần trong cô Kiều. Một thời gian dài người dân Việt
Nam đã đua nhau bói Kiều. Như câu:
Đã mang lấy nghiệp vào thân,
Tư tưởng triết học Phật giáo và những ảnh hưởng … Trang 23
Tiểu luận triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa.
Thiện căn ở tại lòng ta,
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.
Theo đạo Phật, con người chịu hoàn toàn trách nhiệm về mọi sự việc hay hoặc
dở xảy ra cho mình, không phải cầu trời mà được phúc, cũng không nên trách trời
nếu mang họa. Trước tiên, hãy xét mình đã và đang làm gì đây, đã tạo nghiệp thiện
hay ác. Cuộc đời của mình chính là ở trong bàn tay của mình, chứ không do một
Phật hay một trời đất nào an bày cả. Một triết lý như vậy thúc đẩy hành động và
sáng tạo, thể hiện sự tích cực trong việc đề cao trách nhiệm của mọi người về mọi
hành động hiện tại và tương lai.
Các tượng Phật, Bồ Tát, La Hán, Kim Cương, Thiên Vương còn giữ lại được
trong các chùa tháp cho chúng ta biết về trình độ nghệ thuật điêu khắc tạo hình cao
của các nghệ sĩ và nghệ thuật tôn giáo bị gò bó trong những công thức nhất định.
Thí dụ, không thể tạc tượng Phật, vẽ tranh chân dung Phật như thế nào cũng được.
Dáng mặt Phật phải lộ vẻ từ bi, nhưng lại phải bình thản, siêu thoát. Đôi mắt Phật
phải là đôi mắt sáng của trí tuệ, nhưng nếu tạc hay vẽ trượng to và sáng quá thì
cũng không đúng. Tượng và tranh Phật Thích Ca bao giờ cũng phải là tượng và
tranh của nhà tu hành, của người xuất gia với màu áo cà sa. Không thể đắp cho
Phật bộ áo khác được, dù là áo đẹp. Phật Thích Ca xuất hiện trên thế gian này như
một con người, cho nên không thể và không nên tạc tượng Phật, vẽ tranh Phật dưới
những hình dạng quái dị như ba đầu, sáu tay. Đó là điểm khác với các tượng Bồ tát,
như Bồ Tát Quan Âm nghìn mắt nghìn tay, hay là tượng các thần Ấn Độ giáo, như
Thần Chim... Nhưng trong phạm vi những công thức như vậy, nghệ sĩ và nghệ nhân
tạc tượng vẽ tranh Phật vẫn phát huy được tài năng khéo léo sáng tạo của mình, thể
hiện ở chỗ gây được cho người xem lòng thành kính, niềm tin và nhất là tạo được
cho người xem cảm giác ấm áp. Phật không phải là một Thượng Đế nào xa lạ, mà
là rất gần gũi với mọi người, với con người. Tượng, tranh nữ Bồ Tát Quan Âm là
tượng tranh của bà mẹ hiền Việt Nam, đẹp, siêu thoát, nhưng lại rất gần gũi, mang
bản sắc dân tộc.
3.1.3 Phật giáo đã góp phần đào tạo một tầng lớp trí thức
Tư tưởng triết học Phật giáo và những ảnh hưởng … Trang 24
Tiểu luận triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa
Tầng lớp trí thức đầu tiên mà Phật đã đào tạo mang tính chất nhà sư am hiểu
nho giáo. Tăng thống Ngô Chân Lưu hiệu là Khuông Việt đại sư là một nhân vật
tiêu biểu.
Khi người Hán đến cai trị nước ta thì họ mang chữ Hán đến. Nhưng khi đến
vùng đất này, người Hán chủ trương không mở trường đào tạo trí thức người Việt
mà chủ yếu đưa người Hán sang làm quan cai trị. Đến thời kỳ đầu Công Nguyên
chỉ có một Trương Trọng và mãi mới có vài ngươì như Lý Cầm, Lý Tiến để học
hành để đấu tranh làm quan. Một số khác như Tích Quan Nhâm Diên, Sĩ Nhiếp tuy
có dạy học nhưng đều không có dấu hiệu phổ cập chữ Hán, biểu thị cụ thể nhất là
không thấy xuất hiện một giai tầng lớp trí thức Việt trước thế kỷ thứ VII.
Tầng lớp trí thức Việt đầu tiên là trí thức Phật giáo. Người đầu tiên để lại tên
tuổi là Pháp Hiền (? – 626). Phật giáo truyền vào đầu cuối thế kỷ thứ II, hình thành
trung tâm Dâu mà Pháp Hiền là nhà sư Việt đầu tiên lưu tên trong sơn môn. Vấn đề
đặt ra là, người ta truyền bá và phát triển đạo Phật bằng ngôn ngữ và văn tự gì
trong thời kỳ đầu? Nhà sư Ấn Độ Tì Ni Đa Lưu Chi từ Trung Quốc đến đầu năm
580 trụ trì ở đó, dịch một quyển kinh Tổng Trì. Ông ta đến Trung Quốc năm 562
(hay 574), gặp lúc các Phật giáo đang bị đàn áp, Tăng Xán đang trốn tránh nên
khuyên ông xuống phương Nam. Ông đến chùa Chế Chí ở lại 6 năm dịch hai bộ
kinh. Như vậy ông đã học được văn tự Hán. Cho nên khi đến Dâu, ông đã dùng
ngôn ngữ và văn tự đó để truyền bá Phật giáo.
Thế kỷ VII – VIII, tăng sĩ Việt Nam có nhiều người có trí thức uyên thâm về
Phật giáo. Nhiều người giỏi cả Phạn ngữ, đã tham gia giải kinh Phật.
Như trước đó, thế kỷ thứ III, tư liệu để lại cho biết về Đạo Thanh, một người
Việt giúp nhà sư ấn Độ dịch Pháp Hoa Tam Muội Kinh ở nước ta khoảng năm 255
– 256.
Tuy nhiên do chính sách nô dịch hà khắc và việc hạn chế đào tạo người Việt
trở thành trí thức, chính quyền đô hộ Hán – Đường đã gián tiếp hun đúc các thiền
sư Việt Nam ý thức về một nền độc lập dân tộc. Những nhà sư Phật giáo đã là tầng
lớp trí thức trụ cột cho những chính quyền độc lập đầu tiên như các nhà tiền Lê –
Lý – Trần.
Tư tưởng triết học Phật giáo và những ảnh hưởng … Trang 25
Tiểu luận triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa
Đạo Phật là tôn giáo thịnh đạt nhất trong xã hội thời Lý – Trần được coi như
một quốc giáo. Thời Lý – Trần có rất nhiều nhà sư nổi tiếng trong cả nước, có uy
tín và địa vị chính trị xã hội. Có thể kể đến các nhà sư Vạn Hạnh, Mãn Giác, Viên
Thông, Minh Không, Giác Hải, Pháp Loa, Huyền Quang.
Như vậy, rõ ràng rằng, Phật giáo đã đào tạo ra một tầng lớp trí thức mang tư
tưởng yêu nước, ủng hộ cho nền độc lập của dân tộc và ủng hộ cho nhà nước phong
kiến. Trong khi đó, cùng với sự du nhập của chữ Hán, Nho giáo đã đào tạo ra một
tầng lớp trí thức để làm quan cho chính quyền đô hộ.
3.1.4 Phật giáo có đóng góp về mặt văn tự
Như trên đã đề cập các nhà sư Ấn Độ và Trung Quốc đến Việt Nam và dịch
kinh sách bằng văn tự Hán và ngôn ngữ, văn tự đó được dùng để truyền bá Phật
giáo.
Sự truyền bá Phật giáo trong cư dân vốn không phổ biến chữ Hán đã đưa đến
sự hình thành chữ Nôm. Chúng tôi cho rằng, chữ Nôm đã hình thành trước thế kỷ
V – VI. Bằng chứng là sự tồn tại hai nhóm thuật ngữ Phật giáo đồng nghĩa: Bụt –
Chùa – Thầy và Phật – Tự – Sư. Nhóm thứ nhất là chữ Nôm, nhóm thứ hai là chữ
Hán đọc theo âm Việt, hiện nay quen gọi là âm Hán – Việt chứ không phải là âm
Hán của chữ Việt. Chữ Nôm xuất hiện trong bộ thuật ngữ Phật giáo này sẽ không
bao giờ sản sinh và tồn tại được nếu như bộ thuật ngữ Việt Hán đã được dùng từ
đầu, nghĩa là từ khi bắt đầu truyền bá Phật giáo.
Thời kỳ sau bộ thuật ngữ Phật giáo Trung Quốc đọc theo âm Hán Việt là Phật
– Sư – Tự mới phổ biến. Nhưng đến nay dân gian vẫn quên gọi thầy chùa hơn là Sư
ông. Chính Phật giáo đã mở đầu cho sự hình thành chữ Nôm ở bắc Đại Việt, chữ
Chăm, chữ khmer ở nam Đại Việt. Ba loại văn tự này giúp bảo tồn ngôn ngữ Việt
Chăm, Khmer.
3.1.5 Phật giáo ảnh hưởng đến một nền kiến trúc chùa, tháp phong phú
Một ảnh hưởng khác của Phật giáo chính là về kiến trúc. Kiến trúc là sản
phẩm nhân tạo cho nên cũng chính là văn hóa và sự phát triển của nó đánh dấu
bước tiến của văn minh.
Khởi thủy nơi trú ẩn đầu tiên của con người là ngôi nhà tự nhiên. Đó chính là
Tư tưởng triết học Phật giáo và những ảnh hưởng … Trang 26
Tiểu luận triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa
những hang động những vòm đá. Để chống chọi với những hiểm nguy trong cuộc
sống, con người phải làm nhà để ở, chống lại tất cả sức mạnh tự nhiên đó. Ban đầu
người Việt làm nhà sàn bằng gỗ rồi làm nhà đất bằng tre. Tuy nhiên dù là nhà sàn
hay nhà đất thì cho đến trước năm 1945, những ngôi nhà tranh tre của người Việt
vẫn còn tồn tại như nguyên mẫu xa xưa (nhà tranh ba gian, thấp lè tè, mái rạ vàng).
Thế nhưng, một khi Phật giáo du nhập vào thì hai loại hình kiến trúc mới đã xuất
hiện đó là chùa và tháp. Cho đến khi ngôi chùa xuất hiện, dù thuộc niên đại muộn
hơn buổi đầu Phật giáo ít nhiều, thì xóm làng vẫn còn là một quần thể nhà tranh.
Ngôi chùa chiếm ngay đến địa vị trung tâm của làng và trở thành nơi quần tụ văn
hóa. Người dân đi học, đi chợ, đi chơi hội, đi xem múa rối nước cũng đều ở tại
chùa. Ngày nay chợ Dâu vẫn còn họp trước chùa Dâu (Bắc Ninh). Sân khấu rối
nước vẫn còn ở chùa Thầy (Hà Tây) với chú tiểu và con rồng, là những hình tượng
Phật giáo. Dân làng dù nghèo đói đến đâu vẫn chung nhau dựng cho được một ngôi
chùa khang trang. Nếu chùa cao thành ba bậc tượng trưng tam giới. Những chư vị
Phật ngồi trên những tầng bậc từ thấp đến cao là một cách bài trí hoàn toàn khác
bàn thờ trong nghè, trong nhà của họ. Cảnh quan xóm làng nông thôn đổi sắc với
sự xuất hiện của ngôi chùa.
Ngày nay, do mô hình kiến trúc đã hiện đại hóa xuất hiện chùa dạng nhà lầu
với phác đồ theo chiều thẳng đứng: tầng dưới là nơi thuyết pháp cho tín đồ mang
tính chất Tiền đường, tầng trên là Phật Điện mang tính chất Thiêu Hương, Thượng
Điện. Chùa thuộc loại này có thể kể tới những ngôi chùa nổi tiếng ở thành phố Hồ
Chí Minh như chùa Xá Lợi, chùa Vĩnh Nghiêm.
Trên đây ta nói đến là kiến trúc chùa. Còn kiến trúc tháp thì sao?
Có thể khẳng định ngay rằng, loại hình kiến trúc tháp cũng cực kỳ phong phú.
Phật tử cũng như ngoại đạo đều biết đến tên tuổi của chùa Báo Thiên vòi vọi, tháp
Sùng Thiện Diên Linh gắn với tấm bia về múa rối, chùa tháp Chương Sơn với nét
kiến trúc đặc trưng của hai tay vịn vũ nữ tạc theo tư thế tribhanga mang dấu ấn
Chăm rõ rệt.
Hệ thống tượng Phật vô cùng phong phú trong đóng góp về vật chất của Phật
giáo ở Việt Nam như những pho tượng Thích Ca, Phổ Hiền, Văn Thù, những pho
Tư tưởng triết học Phật giáo và những ảnh hưởng … Trang 27
Tiểu luận triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa
Di Lặc, A Di Đà, Quán Thế Âm; những bộ tượng Cửu Long, tượng Quan Thế Âm...
3.2 Những ảnh hưởng tiêu cực
Tuy vậy Phật giáo cũng có những hạn chế, ảnh hưởng tiêu cực nhất định đến
đời sống văn hóa tinh thần của người Việt Nam chúng ta.
3.2.1 Trong nội tại tư tưởng Phật giáo cũng có những hạn chế nhất định
Phật giáo chỉ thấy cá nhân con người mà không thấy xã hội con người, chỉ
thấy con người nói chung mà không thấy con người của giai cấp đối kháng nhau
trong xã hội trước đây, không thừa nhận đấu tranh trong giai cấp xã hội, do đó
không thấy được nguyên nhân khổ ải của con người, không thấy được sự cần thiết
phải chống áp bức, bóc lột vì thế quan niêm từ bi bác ái trong một số trường hợp
bất lợi cho đấu tranh giải phóng giai cấp, chống áp bức. Phật giáo không bàn tới
lĩnh vực chính trị, vì thế mỗi khi nhà sư bước sang lĩnh vực chính trị – xã hội nhà
sư phải sử dụng các tư tưởng Nho hay Lão Trang. Nhà sư Viễn Thông cho rằng
“Lòng dân là gốc trị loạn”, trong đó “lòng dân” là khái niệm và tư tưởng của nhà
nho; nhà sư Đỗ Phát Nhuận nói (nếu dường nối vô vi ngự trị trong triều đình thì nơi
nơi sẽ tắt chiến tranh) trong đó vô vi là khái niệm của Lão – Trang mặc dù khái
niệm đó được giải thích theo quan niệm nhà Phật.
Hạn chế lớn nhất của Phật giáo đối với tư duy của người Việt Nam là quan
điểm duy tâm thần bí. Quan điểm này không hướng người ta vào hiện thực mà
hướng vào quả báo, hướng vào nghiệp, vào thần linh để mong được phù hộ, độ trì.
Và một khi tư duy như vậy thì không cần khám phá tìm tòi, sáng tạo và hành động,
đưa đến sự lạc hậu với các nước.
3.2.2 Song song đó, ngoài những cái nội tại dẫn đến tiêu cực đến đời sống văn
hóa tinh thần người Việt, còn có những tiêu cực là do tác động bên ngoài, hay
sự hiểu biết chưa sâu về Phật giáo
Các tệ lậu mê tín dị đoan xuất hiện. Đạo Phật đề cao trí tuệ và sự giác ngộ,
Phật Thích Ca ngay trước khi nhập Niết Bàn từng căn dặn đệ tử không được bói
toán, xem sao, xem tướng, làm những điều dị lạ, mê hoặc quần chúng, cho nên
đứng về mặt lý thuyết mà nói, đạo Phật tất nhiên phải bài xích những tập tục mê tín,
dị đoan. Ấy thế mà mâu thuẫn thay! Cũng chính từ trong đạo Phật, từ trong các
Tư tưởng triết học Phật giáo và những ảnh hưởng … Trang 28
Tiểu luận triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa
chùa chiền, không phải bây giờ mà ngay từ rất lâu, ở nhiều nước khác, kể cả Ấn Độ
và ở nước ta, từ ngay thời Lý, đạo Phật rất thịnh đạt, đã nảy nở ra nhiều tập tục mê
tín, dị đoan, tốn tiền của và không có lợi đối với phong hóa xã hội.
Đạo Phật là đạo của trí tuệ, của giác ngộ và giải thoát, cho nên xa lạ với mê tín
dị đoan, Phật tử cầu được giác ngộ và giải thoát, chứ không cầu có quyền lực và
quyền năng siêu nhiên. Con người theo đúng lý tưởng đạo Phật phải là con người
hoàn thiện, chứ không phải là con người siêu nhiên. Phải là con người gần gũi với
đời, với người để cứu thế độ nhân, chứ không phải là kẻ sĩ ẩn lánh đời, sống cuộc
đời gọi là thanh cao nhưng không giúp ích được gì cụ thể cho đời.
Những tác hại của mê tín dị đoan như vậy không ít. Trong khi đó, thì trong
hàng ngũ tăng ni, vì quá đông không được chọn lọc kỹ, cho nên cũng có những kẻ
đội lốt người xuất gia, làm những chuyện đồi phong bại tục, gây ảnh hưởng rất xấu
cho đạo Phật. Vì vậy, mà có lời tâu của Đàm Dĩ Mông lê vua Lý Cao Tông năm
1198: “Bây giờ tăng đồ gần bằng số dịch phu. Chúng tự kết bè, bầu chủ, họp nhau
thành từng bầy. Chúng làm nhiều chuyện bẩn thỉu. Hoặc ở nơi giới trường tịnh xá
mà công nhiên rượu thịt, hoặc ở trong trai phòng, tĩnh viện mà âm thầm gian
dâm...”. Dạo gần đây, phong trào sư giả đội lốt lại phát triển, liên tiếp được đăng
lên báo chí để cảnh báo mọi người, khiến cho đạo Phật giảm đi uy tín trong lòng
người dân.
Một vấn đề nữa chính là việc lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo để chống phá chính
quyền nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam của tổ chức phản động trong và
ngoài nước. Chúng đội lốt tín ngưỡng, lôi kéo người dân xuyên tạc, chống phá nhà
nước gây ảnh hưởng đoàn kết dân tộc, ảnh hưởng đến an ninh chính trị, sự hòa bình
đất nước, làm đức tin của người dân giảm xuống.
Tóm lại, Phật giáo hòa nhập thành một yếu tố dân tộc nên đã thúc đẩy bánh xe
lịch sử tiến lên theo khả năng và vị trí của Phật giáo trong mối quan hệ với các
dòng tư tưởng khác ở từng thời điểm lịch sử cụ thể. Phật giáo đã hướng tới cái đẹp,
cái thiện và mang tinh thần yêu nước. Tính chân, thiện, mỹ được thể hiện rõ trong
tư tưởng Phật giáo Việt Nam. Nhà nước cùng toàn dân hãy phát huy những tích cực
và xóa đi những tiêu cực của Phật giáo để đất nước ngày càng tốt đẹp, truyền thống
văn hóa tinh thần được bảo tồn và phát triển!
Tư tưởng triết học Phật giáo và những ảnh hưởng … Trang 29
TAØI LIEÄU THAM KHAÛO CHÍNH
Giáo trình đại cương lịch sử triết học – NXB tổng hợp
Tp.HCM – TS Nguyễn Ngọc Thu – TS Bùi Văn Mưa, 2003.
Tám quyển sách quý – NXB tôn giáo – HT. Thích Thiện Hoa,
2009.
Tư tưởng Phật học – NXB Văn hóa Sài Gòn – Walpola
Rahula, do Thích Nữ Trí Hải dịch, 2009.
Vì sao tin Phật – NXB tổng hợp Tp.HCM – HT.K. Sri
Drammananda, do HT. Thích Tâm Quang dịch, 2006.
Đạo Phật đi vào cuộc sống – NXB văn hóa Sài Gòn – Trường
Tâm – Thanh Long, 2007.
Cùng một số website:
− www.wikipedia.org
− www.phattuvietnam.net
− www.phatgiao.vn
− www.thuvienhoasen.org
− www.phatviet.com
LÔØI KEÁT LUAÄN
hật giáo cũng như các tôn giáo khác, không chỉ là
những quan niệm triết học, mà chính thông qua kinh
điển, nghi lễ, chùa chiền, các hình tượng thờ cúng,
chế độ tổ chức tạo thành một lối sống đa dạng, phong
phú để lại những ảnh hưởng sâu sắc trong đạo đức, tư tưởng, văn
học, nghệ thuật.
P
Ý thức được giá trị của đạo Phật đối với nhân loại trong sứ
mạng cao quý nêu trên và trước sự tiến hóa vô cùng của khoa học,
kỹ thuật, tin học, truyền thông, báo chí, trình độ dân trí ngày càng
cao, nâng địa vị con người trên thế giới trở thành nhân bản, đạo Phật
cần dấn thân đi vào cuộc đời để chuyển hoá cuộc đời, qua chất liệu
từ bi – hỷ xả – trí tuệ…
Nhiều nhà tư tưởng, nhà khoa học, nghiên cứu hoặc các nhà
tâm linh đều có chung một nhận định: Tinh thần Phật giáo là giải
pháp thích hợp cho mọi thời đại để đem lại an lạc và hạnh phúc cho
loài người và vạn vật trên hành tinh nầy, vì đạo Phật là tôn giáo hòa
bình, thực dụng, luôn luôn “tùy duyên bất biến” và có nội dung hàm
súc qua 3 chặng đường Giới Định Huệ, làm khai triển Tánh Phật,
nơi đó đầy đủ tâm đức: Bi Trí Dũng.
Tiểu luận được thực hiện với mong muốn khái quát tư tưởng
của triết học Phật giáo, và đưa những ảnh hưởng của Phật giáo đến
lối sống văn hóa người Việt. Theo đó, chúng ta, những con người
của thời đại, luôn tiếp thu và ứng dụng những mặt tích cực trong tư
tưởng đạo Phật như lòng bác ái, sự yêu thương, vị tha, cũng như sự
tranh đấu vì một tương lai tươi sáng, vì một thế giới hòa bình, tươi
đẹp!
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- detai1_lykimcuong_d1k19_8164.pdf