PHẦN MỞ ĐẦU1
PHẦN NỘI DUNG1
I.Giới thiệu chung. 1
1.Tóm tắt tiểu sử của C.Mác và Ph. Ăngghen. 1
2.Hoàn cảnh ra đời tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”. 1
II.Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản – sự khẳng định những nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học1
1)Tuyên ngôn của Đảng cộng sản là kết quả tổng hợp tập trung tất cả những nhận thức khoa học mới mẻ, đúng đắn và đạt đến đỉnh cao của học thuyết Mác. 1
2)Tuyên ngôn Đảng cộng sản làm sáng tỏ sự ra đời của giai cấp vô sản như một nấc thang quy định của lịch sử1
3)Tuyên ngôn Đảng cộng sản phân tích một cách khoa học và sâu sắc về giai cấp vô sản1
4)Tuyên ngôn Đảng cộng sản đã luận chứng về vai trò của Đảng Cộng sản. 1
5)Tuyên ngôn Đảng cộng sản đã nêu lên những đặc điểm cơ bản của xã hội cộng sản chủ nghĩa1
6)Khẩu hiệu “Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại”. 1
PHẦN KẾT LUẬN1
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO1
23 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4815 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tuyên ngôn của đảng cộng sản sự khẳng định những nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
KHOA TRIẾT HỌC
h ê g
BÀI TIỂU LUẬN
TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN SỰ KHẲNG ĐỊNH NHỮNG NGUYÊN LÝ CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Học viên thực hiện: Nguyễn Thị Huyền Trang
MSHV: 0305131024
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH THÁNG 2 NĂM 2011
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
Trong xã hội có giai cấp đối kháng, có tình trạng áp bức bóc lột người thì ước nguyện về một xã hội công bằng và sự vươn tới tư tưởng bình đẳng xã hội, khát vọng hạnh phúc cũng như những cuộc đấu tranh dưới nhiều hình thức khác nhau để thực hiện những ước vọng sẽ tất yếu nảy sinh trong đời sống tinh thần của những người nghèo khổ và của tất cả những ai đứng về phía lợi ích của họ. Tư tưởng xã hội chủ nghĩa chính là những tư tưởng phản ánh ước nguyện ấy – ước nguyện về một xã hội không còn áp bức, bóc lột, không còn sự phân chia giai cấp, không có chiến tranh, mọi người được ấm no, bình đẳng và hạnh phúc. Tư tưởng xã hội chủ nghĩa cũng phản ánh quan niệm về con đường, giải pháp và những điều kiện để đến xã hội tốt đẹp.
Những tư tưởng xã hội chủ nghĩa đã thể hiện qua nhiều nội dung, khuynh hướng khác nhau, dưới nhiều hình thức do điều kiện lịch sử cụ thể của mỗi thời kỳ quy định. Lịch sử của những tư tưởng xã hội chủ nghĩa ấy là một bộ phận của lịch sử tư tưởng nhân loại. Nó nghiên cứu chính quá trình nảy sinh, hình thành và phát triển của các tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Lịch sử tư tưởng xã hội chủ nghĩa cũng nghiên cứu quá trình chủ nghĩa xã hội phát triển từ không tưởng trở thành khoa học.
Sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học, cũng như sự phát triển của học thuyết ấy đều có quan hệ trực tiếp với sự phát triển kinh tế của xã hội, với những mâu thuẫn xã hội ngày càng tăng, với cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản. Nhưng “ cũng như mọi học thuyết mới, chủ nghĩa xã hội trước hết phải xuất phát từ những tài liệu tư tưởng đã tích lũy từ trước”. Ph.Ăngghen thừa nhận rằng, chủ nghĩa xã hội khoa học ra đời như là “sự phát triển của chủ nghĩa xã hội từ không tưởng trở thành khoa học”. Như vậy, chủ nghĩa xã hội nguyên thủy là một thứ chủ nghĩa xã hội không tưởng (V.I.Lênin: Toàn tập, tiếng việt, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tập 23, tr 56).
Theo Lênin, khái niệm “chủ nghĩa xã hội” được hiểu như là từ đồng nghĩa với những ước mơ trải qua nhiều thế kỷ của quần chúng lao động muốn xóa bỏ sự bóc lột, sự áp bức và bất công xã hội. V.I. Lênin viết “ Đã lâu rồi, đã hàng bao thế kỷ nay, thậm chí hàng ngàn năm nay, nhân loại mong ước thủ tiêu “lập tức” mọi sự bóc lột” (V.I.Lênin: Toàn tập, tiếng Việt, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tập 12, tr 53) cũng như “muốn xỏa bỏ sự khác nhau giữa người giàu và người nghèo. Đó là nguyện vọng có tính chất xã hội chủ nghĩa” (V.I.Lênin: Toàn tập, tiếng việt, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tập 13, tr 159).
Qua những luận điểm đó của Lênin có thể thấy, tư tưởng xã hội chủ nghĩa đã có chiều dài lịch sử cùng với lịch sử hình thành và phát triển của giai cấp và đấu tranh giai cấp.
Ở phương Tây, những mầm mống tư tưởng xã hội chủ nghĩa đã phát sinh và phổ biến rộng rãi ở Hy Lạp và La Mã cổ đại: những ước mơ quay trở lại quá khứ xa xưa, trở lại thời kỳ xã hội hoàn toàn bình đẳng, không có bóc lột trong thần thoại về “thời đại hoàn kim”, những suy nghĩ về một quốc gia lý tưởng của Platon trong các tác phẩm Nhà nước và Luật lệ, những dự án cải cách bình quân ở Spactaquyt của Aghit và Clêomen. Hệ tư tưởng Cơ Đốc giáo sơ kỳ, những thuyết giáo của đạo này trong Tân Ước về sự bình đẳng và bác ái chung của nhân loại và của chủ nghĩa cộng sản tiêu dùng, nhất là về “giang sơn ngàn năm của Chúa” đương nhiên là đầy rẫy những điều hoang tưởng, viễn vông…
Thời kỳ đầu cận đại (thể kỷ XVI - XVII) có những tác phẩm không tưởng về những chế độ xã hội lý tưởng. Đầu tiên là tác phẩm Đảo Không tưởng của Tômat Morơ kể về một xã hội chưa bao giờ và chưa ở đâu có nhưng là cái xã hội được mong đợi. Sau Đảo Không tưởng một thế kỷ, một nhà tư tưởng người Italia là Campanella đã cho ra đời cuốn sách Thành phố Mặt trời – một tác phẩm lớn của chủ nghĩa xã hội không tưởng. Tiếp sau đó, tư tưởng xã hội chủ nghĩa biểu hiện dưới một hình thức xác định hơn trong thời kỳ cách mạng tư sản Anh thế kỷ XVII trong tác phẩm Luật tự do – tác phẩm lớn nhất, sáng ngời nhất của G. Uynxtenly, nhà tư tưởng và lãnh tụ của phong trào Đào đất.
Trong thế kỷ XVIII, những lý luận có tính chất cộng sản chủ nghĩa được thể hiện rõ rệt trong các tác phẩm, quan niệm của những nhà tư tưởng kiệt xuất Pháp như: G.Mêliê, Ph.Môrenly, Mably, G.Babớp. Trong đó, đáng chú ý là Di chúc mà G.Mêliê viết vào cuối đời, những ước mơ của muôn dân muốn xóa bỏ tư hữu và bóc lột hòa trộn với việc chống tôn giáo trên quan điểm duy vật, với việc kêu gọi lật đổ chế độ hiện tồn bằng cách mạng.
Chủ nghĩa xã hội không tưởng đạt đến đỉnh cao của nó vào đầu thế kỷ XIX trong các học thuyết của ba nhà không tưởng vĩ đại – Xanh Ximông, Phuriê, Ôoen. Bằng những tác phẩm của mình, ba nhà không tưởng này đã phê phán kịch liệt chế độ tư sản, đặt ra vấn đề nhất thiết phải thay thế xã hội tư bản bằng xã hội xã hội chủ nghĩa; đồng thời nêu ra một loạt những tư tưởng có giá trị về sự phát triển của xã hội tương lai – xã hội xã hội chủ nghĩa, điều mà các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học, C.Mác và Ph.Ăngghen, sau này đã tiếp thu. Tuy nhiên, ba nhà không tưởng vĩ đại đó cũng không vượt lên được những hạn chế của lịch sử, không thế thay đổi được màu sắc duy tâm và không tưởng trong học thuyết của họ.
Là sản phẩm của thời đại mình, Mác và Ăngghen đã phát huy cao độ vai trò của nhân tố chủ quan. Sự uyên bác về trí tuệ giúp hai ông có thể sớm hòa nhập vào dòng tư duy của nhân loại, tiếp thu có chọn lọc và phát triển sáng tạo những giá trị tư tưởng trước đó và đương thời.
Các Mác và Ph.Ăngghen đã tổng kết sâu sắc toàn bộ lịch sử loài người về các thành tựu của khoa học tư nhiên và khoa học xã hội, lịch sử tư tưởng nhân loại, đặc biệt là nghiên cứu, tổng kết chủ nghĩa tư bản, về thực tiễn phong trào công nhân. Trên cơ sở đó hai ông xây dựng nên các học thuyết, các hệ thống lý luận về phương pháp nhận thức và cải tạo thế giới, về giải phóng giai cấp công nhân đồng thời giải phóng xã hội loài người khỏi mọi áp bức, bóc lột và mọi sự tha hóa, về cách mạng cộng sản chủ nghĩa, về xây dựng một xã hội “trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”. Với Tuyên ngôn của Đảng cộng sản được xuất bản lần đầu vào tháng 3/1848 - giai cấp vô sản thế giới - lực lượng sản xuất tiên tiến của thời đại - đã chính thức khai sinh Hệ tư tưởng của riêng mình. Từ nay, hoạt động của các tổ chức cộng sản - Bộ tham mưu của giai cấp vô sản đã có sự hướng dẫn của một cương lĩnh chung. Cũng từ đây, chủ nghĩa xã hội đã không còn là những nguyện vọng chủ quan, những ước mơ trừu tượng, viển vông... Vậy là, nhờ có Tuyên ngôn, chủ nghĩa xã hội đã chuyển từ không tưởng thành khoa học.
PHẦN NỘI DUNG
Giới thiệu chung
Tóm tắt tiểu sử của C.Mác và Ph. Ăngghen
Các Mác:
C.Mác sinh ngày 5 tháng 5 năm 1918 trong một gia đình luật sư tại thành phố Tơria, tỉnh Ranh, nước Đức. Tuy không có khuynh hướng cách mạng nhưng bố của C.Mác là người đánh giá cao phái Khai sáng Pháp thế lỷ XVIII và chế độ dân chủ tư sản được xác lập ở Pháp. Nghề nghiệp, tư tưởng và tình cảm của ông ảnh hưởng rất nhiều đến cuộc đời Mác.
Năm 1835, Mác tốt nghiệp trung học ở Tơria, vào học ngành luật tại Đại học Tổng hợp Bon. Một năm sau, năm 1836, ông chuyển đến Béc-lin tiếp tục học luật tại Đại học Tổng hợp Béc-lin. Thời gian này, cùng với việc học luật, Mác rất đam mê nghiên cứu triết học, lịch sử, học tiếng Anh, tiếng Italia và dịch những tác phẩm cổ điến sang tiếng Đức.
Năm 1837, Mác nghiên cứu triết học của Hêghen, tham gia phái “Hêghen trẻ”. Cho đến lúc này, Mác còn là con chiên ngoan đạo và chịu nhiều ảnh hưởng thế giới quan duy tâm của Hêghen.
Năm 1841, Mác tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Béc- lin, sau đó ông nhận bằng Tiến sĩ Triết học bằng luận án “Sự khác nhau giữa triết học tự nhiên của Đêmôcrit và triết học tự nhiên của Êpiquya”.
Mác đến Bon định làm phó giáo sư cho trường đại học này, song đây là lúc nhiều giáo sư tiến bộ bị gạt khỏi việc giảng dạy nên Mác từ bỏ ý nghĩ về giảng đường. Ông đến với báo chí, dùng báo chí làm diễn đàn tuyên truyền quan điểm dân chủ - cách mạng của mình. Thời gian này, Mác bắt đầu nghiên cứu triết học của Phoiơbắc.
Năm 1842, Mác trở thành cộng tác viên rồi biên tập viên của “Nhật báo tỉnh Ranh”. Tháng 11 năm 1842, lần đầu tiên Mác gặp Ăngghen.
Năm 1843, Mác rút khỏi ban biên tập “Nhật báo tỉnh Ranh”, tham gia xuất bản tạp chí “Niên giám Pháp – Đức” tại Pari. Trong năm này, Mác thành hôn với Gieni phôn Vextơphalen.
Năm 1844, Mác gặp gỡ các nhà hoạt động chính trị Nga như M.Bacunin, V.Bootskin… năm 1844 là năm đánh dấu bước chuyển biến hoàn toàn thế giới quan của Mác, gắn liền với sự thay đổi lập trường giai cấp của ông: từ chủ nghĩa dân chủ - cách mạng chuyển sang chủ nghĩa cộng sản. Lập trường mới của Mác được đánh dấu trong các tác phẩm: Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen, Lời nói đầu “Về vấn đề Do Thái”.
Tháng 8 năm 1844, Mác gặp lại Ăngghen lần thứ hai tại Pari. Năm 1845, theo yêu cầu của chính phủ Phổ, Mác bị trục xuất khỏi Pari, phải chuyển sang sống ở Brucxen (Bỉ). Tại đây, Mác tham gia tổ chức Đồng minh những người cộng sản. Khi cách mạng 2-1848 nổ ra, Mác lại bị trục xuất khỏi Bỉ, trở về Pari. Tháng 6-1848, Mác lại bị trục xuất khỏi Pari, phải chuyển đến Luân Đôn. Mác sống ở đây đến cuối đời (14-3-1883).
Phriđrich Ăngghen:
Ăngghen sinh ngày 28 tháng 11 năm 1820 trong một gia đình chủ xưởng dệt ở thành phố Bácmen thuộc tỉnh Ranh nước Đức.
Năm 1837, Ăngghen bỏ học khi chưa học xong năm cuối cùng bậc trung học, Ông bắt đầu làm nhân viên cho hãng buôn của bố ở Bacmen.
Trong thời gian từ 1838 đến 1841 ông sống ở Bacmen và tự học. Năm 1841, Ăngghen tới Beclin làm nghĩa vụ quân sự và học dự thính ở Đại học Tổng hợp. Năm 1842, hoàn thành nghĩa vụ quân sự, Ăngghen trở về Bacmen. Cùng năm, ông sang Anh để tìm hiểu về việc buôn bán tại xưởng dệt vải ở Manchesto. Trên đường đi, ông ghé thăm tòa soạn “Nhật báo tỉnh Ranh”. Tại đây ông gặp Các Mác lần đầu tiên.
Cuối tháng 8 đầu tháng 9 -1844, Ăngghen đến Pari gặp Mác. Lần gặp gỡ thứ hai này đã đánh dấu một bước ngoặt trong cuộc đời của Mác và Ăngghen, bắt đầu quá trình cộng tác của hai người.
Tại Pari, Ăngghen và Mác cùng viết Gia đình thần thánh. Năm 1845, Ăngghen về Đức xuất bản cuốn Tình cảnh giai cấp công nhân Anh. Mùa xuân 1845, Ăngghen sang Bỉ cùng Mác viết Hệ tư tưởng Đức. Thời gian 1845 – 1847, Ăngghen ở Bỉ tham gia Đồng minh những người cộng sản và viết Những nguyên lý chủ nghĩa cộng sản. Sau đó, Ăngghen cùng Mác viết Tuyên ngôn của Đảng cộng sản năm 1848.
Tháng 2 – 1848, Ăngghen sang Pari. Đầu tháng 4 – 1848, Mác và Ăngghen cùng một số bạn chiến đấu về Đức trực tiếp tham gia đấu tranh cách mạng. Ngày 3 – 10 – 1848, cảnh sát Phổ truy bắt Ăngghen, Ăngghen buộc phải lánh sang Bỉ nhưng lại bị cảnh sát Bỉ bắt và trục xuất. Tháng 1 – 1849, Ăngghen trở về Đức. Ngày 10 – 5 – 1849, Ăngghen tham gia cuộc khởi nghĩa nhân dân ở Enbecphen. Chính phủ Đức trục xuất Mác (16 – 5 – 1849) và ra lệnh bắt giam Ăngghen. Trước tình hình căng thẳng đó, Mác và Ăngghen đều phải rời quê hương. Sau khi Mác mất, Ăngghen hoàn chỉnh và cho xuất bản quyển 2 và quyển 3 của bộ Tư bản. Từ mùa đông 1850 đến mùa thu 1870, Ăngghen đến sống tại Mancheser. Sau đó ông chuyển tới Luân đôn. Ngày 5 – 8 – 1895, Ăngghen qua đời tại đây.
Hoàn cảnh ra đời tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”
Giữa thế kỷ thứ XIX, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã đạt tới trình độ phát triển: Đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa đã phát triển ở một số nước châu Âu. Cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp, giai cấp vô sản hiện đại ra đời và sớm bước lên vũ đài đấu tranh chống lại giai cấp tư sản.
Trong những năm 30 và 40 của thế kỷ XIX, ở một số nước tư bản phát triển, giai cấp vô sản đã vùng lên đấu tranh chống lại giai cấp tư sản đòi thực hiện những yêu sách của mình cả về kinh tế lẫn chính trị. Tiêu biểu cho sự phát triển của phong trào vô sản là những cuộc khởi nghĩa của công nhân dệt ở thành phố Lyông (Pháp) năm 1837; cuộc nổi dậy của công nhân dệt vùng Xilêdi (Đức) năm 1844; phong trào Hiến chương ở Anh kéo dài 10 năm (1838 - 1848). Sự lớn mạnh của phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản đòi hỏi một cách bức thiết phải có một hệ thống lý luận soi đường và một cương lĩnh chính trị làm kim chỉ nam cho hành động cách mạng.
Cuối tháng 11, đầu tháng 12 năm 1847, Đại hội lần thứ hai Liên đoàn những người cộng sản đã thảo luận và thông qua những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản do Mác và Ăngghen trình bày. Trên cơ sở sự nhất trí ấy, C.Mác và Ph.Ăngghen được Đại hội ủy nhiệm thảo ra bản tuyên ngôn chính thức.
Cuối tháng giêng năm 1948, Mác hoàn thành việc biên soạn. Bản thảo được gửi đi Anh. Việc công bố Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản cũng là thông báo về sự ra đời của một học thuyết cách mạng, một thế giới quan khoa học của chủ nghĩa Mác. Lần đầu tiên trong lịch sử loài người thực hiện được cuộc cách mạng tư tưởng với đỉnh cao của trí tuệ khám phá và hệ thống hóa những quy luật vận động của giới tự nhiên, xã hội và tư duy của con người. Toàn bộ thành tựu trí tuệ của loài người được tổng kết, khái quát.
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản – sự khẳng định những nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học
Tuyên Ngôn của Đảng Cộng Sản không những là cương lĩnh của một Đảng cộng sản đầu tiên, mà còn là một tác phẩm khoa học lớn, trong đó lần đầu tiên, những quan điểm chủ yếu của chủ nghĩa Mác đã được trình bày một cách chặt chẽ và có hệ thống. V.I.Lê Nin nhận xét rằng: “tác phẩm này trình bày một cách hết sức sáng sủa và rõ ràng thế giới quan mới, chủ nghĩa duy vật triệt để - chủ nghĩa duy vật này bao quát cả lĩnh vực sinh hoạt xã hội, - phép biện chứng với tư cách là học thuyết toàn diện nhất và sâu sắc nhất về sự phát triển, lý luận đấu tranh giai cấp và vai trò cách mạng – trong lịch sử toàn thế giới – của giai cấp vô sản, tức là giai cấp sáng tạo ra một xã hội mới, xã hội cộng sản” (V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mát cơ va, 1980, Tập 26, Trang 57)
Lời chỉ dẫn đó của Lênin giúp chúng ta định hướng nghiên cứu nội dung Tuyên ngôn của Đảng cộng sản với tính cách là bản khai sinh của chủ nghĩa xã hội khoa học: Nội dung của nó thể hiện ở 6 vấn đề chủ yếu sau:
Tuyên ngôn của Đảng cộng sản là kết quả tổng hợp tập trung tất cả những nhận thức khoa học mới mẻ, đúng đắn và đạt đến đỉnh cao của học thuyết Mác
Lý luận của chủ nghĩa Mác với tất cả các bộ phận hợp thành của nó và các nội dung tiêu biểu nhất đã được thể hiện sâu sắc trong tác phẩm với ý nghĩa đánh dấu sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học.
Thật vậy, trong Tuyên ngôn và đến Tuyên ngôn, lần đầu tiên đã trình bày một cách sáng tỏ và thuyết phục, tập trung và cô đọng, hoàn chỉnh và đầy đủ, toàn diện và có hệ thống những nguyên lý cơ bản nhất của chủ nghĩa Mác: Triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, kinh tế chính trị chọ mác xít và chủ nghĩa xã hội khoa học. Khái quát toàn bộ kết quả quá trình nghiên cứu khoa học nghiêm túc công phu và hoạt động thực tiễn chính trị sôi động nhiệt tình của mình trong suốt những năm 40 thế kỷ XIX. Mác và Ăngghen đã chỉ rõ trong Tuyên ngôn hàng loạt vấn đề cơ bản quan trọng. Đó là việc phân tích quy luật kinh tế - xã hội cơ bản của chủ nghĩa tư bản, từ đó rút ra chiều hướng vận động, phát triển và diệt vong tất yếu của chế độ xã hội ấy; đồng thời gắn liền với điều này là thắng lợi tất yếu của cuộc cách mạng cộng sản với sự ra đời của xã hội mới cộng sản chủ nghĩa. Đó là việc luận chứng cho vai trò cách mạng mang tính lịch sử thế giới của giai cấp vô sản trong việc lật đổ chế độ tư bản, xây dựng chủ nghĩa cộng sản; để hoàn thành sứ mạng cao cả tự giải phóng, đồng thời giải phóng toàn nhân loại, giai cấp vô sản phải tự tổ chức được chính đảng cộng sản của mình làm đội tiên phong lãnh đạo cuộc đấu tranh chống lại giai cấp tư sản, phải giành lấy dân chủ, trở thành giai cấp thống trị, tức là nắm chính quyền để cải tạo xã hội cũ xây dựng xã hội mới…
Ở đây, thế giới quan duy vật biện chứng và duy vật lịch sử mà Mác và Ăngghen đạt được là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt tất cả các chương trình của tác phẩm. Nhờ đó, hai ông đã phân tích sâu sắc và chính xác quá khứ, hiện tại, tương lai của xã hội loài người.
Về sau, đến 1886, Ăngghen đã khẳng định “ Những quan điểm của chúng tôi về sự khác nhau giữa một xã hội tương lai, không tư bản chủ nghĩa và xã hội hiện nay, là những kết luận chính xác rút ra từ những sự thật và quá trình phát triển của lịch sử và một khi những kết luận đó không được trình bày gắn liền với những sự thật và sự phát triển đó thì chúng sẽ không có giá trị gì về lý luận cũng như về thực tiễn” (C.Mác. Ph.Ăngghen: Toàn tập, Beclin,1973, t36, tr 429).
Tuyên ngôn của Đảng cộng sản đã thể hiện hoàn toàn đầy đủ lý luận và phương pháp luận đúng đắn đó của Mác và Ăngghen.
Tuyên ngôn Đảng cộng sản làm sáng tỏ sự ra đời của giai cấp vô sản như một nấc thang quy định của lịch sử
Trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, Mác và Ăngghen đã làm sáng tỏ sự ra đời của giai cấp vô sản với tính cách là một nấc thang quy định của lịch sử trong tiến trình phát triển của giai cấp và của cuộc đấu tranh giai cấp, và bắt nguồn từ trình độ phát triển của sản xuất. Dựa trên quan niệm duy vật về lịch sử, Mác và Ăngghen nhận thấy, xét đến cùng thì nhân tố kinh tế có vai trò quyết định sâu xa nhất của lịch sử. Dĩ nhiên, đây không phải là nhân tố duy nhất. Các ông đã phát hiện ra quy luật phổ quát của lịch sử là mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Chính giai cấp tư sản đã tạo nên một lực lượng sản xuất xã hội hóa cao chưa từng thấy và giai cấp vô sản chính là con đẻ của nền đại công nghiệp cơ khí lúc bấy giờ. Nó cũng là nhân tố hàng đầu trong lực lượng sản xuất xã hội hóa đó. Chế độ tư hữu tư sản và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa nói chung mang bản chất tư hữu chật hẹp, nó không thể chứa đựng nổi lực lượng sản xuất xã hội hóa ngày càng rộng lớn và giai cấp vô sản cách mạng chính là nhân tố vật chất, mà rốt cuộc thì lịch sử cũng đã tìm thấy, để xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, xác lập nên một chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất, phù hợp với lực lượng sản xuất xã hội hóa đã nêu. Chính vì thế Mác và Ăngghen nói rằng, giai cấp tư sản đã tạo ra một thế lực giết chết mình ngoài ý muốn: “giai cấp tư sản không những đã rèn luyện những vũ khí sẽ giết mình; nó còn tạo ra những người sử dụng vũ khí ấy, chống lại nó, đó là những công nhân hiện đại, những người vô sản” (C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.605); “giai cấp tư sản sinh ra những người đào huyệt chôn chính nó” (Sđd, tr.613). Sự xuất hiện giai cấp tư sản và giai cấp vô sản và mâu thuẫn không thể điều hòa của hai giai cấp đó đã được luận chứng từ sự ra đời của nền sản xuất lớn bằng máy móc và trên cơ sở của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất.
Các ông chứng minh rằng, sự cải biến tất yếu toàn bộ các quan hệ xã hội để giải phóng hoàn toàn con người về mặt xã hội là sứ mệnh lịch sử cũng là lợi ích của giai cấp vô sản. Chương đầu đã chứng minh rằng, sự thay thế xã hội bóc lột bằng xã hội không còn bóc lột, xã hội cộng sản chủ nghĩa nhằm phát triển toàn diện con người là một tất yếu của lịch sử.
Xã hội cộng sản chủ nghĩa – xã hội bảo đảm một sự phát triển cao của con người – là sự tiếp nối duy nhất có triển vọng trong lịch sử phát triển của xã hội loài người. Chủ nghĩa cộng sản không đơn giản là sự thay thế xã hội tư bản chủ nghĩa, mà là sự phủ định một kiểu sinh hoạt xã hội có đặc điểm cố hữu là sự tồn tại tình trạng áp bức, bóc lột và sự thống trị của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Chủ nghĩa xã hội mở ra một kiểu sinh hoạt xã hội hoàn toàn mới của con người, là sự mở đầu lịch sử thật sự của loài người. Những tiền đề vật chất và tinh thần cho xã hội cộng sản chủ nghĩa, trong đó con người ngày càng là người làm chủ các điều kiện sinh hoạt và đời sống của mình, đã xuất hiện trong toàn bộ tiến trình lịch sử loài người cho đến nay.
Trong Tuyên ngôn có viết: “ Thay cho xã hội tư sản cũ, với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó, sẽ xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người” (C.Mác và Ph.Ăng ghen: Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.628). Đây là bằng chứng cho thấy giá trị nhân văn cao cả của chủ nghĩa xã hội khoa học được thể hiện nổi bật trong Tuyên ngôn. Đây cũng chính là mục đích mà nhân loại phấn đấu để đạt được. Sự phát triển của sản xuất, kinh tế, sự thay thế một thể chế chính trị lạc hậu, lỗi thời bằng một thể chế dân chủ pháp quyền cũng như sự phát triển các lĩnh vực xã hội khác và văn hóa nói chung đều là những điều kiện, những phương thức cần thiết nhằm vào mục tiêu vì sự phát triển tự do và hạnh phúc của mỗi cá nhân và cả xã hội loài người.
Những nhân tố tiến bộ về vật chất và tinh thần của lịch sử giờ đây đã đạt tới trình độ phát triển mạnh mẽ, chín muồi để tạo ra một thời kỳ xóa bỏ chế độ bóc lột đã tồn tại hàng ngàn năm, giải phóng mọi người lao động thoát khỏi ách áp bức, bóc lột. Công cuộc giải phóng mọi người lao động thoát khỏi ách áp bức bóc lột gắn liền với việc xây dựng một xã hội cộng sản, với cơ sở xã hội của nó là giai cấp vô sản. Đặc trưng đó của xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa xuất phát từ sự phân tích vị trí xã hội – chính trị của con người trong xã hội tư sản và phản ánh liên tục của quá trình giải phóng con người mà Mác và Ăngghen đã phát hiện.
Tuyên ngôn Đảng cộng sản phân tích một cách khoa học và sâu sắc về giai cấp vô sản
Trước Mác và Ăngghen, người ta chưa có khái niệm rõ về vô sản , thường hiểu đó là những người nghèo bị áp bức, boc lột trong các công trường thủ công và trong nền công nghiệp đang phát triển, bao gồm cả tầng lớp lưu manh, lười biếng, khổ sở…
Trong lần tái bản 1888, Ăngghen đã nói rõ: “ Giai cấp vô sản là giai cấp những người công nhân làm thuê hiện đại, vì mất các tư liệu sản xuất của bản thân, nên buộc phải bán sức lao động của mình để sống”.
Giai cấp vô sản là giai cấp lao động và là sản phẩm của nền đại công nghiệp. Gắn liền với sự hình thành và xác lập của giai cấp vô sản, một quy luật vận động và phát triển cơ bản của giai cấp vô sản – một điều kiện quan trọng đối với sự trưởng thành của giai cấp đó – đã được nêu lên là: cuộc đấu tranh giai cấp về chính trị. Về sau này, Mác đã giải thích: “Giai cấp công nhân hoặc là cách mạng hoặc chẳng là gì hết” (C.Mác, Ph.Ăngghen: Toàn tập, Béclin, t31, tr77).
Mác và Ăngghen nêu lên một nhận thức quan trọng của chủ nghĩa xã hội khoa học là: “Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng” (C.Mác, Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t4, tr 610). Vấn đề là ở chỗ tại sao giai cấp vô sản cách mạng lại có được sứ mệnh lịch sử này, chứ không phải bất kỳ một giai cấp nào khác. Theo Mác và Ăng-ghen, giai cấp vô sản sở dĩ là một giai cấp cách mạng không phải vì nó nghèo khổ mà vì : “Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp” (Sđd, tr 610). Bởi thế nó tiêu biểu cho một phương thức sản xuất đang lên của lịch sử. Phương thức đó chính là lực lượng sản xuất xã hội hóa rộng lớn sẽ quy định và làm xuất hiện một quan hệ sản xuất mới cũng mang tính chất xã hội hóa tương ứng.
Việc hình thành quan điểm duy vật về lịch sử và sự vận dụng quan điểm đó đề làm sáng tỏ vai trò lịch sử giai cấp vô sản đã tạo ra khả năng khắc phục quan niệm của những nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng thường nhìn nhận giai cấp vô sản chỉ là giai cấp nghèo khổ. Theo Mác và Ăng-ghen, nghèo khổ chỉ là trạng thái mà giai cấp vô sản cách mạng phải xóa bỏ bằng cách mạng để tự giải phóng mình và giải phóng cho toàn nhân loại, nhằm xóa bỏ bóc lột, áp bức, nô dịch, tức là xóa bỏ tình trạng tha hóa, nghèo khổ không tự động dẫn đến cách mạng. Những giai cấp nghèo khổ không đồng nhất với giai cấp cách mạng. Chỉ có giai cấp vô sản cách mạng mới tự ý thức sâu sắc về thân phận nô lệ của mình và xóa bỏ nó, như Mác nói, là xóa bỏ cái trật tự bất công hiện tồn. Mác và Ăngghen đã khẳng định rằng, giai cấp vô sả cách mạng chính là giai cấp có khả năng, có sứ mệnh lịch sử thủ tiêu chủ nghĩa tư bản và các tàn tích tiền tư bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội – chủ nghĩa cộng sản.
Tiếp tục mở rộng nhận thức đó để thấy được sự thống nhất của phong trào công nhân với chủ nghĩa xã hội khoa học, tháng 10-1847, Ăngghen đã viết: “Chủ nghĩa cộng sản, ở mức độ nó là lý luận, là sự biểu hiện lý luận của lập trường của giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh đó (tức là cuộc đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản) và sự khái quát lý luận về những điều kiện giải phóng của giai cấp vô sản” (Sđd, tr 399). Nhận định đó đã làm sáng tỏ cơ sở tồn tại và bản chất của chủ nghĩa xã hội khoa học.
Do hoàn cảnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân có sứ mệnh thực hiện sự nghiệp xã hội hóa các tư liệu sản xuất và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Giai cấp đó gắn liền với sự phát triển của nền sản xuất đại công nghiệp và do đó có khả năng cải biến toàn bộ các quan hệ xã hội. Chế độ xã hội không còn giai cấp chỉ có thể được thiết lập trong quá trình thực hiện vai trò lãnh đạo công cuộc xây dựng xã hội mới của giai cấp công nhân.
Như vậy, giai cấp công nhân đại biểu cho mọi nhu cầu của công cuộc xã hội hóa nền sản xuất và có khả năng khách quan để tiến hành sự nghiệp cải biến toàn bộ các quan hệ xã hội.
Từ đó cho thấy, cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản để giải phóng mình cũng là cuộc đấu tranh để giải phóng mọi người lao động bị áp bức, bóc lột, một cuộc đấu tranh để xây dựng những quan hệ xã hội tốt đẹp thật sự cho con người. Cũng vì vậy, trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, Mác và Ăng ghen đã viết: “Tất cả những giai cấp trước kia đã chiếm được chính quyền, đều ra sức cũng cố địa vị mà họ đã nắm được bằng cách bắt xã hội phải tuân theo những điều kiện bảo đảm cho phương thức chiếm hữu của chính chúng. Những người vô sản chỉ có nắm được những lực lượng sản xuất xã hội bằng cách xóa bỏ phương thức chiếm hữu hiện nay của chính mình, và do đấy, xóa bỏ toàn bộ phương thức chiếm hữu đã tồn tại từ trước đến nay…
Tất cả những phong trào lịch sử, từ trước đến nay, đều là do thiểu số thực hiện, hoặc đều mưu lợi ích chi thiểu số. Phong trào vô sản là phong trào độc lập của tuyệt đại đa số, mưu lợi ích cho tuyệt đại đa số” (Sđd, t.4, tr. 611).
Do vị trí của nó trong quá trình sản xuất xã hội sự tự nhận thức của giai cấp công nhân gắn chặt với nhận thức của lợi ích chung của sự phát triển xã hội. Lợi ích của giai cấp công nhân hoàn toàn tương hợp với những yêu cầu phát triển của xã hội. Vì vậy, ý thức gắn bó với giai cấp công nhân và đại diện cho những lợi ích đó có nghĩa là đấu tranh vì tiến bộ của toàn nhân loại.
Sự phát triển tất yếu của tư liệu lao động - biểu hiện ra trong quá trình xã hội hóa sản xuất – đòi hỏi phải cải biến toàn bộ các quan hệ xã hội, cho nên, nhận thức về vai trò của giai cấp công nhân cũng bao hàm cả nhận thức về chính sách liên minh tất yếu của giai cấp đó.
Để luận chứng cho vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân, Mác và Ăngghen còn chứng minh rằng giai cấp đó có đầy đủ những thuộc tính cho phép có thể xác định mục tiêu và tổ chức tiến hành cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản. Khả năng tổ chức, khả năng đoàn kết, khả năng kỹ luật là đặc trưng cơ bản của giai cấp công nhân, khác hẳn với tất cả các giai cấp và tầng lớp khác đối diện với giai cấp tư sản. Một đặc điểm chủ yếu của giai cấp công nhân là khả năng hoạt động chính trị có tổ chức và có kỹ luật.
Mác và Ăngghen cũng chứng minh rằng, giai cấp công nhân, theo bản chất giai cấp của mình, trước hết là giai cấp chiến đấu, giai cấp cách mạng. Giai cấp công nhân là lực lượng lãnh đạo xã hội, vì nó có những tính chất mà dưới sự lãnh đạo của Đảng của nó càng được phát huy hơn, hiệu quả hơn và tất yếu giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh. Hai ông luận giải những tính chất của giai cấp công nhân gắn chặt với việc làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp đó. Cơ sở vật chất cho vai trò to lớn của giai cấp công nhân, đồng thời là cơ sở cho sự phát triển của toàn xã hội là ở chỗ, tính tổ chức xã hội của con người không chỉ đáp ứng quá trình xã hội hóa nền sản xuất, mà còn kích thích và đẩy mạnh quá trình đó. Vì vậy, việc xóa bỏ đổi kháng giai cấp và cuối cùng là việc xóa bỏ giai cấp – có nghĩa là thiết lập xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa – là một tất yếu của lịch sử.
Tuyên ngôn Đảng cộng sản đã luận chứng về vai trò của Đảng Cộng sản
Trong xã hội tư bản. giai cấp vô sản là giai cấp không có tư liệu sản xuất. Để sống, họ phải bán sức lao động, làm thuê cho giai cấp tư sản, bị giai cấp tư sản bóc lột. Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản có ngay từ khi nó mới ra đời và trải qua những hình thức khác nhau. Các cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản từ tự phát, đơn lẻ, dần chuyển lên những hình thức đấu tranh mang tính độc lập, tự giác với quy mô ngày càng lớn, trở thành giai cấp lật đổ chính quyền của giai cấp tư sản, xác lập sự thống trị chính trị của giai cấp vô sản và xây dựng xã hội mới.
Để thực hiện được sứ mệnh lịch sử đó, giai cấp vô sản phải có một đảng cách mạng chân chính lãnh đạo. Đảng cộng sản có mối quan hệ hữu cơ với giai cấp vô sản, họ không phải là một tổ chức biệt lập, không có lợi ích mào khác ngoài lợi ích của giai cấp vô sản và nhân dân. Tuy nhiên, là đội tiền phong của giai cấp vô sản, Đảng cộng sản là một tổ chức tiên tiến.
Mác và Ăng ghen đã đi tới kết luận rằng: “… Về mặt thực tiễn, những người cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận luôn luôn thúc đẩy phong trào tiến lên; Về mặt lý luận, họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản” (Sđd, tr 558).
Chỉ tới khi nào giai cấp công nhân có được đội tiên phong tự giác và có tổ chức của mình, và đội tiên phong đó là bộ phận luôn gắn bó với giai cấp, thì giai cấp công nhân có thể tự nhận thức được sứ mệnh lịch sử của nó và mới hành động một cách tự giác. Nhiệm vụ của Đảng của giai cấp công nhân là phải nâng cao ý thức giác ngộ của người công nhân để có ý thức về vai trò của giai cấp của mình. Sự lớn mạnh toàn diện của giai cấp công nhân trong việc thực hiện vai trò lãnh trò của nó đòi hỏi sự tồn tại của một đảng cách mạng, đảng đó tượng trưng cho sự kết hợp của chủ nghĩa xã hội khoa học với phong trào công nhân. Vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân được thực hiện, trước hết, thông qua hoạt động của đảng và được đảng bảo đảm. Do đó, vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản là một điều kiện tiên quyết cho sư lớn mạnh của giai cấp công nhân. Nhờ có Đảng, giai cấp công nhân mới có thể hiểu rõ và thực hiện những đòi hỏi của sự phát triển giai cấp. Ở đây, chúng ta thấy rõ mối quan hệ giữa: Đảng cộng sản, giai cấp công nhân và lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học.
Tuyên ngôn của Đảng cộng sản cho thấy rõ Đảng cộng sản là hiện thân của sự kết hợp lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học với phong trào công nhân. Mối quan hệ có tính quy luật ấy thể hiện ở chỗ: Lý luận khoa học – hệ tư tưởng và tổ chức là gắn bó hữu cơ với nhau, không thể thiếu và không thể tách rời.
Tuyên ngôn Đảng cộng sản đã nêu lên những đặc điểm cơ bản của xã hội cộng sản chủ nghĩa
Các ông đã chứng minh rằng, mục tiêu của những người cộng sản không phải là những ý niệm trừu tượng của “những người muốn đảo lộn thế giới”, mà là phản ánh sự vận động thực tế của các giai cấp trong xã hội. Những quan niệm cơ bản của những người cộng sản về các quan hệ xã hội mới cần thiết lập chính là sự thể hiện về lý luận những lợi ích của giai cấp công nhân.
Đặc biệt trong chương II, Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, Mác và Ăngghen đã trình bày những nhiệm vụ có tính chất Cương lĩnh và những đặc điểm của xã hội mới mà giai cấp công nhân cần phải xác lập.
Mác và Ăngghen đã phát triển sâu nhận thức đạt được trước đây là: hoạt động có tổ chức để xây dựng chủ nghĩa xã hội phải là mục tiêu và linh hồn của giai cấp vô sản. Mặt tích cực đó của giai cấp vô sản phải được thực thi trên cơ sở trình độ xã hội hóa sản xuất ở mức độ ngày càng cao và rất cao. Hai ông luôn nhấn mạnh, sau khi giành chính quyền, giai cấp vô sản trước hết phải nâng cao sản xuất và nâng cao năng suất lao động, và mọi mục tiêu chỉ có thể đạt được trên nền tảng đó.
Mác và Ăngghen còn nhấn mạnh rằng, trong tiến trình phát triển của mình, xã hội công sản chủ nghĩa “đoạn tuyệt triệt để nhất với những quan hệ sở hữu kế thừa của quá khứ” (Sđd, tr 626). Đặc biệt khi trình bày những quan điểm về xã hội mới, hai ông luôn luôn biểu lộ tư tưởng kiên quyết đấu tranh chống “những lợi buộc tội của giai cấp tư sản đối với chủ nghĩa cộng sản”. Theo Mác và Ăngghen, những yêu cầu có tính phổ biến, xuất phát từ điều kiện lịch sử - cụ thể, để thiết lập và xây dựng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa là:
+ Xã hội hóa về tư liệu sản xuất và về phân phối.
+ Thực hiện nghĩa vụ lao động nói chung.
+ Phát triển nhanh chóng lực lượng sản xuất.
+ Xóa bỏ đối lạp giữa thành thị và nông thôn.
+ Xóa bỏ đối lập giữa lao động trí óc và lao động chân tay.
Trong khi phân tích các điều kiện để phát triển lực lượng sản xuất, Mác và Ăngghen đã đấu tranh chống các hệ tư tưởng phong kiến, tư sản và tiểu ta sản; luận giải sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, giải phóng toàn thể nhân loại khỏi sự áp bức, bóc lột, xây dựng một xã hội không còn giai cấp, một xã hội đảm bảo tự do, bình đẳng và công lý cho mọi người lao động. Từ đó, hai ông đã chỉ cho giai cấp công nhân con đường để làm ra lịch sử của con người một cách hoàn toàn mới. Chính quy mô và chiều sâu của tiến trình cải biến cách mạng để thực hiện sứ mệnh lịch sử lớn lao đó sẽ quy định nhiệm vụ, phương tiện và phương pháp của cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân. Trước hết, Mác và Ăngghen nêu lên hai nhận thức có ý nghĩa đặc biệt chỉ đạo cuộc đấu tranh đó là:
+ Lợi ích của giai cấp công nhân là biểu hiện yêu cầu khách quan đối với sự phát triển của xã hội loài người. Vì vậy, giai cấp công nhân có thể và phải xây dựng khối liên minh sâu rộng và vững chắc với các lực lượng dân chủ và tiến bộ khác để tiến hành sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
+ Sự phát triển cao của loài người, việc thực hiện tiến bộ xã hội có tính tất yếu khách quan chỉ có thể có được trên cơ sở nền tảng của giai cấp công nhân và Đảng của nó luôn luôn ý thức được đầy đủ mục tiêu và lợi ích của giai cấp.
Mác và Ăngghen cũng chỉ rõ công cuộc cải biến to lớn chỉ có thể thực hiện được với điều kiện trước hết là giai cấp công nhân phải giành và giữ chính quyền.
Đây là một nhận thức rất cơ bản để phân biệt rõ chủ nghĩa xã hội khoa học với những quan điểm không tưởng và tiểu tư sản về chủ nghĩa xã hội.
Sau khi trình bày một cách hệ thống, toàn diện về lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học, Mác và Ăngghen đã vạch ra tính chất vô căn cứ, không tưởng, lỗi thời, thậm chí có tính chất phản động của các quan điểm không đúng về chủ nghĩa xã hội còn ảnh hưởng trong phong trào công nhân lúc bấy giờ.
Khẩu hiệu “Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại”
"Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại!" là một trong những khẩu hiệu chính trị nổi tiếng nhất của những người cộng sản, đó là một trong những nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học. Đây là khẩu hiệu biểu lộ bản chất quốc tế của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản.
Đại hội “Liên đoàn những người chính nghĩa” họp tại Luân Đôn từ ngày 2 đến ngày 9 – 6 – 1847, đã quyết định bỏ tên “Liên đoàn những người chính nghĩa” và lấy tên mới là “Liên đoàn những người cộng sản” (đây là Đại hội đảng đầu tiên của phong trào công nhân cách mạng). Sự thay đổi này thể hiện rõ điều mới mẻ mà Mác và Ăngghen đã phấn đấu đạt được trong phong trào công nhân Đức và phong trào công nhân quốc tế lúc đó. Trong khi không ít nhà “cách tân thế giới” xuất hiện và nhiều người tự xưng là “xã hội chủ nghĩa”, Đại hội đãnêu lên rõ ràng mục tiêu đấu tranh và phương hướng chủ yếu ghi trong Cương lĩnh. Việc thay đổi tên gọi cũng chứng tỏ rằng, từ Đại hội đó nhất thiết phải đi tới xây dựng một đảng cách mạng độc lập của giai cấp vô sản. Điều này có ý nghĩa đánh dấu sự phân ranh giới dứt khoát với những tổ chức tư sản và tiểu tư sản, cũng như những tổ chức công nhân còn chịu ảnh hưởng của tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng.
Khẩu hiệu có tính chất tư sản bác ái đã từng phổ biến rộng trong “Liên đoàn những người chính nghĩa”: “Mọi người đều là anh em” được Đại hội quyết định thay thế bằng khẩu hiệu cách mạng: “Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại”. Khẩu hiệu này xác định rõ ràng tính chất giai cấp của đảng vô sản, đồng thời, còn nêu cao chủ nghĩa quốc tế vô sản như là nguyên tắc cơ bản của cuộc đấu tranh của phong trào công nhân cách mạng, khẩu hiệu đó lần đầu tiên đã được ghi trên trang đầu Bản dự thảo Điều lệ mới. Đồng thời, khẩu hiệu của Mác và Ăngghen còn là lời hiệu triệu lần đầu tiên được gửi tới giai cấp vô sản toàn thế giới. Khẩu hiệu đó thể hiện tầm nhìn sâu sắc của Mác và Ăngghen trên nền tảng những quan điểm duy vật lịch sử mà hai ông đã xây dựng.
PHẦN KẾT LUẬN
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản không chỉ là một tác phẩm lý luận mà còn là cương lĩnh cách mạng đầu tiên của phong trào cộng sản và phong trào công nhân quốc tế. Với những lí luận sắc bén, đầy sức thuyết phục Tuyên ngôn đã biến chủ nghĩa xã hội từ không tưởng thành khoa học, thành thực tiễn đấu tranh cách mạng.
Về mặt lí luận, Tuyên Ngôn của Đảng Cộng Sản thuyết giảng sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản, sự thắng lợi tất yếu của chủ nghĩa cộng sản và giai cấp công nhân – là lực lượng xã hội có sứ mệnh lật đổ chủ nghĩa tư bản xây dựng chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa cộng sản.
Về mặt cương lĩnh, Tuyên Ngôn của Đảng Cộng sản trình bày công khai mục đích, nhiệm vụ, những biện pháp cách mạng, những nguyên tắc chiến lược, sách lược của những người cộng sản và giai cấp vô sản nhằm lật đổ giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản, xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Thật vậy, bằng những nội dung được luận giải một cách khoa học, chặt chẽ, súc tích và có sức thuyết phục cao, Tuyên ngôn đã chỉ rõ những hạn chế, những sai lầm, phản khoa học của các hệ tư tưởng trước đây, chứng minh thắng lợi tất yếu của chủ nghĩa xã hội cũng như sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản. Hơn thế nữa, lần đầu tiên trong lịch sử, với Tuyên ngôn, những vấn đề cơ bản về con đường, giải pháp, bước đi ... của cách mạng xã hội chủ nghĩa đã được Mác trình bày một cách có hệ thống và rõ ràng. Với tất cả những nội dung này, Tuyên ngôn đã trở thành một tác phẩm lý luận kiệt xuất và bất hủ.
Sự ra đời của Tuyên Ngôn của Đảng Cộng sản đồng thời là biến đổi cách mạng trong lịch sử tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Nó đánh dấu sự hình thành về cơ bản lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học. Tuyên ngôn ra đời kết thúc sự chia cắt giữa tư tưởng xã hội chủ nghĩa với hành động của giai cấp công nhân. Trước đó, một bên công nhân vẫn đấu tranh, còn một bên khác, các nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa vẫn cứ suy nghĩ về sự nghèo khổ của các giai cấp ấy. Từ sự ra đời của Tuyên ngôn, tư tưởng xã hội chủ nghĩa gắn liền với phong trào công nhân, chỉ đạo phong trào qua nhiều chặng đường tiến lên. Và do đó, chủ nghĩa xã hội không còn là một sự tưởng tượng viển vông, một ước mơ hảo huyền nữa, nó đã trở thành một khoa học thực sự. Trong lịch sử tư tưởng, Tuyên ngôn của Đảng cộng sản xứng đáng trở thành cột mốc đánh dấu sự trưởng thành của nhân loại trong quá trình nhận thức.
Trong giai đoạn hiện nay, dù chủ nghĩa xã hội đang đứng trước những thử thách khốc liệt, còn chủ nghĩa tư bản dẫu đạt được thành tựu kinh tế to lớn vẫn không thể khắc phục được những mâu thuẫn nan giải và bi kịch của một xã hội dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa và người bóc lột người. Những luận điểm của Tuyên ngôn nêu ra vẫn là định hướng cho nhận thức và hành động của nhân loại trong tiến trình đi tới một xã hội tiến bộ và hạnh phúc.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
B.A.Tsaghin: C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng và phát triển lý luận chủ nghĩa cộng sản khoa học, NXB Tiến Bộ, Matxcơva, 1986
Đào Duy Quát, Lê Minh Vu, Lê Minh Nghĩa: 160 năm Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007
Đỗ Tư, Trịnh Quốc Tuấn, Nguyễn Đức Bách: Lược khảo tư tưởng xã hội chủ nghĩa và Cộng sản chủ nghĩa, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996
Tạp chí Lý luận chính trị 2 – 2009, Huỳnh Thị Gấm: Tuyên ngôn của Đảng cộng sản – những giá trị đương đại, trang 3
Tiểu sử Ăngghen: Tập 1, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977
Trần Hùng, Trần Chí Mỹ: Lịch sử tư tưởng xã hội chủ nghĩa phương Tây trước chủ nghĩa Mác, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tuyên Ngôn Của Đảng Cộng Sản - sự khẳng định những nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học.doc