Trên đây là những kiến thức mà bản thân em đã thu thập được sau khi học và nghiên cứu về lí thuyết tài chính tiền tệ. Hệ thống các ngân hàng thương mại nói riêng và hệ thống tài chính ngân hàng nói chung là một điều kiện rất cần thiết trong phát triển kinh tế. Ta có thể thấy rất rõ chức năng và vai trò quan trọng của chúng trong nền kinh tế.
Do đó, có một hệ thống ngân hàng thương mại như hiện nay, với công nghệ như hiện nay cùng là kết quả tất yếu của lịch sử, của trình độ phát triển kinh tế thị trường. Để đáp ứng đầy đủ như cầu của nền kinh tế, hệ thống ngân hàng thương mại của chúng ta còn cần nhiều cải cách, thay đổi từ con người đến trang bị kĩ thuật. Theo văn kiện Đại hội Đảng IX đã chỉ rõ:
Tích cực đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia, động viên hợp lý và phân phối có hiệu quả mọi nguồn lực nhằm thực hiện Chiến l¬ược phát triển kinh tế - xã hội.
Thực thi chính sách tiền tệ bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng, kích thích đầu t¬ư phát triển. Sử dụng linh hoạt, có hiệu quả các công cụ chính sách tiền tệ nh¬ tỷ giá, lãi suất, nghiệp vụ thị tr¬ờng mở theo các nguyên tắc của thị tr¬ờng. Nâng dần và tiến tới thực hiện đầy đủ tính chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam.
Hình thành môi trường minh bạch, lành mạnh và bình đẳng cho hoạt động tiền tệ - ngân hàng. ứng dụng phổ biến công nghệ thông tin, mở rộng nhanh các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt và thanh toán qua ngân hàng. Đa dạng hóa các hình thức huy động vốn, cho vay, cung ứng các dịch vụ và tiện ích ngân hàng thuận lợi và thông thoáng đến mọi doanh nghiệp và dân c¬ấp, đáp ứng kịp thời các nhu cầu vốn tín dụng cho sản xuất, kinh doanh và đời sống, chú trọng khu vực nông nghiệp, nông thôn.
20 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 11290 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vai trò của các ngân hàng thương mại trong nền kinh tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Vai trò của các ngân hàng thương mại trong nền kinh tế
LỜI NÓI ĐẦU
Đất nước ta đang trong thời kì đổi mới, phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của Nhà nước. Để có một nền kinh tế phát triển vững mạnh ta phải có một hệ thống các yếu tố cơ bản cần thiết cho quá trình phát triển.
Hệ thống trung gian tài chính nói chung và Ngân hàng Thương Mại nói riêng góp một phần quan trọng trong guồng máy của toàn bộ hệ thống. Nó là cầu nối giữa các chủ thể trong nền kinh tế, làm cho các chủ thể gắn bó, phụ thuộc lẫn nhau, tăng sự liên kết và năng động của toàn bộ hệ thống.
Cho dù đứng ở góc độ nào mà xét ta đều không thể phủ nhận vai trò quan trọng của hoạt động Ngân Hàng Thương mại. Trong bài viết nhỏ này, em xin mạnh dạn bày tỏ một vài quan điểm của cá nhân mình sau khi đã được trang bị kiến thức của bộ môn Lí thuyết Tài chính - Tiền tệ kết hợp với tham khảo một số tài nghiên cứu kinh tế hiện đại để đưa ra một cái nhìn khái quát về toàn bộ hệ thống ngân hàng với quá trình ra đời, phát triể cũng như chức năng và vai trò của nó đối với nền kinh tế nhằm thấy được tầm quan trọng của hệ thống ngân hàng.
Dưới đây chỉ là những suy nghĩ của bản thân, chắc chắn không thể tránh khỏi những thiển cận và sai sót. Em rất mong được sự góp ý, phê bình của các thầy cô giáo để nắm được kiến thức lâu và chắc hơn. Em xin chân thành cảm ơn các thầy và các cô.
NỘI DUNG
I. QUÁ TRÌNH RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Có thể nói hệ thống NHTM có một lịch sử phát triển khá lâu đời. Hoạt động ngân hàng đầu tiên đã có từ cách đây khoảng 3500 năm, kể từ khi có dấu hiệu của nền kinh tế hàng hoá. Do hoàn cảnh lịch sử lúc đó là có các cuộc trao đổi buôn bán từ đông sang tây và ngược lại, có các cuộc chiến tranh xâm lược và cướp bóc cho nên xuất hiện các tầng lớp khác nhau trong xã hội. Trong đó tầng lớp giầu có bao gồm các địa chủ, các thương gia và nhà thờ. Khi người ta có của ăn của để thì bắt đầu nảy sinh nhu cầu cất trữ tài sản. Tiền đúc bắt đầu xuất hiện từ đây.
Kinh tế hàng hoá càng phát triển thì lưu thông tiền đúc càng mạnh. Do đặc tính của tiền là làm bằng kim loại nên trong quá trình trao đổi thông thương, nó bị hao mòn và mất giá. Bên cạnh đó còn xuất hiện hiện tượng làm giả tiền. Như vậy sự phức tạp trong lưu thông tiền đúc của nền kinh tế lúc này yêu cầu phải có sự kiểm tra, cân và thử tiền. Do đó nghề kim hoàn ra đời. Có thể nói nghề kim hoàn là một cái mốc quan trọng đánh dấu sự ra đời của nghề ngân hàng.
Ban đầu các nhà kim hoàn nhận và bảo quản tiền của khách hàng gồm cả vàng và tiền mặt họ chỉ nhận một khoản phí dịch vụ cho việc giữ tiền đó. Ban đầu các nhà kim hoàn giữ toàn bộ 100% số tiền, vàng mà khách hàng gửi. Sau này trong quá trình hoạt động lâu dài họ nhận thấy việc giữ lại 100% số tiền và vàng khách hàng gửi là không cần thiết. Vì trong thực tế tất cả những người gửi không bao giờ đến lấy cùng một lúc, do đó mà họ chỉ cần giữ lại một số tiền để đảm bảo cho việc thanh toán với những khách hàng đến rút tiền. Số tiền còn lại họ cho vay và sẽ thu được một khoản lợi tức từ khoản tiền cho vay đó.
Về sau nhà kim hoàn không chỉ đơn thuần dừng lại ở việc nhận tiền gửi và cho vay mà họ còn mở rộng các dịch vụ khác như :đầu tư, thanh toán hộ khách hàng... Những dịch vụ này cho phép người làm nghề kim hoàn trở thành thủ quĩ của xã hội
Nền kinh tế càng phát triển thì càng có thêm các dịch vụ trong buôn bán trao đổi. Để thực hiện được các hoạt động cho khách hàng của mình thì người làm nghề kim hoàn cần luôn luôn phải có một số tiền nhất định trong quĩ của mình hay nói cách khác là số dư tiền. Từ đây nghề ngân hàng ra đời.
Cùng với các dịch vụ đã có từ trước đó thì việc cho vay đối với khách hàng xuất hiện rõ rệt hơn để đáp ứng nhu cầu vốn cho người thiếu vốn đồng thời thu về một khoản tiền lãi sau một thời gian nhất định. Người làm nghề ngân hàng không chỉ dừng lại ở việc đem tiền nhàn rỗi của mình cho khách hàng vay mà còn đi vay tiền để tăng số lượng cho vay. Hoạt động gửi tiền xuất hiện và để kích thích việc gửi tiền, tăng vốn cho ngân hàng thì ngân hàng không tính phí của người gửi tiền nữa.
Ban đầu có rất ít ngân hàng xuất hiện và căn bản chúng rất giống nhau nhưng do đặc thù tự do trong nền kinh tế lúc đó nên ngày càng xuất hiện nhiều ngân hàng hơn. Các ngân hàng hoạt động song song với nhau và giống nhau dẫn đến sự cạnh trong trong kinh doanh. Việc cạnh tranh chủ yếu là tăng và giảm lãi suất. Hệ thống NHTM chính thức ra đời.
Thế nhưng hệ thống NHTM thực sự được như ngày hôm nay thì nó phải trải qua một quá trình phát triển lâu dài và phức tạp. Trước đây khi các ngân hàng còn phát triển tự do, tự do phát hành tiền để đáp ứng việc mở rộng sản xuất. Các ngân hàng này phát hành tiền giấy nhưng mang tính chất tư nhân và người sở hữu tiền giấy có thể đổi ra tiền vàng bất cứ lúc nào họ cần tại ngân hàng phát hành ra nó. Điều này nảy sinh một hiện tượng hàng loạt các ngân hàng phát hành tiền nên có hàng loạt tiền giấy ra lưu thông do đó bắt buộc người trao đổi phải tiến hành lựa chọ tiền. Có một số loại tiền không được chấp nhận trong lưu thông, nó bị các ngân hàng tư nhân từ chối thanh toán. khi đó nhà nước bắt đầu can thiệp. Bước can thiệp đầu tiên là tập trung phát hành tiền vào một số ngân hàng lớn còn các ngân hàng khác không được phép phát hành. Bước can thiệp sâu hơn là ngân hàng nhà nước tập trung phát hành tiền vào một ngân hàng duy nhất. Hệ thống ngân hàng được tách làm hai là ngân hàng độc quyền phát hành tiền và ngân hàng thương mại.
Ta có thể đi tới một khái niệm chung về ngân hàng thương mại, đó là một tổ chức hoạt động theo luật định với nhiệm vụ chính là nhận tiền gửi để cho vay, thực hiện các nghiệp vụ thanh toán chiết khấu và là phương tiện thanh toán.
Từ khái niệm trên về hoạt động ngân hàng ta có thể thấy được một số đặc điểm chính nổi bật của các ngân hàng thương mại đó là:
- Nhận các loại tiền gửi: tiền gửi không kì hạn, tiền gửi có kì hạn , tiền gửi tiết kiệm và phát hành các loại trái phiếu
- Cho vay đối với khách hàng của mình
- Làm các dịch vụ về ngân hàng như thanh toán không dùng tiền mặt, thu hộ, các dịch vụ đại lí uỷ thác, các dịch vụ bảo lãnh..
Ở Việt Nam hệ thống NHTM được ra đời từ nghị định 53 của Chính phủ, hệ thống ngân hàng Việt Nam được tách thành Ngân hàng Nhà nước và các Ngân hàng chuyên doanh. Kể từ tháng 5 năm 1990 các ngân hàng chuyên doanh Việt Nam có 4 ngân hàng đầu tiên bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng công thương, ngân hàng nhà nước, ngân hàng đầu tư và phát triển. Các ngân hàng này hoạt động theo các qui định từ tháng 10 năm 1998.
II. SƠ LƯỢC VỀ CÁC LOẠI HÌNH NGÂN HÀNG TRUNG GIAN HIỆN NAY
(Phân biệt giữa ngân hàng thương mại và một số các ngân hàng trung gian khác)
1. Các ngân hàng thương mại
Các ngân hàng này thu hút vốn bằng cách nhận tiền gửi: tiền gửi có thể phát hành séc (tiền gửi thanh toán), tiền gửi tiết kiệm không kì hạn (là tiền gửi có thể thanh toán ngay nhưng không cho phép người gửi viết séc) và tiền gửi có kì hạn (tiền gửi có kì hạn thanh toán định trước). Sau đó họ dùng những vốn này để thực hiện cho vay: cho vay thương mại, cho vay tiêu dùng, cho vay thế chấp và mua trái khoán chính phủ, trái khoán của chính quyền địa phương, ở Mĩ có khoảng 12 000 ngân hàng thương mại, với tư cách là một nhóm, họ là những trung gian tài chính lớn nhất và có một khối tài sản dưới hình thức các chứng khoán rất đa dạng.
Mặc dù có một biên giới mỏng manh giữa các ngân hàng thương mại với các tổ chức tiết kiệm khác, người ta vẫn tách ngân hàng thương mại ra một nhóm riêng vì những lí do đặc biệt của nó. Một trong những lí do này là tổng tài sản có của ngân hàng thương mại luôn là một khối lượng lớn nhất trong toàn bộ hệ thống ngân hàng. Hơn nữa khối lượng séc hay tài khoản tiền gửi không kì hạn mà nó có thể tạo ra cũng là một bộ phận quan trọng trong tổng cung tiền M1 của nền kinh tế.
Cho đến cuối những năm 60, điểm đặc thù để phân biệt một ngân hàng thương mại với các ngân hàng trung gian là ở chỗ ngân hàng thương mại là đơn vị duy nhất được mở tài khoản tiền gửi không kì hạn cho công chúng. Nghĩa là người ta phân biệt nó dựa trên các thành phần của tài sản nợ. Lúc này tiền gửi không kì hạn bị cấm trả lãi, tuy nhiên vì nhu cầu giao dịch thông qua séc vẫn tăng gấp đôi hàng năm cho nên khối lượng séc có thể rút ra từ tài khoản tiếp tục là một bộ phận mạnh nhất sau tiền mặt pháp định.
Từ những những năm 80 khi tiền gửi không kì hạn đã được phép trả lãi, các ngân hàng tiết kiệm và các tổ chức tín dụng khác cũng bắt đầu mở tại khoản tiền gửi không kì hạn, cho phép công chúng sử dụng séc dưới nhiều hình thức như sổ séc, thẻ tín dụng.. Với dự kiện này sự phân loại ngân hàng thương mại với các tổ chức khác dựa trên tài sản có
2. Ngân hàng đặc biệt
Ngân hàng đặc biệt là các ngân hàng trung gian được thành lập để phục vu cho những mục đích đặc biệt. Nguyên nhân dẫn đến sự ra đời loại hình ngân hàng này là do sự phát triển không đồng đều giữa các khu vực trong nền kinh tế thi trường. Để khắc phục điều đó đòi hỏi chính phủ phải có những chính sách hỗ trợ ưu tiên cho những ngành sản xuất kém phát triển để thúc đẩy nó phát triển nhanh. Trong lĩnh vực ngân hàng có những ngân hàng phục vụ riêng cho một ngành , một lĩnh vực nào đó như ngân hàng phát triển ngư nghiệp ở Hàn Quốc, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam..
Mặt khác đối với những ngành kinh tế mũi nhọn cần được hỗ trợ để phát triển trước, tạo tiền đề để thúc đẩy các ngành khác phát triển cũng đòi hỏi có những quan tâm hỗ trợ về vốn như ngoại thương, đầu tư dài hạn..Điều này dẫn tới sự hình thành của các ngân hàng chuyên biệt như ngân hàng ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng công nghiệp Hàn quốc.
Ngoài ra để hỗ trợ xây dựng nhà ở cho người nghèo, giúp nhân dân ổn định chỗ ở đã dẫn đến việc hình thành các ngân hàng chuyên biệt phục vụ mục đích này như Ngân hàng phát triển nhà ở Hàn quốc, ở Việt Nam..
Về nguyên tắc các ngân hàng đặc biệt không khác gì các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, vì chúng ra đời phục vụ những mục đích đã xác định trước theo tên gọi của chúng do vậy chúng không thể đầu tư cho thương mại hoặc sản xuất một cách tự do như ngân hàng thương mại. Sự khác nhau là ở chỗ, ngân hàng thương mại có đối tượng đầu tư khá rộng còn các ngân hàng đặc biệt có đối tượng đầu tư hạn hẹp hơn nhiều.
Riêng với ngân hàng đầu tư, nó có quá trình được tách ra từ ngân hàng thương mại.
Ngân hàng thương mại còn được gọi là ngân hàng tiền gửi là hình thức ngân hàng ra đời sớm nhất, gắn liền với sự xuất hiện của hoạt động ngân hàng. Hoạt động của ngân hàng là nhận tiền gửi của công chúng và thực hiện nghiệp vụ cho vay.
Khi mới hình thành, ngân hàng tiền gửi của công chúng chưa có sự phân biệt giữa tiền gửi ngắn hạn và tiền gửi dài hạn đồng thời hoạt động cho vay cũng có sự phân biệt giữa cho vay ngắn hạn và cho vay dài hạn. Lúc này ngân hàng hoạt động theo mô hình “ngân hàng tổng hợp” có nghĩa là ngân hàng làm đủ mọi việc từ việc nhận tiền gửi cho vay đến đầu tư như hùn vốn thành lập công ty, mua bán chứng khoán, bảo hiểm...
Sau khủng hoảng kinh tế 29-33, việc phân chia ngân hàng tiền gửi thành ngân hàng thương mại và ngân hàng đầu tư bắt đầu lan rộng như ở Mĩ, Canada và nhiều nước Âu, Anh, Pháp đã áp dụng từ những năm 1960. ở giai đoạn này ngân hàng hàng thương mại được hiểu là ngân hàng nhận tiền gửi của công chúng và thực hiện nghiệp vụ cho vay ngắn hạn. Còn ngân hàng đầu tư thực hiện các nghiệp vụ trung hạn, dài hạn và không nhận tiền gửi ngắn hạn; nó cho vay bằng nguồn vốn riêng của mình là chủ yếu, nếu thiếu ngân hàng sẽ phát hành trái khoán để gọi vốn. Ngoài nghiệp vụ trung và dài hạn ngân hàng đầu tư còn tham dự tài chính vào các công ty công nghệ hay thương mại dưới hình thức hùn vốn hay mua cổ phần trong các công ty đó. Đôi lúc, ngân hàng đầu tư đứng ra thiết lập các công ty đó, sau nhượng lại một phần hay toàn bộ số vốn của công ty cho người khác. Cũng có lúc, ngân hàng đảm nhiệm việc phát hành cổ phiếu hay trái phiếu cho các công ty. Ngoài ra, ngân hàng đầu tư còn cử người vào ban quản trị các xí nghiệp hay công ty mà nó tại trợ để kiểm soát hoạt động của các đơn vị này.
Ở Việt nam có nhiều ngân hàng với những tên gọi khác nhau, có thể coi là ngân hàng thương mại cũng có thể coi là ngân hàng đặc biệt như Ngân hàng ngoại thương Việt nam, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt nam, Ngân hàng phát triển nhà, Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt nam, Ngân hàng phục vụ người nghèo.
3. Ngân hàng tiết kiệm
Ngân hàng tiết kiệm được hình thành với mục đích huy động những khoản tiền để dành của công chúng nhẵm làm tăng thêm khoản sinh lời cho người lao động, mặt khác gia tăng nguồn tài chính cần thiết phục vụ cho hoạt động sản xuất và trao đổi.
Tính chất: Ngân hàng tiết kiệm khác với các loại ngân hàng trung gian khác. Những đặc điểm đó là:
- Chủ nhân của các ngân hàng tiết kiệm là người đã gửi tiền tiết kiệm.
- Phương thức hoạt động của ngân hàng tiết kiệm mang nhiều tính tương trơ, khác với ngân hàng thương mại là nhằm mục đích kinh doanh là chính.
- Vốn hoạt động chủ yếu của ngân hàng tiết kiệm là tiền gửi của dân chúng hoặc là góp vốn đóng góp của các nhà hảo tâm với tính chất hỗ trợ người nghèo là chính hơn là đóng góp để kiếm lời. Loại ngân hàng này không phát hành phiếu nợ để vốn của công chúng và hầu như không vay của tổ chức nước ngoài hay ngân hàng trung ương trừ trường hợp đặc biệt thiếu tiền mặt.
- Do tính chất đặc biệt của vốn huy động, các ngân hàng cho vay rất thận trọng. Tiêu chuẩn hàng đầu trong vấn đề cho vay là an toàn. Điều này đã giúp cho các ngân hàng tiết kiệm đứng vững trong các cuộc khủng hoảng tài chính 1857, 1866, 1873 ở Anh và 1873, 1929, 1933 ở Hoa kì. Cho đến nay các nguồn cho vay chính của ngân hàng tiết kiệm cũng vẫn giống như thập niên trước, chủ yếu bằng việc cầm cố nhà cửa, tài sản hoặc chứng khoán. Tiếp đó là đầu tư vào chứng khoán hoặc cho các ngân hàng thương mại vay. Nhìn chung những người được vay tiền tại các ngân hàng cũng chính là những người đã gửi tiền tiết kiệm vào ngân hàng. Do vạy, lãi suất cho vay là rất thấp vì nó mang tính chất tương trợ nhiều hơn là kinh doanh.
Ngoài tổ chức với tên gọi chính thức là ngân hàng tiết kiệm, còn có một số tổ chức có hoạt động gần tương tự như ngân hàng tiết kiệm với những tên gọi khác nhau, ví dụ ở Đức có quĩ tiết kiệm thuộc quyền sở hữu của nhà nước và đặc dưới sự quản lí của chính quyền địa phương. Hoạt động của nó gần giống một ngân hàng có qui mô nhỏ.
Ở Việt nam không có ngân hàng tiết kiệm riêng biệt, hầu như tất cả các ngân hàng thương mại, ngân hàng đặc biệt đều có bộ phận quĩ tiết kiệm để huy động vốn nhàn rỗi trong dân chúng nhằm hình thành nguồn vốn chung của ngân hàng thương mại để có thể cho vay theo nhu cầu hoạt động của các ngân hàng thương mại.
4. Các liên hiệp tín dụng
ở Việt nam, theo “Luật các tổ chức tín dụng” được Quốc hội nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam khoá 10, kì họp thứ hai thông qua ngày 12/12/1997, có hiệu lực thi hành 1/10/1998 xác định tổ chức tín dụng là pháp nhân hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán.
Ngân hàng (ở đây là chúng ta hiểu là các ngân hàng trung gian) là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động ngân hàng có liên quan. Căn cứ vào tính chất mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng trung gian theo luật này gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng đầu tư, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng trung gian khác.
- Ngân hàng thương mại (còn gọi là ngân hàng tiền gửi hay ngân hàng tín dụng) với nghiệp vụ truyền thống là huy động vốn phần lớn dưới hình thức ngẵn hạn và cho vay ngắn hạn dưới hình thức chiết khấu thương phiếu là chính. Nhưng do thị trường tiền tệ ngày càng phát triển dần dần các ngân hàng này đi vào kinh doanh tổng hợp, làm các nghiệp vụ huy động vốn là cho vay trung hạn, dài hạn và làm hầu như tất cả các nghiệp vụ và dịch vụ ngân hàng. Tuy nhiên nét đặc trưng nổi bật của ngân hàng thương mại là cho vay duy trì quy mô của khách hàng là chính.
- Ngân hàng phát triển: Nét đặc trưng nổi bật là những ngân hàng này là tập trung huy động vốn trung, dài hạn và đầu tư trung dài hạn vì sự phát triển (không duy trì quy mố cũ, chất lượng cũ). Hoạt động đầu tư của loại ngân hàng này chủ yếu đầu tư trực tiếp qua các dự án.
- Ngân hàng đầu tư hoạt động với mục tiêu đầu tư trung hạn, dài hạn cũng có sự phát triển (nhưng thông qua các hình thức đầu tư gián tiếp vào giấy tờ có giá). Hoạt động của loại ngân hàng này gần gũi với nghiệp vụ chứng khoán. Các giấy tờ có giá được mở rộng thì loại ngân hàng này cũng phong phú và phát triển.
- Ngân hàng chính sách: thông thường là ngân hàng thương mại 100% vốn nhà nước hoặc ngân hàng thương mại cổ phần nhà nước (gồm sở hữu nhà nước và sở hữu các tổ chức kinh tế quốc doanh) được lập ra để phục vụ cho một số chính sách của nhà nước (hiện nay có ngân hàng chongười nghèo, ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu long) loại ngân hàng này không hoạt động vì mục đích lợi nhuận. Nó được tạo vốn dưới hình thức đặc thù để cho va ưu đãi hoặc tạo vốn bình thường trên thị trường để vay ưu đãi nhưng được nhà nước bù phần chênh lệch lãi suất.
- Ngân hàng hợp tác: (hay gọi rộng là tổ chức tín dụng hợp tác) là những tổ chức tín dụnh thuộc sở hữu tập thể, được các thành viên tự nguyện lập nên không phải vì mục đích lợi nhuận mà vì yêu cầu tương trợ lẫn nhau về vốn và dịch vụ ngân hàng. Nó có thể là tổ chức tín dụng hợp tác độc lập (như hợp tác xã tín dụng)hoặc là một hệ thống tín dụng độc lập ở từng mắt và có sự liên kết toàn hệ thống (như quĩ tín dụng nhân dân)
Như vậy ranh giới giữa các loại hình ngân hàng trung gian hiện nay chỉ là tương đối. Căn cứ vào nguốn vốn và sử dụng vốn hoặc tính chất sở hữu có các tên gọi ngân hàng khác nhau, ví dụ ngân hàng công thương, ngân hàng đầu tư, ngân hàng cổ phần á châu...
Tính đến cuối năm 1998, hệ thống các ngân hàng thương mại bao gồm:
- 4 ngân hàng thương mại quốc doanh (ngân hàng công thương Việt nam, ngân hàng ngoại thương Việt nam, ngân hàng đầu tư và phát triển, ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn)
- 2 ngân hàng chính sách là ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu long (thành lập năm 1998) và ngân hàng phục vụ người nghèo (thành lập năm 1996)
- 51 ngân hàng thương mại cổ phần (ngân hàng Hàng hải, ngân hàng Đại nam, ngân hàng Sài gòn thương tín...)
- 4 ngân hàng liên doanh (Indovina, Vid Public Bank...)
- 24 chi nhánh ngân hàng nước ngoài (Indo Suel bank, Bankok Bank, ANZ..)
III. CHỨC NĂNG VÀ VAI TRÒ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1. Chức năng Ngân hàng thương mại
1.1. Chức năng làm trung gian tín dụng
Ngân hàng làm trung gian tín dụng khi nó là “ cầu nối” giữa người có vốn và người cần vốn.
Thông qua việc huy động các khản vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế ngân hàng hình thành nên quĩ cho vay của nó rồi đem cho vay đối với nền kinh tế, bao gồm cả cho vay ngắn hạn và cho vay dài hạn mà chủ yếu là cho vay ngắn hạn.Với chức năng này ngân hàng vừa đóng vai trò là người đi vay vừa dóng vai trò là người cho vay.
Ngân hàng thương mại thực hiện chức năng này xuất phát từ những cơ sở khách quan. Đó là đặc điểm tuần hoàn vốn tiền tệ trong quá trình tuần hoàn vốn xã hội đã phát sinh hiện tượng trong cùng một lúc có những xí nghiệp ,tổ chức kinh tế,cá nhân có vốn tiền tệ tạm thời chưa sử dụng (như tiền bán hàng của các doanh nghiệp nhưng chưa mua nguyên vật liệu, tiền trích khấu hao nhưng chưa sử dụng để mua sắm tài sản cố định mới hoặc chưa sửa chữa tài sản cố định ,tiền lương chưa đến kì trả... ) Ngược lại, lại có những doanh nghiệp,cá nhân có nhu cầu vốn cần bổ sung trong một thời gian ngắn(như doanh nghiệp cần mua nguyên nhiên vật liệu nhưng chưa bán được sản phẩm,cần sửa chữa lớn hoặc mua sắm tài sản cố định nhưng nguồn tích lũy và khấu hao chưa đủ,cá nhân cần tiền cho nhu cầu mua sắm tài sản có giá trị nhưng tiền tích luỹ còn hạn chế...)Mâu thuẫn này cần được giải quết để tăng hiệu quả sử dụng vốn trong nền kinh tế và được thoả mãn bằng quan hệ tín dụng trực tiếp hoặc gián tiếp.Tuy nhiên quan hệ tín dụng trực tiếp dưới hình thức quan hệ thương mại hoặc doanh nghiệp phát hành trái phiếu có những hạn chế vì cãc chủ thể khó có thể biết rõ được khả năng và nhu cầu vốn của nhau.Hơn nữa ,phải có sự tin tưởng để chuyển nhượng vốn lẫn nhau .Hạn chế này đòi hỏi phải có ngân hàng đứng ra làm trung gian để chuyển vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu tạm thời.Thêm nữa ,nhu cầu tiết kiệm và đầu tư trong xã hội cũng đòi hỏi ngân hàng làm trung gian để chuyển vốn từ người tiết kiệm sang người có nhu cầu đầu tư .
Sở dĩ ngân hàng làm được chức năng này là vì nó có một cơ quan chuyên trách ,chuyên kinh doanh về tiền tệ ,tín dụng ,có khả năng nhận biết được tình hình cung cầu về tín dụng.Đó là nơi mà khách hàng có thể tin tưởng được trong việc gửi tiền .Thông qua việc thu hút tiền gửi với khối lượng lớn,ngân hàng có thể giải quết mối quan hệ giữa cung và cầu cả về khối lượng vốn cho vay ,thời gian cho vay.
Với chức năng trung gian tín dụng ngân hàng thương mại đã góp phần tạo lợi ích cho tất cả các bên trong quan hệ là người gửi tiền, ngân hàng và người đi vay và đảm bảo lợi ích của nền kinh tế.
- Đối với người gửi tiền, họ thu được lợi từ vốn tạm thời nhàn dỗi của mình do ngân hàng trả lãi tiền gửi cho họ.Hơn nữa ngân hàng còn đảm bảo cho họ sự an toàn toàn và cung cấp các phương tiện thanh toán.
- Đối với người đi vay sẽ thoả mãn vốn để kinh doanh,chi tiêu,thanh toán mà không phải chi phí nhiều về sức lực,thời gian cho việc tìm kiếm nơi cung ứng vốn tiện lợi chắc chắn và hợp pháp.
- Đối với ngân hàng thương mại, họ sẽ tìm liếm được cho bản thân mình từ chênh lệch giữa lãi suất cho vay cà lãi suất tiền gửi hoạc hoa hồng môi giới.Lợi nhuận này chính là cơ sở để tồn tại và phát triển của ngân hàng thương mại
- Đối với nền kinh tế,chức năng này có vai trò quan trọng trong việc htúc đẩy tăng trưởng kinh tế vì nó đáp ứng nhu cầu vốn để đảm bảo quá trình tái sản suất được thực hiện liên tục và để mở rộng qui mô sản suất.Với chức năng này,ngân hàng đã biến vốn nhàn rỗi không hoạt động thành vốn hoạt động,kích thích quá trình luân chuyển vốn,thúc đẩy sản suất kinh doanh.
Đây chính là chức năng quan trọng nhất của ngân hàng thương mại vì nó phản ánh bản chất của ngân hàng thương mại là đi vay để cho vay, nó quết định sự duy trì và phát triển của ngân hàng .Đồng thời nó cũng là cơ sở để thực hiện các chức năng sau.
1.2. Chức năng trung gian thanh toán.
Ngân hàng làm trung gian thanh toán khi nó thực hiện thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng hoá ,dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu bán hàng và các khoản thu khác theo lệnh của họ .ở đây ngân hàng đóng vai trò thủ quĩ cho các doanh nghiệp và cá nhân bởi ngân hàng là người giữ tài khoản của khách hàng, chi tiền họ cho khách hàng. Nền kinh tế thị trường càng phát triển, chức năng này càng được phát huy, việc thanh toán qua ngân hàng càng được mở rộng.
Ngân hàng thương mại thực hiện các chức năng trung gian thanh toán trên cơ sở nó thực hiện các chức năng trung gian tín dụng. Bởi vì thông qua việc nhận tiền gửi, ngân hàng đã mở cho khách hàng tài khoản tiền gửi để theo rõi các khoản thu, chi. Đó chính là tiền đề để khách hàng thực hiện thanh toán cho ngân hàng, đặt ngân hàng vào vị trí làm trung gian thanh toán. Hơn nữa, việc thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt giữa các chủ thể kinh tế có nhiều hạn chế, đó là rủi ro do phải vận chuyển tiền, chi phí thanh toán lớn, đặc biệt là với khách hàng ở cách xa nhau đã tạo nên nhu cầu khách hàng thực hiện thanh toán qua ngân hàng.
Việc hệ thống ngân hàng thương mại thực hiện chức năng trung gian thanh toán có ý nghĩa rất to lớn đối với toàn bộ nền kinh tế. Với chức năng này, hệ thống ngân hàng thương mại sẽ cung cấp cho khách hàng nhiều công cụ thanh toán thuận lợi như séc, uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, thẻ rút tiền, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng... tuỳ theo nhu cầu khách hàng có thể chọn cho mình phương thức thanh toán phù hợp. Nhờ đó mà các chủ thể kinh tế không phải giữ tiền trong túi, mang theo tiền để gặp chủ nợ, gặp người được hưởng dù gần hay xa mà họ có thể sử dụng một phương thức nào đó để thực hiện các khoản thanh toán. Do vậy các chủ thể kinh tế sẽ tiết kiệm được nhiều chi phí lao động, thời gian lại đam bảo được thanh toán an toàn toàn. Như vậy chức năng thúc đẩy lưu thông hàng hoá, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tốc độ luân chuyển vốn do đó góp phần tăng trưởng kinh tế. Đồng thời với việc thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng đã giảm được tiền mặt trong lưu thông, dẫn đến tiết kiệm chi phí lưu thôn gtiền mặt như in ấn, đếm nhận tiền...
Đối với ngân hàng thương mại, chức năng này góp phần tăng thêm lợi nhuận cho ngân hàng thông qua việc thu lệ phí thanh toán. Thêm nữa nó lại tăng thêm nguồn vốn cho vay của ngân hàng thể hiện trên số dư của tài khoản tiền gửi của khách hàng. Chức năng này cũng chính là cơ sở hình thành chức năng tạo tiền của ngân hàng thương mại.
Nhìn vào hệ thống thanh toán của ngân hàng thương mại, người ta có thể đánh giá ngay được hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại có hiệu quả hay không.
Chu chuyển tiền tệ hiện nay chủ yếu thông qua hệ thống ngân hàng thương mại và do vậy chỉ khi chức năng trung gian thanh toán được hoàn thiện thì vai trò của ngân hàng thương mại mới được nâng cao hơn với tư cách là người thủ quĩ của xã hội.
1.3. Chức năng tạo tiền (tạo ra tiền gửi thanh toán)
Khi có sự phân hoá trong hệ thống ngân hàng, hình thành nên ngân hàng phát hành và các ngân hàng trung gian thì ngân hàng trung gian không còn thực hiện chức năng phát hành giấy bạc ngân hàng. Nhưng với chức năng trung gian tín dụng và trung gian thanh toán, ngân hàng thương mại có khả năng tạo tiền ghi sổ thể hiện trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tại ngân hàng thương mại. Đây chính là một bộ phận của tiền giao dịch.
Từ khoản tiền dự trữ tăng lên ban đầu, thông qua hành vi cho vay băng chuyển khoản, hệ thống ngân hàng có khả năng tạo nên số tiền gửi gấp nhiều lần số tiền dự trữ tăng thêm ban đầu. Mức mở rộng tiền gửi phụ thuộc vào hệ số mở rộng tiền gửi. Hệ số này đến lượt nó chịu tác động của nhiều yếu tố : tỉ kệ d3ự trữ bắt buộc, tỉ lệ dự trữ thừa và tỉ lệ tiền mặt so với tiền gửi thanh toán.
Phân tích quá trình tạo tiền của hệ thống ngân hàng thương mại chúng ta thấy rõ sự tác động của các yếu tố này.
Trước hết ta hãy xem xét quá trình tạo tiền gửi giản đơn với hai giả thiết:
- Các ngân hàng thương mại cho vay hoàn toàn bằng chuyển khoản không cho vay bằng tiền mặt, khách hàng không có nhu cầu rút tiền mặt, lượng tiền giao dịch chỉ là tiền thanh toán.
- Hệ thống ngân hàng thương mại cho vay hết, không có dự trữ thừa. Như vậy lượng tiền trung ương (tiền dữ trữ) hoàn toàn chỉ là tiền dự trữ bắt buộc của ngân hàng thương mại. Giả sử một khách hàng X gửi tiền mặt vào tài khoản tiền gửi thanh toán tại ngân hàng A là 100 triệu đồng.
Nếu ngân hàng A giữ số tiền đó và không cho vay, chỉ đáp ứng nhu cầu rút tiền mặt của khách hàng thì chưa hề có quá trình tạo tiền. Nhưng các ngân hàng ngày nay không nhận tiền gửi để giữ lại trong quỹ mà họ phải đem cho vay nhằm thu lợi nhuận tuy nhiên, để đảm bảo một phần khả năng thanh toán cũng như do phải chụi sự quản lý của ngân hàng trung ương cần phải có một lượng dự trữ bắt buộc do ngân hàng trung ương quy định. Để đơn giản cho việc tính toán chúng ta giả sử rằng tỉ lệ này là 10%. Như vậy ngân hàng thương mại có thể cho vay 90% số tiền gửi.
Giả sử số tiền cho vay ra (90) sẽ được người đi vay sử dụng để thanh toán tiền hàng cho bạn hàng của họ có tài khoản tiền gửi tại ngân hàng B. Do vậy, số tiền này sẽ hình thành một khoản tiền gửi mới ở ngân hàng B là 90 triệu. Ngân hàng này cũng dự trữ 10% theo quy định, phần còn lại để cho vay và số tiền đó lại hình thành nên khoản tiền gửi mới ở ngân hàng C. Ngân hàng C lại dự trữ bắt buộc 10% và cho vay bằng chuyển khoản hết số dự trữ còn lại, số tiền này hình thành nên khoản tiền gửi mới ở ngân hàng D.
Qua đây có thể thấy với khoản tiền gửi ban đầu là 100, ngân hàng A cho vay 90, hình thành nên khoản tiền gửi ở ngân hàng B là 90. Ngân hàng B cho vay 81 tạo nên tiền gửi của ngân hàng C là 81. Ngân hàng C lại cho vay và tạo tiền gửi ở ngân hàng D là 81. Lúc này tổng tiền gửi ở các ngân hàng là 100 + 90 + 81 + 72.9 =243.9 . Quá trình tạo tiền đó cứ tiếp diễn cho đến khi tổng số tiền dự trữ bắt buộc ngang bằng số tiền gửi ban đầu. Bởi vì lượng tiền trung ương trong trường hợp này duy nhất chỉ là dự trữ bắt buộc.
Với quá trình tạo tiền gửi đơn giản, hệ số mở rộng tiền gửi của hệ thống ngân hàng thương mại là:
md =1/rd trong đó md : hệ số mở rộng tiền gửi
rd : tỉ lệ dự trữ bắt buộc của tiền gửi thanh toán
Như vâyj sự kết hợp giữa chức năng trung gian tín dụng và chức năng trung gian thanh toán là cơ sở để ngân hàng thương mại thực hiện chức năng tạo tiền gửi thanh toán. thông qua chức năng trung gian tín dụng ngân hàng sử dụng số vốn huy động được để cho vay, số tiền cho vay ra được khách hàng sử dụng để mua hàng hoá, dịch vụ trong khi số du trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vẫn được coi là một bộ phận của tiền giao dịch, được họ sử dụng để mua hàng hoá, thanh toán dịch vụ... Khi ngân hàng chỉ thực hiện chức năng nhận tiền gửi mà chưa cho vay ngân hàng chưa hề tạo tiền mà chỉ khi ngân hàng thực hiện chức năng cho vay thì mới bắt đầu tạo tiền gửi.
2. Vai trò chính của hệ thống ngân hàng thương mại
Qua quá trình hoạt động của các ngân hàng thương mại và đánh giá hiệu quả chung của toàn bộ nền kinh tế ta có thể khẳng định vai trò của nó đối với nền kinh tế như sau:
Thứ nhất là các ngân hàng thương là một công cụ quan trọng thúc đẩy sự phát triển của sản xuất lưu thông hàng hoá. Thông qua chức năng huy động vốn, cho vay và đầu tư các ngân hàng đã huy động nguồn vốn nhàn rỗi của nền kinh tế, cho vay dưới các hình thức khác nhau đối với các ngành kinh tế, các vùng kinh tế và các thành phần kinh tế, đáp ứng nhu cầu vốn của xã hội nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Các ngân hàng đã thực sự huy động được sức mạnh tổng hợp của nền kinh tế vào quá trình sản xuất, lưu thong hàng hoá. Nếu như không có ngân hàng thương mại thì việc huy động của cải xã hội vào quá trình sản xuất kinh doanh bị đình trệ rất nhiều. Nhờ có ngân hàng thương mại mà tiền tiết kiệm của các cá nhân, các tổ chức được huy động vào quá trình vận động của nền kinh tế. Nó trở thành chất “dầu bôi trơn” cho bộ máy kinh tế hoạt động. Nó chuyển của cải, tài nguyên xã hội từ nơi chưa sử dụng, còn tiềm tàng vào quá trình sử dụng phục vụ cho sản xuất kinh doanh nâng cao mức sống xã hội.
Thêm nữa với vai trò làm trung gian thanh toán, ngân hàng đã thực hiện các dịch vụ trung gian thanh toán cho nền kinh tế do đó thúc đẩy nhanh quá trình thực hiện luân chuyển hàng hoá, luân chuyển vốn trong xã hội, tiết kiệm chi phí thanh toán cho từng cá nhân doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả cho toàn bộ nền kinh tế. Đồng thời ngân hàng cũng giám sát các hoạt động kinh tế góp phầntạo ra một môi trường kinh doanh lành mạnh, tạo ra sự ổn định trong kinh tế xã hội.
Ngày nay, có thể nói mọi quan hệ kinh tế đến thực hiện thông qua tiền tệ và chủ yếu là thông qua hoạt động của hệ thống ngân hàng bên cạnh các tổ chức tài chỉnh phi ngân hàng.
Thứ hai ngân hàng thương mại cũng như các trung gian tài chính khác là công cụ thực hiện chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương. Với chức năng tạo tiền, ngân hàng thương mại là một trong các chủ thể tham gia vào quá trình cung ứng tiền, tạo ra một khối lượng phương tiện thanh toán rất lớn trong nền kinh tế.
Để thực hiện chính sách tiền tệ, ngân hàng trung ương phải sử dụng các công cụ để điều tiết lượng trong lưu thông, nhằm đạt được các mục tiêu của nền kinh tế vĩ mô, đặc biệt là mục tiêu ổn định tiền tệ. Phần lớn các công cụ của chính sách tiền tề chỉ được thực thi có hiệu quả với sự hợp tác tích cực và có hiệu quả của các ngân hàng thương mại cũng như việc chấp hành qui định dự trữ bắt buộc, quy chế thanh toán không dùng tiền mặt và nâng cao hiệu quả cho vay và đầu tư.
KẾT LUẬN CHUNG
Trên đây là những kiến thức mà bản thân em đã thu thập được sau khi học và nghiên cứu về lí thuyết tài chính tiền tệ. Hệ thống các ngân hàng thương mại nói riêng và hệ thống tài chính ngân hàng nói chung là một điều kiện rất cần thiết trong phát triển kinh tế. Ta có thể thấy rất rõ chức năng và vai trò quan trọng của chúng trong nền kinh tế.
Do đó, có một hệ thống ngân hàng thương mại như hiện nay, với công nghệ như hiện nay cùng là kết quả tất yếu của lịch sử, của trình độ phát triển kinh tế thị trường. Để đáp ứng đầy đủ như cầu của nền kinh tế, hệ thống ngân hàng thương mại của chúng ta còn cần nhiều cải cách, thay đổi từ con người đến trang bị kĩ thuật. Theo văn kiện Đại hội Đảng IX đã chỉ rõ:
Tích cực đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia, động viên hợp lý và phân phối có hiệu quả mọi nguồn lực nhằm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
Thực thi chính sách tiền tệ bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng, kích thích đầu tư phát triển. Sử dụng linh hoạt, có hiệu quả các công cụ chính sách tiền tệ nh tỷ giá, lãi suất, nghiệp vụ thị trờng mở theo các nguyên tắc của thị trờng. Nâng dần và tiến tới thực hiện đầy đủ tính chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam.
Hình thành môi trường minh bạch, lành mạnh và bình đẳng cho hoạt động tiền tệ - ngân hàng. ứng dụng phổ biến công nghệ thông tin, mở rộng nhanh các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt và thanh toán qua ngân hàng. Đa dạng hóa các hình thức huy động vốn, cho vay, cung ứng các dịch vụ và tiện ích ngân hàng thuận lợi và thông thoáng đến mọi doanh nghiệp và dân cấp, đáp ứng kịp thời các nhu cầu vốn tín dụng cho sản xuất, kinh doanh và đời sống, chú trọng khu vực nông nghiệp, nông thôn.
Hình thành đồng bộ khuôn khổ pháp lý, áp dụng đầy đủ hơn các thiết chế và chuẩn mực quốc tế về an toàn trong kinh doanh tiền tệ - ngân hàng. Giải quyết nợ tồn đọng đi đôi với tăng cường những chế định pháp lý, kinh tế và hành chính về nghĩa vụ trả nợ của người đi vay và bảo vệ quyền thu nợ hợp pháp của người cho vay.
Cơ cấu lại hệ thống ngân hàng. Phân biệt chức năng của Ngân hàng Nhà nước và ngân hàng thương mại nhà nước, chức năng thực hiện cho vay theo chính sách với chức năng kinh doanh tiền tệ của ngân hàng thương mại. Thành lập ngân hàng chính sách. Bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của ngân hàng thương mại trong kinh doanh. Giúp đỡ và thúc đẩy các tổ chức tín dụng trong nước nâng cao năng lực quản lý và trình độ nghiệp vụ, có khả năng cạnh tranh với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Bảo đảm quyền kinh doanh của các ngân hàng và các tổ chức tài chính nước ngoài theo các cam kết của nước ta với quốc tế. Gắn cải cách ngân hàng với cải cách doanh nghiệp nhà nước. Sắp xếp lại các ngân hàng cổ phần, xử lý các ngân hàng yếu kém
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Vai trò của ngân hàng thương mại.doc