Nước ta dang trong quá trình mở cửa hội nhập, mở rộng quan hệ với các nước trên thế giới. Quá trình hội nhập và mở rộng quan hệ quốc tế đem lại rất nhiều tiềm năng và cơ hội cho sự phát triển của đất nước, tuy nhiên, tính chất phức tạp, khó khăn trong quan hệ quốc tế đang đặt ra nhiều vấn đề đòi hỏi sự hợp tác giữa Việt Nam với các nước. Tương trợ tư pháp là một công cụ trợ giúp hữu hiệu để giải quyết các vấn đề đó. Nhận thức rõ điều này, Đảng và nhà nước ta đã hết sức quan tâm đến vấn đề tương trợ tư pháp, đặc biệt là trong các điều ước song phương giữa Việt Nam với các nước, tuy nhiên, bên cạnh những điểm đạt được thì vấn đề ủy thác tư pháp cũng còn nhiều hạn chế cần sớm bổ sung, khắc phục
11 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3016 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ủy thác tư pháp quốc tế theo quy định của các điều ước quốc tế song phương Việt Nam kí kết với các nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Nước ta dang trong quá trình mở cửa hội nhập, mở rộng quan hệ với các nước trên thế giới. Quá trình hội nhập và mở rộng quan hệ quốc tế đem lại rất nhiều tiềm năng và cơ hội cho sự phát triển của đất nước, tuy nhiên, tính chất phức tạp, khó khăn trong quan hệ quốc tế đang đặt ra nhiều vấn đề đòi hỏi sự hợp tác giữa Việt Nam với các nước. Tương trợ tư pháp là một công cụ trợ giúp hữu hiệu để giải quyết các vấn đề đó. Nhận thức rõ điều này, Đảng và nhà nước ta đã hết sức quan tâm đến vấn đề tương trợ tư pháp, đặc biệt là trong các điều ước song phương giữa Việt Nam với các nước, tuy nhiên, bên cạnh những điểm đạt được thì vấn đề ủy thác tư pháp cũng còn nhiều hạn chế cần sớm bổ sung, khắc phục. Trong phạm vi bài tập lớn môn tư pháp quốc tế, em quyết định thực hiện nghiên cứu đề tài “Ủy thác tư pháp quốc tế theo quy định của các điều ước quốc tế song phương Việt Nam kí kết với các nước. Thực tiễn thực hiện ủy thác tư pháp quốc tế giữa Việt Nam và các nước ký kết điều ước quốc tế về vấn đề này ?” để có thể làm rõ các vấn đề cơ bản về ủy thác quốc tế theo quy định của các điều ước quốc tế song phương Việt Nam kí kết với các nước cũng như thực tiễn thực hiện để qua đó có một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả ủy thác quốc tế trong giai đoạn mới.
I. Ủy thác tư pháp quốc tế theo quy định của các điều ước quốc tế song phương Việt Nam kí kết với các nước
Về nguyên tắc, các cơ quan tư pháp có thể thực hiện các hành vi tố tụng theo thẩm quyền (thu thập chứng cứ, tống đạt giấy triệu tập đến tòa án..) trong phạm vi lãnh thổ của nước có cơ quan tư pháp đó. Muốn thực hiện các hành vi này ở nước ngoài, cơ quan tư pháp đó phải nhận được sự chấp thuận cụ thể của các nước nơi các hành vi đó sẽ được thực hiện trên cơ sở các ủy thác tư pháp quốc tế, tức là sự yêu cầu bằng văn bản chính thức của cơ quan tư pháp nước này (thường là các tòa án) đối với cơ quan tư pháp nước kia (thường là tòa án hữu quan cùng cấp) thực hiện các hành vi tố tụng riêng biệt tại lãnh thổ của nước kia theo những nội dung, chỉ định trong văn bản yêu cầu.
Ủy thác tư pháp là việc tòa án của một nước nhờ tòa án của nước ngoài thực hiện giúp những hành vi tố tụng riêng lẻ cần thiết để bảm đảm giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài.
1. Nội dung ủy thác quốc tế trong các điều ước quốc tế song phương Việt Nam kí kết với các nước
Nội dung các ủy thác tư pháp quốc tế rất phong phú và tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể chúng có thể yêu cầu tống đạt đương sự (thường là bị đơn) giấy triệu tập đến phiên tòa ở nước ngoài- yêu cầu về lấy lời khai của đương sự, nhân chứng- giám định nhóm máu (thường là để giải quyết vụ kiện về truy nhận cha cho con); xác định mức thu nhập thực tế của người phải cấp dưỡng, phải bồi thường thiệt hại...
Tùy vào nội dung của từng hiệp định tương trợ tư pháp của Việt Nam với từng nước cụ thể mà nội dung tương trợ tư pháp cũng khác nhau
Ví dụ như trong Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự và hình sự giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên Bang Nga (ký ngày 25/8/1998) giữa Việt Nam với Liên Bang Nga thì nội dung cơ bản của ủy thác gồm các vấn đề như: Triệu tập người làm chứng hoặc người giám định (Điều 8), tống đạt giấy tờ (Điều 9), cung cấp thông tin (Điều 12), chuyển giao đồ vật và tiền (Điều 13), xác minh địa chỉ và thông tin khác (Điều 14), công nhận giấy tờ (Điều 15) và Gửi giấy tờ về hộ tịch và các giấy tờ khác (Điều 16)…
Trong khi đó, cũng có những điều ước quốc tế song phương mà Việt Nam đã ký kết lại quy định cụ thể một vấn đề của ủy thác như Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Pháp lại quy định những biện pháp hợp tác nhằm nâng cao sự hợp tác giữa hai nước trong việc nhận và nuôi con nuôi giữa công dân hai nước
2. Về cách thức liên hệ
Các cơ quan tư pháp giữ cho nhau các ủy thác thác tư pháp quốc tế thông qua đường ngoại giao hoặc thông qua các phương tiện bưu điện, telex, fax…Tùy và nội dung cụ thể của các điều ước song phương mà các bên đã kí kết, các ủy thác có thể được giữ trực tiếp giữa các cơ quan tư pháp hữu quan hoặc thông qua cơ quan nhà nước ở Trung ương có thẩm quyền, hoặc bằng giao thông viên đặc nhiệm được cơ quan tư pháp nước yêu cầu ủy quyền thực hiện. Ví dụ:
Trong Điều 3, “Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự và hình sự giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên Bang Nga” quy định
“1. Về các vấn đề do Hiệp định này điều chỉnh, Cơ quan Tư pháp liên hệ với nhau qua cơ quan trung ương
2. Nhằm mục đích thực hiện hiệp định này, Cơ quan trung ương về phía Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Bộ Tư pháp Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Viện kiểm sát nhân dân tối cao; về phía Liên Bang Nga là Bộ Tư pháp Liên Bang Nga và Tổng viện kiểm sát Liên Bang Nga.
3. Các cơ quan của các Bên ký kết có thẩm quyền về các vấn đề dân sự và hình sự liên hệ với nhau về tương trợ tư pháp phải thông qua Cơ quan tư pháp. Những ủy thác tư pháp này được chuyển thông qua Cơ quan trung ương
4. Các cơ quan trung ương có thể thỏa thuận những vấn đề cụ thể mà Cơ quan tư pháp các Bên ký kết có thể liên hệ trực tiếp với nhau”
Còn trong Điều 2 “Hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự giữa nước CHXHCN Việt Nam và nước Cộng hòa Pháp” lại xác định Cơ quan trung ương là Bộ tư pháp của hai nước:
“1. Bộ tư pháp của hai Nước ký kết là Cơ quan trung ương chịu trách nhiệm thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ quy định tại Hiệp định này
2. Các cơ quan trung ương liên hệ trực tiếp với nhau; gửi yêu cầu tương trợ tư pháp kèm theo bản dịch ra ngôn ngữ của Nước ký kết được yêu cầu”
3. Các thức thực hiện
Thực tiễn tư pháp Việt Nam trong thời gian qua cho thấy số lượng ủy thác quốc tế ngày càng tăng, có cả loại ủy thác theo điều ước quốc tế (Hiệp định tương trợ tư pháp) và có loại ủy thác ngoài điều ước quốc tế. Theo quy định của các hiệp định tương trợ tư pháp mà Việt Nam đã ký kết với nước ngoài thì ủy thác quốc tế là phương tiện để các nước ký kết thực hiện tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân- gia đình và hình sự. Các ủy thác tư pháp theo hiệp định phải được lập thành văn bản.
Văn bản ủy thác phải được người đại diện cơ quan yêu cầu ký tên, đóng dấu hợp pháp. Các văn bản ủy thác tư pháp phải được các cơ quan tư pháp các nước ký kết gửi cho nhau thông qua Cơ quan trung ương là Bộ tư pháp (riêng các vấn đề hình sự thì gửi thông qua Viện kiểm sát tối cao).
Nhìn chung, theo quy định tại các điều ước song phương mà ta đã kí kết, các ủy thác tư pháp được thực hiện theo cách thức sau:
- Khi thực hiện ủy thác tư pháp, cơ quan được yêu cầu áp dụng pháp luật của nước mình. Theo đề nghị của cơ quan yêu cầu, cơ quan được yêu cầu có thể áp dụng các quy phạm luật tố tụng của nước ký kết yêu cầu, nếu những quy định phạm luật đó không mâu thuẫn với pháp luật của nước yêu cầu
Điều 8 “Hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự và hình sự giữa cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và cộng hòa nhân dân trung hoa”, Điều 1 “Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự và hình sự giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên Bang Nga”…và các quy định tại các điều ước song phương khác đều xác định việc cơ quan được yêu cầu áp dụng pháp luật nước mình khi thực hiện ủy thác tư pháp
- Nếu không tìm thấy người cần tìm theo địa chỉ đã nêu trong văn bản ủy thác thì cơ quan được yêu cầu áp dụng tất cả các biện pháp cần thiết để xác minh địa chỉ của người đó;
- Theo đề nghị của cơ quan yêu cầu, cơ quan được yêu cầu thông báo ngay cho cơ quan yêu cầu về thời gian và địa điểm thực hiện ủy thác;
- Để thực hiện ủy thác, cơ quan được yêu cầu lập các giấy tờ tương ứng nói rõ thời gian, địa điểm thực hiện và gửi các giấy tờ đó cho cơ quan yêu cầu. Nếu việc ủy thác không thực hiện được thì khi gửi trả lại các giấy tờ, cơ quan được yêu cầu cần thông báo lý do không thực hiện được.
- Nếu cơ quan được yêu cầu không có thầm quyền thực hiện ủy thác tư pháp thì cơ quan này chuyển ủy thác đó cho cơ quan có thẩm quyền theo thể thức đã xác định đối với các ủy thác tư pháp quốc tế.
Trong trường hợp chưa có hiệp định liên quan thì các ủy thác tư pháp quốc tế sẽ được thực hiện tại Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam. Bộ luật tố tụng dân sự quy định việc ủy thác tư pháp trong tố tụng dân sự phải tiến hành theo những quy tắc và thủ tục sau:
- Tòa án Việt Nam ủy thác tư pháp cho tòa án nước ngoài hoặc thực hiện ủy thác tư pháp của tòa án nước ngoài về việc tiến hành một số hoạt động tố tụng dân sự theo quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam kí kết hoặc gia nhập hoặc theo nguyên tắc có đi có lại.
- Tòa án Việt Nam không chấp nhận việc thực hiện ủy thác tư pháp của tòa án nước ngoài trong các trường hợp sau:
+ Việc thực hiện ủy thác tư pháp xâm hại đến chủ quyền của Việt Nam hoặc đe dọa đến an ninh quốc gia của Việt Nam;
+ Việc thực hiện ủy thác tư pháp không thuộc thẩm quyền của tòa án Việt Nam
- Trong quá trình thực hiện ủy thác tư pháp phải tuân theo các thủ tục sau:
+ Việc Tòa án Việt Nam ủy thác tư pháp cho tòa án nước ngoài hoặc tòa án nước ngoài ủy thác tư pháp cho tòa án Việt Nam phải được lập thành văn bản và gửi đến cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam theo quy định của Điều ước quốc tế mà Việt Nam kí kết hoặc gia nhập hoặc theo quy định của pháp luật Việt Nam;
+ Cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam nhận được văn ban ủy thác tư pháp phải chuyển ngay cho Tòa án Việt Nam hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài nhận văn bản ủy thác của Tòa án Việt Nam
II. Thực tiễn thực hiện ủy thác tư pháp quốc tế giữa Việt Nam và các nước ký kết điều ước quốc tế về vấn đề này?
1. Đánh giá về tình hình thực hiện
Nhìn chung, việc thực hiện các uỷ thác tư pháp (với các nước đã ký kết Hiệp định tương trợ tư pháp cũng như với các nước chưa ký kết Hiệp định) trong những năm gần đây đã dần dần đi vào nền nếp, đáp ứng các yêu cầu đặt ra. Tuy nhiên, đánh giá về những tồn tại của công tác này, có thể nêu lên một số nhược điểm và nguyên nhân cơ bản sau:
Một là, tiến độ thực hiện uỷ thác tư pháp, về cơ bản còn chậm so với yêu cầu. Nguyên nhân chủ yếu là do các Toà án địa phơng cha có cán bộ chuyên trách, thiếu phơng tiện đi lại, cha có biện pháp chế tài đối với bị đơn không thi hành giấy gọi đến Toà án, do địa chỉ của đơng sự cần được tống đạt giấy tờ và lấy lời khai không được chính xác. Các Toà án Việt Nam thờng phải mất rất nhiều thời gian cho việc xác minh địa chỉ của đơng sự ghi trong hồ sơ uỷ thác. Có những uỷ thác không thể thực hiện được do không thể tìm được được địa chỉ của đơng sự, hoặc đơng sự đã chuyển nơi ở, thậm chí có nhiều trường hợp đương sự vẫn đang sống bất hợp pháp tại nước có Toà án gửi uỷ thác, hoặc đã trốn sang tỵ nạn tại các nước khác. Thực trạng này xảy ra nhiều đối với các uỷ thác của Cộng hoà Séc trong các vụ kiện truy nhận cha và cấp dưỡng nuôi con.
Hai là, về chất lượng thực hiện uỷ thác, nhiều Toà án địa phương còn chưa thực hiện nghiêm túc theo đúng hớng dẫn của Bộ Tư pháp tại Thông tư số 163/HTQT ngày 25/3/1991 về việc thực hiện uỷ thác tư pháp của Toà án nước ngoài. Bên cạnh đó, còn có Toà án (nhất là các Toà án các tỉnh phía Nam) chưa quan tâm đúng mức đến việc thực hiện uỷ thác tư pháp, trong hồ sơ thực hiện uỷ thác còn thiếu giấy tờ theo hớng dẫn, biên bản tống đạt giấy tờ không được lập theo quy định (không đầy đủ các chữ ký của Thẩm phán (chủ toạ), của cán bộ th ký, của ngời nhận tống đạt và nhiều khi còn không có dấu của Toà án). Đặc biệt, các Toà án còn cha quan tâm thực hiện đúng quy định về thủ tục liên hệ với Toà án nước ngoài và gửi hồ sơ cho Toà án nước ngoài. Mặc dù đã có hớng dẫn của Bộ Tư pháp, nhưng nhiều trờng hợp Toà án không làm đúng theo hớng dẫn, không có Công văn trả lời Toà án nước ngoài về kết quả thực hiện uỷ thác. Trong hớng dẫn của Bộ Tư pháp cũng đã nêu rõ về tính hợp lệ và hợp thức của một hồ sơ uỷ thác, nhng nhiều Toà án của ta cha quan tâm đến vấn đề này.
Ba là, việc thực hiện uỷ thác tư pháp do Toà án trong nước yêu cầu thông qua đại sứ quán Việt Nam ở nước ngoài về việc tống đạt giấy tờ và lấy lời khai của công dân Việt Nam đang tạm trú ở nước ngoài là đương sự trong các vụ kiện về dân sự, lao động và hôn nhân gia đình, đã được Toà án trong nước xem xét và đang thụ lý, nhìn chung giải quyết còn rất chậm. Phải thừa nhận rằng trong những năm qua, đặc biệt là những năm gần đây, Cục Lãnh sự Bộ Ngoại giao cũng nh các Đại sứ quán, Lãnh sự quán Việt Nam ở các nước đã có nhiều cố gắng, nỗ lực thực hiện các yêu cầu này và đã thu được những kết quả khả quan, nếu so với những năm trước đây. Tuy vậy, loại uỷ thác này ngày một nhiều, do đó việc thực hiện cần phải được quan tâm nhiều hơn nữa mới đáp ứng được yêu cầu của các Toà án trong nước, nhất là về mặt tiến độ thời gian (nhiều uỷ thác có khi phải hơn 1 năm mới thực hiện được, trong khi đó Toà án bị phụ thuộc và khống chế bởi thời hạn thụ lý và phải đa vụ án ra xét xử theo quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự).
Bốn là, trong 5 năm trở lại đây, các vụ việc uỷ thác do Toà án nước ta đề nghị Toà án nước ngoài hỗ trợ thực hiện các hành vi tư pháp ngày càng nhiều, nhất là đối với các nước cha ký kết Hiệp định tương trợ tư pháp (nh Đài Loan). Trong khi chúng ta cha có văn bản quy phạm pháp luật trong nước quy định về trình tự, thủ tục thực hiện uỷ thác tư pháp với các nước cha ký kết điều ước quốc tế với nước ta, nên lâu nay các cơ quan của Việt Nam chỉ biết nhờ qua đờng ngoại giao. Vì thế, tiến độ cũng như chất lượng thực hiện các uỷ thác này từ phía Toà án nước ngoài (được yêu cầu) rất khác nhau vì pháp luật các nước quy định khác nhau về vấn đề này, nhng thờng là kết quả rất chậm, cha đáp ứng được yêu cầu của Toà án trong nước.
3. Giải pháp về mặt tư pháp lý
Một trong những nguyên nhân cơ bản đối với những tồn tại nêu trên là hiện nay, chúng ta chưa có một văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao (ở cấp luật, pháp lệnh) điều chỉnh về hoạt động tương trợ tư pháp trong khi chúng ta ký kết ngày càng nhiều các Hiệp định tương trợ tư pháp với các nước và thực tiễn hoạt động uỷ thác tư pháp ngày càng phát triển. Đối với các nước đã ký Hiệp định, Thông t liên bộ số 139/TT-LB ngày 12/3/1984 của Bộ Tư pháp – Viện Kiểm sát nhân dân tối cao – Toà án nhân dân tối cao- Bộ Nội vụ- Bộ Ngoại giao về việc thi hành Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự, gia đình và hình sự đã ký giữa nước ta với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa đã quá lỗi thời và không còn phù hợp với tình hình mới. Đối với các nước cha ký Hiệp định, hoạt động này vẫn thực hiện theo từng vụ việc cụ thể, không có cơ chế nhất quán.
Ban hành Pháp lệnh về tương trợ tư pháp quốc tế
Trong thời gian tới, theo chúng tôi, cần thiết phải xây dựng Pháp lệnh về tương trợ tư pháp quốc tế, bởi vì đây là một vấn đề rất rộng, cha được văn bản luật nào điều chỉnh, liên quan đến chức năng, nhiệm vụ không chỉ của các cơ quan thuộc Chính phủ (Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao, Bộ Công An…), các cơ quan chính quyền địa phơng mà còn liên quan nhiều đến chức năng của các ngành Toà án, Kiểm sát. Việc ban hành pháp lệnh của Uỷ ban thờng vụ Quốc hội sẽ có giá trị ràng buộc (về nghĩa vụ pháp lý) đối với cả Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong việc thực hiện, đặc biệt là cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành và sự chỉ đạo, hớng dẫn việc thực hiện các Hiệp định tương trợ tư pháp đã ký kết. Nếu xây dựng một văn bản quy phạm pháp luật thấp hơn mức Pháp lệnh, ví dụ Nghị định của Chính phủ về tương trợ tư pháp thì rõ ràng không đáp ứng được yêu cầu này, nhất là không thể quy định nghĩa vụ thực hiện điều ước quốc tế cho Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao được. Ngược lại, nếu trong thời điểm hiện nay, chúng ta xây dựng ngay một đạo luật về tương trợ tư pháp quốc tế thì cũng không hợp lý, vì để xây dựng một đạo luật phức tạp này đòi hỏi rất nhiều thời gian, công sức và cần được tính toán, cân nhắc kỹ càng, thận trọng. Hơn thế nữa, Chương trình xây dựng pháp luật của Quốc hội đã quá tải. Pháp lệnh tương trợ tư pháp cần điều chỉnh các nội dung cơ bản sau đây:
- Nguyên tắc thực hiện tương trợ tư pháp quốc tế: các cơ quan có thẩm quyền thực hiện tương trợ tư pháp quốc tế trên cơ sở điều ước quốc tế được ký kết giữa Việt Nam với các nước; trong trờng hợp không có điều ước quốc tế, thì tương trợ tư pháp được thực hiện theo nguyên tắc có đi có lại, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền quốc gia và các bên cùng có lợi.
- Điều kiện thực hiện tương trợ tư pháp: quy định những điều kiện cụ thể cho việc thực hiện tương trợ tư pháp (hồ sơ, ngôn ngữ, thời hạn, chi phí…).
- Trình tự, thủ tục thực hiện tương trợ tư pháp: quy định những thủ tục, trình tự thực hiện tương trợ tư pháp theo yêu cầu của Toà án, cơ quan tư pháp nước ngoài tại Việt Nam, cũng nh thủ tục thực hiện tương trợ tư pháp của Toà án, cơ quan tư pháp Việt Nam tại cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài.
- Yêu cầu đối với hồ sơ uỷ thác tư pháp quốc tế (giấy tờ, tài liệu, thủ tục về dịch văn bản, công chứng, hợp pháp hoá…).
- Quản lý nhà nước về công tác tương trợ tư pháp quốc tế: nội dung quản lý nhà nước; hệ thống các cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước; nhiệm vụ của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao; trách nhiệm và cơ chế phối hợp công tác giữa các bộ, cơ quan ngang bộ, các Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ơng và cơ quan đại diện ngoại giao, lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài trong công tác quản lý nhà nước.
Tăng cường đàm phán, ký kết và tham gia các điều ước quốc tế
Việt Nam hiện mới ký kết được 14 Hiệp định tương trợ tư pháp song phơng với các nước, trong khi đó nhiều nước có đông ngời Việt làm ăn sinh sống và có nhu cầu về tương trợ tư pháp cao như: Hoa Kỳ, úc, Canađa… thì lại cha có Hiệp định. Điều này gây nhiều khó khăn cho việc thực hiện tương trợ tư pháp. Trong thời gian tới, song song với thúc đẩy công tác đàm phán, ký kết Hiệp định song phương, Việt Nam cần tham gia vào một số Công ước đa phơng về vấn đề này. Việc tham gia Công ước đa phương sẽ tạo thuận lợi, để có thể cùng một lúc hợp tác tương trợ tư pháp với nhiều nước là thành viên của Công ước, mở rộng phạm vi hợp tác mà không cần phải trực tiếp đàm phán với từng nước một như điều ước song phương. Đối với hoạt động tương trợ tư pháp ở Việt Nam hiện nay, theo chúng tôi, nước ta nên tham gia một số công ước nh: Công ước LaHay năm 1956 về tống đạt giấy tờ tư pháp và ngoài tư pháp ra nước ngoài; Công ước LaHay năm 1970 về thu thập chứng cứ cho các vụ kiện dân sự và thơng mại… Đây là những công ước hiện có nhiều nước tham gia, có phạm vi điều chỉnh liên quan các vụ việc uỷ thác tư pháp về tống đạt giấy tờ cũng nh lấy lời khai, thu thập chứng cứ trong các vụ án dân sự – một loại uỷ thác hiện đang chiếm đa số trong hoạt động tương trợ tư pháp của các Toà án nước ta. Củng cố các cơ sở pháp lý đóng vai trò quan trọng, tiên quyết đối với hoạt động tương trợ tư pháp quốc tế. Việc hoàn thiện pháp luật nhằm giải quyết các vấn đề đang vớng mắc hiện nay như: tổ chức bộ máy thực hiện tương trợ tư pháp, quy trình uỷ thác tư pháp, cơ chế phối hợp, cơ chế hợp tác giữa Toà án Việt Nam và các nước… Qua đó, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác tương trợ tư pháp quốc tế, thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa Việt Nam với các nước, cũng như khuyến khích các chủ thể của pháp luật tham gia ngày một nhiều vào các quan hệ dân sự, kinh tế, thơng mại có yếu tố nước ngoài, với sự yên tâm, tin tởng rằng các tranh chấp phát sinh giữa họ (nếu có) sẽ được giải quyết một cách ổn thoả, thông qua sự trợ giúp hữu hiệu của hoạt động tương trợ tư pháp./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Ủy thác tư pháp quốc tế theo quy định của các điều ước quốc tế song phương Việt Nam kí kết với các nước.doc