Tư vấn và quản lý danh mục đầu tư

Thông thường, để giảm thiểu rủi ro, chứng khoán không được nắm giữ một cách riêng lẻ mà được nắm giữ cùng các chứng khoán khác trong một danh mục đầu tư, vì như một quy luật rủi ro của một danh mục đầu tư sẽ giảm khi số chứng khoán trong danh mục tăng lên. Một danh mục đầu tư là một nhóm các chứng khoán đầu tư và Quản lý danh mục đầu tư hay quản lý đầu tư là quá trình quản lý tiền do khách hàng uỷ thác đầu tư hoặc tiền thu được từ các nhà đầu tư vào các quỹ đầu tư phù hợp với mục đích đầu tư đã xác định hoặc đã được công bố trong bản cáo bạch của quỹ. Về thực chất, quản lý danh mục đầu tư là nghiên cứu, lựa chọn cách thức kết hợp các loại chứng khoán riêng lẻ với các mức rủi ro khác nhau vào một tổ hợp đầu tư (danh mục đầu tư) để giảm rủi ro đầu tư với mức (lợi nhuận kỳ vọng xác định trước) hoặc để tăng lợi nhuận kỳ vọng cho danh mục đầu tư mà không làm tăng rủi ro tương ứng.

doc11 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3200 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tư vấn và quản lý danh mục đầu tư, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG 5: TƯ VẤN VÀ QUẢN LÝ DANH MỤC ĐẦU TƯ 5.1. TƯ VẤN ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN 5.1.1. Khái niệm, phân loại và vai trò của tư vấn đầu tư chứng khoán. Trong nền kinh tế tiền tệ, kiếm tiền và tiêu tiền là hai mặt của một vấn đề mà mỗi cá nhân cho đến các hộ gia đình, doanh nghiệp, chính phủ đều phải luôn đối mặt. Khi nguồn thu nhập hiện tại chưa được tích luỹ đủ lớn để tài trợ cho các nhu cầu chi tiêu dự kiến trong tương lai thì vay mượn hoặc tiết kiệm và tìm cách đầu tư để làm sinh sôi nảy nở số tiền đó là hai phương cách được sử dụng phổ biến để giải quyết tình trạng mất cân bằng giữa dòng thu nhập hiện tại và chi tiêu trong tương lai của các chủ thể trong nền kinh tế. Ở góc độ cá nhân, từ khi thị trường chứng khoán xuất hiện, đầu tư là cách được ưa chuộng hơn vì trong thực tế ngày càng có nhiều người sinh sống chủ yếu dựa vào các khoản lợi tức thu được từ hoạt động đầu tư chứng khoán. Vấn đề là ở chỗ, do khuynh hướng lây lan tâm lý, khi đầu tư chứng khoán trở nên là một lĩnh vực kinh doanh hấp dẫn, ngày càng có nhiều người gia nhập thị trường thì nhà đầu tư phải có hểu biết sâu sắc về đầu tư. Khi đội ngũ các nhà đầu tư này liên tục bị thiếu vốn hoặc bị thua thiệt trong các phiên giao dịch, thì tư vấn đầu tư có lý do để được chấp nhận như một nghề chính thức. Trước hết, đầu tư cần dịch vụ tư vấn bởi kiếm tiền từ đầu tư là một công việc không dễ dàng. Người ta có thể thắng trong phiên giao dịch này nhưng lại có thể thua trong các phiên giao dịch sau đó. Do vậy, điều kiện cần để trở thành nhà đầu tư thành công là phải có kinh nghiệm hoặc ít ra là học tập kinh nghiệm từ chỉ dẫn của các nhà tư vấn. Đầu tư cần dịch vụ tư vấn bởi vì mặc dù có rất nhiều nguồn thông tin tài chính có sẵn nhưng không phải ai cũng có thời gian và kinh nghiệm để phân tích và tự mình đưa ra các quyết định đầu tư. Đầu tư cũng cần tư vấn bởi vì có nhiều sản phẩm đầu tư khác nhau cho các mục đích là quá trình quyết định phân bổ tiền tiết kiệm vào các lớp tài sản khác nhau. Do mỗi lớp tài sản lại bao gồm các chứng khoán có những đặc tính rủi ro, thu nhập và kỳ hạn khác nhau nên một lý do khác làm nhà đầu tư cần đến nghiệp vụ tư vấn đầu tư là kiến thức vì không ai có thể am hiểu sâu sắc về mọi mặt. Đầu tư cũng rất cần tư vấn vì tồn tại nhiều phong cách (kiểu) đầu tư khác nhau và mỗi một phong cách lại thích hợp với các lứa tuổi, cá tính, nghề nghiệp, giới tính khác nhau trong những thời điểm khác nhau. Có người thích đầu tư theo kiểu đầu cơ giá lên nên kỹ thuật đầu tư của họ là mua, nắm giữ và chờ (cầu nguyện) cho giá lên để bán. Ngược lại, cũng có nhiều người thích áp dụng kỹ thuật đầu cơ giá xuống. Đặc trưng của kiểu đầu tư này là bán trước chứng khoán chưa thuộc sở hữu của mình sau đó mua lại chứng khoán này với hy vọng rằng tại thời điểm mua lại, giá chứng khoán này sẽ giảm và do đó sẽ kiếm lời theo kiểu “tay không bắt giặc”. Tất cả những lý do nói trên khiến dịch vụ tư vấn đầu tư trở nên có chỗ đứng trên thị trường tài chính. Ngày nay, sản phẩm của nghiệp vụ tư vấn trải dài từ tư vấn chung, tư vấn đại cương, tư vấn bằng lời cho đến tư vấn bằng các phân tích và khuyến nghị chi tiết, cụ thể bình luận về nền kinh tế, các sự kiện hiện hành, biến động của thị trường và từng loại chứng khoán. 5.1.2. Điều kiện của đầu tư và tư vấn đầu tư. Tư vấn đầu tư là một khoa học và cũng là một nghệ thuật. Để có thể tư vấn cho khách hàng, điều quan trọng là nhà tư vấn phải am hiểu trò chơi đầu tư, phải thấy được cơ hội kiếm tiền khi người khác chưa thấy, phải tìm ra được nhiều giải pháp tài chính khác nhau để giải quyết các vấn đề tài chính. Vì vậy, nếu không chuẩn bị một nền tảng kiến thức tài chính vững vàng thì không có uy tín với các nhà đầu tư. Nói chung, theo kinh nghiệm của nhiều nhà tư vấn đầu tư chuyên nghiệp, kiến thức tài chính được xây dựng và hình thành trên bốn nề tảng hay bốn điều kiện cần chủ yếu là kế toán, đầu tư, thị trường và pháp luật. - Đầu tiên: Nhà tư vấn phải am hiểu kế toán. Để đọc và hiểu được các báo cáo tài chính, nhà tư vấn phải được trang bị các kiến thức về kế toán để có thể nhận biết điểm mạnh, mặt yếu của bất kỳ doanh nghiệp nào để chọn lựa hoặc tư vấn cho khách hàng chọn lựa. - Thứ hai: đầu tư và con đường đi đến sự thành công trong lĩnh vực đầu tư chính là học hỏi, nghiên cứu, đồng thời tìm kiếm một hay nhiều chiến thuật, chiến lược đầu tư hiệu quả. Nhà tư vấn phải biết những chiến lược đầu tư khôn ngoan để có thể tìm kiếm tiền một cách dễ dàng. Nếu không, dễ sẽ chạy theo đám đông hoặc mua bán theo cảm tính hoặc tin đồn. - Thứ ba: hiểu biết về thị trường cũng là một điều kiện quan trọng. Nhà tư vấn phải nhạy bén với thị trường để giúp khách hàng khắc phục hiện tượng mua lúc không nên mua (nhập cuộc trễ) hoặc hiện tượng bán lúc không nên bán (quá sớm) tức là phải biết khi nào cần phải nhảy vào cuộc chơi và biết khi nào cần phải thoát ra. - Thứ tư: am hiểu pháp luật Nhà tư vấn chuyên nghịêp, ngoài các kiến thức chuyên môn cần phải am hiểu pháp luật, không chỉ đơn thuần là pháp luật về chứng khoán mà còn phải am hiểu các bộ luật có liên quan khác như luật thuế, luật doanh nghiệp, luật khuyến khích đầu tư… để tư vấn cho khách hàng. 5.2. QUẢN LÝ DANH MỤC ĐẦU TƯ 5.2.1. Khái niệm, phân loại và vai trò của quản lý danh mục đầu tư Để kiếm tiền, phải đầu tư. Muốn trở thành nhà đầu tư thành công, nhà đầu tư phải chuẩn bị một nền tảng kiến thức tài chính vững vàng. Nếu nhà đầu tư chưa có đủ kiến thức hay chưa có thời gian để bổ sung kiến thức, để tránh rủi ro thường gặp trong đầu tư, tốt nhất nhà đầu tư nên uỷ thác tiền tiết kiệm của mình cho các quỹ đầu tư hoặc công ty chứng khoán (được cấp phép thực hiện dịch vụ quản lý danh mục đầu tư) quản lý. Thông thường, để giảm thiểu rủi ro, chứng khoán không được nắm giữ một cách riêng lẻ mà được nắm giữ cùng các chứng khoán khác trong một danh mục đầu tư, vì như một quy luật rủi ro của một danh mục đầu tư sẽ giảm khi số chứng khoán trong danh mục tăng lên. Một danh mục đầu tư là một nhóm các chứng khoán đầu tư và Quản lý danh mục đầu tư hay quản lý đầu tư là quá trình quản lý tiền do khách hàng uỷ thác đầu tư hoặc tiền thu được từ các nhà đầu tư vào các quỹ đầu tư phù hợp với mục đích đầu tư đã xác định hoặc đã được công bố trong bản cáo bạch của quỹ. Về thực chất, quản lý danh mục đầu tư là nghiên cứu, lựa chọn cách thức kết hợp các loại chứng khoán riêng lẻ với các mức rủi ro khác nhau vào một tổ hợp đầu tư (danh mục đầu tư) để giảm rủi ro đầu tư với mức (lợi nhuận kỳ vọng xác định trước) hoặc để tăng lợi nhuận kỳ vọng cho danh mục đầu tư mà không làm tăng rủi ro tương ứng. 5.2.2. Những yêu cầu đặt ra trong quản lý doanh mục đầu tư 5.2.3. Quy trình quản lý danh mục đầu tư Dù quản lý đầu tư cho các nhà đầu tư cá nhân hay cho tập thể (tổ chức), dù là nhà quản lý đầu tư nghiệp dư hay chuyên nghiệp, để tạo nên một danh mục đầu tư thích hợp với tong đối tượng khách hàng, đều phải theo một quy trình bao gồm năm bước (Hình 4.2). - Bước 1: Là bước quan trọng trong quy trình quản lý danh mục đầu tư là tìm hiểu khách hàng để thiết lập mục tiêu đầu tư. Nhà quản lý phải tiếp xúc và làm việc với nhà đầu tư để tìm hiểu khách hàng là ai, nhu cầu của họ là gì, mục tiêu và giới hạn đầu tư, thời gian đầu tư cũng như mức độ rủi ro mà họ có thể chấp nhận. - Bước 2: Thiết lập chính sách đầu tư. Trong bước này, nhà quản lý phải xây dựng các chính sách đầu tư để phân bổ vốn uỷ thác đầu tư vào các lớp tài sản khác nhau (cổ phiếu, trái phiếu, bất động sản…) để đáp ứng các mục tiêu đầu tư đã được xác định. Chẳng hạn, với những khách hàng muốn duy trì một mức đa dạng hoá và an toàn nhất định: Chính sách đầu tư thích hợp là giới hạn tỷ lệ vốn đầu tư trong những lớp tài sản nhất định hoặc với bất cứ nhà phát hành nào. Thiết lập mục tiêu đầu tư Thiết lập chính sách đầu tư Thiết lập chiến lược đầu tư Chọn lựa tài sản Đo lường và đánh giá kết quả Hình 5.2. Quy trình quản lý danh mục đầu tư - Bước 3: Chọn lựa một chiến lược đầu tư. Có hai chiến lược xây dựng danh mục đầu tư là chiến lược xây dựng danh mục đầu tư thụ động và chiến lược xây dựng danh mục đầu tư chủ động. Nếu như trong chiến lược đầu tư chủ động, nhà quản lý danh mục đầu tư sử dụng những thông tin sẵn có và các kỹ thuật dự báo để cố gắng tìm kiếm và nhận dạng các chứng khoán đã bị đánh giá sai nhằm thay đổi sự kết hợp của các lớp tài sản khác nhau cho phù hợp với điều kiện của thị trường, sau đó tiến hành cơ cấu lại một danh mục đầu tư tốt hơn thì trong chiến lược đầu tư thụ động, hiệu quả đầu tư chỉ dựa hoàn toàn vào đa dạng hoá các chứng khoán riêng lẻ đã được định giá trước đây. - Bước 4: Lựa chọn các chứng khoán để hình thành nên một tổ hợp đầu tư có hiệu quả. Bằng một danh mục đầu tư tối ưu, với một mức rủi ro cho trước, lợi nhuận đem lại từ tổ hợp đầu tư này sẽ lớn nhất hoặc, với một mức lợi tức kỳ vọng đã xác định, rủi ro đem lại từ tổ hợp đầu tư là nhỏ nhất. Kinh nghiệm thực tế cho thấy lựa chọn chứng khoán để phân bổ vào danh mục đầu tư là bước quan trọng nhất khi xây dựng danh mục đầu tư, vì người ta ước tính phân bổ tài sản chiếm khoảng 90% biến động về lợi nhuận của danh mục đầu tư. Vấn đề quan trọng đặt ra là các lựa chọn bao nhiêu chứng khoán để cơ cấu vào danh mục đầu tư nhằm phân tán rủi ro phi hệ thống. Các nghiên cứu gần đây đã chứng minh rằng một danh mục đầu tư được đa dạng hoá tốt là một danh mục có trên 40 chứng khoán trong một số ngành khác nhau. - Bước 5: Đo lường và định giá kết quả, là bước khó khăn nhất trong quá trình quản lý danh mục đầu tư của các nhà quản lý danh mục đầu tư của các nhà quản lý danh mục đầu tư chuyên nghiệp. Trên cơ sở của kết quả đo lường và định giá hiệu quả đầu tư và trên cơ sở kiểm soát liên tục điều kiện thị trường, nhà quản lý danh mục đầu tư lại cập nhật và bổ sung lại chính sách và chiến lược đầu tư. Vậy, quản trị đầu tư là một quá trình liên tục. 5.2.4. Các phương pháp quản lí danh mục đầu tư 5.2.4.1 Quản lí danh mục đầu tư trái phiếu Có 3 phương pháp quản lí: thụ động, bán chủ động và chủ động. Quản lí thụ động * Khái niệm Quản lí thu động là chiến lược mua và nắm giữ trái phiếu cho đến khi đáo hạn mà không cần quan tâm đến biến động lãi suất. Đối với chiến lược này, về cơ bản không phải bắt buộc phân tích dự báo tình hình biến động lãi suất, song nhà quản lí vẫn cần phân tích để đa dạng hóa danh mục đầu tư nhằm giảm thiểu rủi ro và xác định số lượng trái phiếu cần đưa vào danh mục phù hợp với độ lớn của danh mục đầu tư. Theo phương pháp này tốt nhất là đầu tư vào các danh mục có thành phần trái phiếu tương tự như các chỉ số trên thị trường nhằm thu được kết quả tương tự như của chỉ số đó. * Các bước tiến hành khi thực hiện chiến lược đầu tư thụ động B1. Lựa chọn chỉ số trái phiếu: Các yếu tố tác động đến quyết định lựa chọn: - Xác định mức độ rủi ro thanh toán mà người đầu tư có thể chấp nhận (rủi ro thanh toán của TPDN cao hơn TPCP) - Phải tuân thủ mục tiêu của nhà đầu tư: ví dụ: nếu mục tiêu của nhà đầu tư là lựa chọn những danh mục có độ biến thiên lợi suất thấp thì cần đầu tư dựa theo các chỉ số có thời gian đáo hạn bình quân rất ngắn. Ví dụ một số loại chỉ số trái phiếu trên TTCK Mĩ: Chỉ số TP thị trường tổng thế: Lehman Brothers Aggregate Index (6500TP), Merrill Lynch Domestic Market Index (5000), Salomon Brothers Broad Invesment – grade Bond Index (5000). Chỉ số thị trường chuyên ngành: Gov.Bond Index, Gov.Corporate Bond Index, Corporate Bond Index, Mortgate Backed Securities Index, Yankee Bond Index, World Gov. Bond Index, Eurodollar Bond Index… B2. Phương pháp đầu tư: khi người quản lí danh mục đã quyết định nên đầu tư theo chỉ số nào thì phải xây dựng danh mục đầu tư theo phiên bản của chỉ số đó. Để thực hiện công việc này, người quản lí có thể thực hiện một số phương pháp sau: - Mua tất cả trái phiếu có chỉ số chuẩn dự kiến đã chọn với tỉ trọng đầu tư vào mỗi loại trái phiếu bằng tỉ trọng trái phiếu đó chiếm trong chỉ số chuẩn (đòi hỏi số lượng vốn rất lớn). - Chỉ mua chọn lọc một số lượng nhất định các trái phiếu trong chỉ số. Theo phương pháp này chỉ cần số vốn ít vẫn có thể thực hiện đựợc nhưng mức độ đa dạng hóa không cao. Phương pháp mua chọn lọc: chia nhỏ là phương pháp thường được sử dụng phổ biến hơn cả. Đây là phương pháp phân chỉ số theo các nhóm nhỏ đại diện cho những đặc tính khác nhau của chỉ số. Cách chia thường theo các đặc tính sau: - Thời gian đáo hạn bình quân - Lãi suất coupon - Thời gian đáo hạn - Lĩnh vực ngành nghề (TPCP, TPDN, ngành kd…) - Mức độ tín nhiệm - Đặc điểm trái phiếu (lãi suất cố định, thả nổi, có bảo đảm hay không…) Quản lí bán chủ động Phương pháp quản lí thụ động đơn thuần chỉ có tác dụng đa dạng hóa danh mục, giúp giảm thiểu phần rủi ro không hệ thống của danh mục và đạt được kết quả tương tự mức bình quân của thị trường mà không có tác dụng phòng tránh ruỉ ro hệ thống. Để danh mục đạt được mục tiêu đề ra và phòng tránh cả các rủi ro hệ thống, các nhà quản lí danh mục một mặt thiết lập danh mục theo phương pháp thụ động, một mặt quản lí danh mục mang tính chủ động. Phương pháp này gọi là quản lí bán chủ động. Một số phương pháp quản lí bán chủ động + Trung hòa rủi ro: đây là phương pháp phổ biến trong chiến lược loại bỏ rủi ro cho danh mục đầu tư. Đó là biện pháp xây dựng 1 danh mục trái phiếu sao cho khi lãi suất biến động thì rủi ro về giá và rủi ro về tái đầu tư gây những tác động bằng nhau và ngược chiều nhau dó đó chúng triệt tiêu nhau và vì vậy danh mục đầu tư không bị ảnh hưởng. + Loại bỏ rủi ro: - Loại bỏ rủi ro từng danh mục đầu tư: Để loại bỏ rủi ro cho 1 danh mục đầu tư phải xây dựng 1 danh mục đầu tư cho thời gian đáo hạn bình quân (TGĐHBQQ) của cả danh mục đầu tư bằng kì đầu tư dự kiến. Do trong suốt giai đoạn đầu tư, TGĐHBQ của danh mục sẽ biến đổi khác với kì đầu tư nên gười quản lí danh mục đầu tư phải thường xuyên cơ cấu lại danh mcụ sao cho TGĐHBQ của danh mục đó luôn khớp với kì đầu tư. Thông thường các nhà quản lí chuyên nghiệp có thể điều chỉnh lại danh mục theo định kì (chẳng hạn hàng tháng hay hàng quý) và tiến hành cơ cấu lại mỗi khi có biến động lãi suất. - Loại bỏ rủi ro cho tổng tài sản quản lí: Quản lí chủ động Chiến lược chủ động là phương pháp mà người quản lí danh mục dùng tài tiên đoán và thủ thuật đầu tư của mình để xây dựng ác danh mục đầu tư đạt mức sinh lời cao hơn mức sinh lời chung của thị trường. Các yếu tố chủ yếu mà nhà quản lí danh mục theo dõi và dự đoán: - Thay đổi mặt bằng lãi suất - Thay đổi cơ cấu kì hạn lãi suất (hay đường cong lãi suất) - Thay đổi mức chênh lệch lãi suất giữa các loại trái phiếu khác nhau Một số phương pháp áp dụng chủ yếu (1) Chiến lược hoán đổi (còn gọi là lựa chọn chứng khoán riêng lẻ - Individual securities selection strategy) - Đánh giá 2 loại TP tương đương chất lượng và thời gian đáo hạn, chuyển loại có coupon thấp sang loại có coupon cao nhưng giá lại không cao hơn nhiều để hi vọng thu được lợi suất cao hơn. Phương pháp này gọi là hoán đổi lợi suất đơn thuần. Ví dụ: chuyển từ trái phiếu có coupon 10%, đáo hạn 30 năm, giá 87,47, cho lợi suất11,5% sang trái phiếu cùng chất lượng và thời gian đáo hạn có coupon 12%, giá 100 cho lợi suất 12%. - Khai thác các định giá sai tạm thời của thị trường về giá trị chứng khoán. Chẳng hạn có 2 loại TP tương đương về chất lượng (độ rủi ro), lĩnh vực hoạt động, coupon và thời gian đáo hạn, nhưng lãi suất đáo hạn lại khác nhau (tức giá trị khác nhau) thì người ta sẽ thay thế trái phiếu có lợi suất thấp (giá cao) để đổi lấy TP có lợi suất cao (giá thấp). Đây là phương pháp hoán đổi thay thế. Ví dụ: hoán đổi TP đáo hạn 30 năm, coupon 12%, giá ngang mệnh giá cho lợi suất 12% sang 1 TP chất lượng, thời gian đáo hạn và coupon tương tự, giá 98,4 cho ra lợi suất 12,2%. - Dự đoán mức độ tín nhiệm của 1 công ty có xu hướng tăng lên, tức là lợi suất đầu tư vào trái phiếu do công ty này phát hành sẽ giảm (giá TP sẽ tăng), do vậy phải mua loại TP này và bán loại tương đương không có triển vọng. Tuy nhiên các chiến lược hoán đổi trên đây có một số rủi ro mà nhà quản lí danh mục cần nhận biết. Đó là việc TP được hoán đổi chưa chắc đã hoàn toàn tương đồng về mặt chất lượng với TP ban đầu. Hơn nữa các loại TP thường có thời gian đáo hạn và coupon tương tự chứ chưa hẳn giống nhau hoàn toàn. Do vậy, sự chênh lệnh về lợi suất trên đây có thể là sự trả giá cho độ lồi khác nhau chứ chưa hẳn là do thị trường định giá sai. (2) Chiến lược dự đoán lãi suất (interest rate anticipation) Đây là phương pháp đơn giản nhất của chiến lược đầu tư chủ động. Chìa khóa của phương pháp này là phải dự báo tiên đoán được xu hướng biến động của lãi suất trong tương lai để từ đó xây dựng 1 danh mục nhạy cảm với sự biến động đó. Vì thời gian đáo hạn bình quân là đơn vị đo mức nhạy cảm của danh mục tới sự biến động lãi suất nên khi người quản lí tiên đoán lãi suất sẽ giảm thì cần xây dựng danh mục đầu tư có TGĐHBQ dài và ngược lại. Trong quá trình đầu tư cũng bằng cách đoán lãi suất này nhà quản lí có thể thay đổi TGĐHBQ của danh mcụ bằng cách hoán đổi 1 trái phiếu trong danh mục có TGĐHBQ thấp để lấy 1 TP khác có TGĐHBQ dài hơn để điều chỉnh TGĐHBQ của danh mục. (3) Các chiến lược khác: chiến lược dự đoán chênh lệch đường cong lãi suất, chiến lược dự đoán mức biến động lãi suất… 5.2.4.2 Quản lí danh mục đầu tư có rủi ro (cổ phiếu) Quản lí thụ động Khái niệm Là chiến lược mua CP dựa theo 1 số chỉ số chuẩn nào đó và nắm giữ lâu dài khoản đầu tư. Tuy nhiên điều này không có nghĩa chỉ đơn thuần mua và nắm giữ CP lâu dài mà đôi khi danh mục cũng cần được cơ cấu lại khi phải tái đầu tư các khoản cổ tức nhận về và do có một số CP bị hợp nhất hoặc phải ra khỏi danh mục chứng khoán đầu tư theo chỉ số chuẩn. Mục đích của chiến lược này không phải để tạo ra một danh mục vượt trội chỉ số chuẩn (chỉ số mục tiêu), mà tạo ra danh mục cổ phiếu có số lượng và chủng loại CP gần giống với chỉ số chuẩn nhằm thu hút được mức lợi suất đầu tư tương đương với lợi suất của chỉ số đó. Hiệu quả của danh mục này được đánh giá dựa trên khả năng của nhà quản lí danh mục trong việc tuân theo chỉ số chuẩn, tức là khả năng giảm thiểu những sai lệch so với chỉ số chuẩn. Các phương pháp xây dựng danh mục quản lí đầu tư CP thụ động - Lập lại hoàn toàn một chỉ số nào đó: theo phương pháp này tất cả các loại CP nằm trong chỉ số được mua vào theo 1 tỉ lệ bằng tỉ trọng vốn mà cổ phiếu đó chiếm giữ trong chỉ số này. Ví dụ: một số loại chỉ số phổ biến nhất ở Mĩ: S&P 500, 400 và 200; Wilshine 5000, Russell 2000. Phương pháp này chắc chắn giúp nhà quản lí thu được kết quả đầu tư gần giống với kết quả của chỉ số, nhưng có 1 số nhược điểm: + Vì mua nhiều CP nên chi phí giao dịch lớn (nếu phí giao dịch tính theo món)→ lợi suất đầu tư giảm. + Trong quán trình nắm giữ danh mục đầu tư đó, nhà quản lí sẽ được nhận cổ tức từ việc sở hữu cổ phiếu. Tuy nhiên mỗi công ty có 1 chiến lược chi trả khác nhau nên luồng cổ tức nhận được rải rác, dẫn đến việc tái đầu tư bị phân tán, và có thể bỏ lỡ các cơ hội đầu tư… - Phương pháp chọn nhóm mẫu: với phương pháp này, nhà quản lí chỉ cần chọn một nhóm các chứng khoán đại diện cho chỉ số chuẩn theo tỉ lệ tương ứng với tỉ trọng vốn của từng CP có trong chỉ số chuẩn. Phương pháp này có ưu điểm giảm chi phí giao dịch vì số lượng chứng khoán mua vào ít nhưng không bảo đảm chắc chắn lợi suất đầu tư đạt được sẽ tương đương với lợi suất thu nhập của chỉ số chuẩn. - Các phương pháp khác: Phương pháp lập trình bậc 2… Quản lí chủ động Mục tiêu của chiến lược này là nhằm thu được lợi suất đầu tư cao hơn lợi suất của danh mục thụ động chuẩn, hoặc thu được mức lợi nhuận trên trung bình ứng với 1 mức rủi ro nhất định. Quy trình quản lí danh mục đầu tư chủ động - Xác định mục tiêu - Lập ra một danh mục chuẩn - Xây dựng 1 chiến lược và kết cấu danh mục đầu tư tối ưu thỏa mãn nhu cầu người đầu tư theo quy trình sau: Thực hiện phân tích những ngành và công ty riêng lẻ thỏa mãn mục tiêu đặt ra Tính toán xác định số lượng CP trong danh mục sao cho đạt mức đa dạng hóa cao nhất trong phạm vi giới hạn của khoản tiền đầu tư. Phân bổ khoản đầu tư (sau khi xác định số lượng và chủng loại CP cần mua) - Theo dõi đánh giá các biến động của CP trong danh mục và tái cấu trúc danh mục Lí do phải tái cấu trúc danh mục đầu tư: →Các nhà quản lí dựa vào dự đoán diễn biến kinh tế vĩ mô và các thay đổi tình hình hoạt động doanh nghiệp để đánh giá sự biến động giá tương quan giữa các loại CP thuộc các lĩnh vực ngành nghề khác nhau, hoặc cùng một lĩnh vực để rút bớt vốn từ loại CP có nguy cơ sụt giá chuyển sanhg CP khác có tiềm năng hơn. →Các nhà quản lí thấy cần phải chuyển đầu tư CP từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác nhằm đa dạng hóa và phòng ngừa rủi ro vì loại CP đang nắm giữ có nguy cơ tăng mức rủi ro. →Trong quá trình đầu tư nhà quản lí phát hiện ra một số CK khác đang tạm thời bị định giá thấp hơn giá trị thực của nó, do vậy pahỉ mua các CP này để thay thế cho 1 số CP tương đương (cùng lĩnh vực, cùng độ rủi ro…) hiện cso trong danh mục, hoặc ngược lại nếu thấy CP trong danh mục bị định giá cao thì có thể bán đi thay thế bằng loại tương đương khác không bị định giá cao. Phương pháp lựa chọn CP Về mặt kĩ thuật, để thực hiện việc lựa chọn CP người ta có thể áp dụng một số biện pháp như lập danh sách theo chỉ tiêu hoặc đánh giá theo định lượng. - Phương pháp lập danh sách đơn thuần là việc liệt kê tất cả các chỉ tiêu cần được thỏa mãn (kể cả chỉ tiêu do người đầu tư đặt ra và chỉ tiêu phân tích) và đưa vào máy tính để lập danh sách những CP thỏa mãn các chỉ tiêu đó. Các chỉ tiêu đặt ra có thể bao gồm: vốn, hệ số P/E, ngành nghề, ROE, tỉ lệ chia cổ tức, cổ tức ổn định hay tăng trưởng… - Phương pháp định lượng: nhà quản lí xác định độ nhạy cảm của giá (hay thu nhập) của CP tới các yếu tố kinh tế như: tỉ giá hối đoái, lạm phát, lãi suất hoặc mức chi tiêu của công chúng để làm căn cứ đầu tư. Nhà quản lí danh mục cí thể dựa trên những thông tin đó cùng với những phân tích và nhận định về diễn biến tình hình kinh tế để đưa ra các quyết định phù hợp.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTư vấn và quản lý danh mục đầu tư.doc
Luận văn liên quan