Vài nét về chùa dâu - Bắc Ninh Cội nguồn của đạo phật

Hễ trông thấy tháp chùa Dâu thì về Dù ai buôn bán trăm nghề Nhớ ngày mồng Tám thì về hội Dâu (Ca dao cổ) Đọc bốn câu ca dao cổ này ai ai cũng không còn xa lạ về một ngôi chùa nổi tiếng của Bắc Ninh - chùa Dâu. Ngôi chùa cổ nhất Việt Nam và là nơi khởi nguồn của đạo Phật Việt Nam. Chùa Dâu ra đời từ thế kỷ thứ 3 sau công nguyên, được khởi công xây dựng năm 187 và hoàn thành năm 226, được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử ngày 28/4/1962. Đó là những khái quát chung nhất về chùa Dâu. Bởi ý nghĩa đó mà việc tìm hiểu sâu về chùa Dâu không phải là một vấn đề đơn giản nhưng lại rất có ý nghĩa. Người ta nói Hà Bắc (hai tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang ngày nay) là đất thần, đất thánh. Có nhiều chùa nằm trên miền đất này: Chùa Dâu, chùa Đạm, chùa Bút Tháp, Chùa Phật tích Chùa Dâu nằm phía nam cổ thành Luy Lâu, trên một khu đất rộng bên bờ sông Thiên Đức cũ. Theo sử sách, xa xưa người dân ở đây thường sống bằng nghề trông dâu nuôi tằm và cấy lúa nước. Có lẽ vì vậy mà dân gian xưa gọi là Vùng Dâu hoặc Kẻ Dâu. Ngày nay, chúng ta biết đến tên gọi chùa Dâu thì đời nhà Lý quen thuộc với tên gọi Cổ Châu, đời Trần có tên Thiền Định, đời Lê là Diên ứng. Với ý nghĩa là một trung tâm phật giáo từ đầu Công nguyên, ở đây đã đào tạo được 500 vị tăng ni, dịch được 15 bộ kinh, làm được hàng chục bảo tháp. Nhiều vị cao tăng nổi tiếng đã đến đây trụ trì như; Mâu Bát, Tì Ni Da Lưu Chi, khang tăng hội, pháp Hiền. Chùa ngày nay là kiến trúc tu sửa của thời Hậu Lê (thế kỉ 17-18) Chùa chính được bố cục theo kiểu “nội công ngoại quốc” nằm trong khuôn viên hình chữ nhật (30 x 70m) bao gồm tiền đường, tháp Hoà phong, Phật điện, cung cấm, hậu đường, Thạch Quang am; Sân chùa lát gạch, giữa sân là một cây tháp lớn, chân hình vuông, mỗi cạnh dài hơn 3m, dày khoảng 0,55m, gạch mộc chín già như sành, màu sẫm, được xây lên bằng mật ong và mật mía trộn với nhau. Dân gian truyền rằng tháp này do Mạc Đĩnh Chi xây dựng lại, cao 9 tầng nay chỉ còn 3 tầng cao khoảng 17m, kiến trúc của tháp có mối quan hệ với kiến trúc chùa tháp của ấn Độ. Trong lòng tháp treo một quả chuông lớn bằng đồng đúc năm 1793, và chiếc khánh đồng đúc năm 1817 - Đây là một biểu tượng thể hiện sự giao thoa văn hoá và tín ngưỡng bản địa giữa Việt Nam và ấn Độ .

doc7 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3809 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vài nét về chùa dâu - Bắc Ninh Cội nguồn của đạo phật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đại học quốc gia Hà Nội Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn Khoa Du lịch --------------- tiểu luận Vài nét về chùa dâu - Bắc Ninh Cội nguồn của đạo phật Dù ai đi đâu về đâu Hễ trông thấy tháp chùa Dâu thì về Dù ai buôn bán trăm nghề Nhớ ngày mồng Tám thì về hội Dâu (Ca dao cổ) Đọc bốn câu ca dao cổ này ai ai cũng không còn xa lạ về một ngôi chùa nổi tiếng của Bắc Ninh - chùa Dâu. Ngôi chùa cổ nhất Việt Nam và là nơi khởi nguồn của đạo Phật Việt Nam. Chùa Dâu ra đời từ thế kỷ thứ 3 sau công nguyên, được khởi công xây dựng năm 187 và hoàn thành năm 226, được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử ngày 28/4/1962. Đó là những khái quát chung nhất về chùa Dâu. Bởi ý nghĩa đó mà việc tìm hiểu sâu về chùa Dâu không phải là một vấn đề đơn giản nhưng lại rất có ý nghĩa. Người ta nói Hà Bắc (hai tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang ngày nay) là đất thần, đất thánh. Có nhiều chùa nằm trên miền đất này: Chùa Dâu, chùa Đạm, chùa Bút Tháp, Chùa Phật tích… Chùa Dâu nằm phía nam cổ thành Luy Lâu, trên một khu đất rộng bên bờ sông Thiên Đức cũ. Theo sử sách, xa xưa người dân ở đây thường sống bằng nghề trông dâu nuôi tằm và cấy lúa nước. Có lẽ vì vậy mà dân gian xưa gọi là Vùng Dâu hoặc Kẻ Dâu. Ngày nay, chúng ta biết đến tên gọi chùa Dâu thì đời nhà Lý quen thuộc với tên gọi Cổ Châu, đời Trần có tên Thiền Định, đời Lê là Diên ứng. Với ý nghĩa là một trung tâm phật giáo từ đầu Công nguyên, ở đây đã đào tạo được 500 vị tăng ni, dịch được 15 bộ kinh, làm được hàng chục bảo tháp. Nhiều vị cao tăng nổi tiếng đã đến đây trụ trì như; Mâu Bát, Tì Ni Da Lưu Chi, khang tăng hội, pháp Hiền. Chùa ngày nay là kiến trúc tu sửa của thời Hậu Lê (thế kỉ 17-18) Chùa chính được bố cục theo kiểu “nội công ngoại quốc” nằm trong khuôn viên hình chữ nhật (30 x 70m) bao gồm tiền đường, tháp Hoà phong, Phật điện, cung cấm, hậu đường, Thạch Quang am; Sân chùa lát gạch, giữa sân là một cây tháp lớn, chân hình vuông, mỗi cạnh dài hơn 3m, dày khoảng 0,55m, gạch mộc chín già như sành, màu sẫm, được xây lên bằng mật ong và mật mía trộn với nhau. Dân gian truyền rằng tháp này do Mạc Đĩnh Chi xây dựng lại, cao 9 tầng nay chỉ còn 3 tầng cao khoảng 17m, kiến trúc của tháp có mối quan hệ với kiến trúc chùa tháp của ấn Độ. Trong lòng tháp treo một quả chuông lớn bằng đồng đúc năm 1793, và chiếc khánh đồng đúc năm 1817 - Đây là một biểu tượng thể hiện sự giao thoa văn hoá và tín ngưỡng bản địa giữa Việt Nam và ấn Độ. Tìm lại lịch sử của ngôi chùa này, gắn liền với huyền thoại Man Nương, người trinh nữ làng Mãn Xá, bên sông Đuống, từ lúc 12 tuổi đã từ bỏ bờ Nam sang bờ Bắc để học đạo với thiền sư Khâu Đà La người Thiên trúc (ấn Độ) ở chùa Linh Quang (xã Phật Tích, Tiên Sơn) Khâu-đà-la là một Thiền sư đã kết hợp việc truyền giảng Phật giáo Mật Tông với tín ngưỡng dân gian nên có ảnh hưởng rộng lớn trong cư dân Luy Lâu. Nhưng con đường học đạo của Man Nương bị dở dang vì một hôm lúc nàng đang ngủ, Khâu - đà - la sau giờ hành lễ đã bước qua người nàng khiến nàng thụ thai. Một năm hai tháng sau, nhằm ngày 8-4 âm lịch, Man Lương sinh một bé gái và mang trả cho Thiền sư. Khâu - đà - la bồng đứa bé đến một cây đa cổ thụ ven sông, niệm thần chú. Khi nhà sư dùng thiên trượng gõ vào gốc cây nứt ra đứa bé được đặt vào, vết nứt khép lại và một mùi hương thơm ngát toả ra. Kỷ vật cuối cùng mà Thiền sư trao cho Man Nương là cây thiền trượng. Theo lời dặn của Khâu - đà - la mỗi khi trời hạn hán, đất đai khô nẻ, mùa màng thất bát, Man Nương lại cắm cây thiền trượng xuống đất, cất lời cầu nguyện thì phép mầu hiện ra: trời đổ mưa. Một đêm mưa to gió lớn, cây đa cổ thụ nơi gửi các đứa con gái của Man Nương, bỗng đổ xuống sông và xuôi theo dòng nước troi về làng Dâu. Dân làng không ai khiêng nổi cây, may có Man Nương dùng dải yếm đào kéo được cây lên bờ. Đêm ấy dân làng được thần nhân báo mộng khuyên nên đem cây tạc tượng thờ. Từ đó ra đời bốn pho tượng thờ bốn vị nữ thần Mây, mưa, sấm, chớp: Pháp Vân (tức bà Dâu, thờ ở chùa Thiền Định) Pháp Vũ (tức là Đậu thờ ở chùa Thàn Đạo). Pháp Điện (tức bà Dàn thờ ở chùa Phương Quang). Tuy truyền thuyết mang đầy màu sắc huyền thoại nhưng các vị thần mây, mưa, sấm, chớp trong tín ngưỡng của cư dân trồng lúa nước vùng nhiệt đới Bắc bộ Việt Nam đã chuyển thành Phật Tứ pháp. Đó là sự kết hợp giữa Phật giáo ấn Độ và tín ngưỡng của cư dân Việt Nam. Và cứ đến ngày 8/4 âm lịch các vị sư tăng và khách thập phương về chùa Dâu mở hội. Không chỉ là dịp lễ các Phật tử hành hương về nơi cửa Phật mà còn để tham dự những nghi thức văn hoá của cư dân nông nghiệp. Hội diễn ra khắp cả tổng với đám rước tưng bừng (gồm rước chào, rước đón, rước đưa) thỉnh tượng các bà Đậu, bà Tướng và Dàn về quy tụ với chị cả là bà Dâu ở chùa Diên ứng. Sau lẽ múc nước, dâng nước và múa gậy đám rước lại thỉnh 4 tượng về bái vọng Phật Mẫu Man Nương ở chùa Tổ Mãn Xá. Vào ngày hội trên bãi chùa Dâu người ta có thể xem múa sư tử, múa hoá trang rùa và hạc, múa trống đấu vật, đánh cờ người. Các đời vua của các triều đại xưa đã từng về chùa Dâu để rước tượng Pháp Vân về chùa Báo Thiên (Hà Nội) để cầu đảo (tức cầu Mưa, cầu gió). Vua Lý Thánh Tông cũng đã về chùa cầu Tự khi đi thuyền trên sông đã gặp Nguyên phi ỷ Lan. Đây được coi là một ngôi chùa thiêng, du khách đến thăm chùa Dâu thường cầu khẩn một sự bình yên trong tâm hồn như cái tên mộc mạc, bình dị của ngôi chùa cổ trên đất Bắc Ninh. Và có lẽ một trong những ấn tượng khó phai mờ của du khách khi đến chùa Dâu là những pho tượng thờ. Tượng Pháp Vân uy nghi trầm mặc, màu đồng hun. Gương mặt đẹp với nốt ruồi to đậm giữa trán, gợi liên tưởng đến những nàng vũ nữ ấn Độ, quê hương Tây Trúc nơi cội nguồn của đức Từ - bi - hỉ - xả. Tượng Pháp Vũ với những nét thuần Việt, đức độ, cao cả. Đặc biệt là hai pho tượng Kim Đồng, Ngọc Nữ đặt hai bên điện thờ chính gợi tới những cô thôn nữ của miền quê Quan họ nơi này. Về đây ta gặp sự giao hoà đẹp đẽ giữa Phật giáo chính thống với tâm linh, tinh thần bình dân, thuần phác. Ta cũng thấy ở đây một minh chứng rõ nét cho qúa trình tiếp biến văn hoá, sự Việt hoá những giá trị tinh thần khi nhập nội. Gần hai ngàn năm biến dịch với bao đổi thay, tu tạo có lẽ bây giờ chùa Dâu đã khác xưa rất nhiều: Giữa thế kỉ thứ XIII vào đời Lý, cuối thế kỷ XIII và thế kỷ XIV vào đời Trần, thế kỉ thứ XVIII vào đời Lê, cuối thế kỉ XIX vào đời Nguyễn. Ngôi chùa ngày nay còn mang nhiều dấu ấn của kiến trúc thời Hậu Lê. Ông Mạc Đĩnh Chi đã đứng ra tổ chức trùng tu lớn ngôi chùa vào năm 1313. Và gần đây nhất, là vào năm 2006 gần như chùa Dâu đã được trùng tu ht theo kế hoạch 5 năm (đến năm 2007) do Bộ Văn hoá đầu tư 17 tỷ đồng. Một vấn đề đặt ra là hiện nay toàn khu di tích chùa Dâu đã được trùng tu và những người mộ đạo Phật cũng như những khách du lịch xa gần đang tự hỏi liệu ý nghĩa của chùa Dâu có bị mai mòn? Có lẽ về ý nghĩa của chùa Dâu thì không có gì thay đổi cả, mọi người luôn luôn biết đến chùa Dâu với một trung tâm phật giáo lớn nhất của vn, nhưng về hoạt động du lịch có lẽ đó là một phần của lý do tại sao lượng khách du lịch đến chùa Dâu hiện nay đang giản dần. Theo kết quả thực địa và theo ban quản lý chùa Dâu thì khoảng từ năm 1994 lượng khách du lịch giảm rõ rệt so với thời gian trước đó Chùa Dâu là điểm du lịch nổi tiếng với thời điểm đông khách nhất là sau tết mỗi ngày khoảng hơn 2000 người, đối với khách nước ngoài thì đến chùa Dâu đông nhất là mùa hè từ 5 đến 600 người/đoàn (Theo ban quản lý chùa Dâu). Một con số đơn giản để thấy hiện nay chùa Dâu đã giảm rõ rệt khối lượng khách đến tham quan. Về lý do thì chỉ cần đến chùa Dâu cũng có thể thấy được phần nào nguyên nân hay những mặt hạn chế mà chùa Dâu chưa phát triển thực sự đúng với tiềm năng của mình. Để phát triển du lịch thì ngoài những giá trị vốn có của điểm du lịch đó cần phải có những yếu tố khác tác động và thúc đẩy. Về cơ sở vật chất kĩ thuật của phục vụ cho hoạt động du lịch của chùa Dâu còn cưa được quan tâm nhiều; du khách đến đây hoàn toàn không được cung cấp thông tin bởi các hướng dẫn viên đã cấp thẻ mà hầu như thông tin từ các sư thầy trong chùa hay ban quản lý chùa cung cấp. Thiếu các dịch vụ bổ sung. .. Đó là một vài vấn đề nhỏ bé đưa ra với chùa Dâu mà lẽ ra với vị trí và ý nghĩa vốn có, du lịch chùa Dâu có thể làm được nhiều hơn nữa. Theo sư thầy chùa Dâu, thì “Trung tâm truyền bá Phật giáo“ đang được xúc tiến thành lập nhưng không có khả năng thành công cao. Như vậy, giải pháp cần đưa ra đối với di tích lịch sử chùa Dâu - Bắc Ninh là rất cần thiết để chùa Dâu có thể phát huy hết tiềm năng của mình và thu hút được nhiều khách du lịch hơn quay về với chùa Dâu - quay về miền đất Phật. Với những gì nhìn thấy, tìm hiểu được thì viết về chùa Dâu quả là quá ít. Nhưng để gọi là nghiên cứu về một vấn đề để lại không phải là đơn giản chút nào với sinh viên. Chùa Dâu được biết đến trên khắp đất nước nhưng những vấn đề xoay quanh điểm du lịch này lại không phải rõ ràng như thế. Ngày 8/4 hội Chùa Dâu lại tưng bừng đón khách và mảnh đất Phật thiêng liêng này luôn giúp cog tìm được sự yên bính cho một phần của cuộc sống phức tạp và lo toan./,

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docVài nét về chùa dâu - Bắc Ninh Cội nguồn của đạo phật.doc
Luận văn liên quan