Vai trò của nhà nước trong việc thực hiện dân chủ ở nước ta hiện nay

MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Bắt đầu từ thế kỷ XX, “dân chủ” trở thành khái niệm phổ biến nhất của nhân loại và “dân chủ” luôn được các nhà lý luận và hoạt động chính trị- xã hội quan tâm và đề cập. Ngày nay, không có một tổ chức, phong trào chính trị- xã hội hay một luận thuyết triết học chính trị nào lại không đề cập đến vấn đề dân chủ mà không sử dụng thuật ngữ này trong mục đích cương lĩnh hành động của mình. Trong số các giá trị lớn của nhân loại, dân chủ là một hiện tượng chính trị- pháp lý phức tạp đầy mâu thuẫn. Nó phản ánh một nhu cầu cơ bản xuyên suốt lịch sử, đặc biệt ngày càng tăng trong đời sống xã hội hiện tại. Tính phức tạp của dân chủ được quy định, trước hết bởi nó là nhu cầu của con người với tính cách loài, mặt khác, trong quá trình phát triển, dân chủ luôn là nhu cầu, phương tiện của các giai cấp, tập đoàn xã hội nào đó nhằm xác lập đặc quyền (đối với giai cấp thống trị), hoặc là đấu tranh xác lập mặt bằng về quyền (đối với các giai cấp, tầng lớp xã hội khác). Lịch sử dân chủ cho thấy, để đạt tới những giá trị chung, phổ biến, dân chủ gắn liền và phát triển thông qua các nền dân chủ với tên gọi và giai cấp đại diện khác nhau (dân chủ cổ đại gắn liền với việc xuất hiện Nhà nước Aten vào thế kỷ V trước công nguyên, dân chủ của chủ nghĩa tự do cổ điển vào cuối thế kỷ XVIII- đầu thế kỷ XIX, nền dân chủ đa số của Rút- xô, nền dân chủ XHCN kế thừa và chọn lọc những nguyên tắc quan trọng nhất của dân chủ tập thể của Rút- xô, nền dân chủ đa nguyên hiện đại của các nước tư bản phát triển). Cũng như nhân quyền, dân chủ là một khái niệm đầy mâu thuẫn: vừa bao hàm giái trị chung, phổ biến đồng thời vừa chứa đựng những yếu tố đặc quyền, mang tính giai cấp. Quá trình phát triển dân chủ, về thực chất là quá trình đấu tranh, hạn chế dần sự đặc quyền, từ dân chủ ít phổ biến đến những hình thức dân chủ phổ biến hơn. Chính vì vậy, dân chủ là khái niệm gắn liền với nhà nước và quyền lực nhà nước, không thể nói đến dân chủ tách rời, bên ngoài vấn đề nhà nước. Hồ Chí Minh, người sáng lập ra nước Việt nam Dân chủ Cộng hoà, trong một bài viết ngày 14.10.1949 đã khẳng định: "Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều nơi dân”. Nghị quyết của Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt nam như một thành tựu của tư duy đổi mới trở lại với tư tưởng đó của Hồ Chí Minh đã khẳng định:”Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân”. Do đó, ở nước ta việc vận dụng đúng đắn những giá trị dân chủ vào đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội là một trong những điều kiện bảo đảm thắng lợi của công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Dân chủ có ý nghĩa to lớn trong việc phát huy khả năng sáng tạo, sức mạnh của cộng đồng. Xây dựng môi trường thực thi và phát triển dân chủ là vấn đề cực kỳ quan trọng đối với một nước có trình độ kinh tế thấp kém dựa trên nền nông nghiệp nhỏ và lạc hậu, lại chưa trải qua chế độ dân chủ tư sản như nước ta. Chỉ có trong môi trường dân chủ, chỉ khi nào quyền tự do dân chủ của người dân được giải phóng thì những sức mạnh và năng lực sáng tạo của họ mới được phát huy. Điều này đã được Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Thực hành dân chủ là cái chìa khoá vạn năng có thể giải quyết được mọi khó khăn [12, tr.249]. Nhà nước ta từ khi ra đời đến nay, nhất là trong thời kỳ đổi mới, đã thể hiện được rõ vai trò của mình trong việc làm cho nền dân chủ từng bước khởi sắc. Dân chủ trong kinh tế ngày càng được mở rộng đã tác động mạnh mẽ đến việc giải phóng sức sản xuất, thúc đẩy nền kinh tế phát triển, góp phần nâng cao đời sống của nhân dân. Dân chủ về chính trị có những bước tiến quan trọng, trong đó phải kể đến quy chế dân chủ cơ sở đã được triển khai thực hiện tạo chuyển biến tích cực trong đời sống xã hội Tuy nhiên, bộ máy nhà nước hiện nay hoạt động còn kém hiệu quả, ý thức trách nhiệm của nhiều cán bộ công quyền chưa cao, nạn hách dịch, cửa quyền gây nhiều phiền hà và nhiều biểu hiện khác vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, tệ quan liêu, nạn tham nhũng ngày càng nghiêm trọng và phức tạp. Từ những hạn chế trên, nhà nước cần phải thể hiện được vai trò quan trọng của mình trong việc bảo đảm quyền lực của nhân dân, thông qua việc nghiên cứu tìm tòi những hình thức và cơ chế, thể chế hoá đầy đủ các quyền tự do dân chủ, tạo điều kiện và khả năng cho nhân dân tham gia thiết thực vào xây dựng và quản lý nhà nước. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đòi hỏi nhà nước ta phải thể hiện đúng bản chất của mình là nhà nước của dân, do dân, vì dân; xác định dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát triển đất nước, thực hiện thành công công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo theo mục tiêu “Độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội”, xây dựng một nước Việt Nam “Dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Từ những ý nghĩa trên, tôi chọn đề tài: "Vai trò của nhà nước trong việc thực hiện dân chủ ở nước ta hiện nay" làm luận văn thạc sĩ Triết học.

doc108 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3898 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Vai trò của nhà nước trong việc thực hiện dân chủ ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hân dân ngày càng nâng cao trình độ thẩm mỹ và thưởng thức nghệ thuật, trở thành những chủ thể sáng tạo văn hóa, đồng thời là người hưởng thụ ngày càng nhiều các thành tựu văn hóa. - Bảo tồn các di sản văn hóa phi vật thể; tôn tạo và quản lý tốt các di sản văn hóa vật thể. Nhà nước nên có chủ trương phân cấp mạnh mẽ và xã hội hoá trong việc bảo vệ và gìn giữ các di sản văn hoá. - Bảo đảm tự do dân chủ cho mọi sáng tạo văn học- nghệ thuật. Văn nghệ sĩ nêu cao trách nhiệm trước nhân dân, trước Tổ quốc và CNXH, phấn đấu có nhiều tác phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, có tác dụng giáo dục, xây dựng con người mới. - Phát triển và hiện đại hóa đi đôi với quản lý tốt mạng lưới thông tin đại chúng, làm tốt chức năng tuyên truyền thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; phát hiện những nhân tố mới, giới thiệu gương người tốt, việc tốt, uốn nắn những nhận thức lệch lạc, đấu tranh với những quan điểm sai trái. - Đẩy mạnh phong trào "toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa", "xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa". - Mở rộng giao lưu văn hóa, thể thao quốc tế, tiếp thu tinh hoa và góp phần làm phong phú thêm nền văn hóa của nhân loại. Đầu tư thích đáng cho việc truyền bá ở trong nước những giá trị văn hóa của thế giới và giới thiệu đất nước, văn hóa, con người Việt Nam ra với thế giới. 2.2.4. Xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân Ba giải pháp cơ bản nêu trên chính là những bước đi tiền đề để đi đến giải pháp quan trọng nhất nhằm thực hiện dân chủ ở nước ta- đó là xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN. Trên con đường phát triển đi đến một xã hội và môi trường chính trị ngày càng hoàn thiện và mang tính nhân văn hơn, nhà nước pháp quyền là lựa chọn khách quan của lịch sử. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy nhà nước pháp quyền có mối liên hệ hữu cơ với dân chủ. Yêu cầu phát triển dân chủ là đòi hỏi nhà nước phải trở thành nhà nước pháp quyền và đến lượt mình nhà nước pháp quyền thành điều kiện cơ bản để phát triển nền dân chủ. Trong lịch sử nhân loại, mối quan hệ biện chứng giữa dân chủ và nhà nước pháp quyền mang tính quy luật của sự phát triển đời sống chính trị xã hội. Như vậy, phát huy quyền làm chủ của nhân dân luôn quan hệ chặt chẽ với việc xây dựng nhà nước pháp quyền. Trong hai mặt đó, nhà nước pháp quyền là điều kiện, tiền đề để thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Còn khi quyền làm chủ của nhân dân được phát huy về mọi mặt lại củng cố kiện toàn nhà nước pháp quyền, nâng cao vai trò, vị trí của nhà nước pháp quyền đối với việc thực thi dân chủ, đồng thời những yêu cầu dân chủ và thực trạng của nền dân chủ lại là những tiêu chí khách quan để xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. Nhà nước pháp quyền được hiểu là nhà nước trong đó hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân đều tuyệt đối tuân theo các quy định của Hiến pháp và pháp luật. Trong nhà nước pháp quyền, pháp luật không chỉ là công cụ để nhà nước quản lý mọi mặt đời sống xã hội, nó còn là công cụ để nhân dân kiểm soát hoạt động của bộ máy nhà nước, công cụ để mọi công dân bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Pháp luật trong nhà nước pháp quyền phải là sự thể hiện ý chí chung của mọi công dân. Các quyền tự do và lợi ích hợp pháp của công dân được nhà nước ghi nhận trong đạo luật cơ bản của nhà nước và có cơ chế bảo đảm thực hiện. Việc tổ chức và hoạt động của bất kỳ cơ quan nhà nước nào, của bất kỳ quan chức cao cấp nào trong bộ máy nhà nước đều ở trong khuôn khổ quy định của Hiến pháp và pháp luật. Hơn thế nữa, nhà nước pháp quyền đòi hỏi phải có thiết chế kiểm tra, giám sát của các nhánh quyền lực trong bộ máy nhà nước. Đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền là được tổ chức trên cơ sở pháp luật và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, thực hiện sự cai trị và quản lý xã hội bằng pháp luật. Cho nên muốn có nhà nước pháp quyền thì pháp luật phải dân chủ. Tuy nhiên đây chưa phải là dấu hiệu căn bản để phân biệt nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền tư sản. Điểm cơ bản để phân biệt các mô hình nhà nước đó chính là tính chất của luật pháp. Trong nhà nước pháp quyền XHCN, luật pháp thể hiện một cách sâu sắc ý chí, nguyện vọng của đại đa số nhân dân, phản ánh lợi ích cơ bản của nhân dân, là công cụ bảo vệ lợi ích của nhân dân. Thực tế cho thấy rằng nhà nước pháp quyền tư sản chỉ đại diện và phục vụ lợi ích của giai cấp tư sản. Trái lại, nhà nước pháp quyền XHCN là nhà nước luôn dựa vào pháp luật để đảm bảo mọi quyền hành và lợi ích đều thuộc về nhân dân. Nhà nước pháp quyền là một phạm trù lịch sử. Nó có những giá trị mang tính phổ quát, nhưng cũng có những nét đặc thù được quy định bởi đặc điểm, điều kiện cụ thể của từng quốc gia, dân tộc. Vì thế, việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền phải phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, văn hoá và xã hội cụ thể của mỗi nước. Nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay bao gồm những đặc trưng sau đây: Một là, nhà nước ta là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Hai là, xác định quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công rành mạch và sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Ba là, hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí tối thượng trong điều chỉnh các quan hệ thuộc tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bốn là, nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa nhà nước và công dân, thực hành dân chủ, đồng thời tăng cường kỷ cương, kỷ luật. Năm là, nhà nước tôn trọng và thực hiện đầy đủ các điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Sáu làm, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với nhà nước pháp quyền XHCN, sự giám sát của nhân dân và sự phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận. Nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá cần tập trung một số việc sau đây: 1. Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế, nhà nước phải luôn luôn chú trọng kết hợp thực hiện tốt chức năng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hoạch định chính sách, xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và chính sách đó; phải luôn luôn gắn bó chặt chẽ nhiệm vụ phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng, an ninh. 2. Xây dựng nhà nước pháp quyền phải dựa vào lực lượng nhân dân, phát huy dân chủ XHCN; phải xuất phất từ nguyện vọng và lợi ích của nhân dân và dựa trên nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. 3. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam được tổ chức và phân công quyền lực nhà nước thực sự khoa học, phát huy mạnh mẽ hiệu lực quản lý nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nhà nước thực hiện 3 quyền thống nhất có sự phân công rành mạch, trong đó, đề cao trách nhiệm, tính chủ động và sự phối hợp hoạt động của các cơ quan quan trọng trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; thực hiện phân cấp hợp lý quyền lực nhà nước giữa chính quyền Trung ương và chính quyền địa phương, xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh, bảo đảm thực hiện có hiệu quả chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước. 2.2.4.1. Phân công rõ ràng đối với các cơ quan quyền lực Theo Ph.Ăngghen, phân quyền được xem như là một nguyên tắc thiêng liêng và không thể xâm phạm được trên thực tế, về thực chất nó không có gì khác sự phân công lao động được áp dụng đối với bộ máy nhà nước, nhằm đơn giản hoá và để kiểm tra. Ngày nay, phân quyền trong nhà nước pháp quyền XHCN, cả lý luận và thực tiễn áp dụng cũng rất khác nhau, chứa đầy những mâu thuẫn nội tại. Bởi vì, trong khi thừa nhận phân công quyền lực là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước pháp quyền XHCN, thì trên thực tế nó lại đan xen thẩm thấu vào nhau. Quyền lực bị phân chia nhưng nó lại thống nhất ở mặt sau của nó là tính giai cấp, tính chính trị. Phân quyền chỉ là thể hiện những biểu hiện khác nhau của quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước luôn là một thể thống nhất nhưng, như một tất yếu khách quan, được biểu hiện ra dưới những khía cạnh cụ thể khác nhau. Phân quyền không phải ba quyền lực nhà nước, mà chỉ là ba loại quyền lực trong tổng thể quyền lực nhà nước. Vì vậy, trên thực tế phân quyền trong nhà nước pháp quyền chính là điều kiện cần thiết để loại bỏ khả năng chuyên quyền độc đoán, lạm dụng quyền lực, bảo đảm duy trì trật tự xã hội và pháp chế, bảo đảm quyền tự do của công dân, phát triển dân chủ, giữ vững bản chất giai cấp của nhà nước XHCN. Ngoài sự phân công, để thực thi quyền lực của nhân dân một cách có hiệu quả thì lại cần có sự kiểm soát quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước được giao cho một số người trong giai cấp cầm quyền đảm nhận và họ có thể lợi dụng quyền lực ấy để mưu lợi ích riêng, vi phạm lợi ích của nhân dân. Ở nước ta cuộc đấu tranh của nhân dân, của những cán bộ vì lợi ích của nhân dân với những người lợi dụng chức quyền nhà nước mưu lợi ích riêng vẫn còn tiếp tục. Tha hoá quyền lực nhà nước không chỉ diễn ra ở các nước của giai cấp bóc lột mà còn có thể diễn ra ở ngay cả các nước do chính đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Nếu không khắc phục sự tha hoá này thì quyền lực của nhân dân không những không được thực thi có hiệu quả mà còn có nguy cơ nhà nước vô sản không còn tồn tại. Nguyên nhân cơ bản của các hiện tượng nêu trên là do tổ chức bộ máy cồng kềnh, nhiều tầng nấc, nhiều khâu trung gian, quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước và các cán bộ công chức nhà nước không rõ ràng; chưa có cơ chế kiểm soát quyền lực có hiệu quả, nảy sinh sự lạm quyền, lợi dụng quyền lực để mưu lợi ích cá nhân. Phân công và kiểm soát quyền lực là một trong những giải pháp cơ bản để đẩy lùi quan liêu tham nhũng, để hạn chế và đi đến khắc phục tha hoá quyền lực nhà nước để quyền lực nhà nước thực sự thuộc về nhân dân. Xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền XHCN là một trong những giải pháp thiết thực để hạn chế các tiêu cực trong xã hội, thực hiện tốt quyền dân chủ của nhân dân. Nhà nước pháp quyền XHCN hình thành thể chế kiểm soát quyền lực nhà nước ngay bên trong nhà nước. Quyền lực nhà nước phải tập trung thống nhất, nhưng lại cần được phân công rõ ràng và kiểm soát lẫn nhau giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp, có như vậy mới hạn chế được lạm quyền, độc đoán, chuyên quyền trong bộ máy nhà nước. Phân tích các quy định của Hiến pháp 1992 và các luật về tổ chức và họat động của các cơ quan nhà nước cao nhất ở nước ta đều nhận thấy sự phân công, phân nhiệm với quyền hạn, nhiệm vụ, chức năng giữa 3 quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp đã được xác định. Tuy nhiên, sự xác định này chưa hẳn đã giải quyết được căn bản những nhu cầu của việc xây dựng một bộ máy chính quyền thật sự có hiệu quả đáp ứng các đòi hỏi của đất nước. Vấn đề cơ bản đang đặt ra trong việc xây dựng, củng cố bộ máy nhà nước không phải là ở chỗ quy định lại các thẩm quyền, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước hiện đang ở vị trí cao nhất của quốc gia, mà là ở chỗ các cơ quan nhà nước này phải được tổ chức và hoạt động như thế nào để thực hiện tốt thẩm quyền và nhiệm vụ hiến định. Quốc hội thực hiện chức năng lập pháp, có nghĩa là Quốc hội phải thực hiện và quán xuyến toàn bộ các giai đoạn của quá trình xây dựng pháp luật. Vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền phụ thuộc rất lớn vào việc xây dựng pháp luật mà nội dung trung tâm là hoạt động làm luật của Quốc hội. Quyền lực của Quốc hội được kết tinh trong các quy định của luật; quyền lực thực tế của Quốc hội được xác định bằng hiệu lực thực tế của các đạo luật. Nếu các đạo luật của Quốc hội ban hành có hiệu lực mạnh mẽ, thì rõ ràng Quốc hội hoạt động thật sự có hiệu quả, và quyền lực của Quốc hội là quyền lực thực tế. Ngược lại, nếu các đạo luật được ban hành không đi vào đời sống bởi các quy phạm chung chung, thiếu cụ thể, hoặc bị vô hiệu hóa bởi vô vàn các văn ban dưới luật khác thì rõ ràng là hoạt động làm luật của Quốc hội không hiệu quả và vai trò của Quốc hội đương nhiên là mờ nhạt, từ đó Nhà nước cũng không thể thực hiện tốt vai trò quản lý của mình, mà như Môngtexkiơ đã từng cảnh báo: "Trong một nước dân chủ, một khi luật pháp không được chấp chính là khi cơ chế của nền cộng hoà đã bị suy đốn, nhà nước không còn là nhà nước nữa” [13, tr.54]. Điều này thể hiện trong thực tế ở chỗ, mặc dù Luật doanh nghiệp và Luật Đầu tư đã có hiệu lực thi hành nhưng chưa thực sự đi vào cuộc sống vì chưa có nghị định hướng dẫn, chừng nào hai đạo luật này chưa được triển khai trong thực tế, chừng đó những yếu tố cơ bản cho môi trường kinh doanh ở Việt Nam vẫn còn bị bỏ ngỏ. Như vậy, sự củng cố vai trò, vị trí của Quốc hội trong bộ máy nhà nước hiện nay không phải là ở chỗ tăng thêm quyền lực cho Quốc hội trong các quy định Hiến pháp, mà là ở chỗ tăng cường năng lực làm luật của Quốc hội và của bản thân từng đại biểu Quốc hội. Muốn vậy điều cốt lõi là phải đổi mới căn bản quá trình xây dựng các dự án luật, trong đó trách nhiệm chính phải thuộc về các cơ quan của Quốc hội, chứ không phải là Chính phủ hay các cơ quan của Chính phủ. Hơn nữa, luật do Quốc hội ban hành cần có hiệu lực điều chỉnh trực tiếp, tức là luật cần cụ thể, xác thực để trực tiếp đi vào cuộc sống mà không cần thiết phải có nhiều các nghị định của Chính phủ, các thông tư của các Bộ cơ quan liên quan mới thi hành được. Quốc hội với tư cách là cơ quan thực hiện quyền lập pháp, tổ chức và cần được đổi mới để phù hợp với nhu cầu xây dựng pháp luật trong tình hình mới. Muốn vậy, cần thiết phải chuyển từ một Quốc hội không chuyên trách, từ một Quốc hội họp theo định kỳ mỗi năm hai lần sang Quốc hội có nhiều đại biểu chuyên trách có thể họp nhiều kỳ hơn, từ một Quốc hội hoạt động theo đoàn địa phương sang một Quốc hội hoạt động chủ yếu theo tư cách đại biểu kết hợp với hoạt động theo đoàn. Điều đặc biệt có ý nghĩa là, phải phát huy tính tích cực của bản thân các đại biểu Quốc hội, đảm bảo cho đại biểu Quốc hội có quyền tự mình làm báo cáo công khai trước Quốc hội, trực tiếp đưa ra các khuyến nghị, thậm chí có quyền đưa ra cả một dự án luật. Trong một cơ chế kinh tế xã hội mới, vai trò của Chính phủ với tính cách là cơ quan đứng đầu nền hành chính quốc gia ngày càng trở nên đặc biệt quan trọng. Một nền hành chính mạnh mẽ phải được bắt đầu từ một chính phủ mạnh, có khả năng phản ứng kịp thời trước mọi yêu cầu của quá trình quản lý. Muốn vậy Chính phủ phải được đổi mới từ cơ cấu tổ chức bộ máy đến quy chế, lề lối và các phương thức quản lý; Chính phủ phải có được các quyền hạn rộng rãi, thật sự làm cho quyền hành pháp trên toàn bộ lãnh thổ quốc gia. Quyền hành pháp phải được tập trung và thống nhất vào Chính phủ, và Chính phủ đứng đầu là Thủ tướng phải chịu trách nhiệm trước nhân dân về việc thực thi quyền hành pháp này. Một Chính phủ mạnh phải biết đặt hoạt động của mình trong mối liên hệ và hợp tác nhịp nhàng với các thiết chế quyền lực khác, không lấn sân, không can thiệp gây phương hại đến thẩm quyền và hoạt động của các thiết chế quyền lực khác. Đất nước đang chuyển sang một giai đoạn phát triển mới, đang đòi hỏi các cơ quan thực hiện quyền tư pháp phải được đổi mới toàn diện. Vị trí, vai trò của từng cơ quan bảo vệ pháp luật trong cơ chế mới cần được xác định rõ ràng, kể cả trên phương diện luật pháp lẫn các mối liên hệ trên thực tế. Có thể nói, tổ chức và hoạt động hiện nay của các Tòa án nhân dân vẫn chưa phù hợp và chưa đáp ứng được các yêu cầu của công cuộc đổi mới. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần đã và đang phát sinh nhiều quan phức tạp, đòi hỏi phải được điều chỉnh bằng pháp luật. Các tranh chấp phát sinh từ những quan hệ ngày càng đa dạng và phức tạp, đòi hỏi được giải quyết thông qua các thủ tục tư pháp, thực hiện qua các tố tụng dân chủ. Sự ổn định chính trị đòi hỏi các cơ quan bảo vệ pháp luật cương quyết xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật, góp phần tạo ra một trật tự pháp luật, hình thành một môi trường sống có kỷ cương, lành mạnh và an toàn đối với mỗi một người dân và với đời sống của toàn thể cộng đồng. Trước nhu cầu như vậy, Tòa án nhân dân cần bảo đảm tính độc lập xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Việc UBND thành phố Hải Phòng dưới sự chỉ đạo của Tỉnh uỷ có văn bản gửi Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng để "can thiệp" vào việc xét xử vụ án chia chác đất công của lãnh đạo thị xã Đồ Sơn là không đúng quy định. Kết quả xét xử vụ án sơ thẩm này (8/2006), Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng chỉ tuyên phạt ba cựu lãnh đạo thị xã Đồ Sơn ở mức hình phạt cảnh cáo là quá nhẹ, không tương xứng với tính chất hành vi các bị cáo gây ra. Điều này khiến các cơ quan thực thi pháp luật ra quyết định huỷ bỏ bản án sơ thẩm trên đây để tiến hành xét xử lại theo hướng tăng đúng người, đúng tội là điều đúng đắn. Qua đây cho thấy Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng đã vi phạm nguyên tắc xét xử. Trong công tác xét xử, Toà án phải giữ vị trí độc lập, không chịu tác động từ bên ngoài và các phán quyết của Toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà. Quyền độc lập xét xử của các Hội đồng xét xử đòi hỏi khắc phục lối quản lý hành chính hiện đang tồn tại trong tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án hiện hành. Theo đó, các Tòa án đều được xác định cụ thể về thẩm quyền xét xử và mối quan hệ giữa các Tòa án nhân dân các cấp là các mối quan hệ tố tụng không thể là các quan hệ hành chính. Điều đó có nghĩa là, Tòa án cấp trên không thể là cơ quan cấp trên về mặt hành chính đối với Tòa án cấp dưới. Đối với mỗi Hội đồng xét xử, mỗi cấp Tòa án, sự phục tùng không phải đối với Tòa án cấp trên mà chỉ có thể là sự phục tùng duy nhất đối với pháp luật. Thực hiện chế độ hai cấp xét xử, việc phân định thẩm quyền xét xử giữa các cấp Tòa án theo cơ chế cũ đang cản trở công tác xét xử trên thực tế. Vì vậy, công cuộc cải cách tư pháp đòi hỏi phải quy định lại thẩm quyền xét xử theo xu hướng mở rộng thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự, hình sự cho Tòa án nhân dân cấp huyện, quận. Muốn vậy, cần ưu tiên đầu tư cho các Tòa án này không chỉ tăng thêm thẩm quyền xét xử, mà đặc biệt chú trọng chất lượng và năng lực của đội ngũ các Thẩm phán ở các Tòa án cơ sở. Trong cơ chế kinh tế - xã hội mới cần thiết phải xác định vai trò, địa vị pháp lý của hệ thống các Viện kiểm sát hiện nay. Tính chất chồng chéo, khó phân định chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát với một số cơ quan bảo vệ pháp luật thuộc hệ thống các cơ quan hành pháp như Thanh tra nhà nước, các cơ quan Điều tra... đã làm cho các hoạt động pháp chế kém hiệu quả. Vì vậy, sự cải tổ các cơ quan kiểm sát cần tiến hành theo mô hình Viện Công tố. Nhà nước pháp quyền cũng đòi hỏi phải xây dựng và tăng cường các tổ chức Luật sư, các tổ chức Tư vấn pháp luật 2.2.4.2. Thiết lập cơ chế sử dụng cán bộ thật sự hiệu quả Để thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, công tác xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ công chức cần phải được chú trọng đặc biệt vì nó quyết định sự thành bại của đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Thiết lập cơ chế sử dụng cán bộ gắn liền quyền hạn với trách nhiệm là một bước quan trọng trong việc bảo đảm cho bộ máy nhà nước được vận hành với hiệu quả cao. Điều này đã được Đại hội X tiếp tục nhấn mạnh: Phải tuyển chọn và bố trí đúng cán bộ đáp ứng được yêu cầu công việc, phải giao nhiệm vụ rõ ràng và quyền hạn tương xứng cho người đứng đầu từng tổ chức, từng đơn vị, kể cả quyền hạn về tổ chức bộ máy và nhân sự; đồng thời phải yêu cầu rất cao về trách nhiệm đối với cán bộ, nhất là người đứng đầu, khi không hoàn thành được nhiệm vụ, công việc trì trệ hoặc có sai phạm, khuyết điểm phải xử lý nghiêm minh kịp thời, kể cả thay thế. Phải có quy chế cụ thể về công tác cán bộ để đáp ứng được yêu cầu này [12, tr.182-183]. Về vấn đề này trong thời gian qua nhà nước ta chưa thực hiện tốt đã ảnh hưởng đến công việc điều hành bộ máy nhà nước chưa được hiệu quả. Việc phân công, phân nhiệm chưa rõ ràng cụ thể và chưa tương xứng với từng chức trách, nhất là người đứng đầu đã được nguyên Thủ tướng Phan Văn Khải đề cập trong bài phát biểu từ nhiệm của mình: "Về cơ chế công tác cán bộ, người đứng đầu cơ quan hành chính không có đủ quyền hạn cần thiết trong việc bố trí nhân sự dưới quyền mình (kể cả sắp xếp, thay thế, thi hành kỷ luật, cơ chế này không gắn "nắm việc" với nắm người: Nắm người dẫn tới sự lựa chọn, đánh giá cán bộ không thật sự dựa trên công việc, không căn cứ vào kết quả hoạt động thực tiễn, do đó không khuyến khích được người có tài, có đức. Chức trách không rõ ràng cùng với cơ chế cán bộ không hợp lý là nguyên nhân chính khiến cho bộ máy hành chính không xác lập được chế độ trách nhiệm cá nhân, đồng thời tạo môi trường thuận lợi cho xu hướng cơ hội và những kẽ hở cho tệ chạy chức [1, tr.2]. Trong thời gian tới nhà nước cần phải hoàn thiện chế độ công vụ, công chức; công tác tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức. Sắp xếp, bố trí, kiểm tra, đánh giá, sử dụng cán bộ công chức gắn với trách nhiệm và quyền hạn, cải cách cơ bản chế độ tiền lương nâng cao đời sống hưởng lương, chống đặc quyền, đặc lợi; đấu tranh chống tham nhũng và các biểu hiện tiêu cực trong cán bộ công chức; thực hiện những điều cấm đối với cán bộ công chức, trước hết là cán bộ chủ chốt; quy định cán bộ lãnh đạo, quản lý, các cấp, các ngành, các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp nhà nước thực hiện kê khai tài sản của cá nhân và gia đình mình. Trong thực hiện cơ chế sử dụng cán bộ gắn với trách nhiệm và quyền hạn cần được điều chỉnh bằng pháp luật. Trước hết, cán bộ phải đáp ứng đầy đủ những yêu cầu về chính trị, chuyên môn tổ chức, tâm lý, đạo đức đối với mỗi vị trí công tác. Đó là đòi hỏi phẩm chất của cán bộ, công chức và phải vận dụng trên cơ sở pháp lý để quy định cụ thể cho họ, như đòi hỏi đối với đồng chí Bộ trưởng khác đòi hỏi với một Vụ trưởng, khác đòi hỏi đối với mỗi cán bộ nhân viên. Những đòi hỏi này phải cụ thể, chính xác và bắt buộc. Mỗi cán bộ công chức phải thực hiện các đòi hỏi đối với mình. Thứ hai, phải xác định rõ chức năng của mỗi vị trí công tác. Chức năng là những hoạt động được quy định, là phạm vi hoạt động, là phương hướng chung, đặc trưng chung cho mỗi cán bộ. Nói cụ thể là đồng chí lãnh đạo cần phải làm gì, cán bộ phục vụ, nhân viên phục vụ thực hiện hoạt động nào. Công việc và những hoạt động được quy định ấy là chức năng của mỗi người trong cơ quan. Thứ ba, phải xác định rõ nghĩa vụ. Nghĩa vụ là mốc xác định khối lượng công tác mà mỗi cá nhân phải thực hiện khi giao chức năng cho một cán bộ, không phải chỉ giao cho họ quyền hạn, mà phải đề ra nghĩa vụ trong việc thực hiện chức năng ấy. Thứ tư, phải xác định quyền và khả năng thực hiện chức năng của cán bộ công chức. Xác định quyền (thẩm quyền) các yếu tố của thẩm quyền, đồng thời phải xác định rõ lượng thông tin cần được biết cho từng vị trí công tác nhất định của mỗi cán bộ công chức. Thứ năm, phải xác định rõ trách nhiệm. Cần phải quy định trách nhiệm cụ thể đối với từng việc làm cụ thể của mỗi cán bộ công chức . Mỗi một cán bộ, mỗi một vị trí công tác cần phải hoàn thành trách nhiệm của mình. Thứ năm, phải xác định hệ thống các mối liên hệ giữa các cán bộ, nhân viên. Sử dụng đội ngũ cán bộ công chức phải tuân theo các nguyên tắc sau: - Dùng người phải căn cứ vào phẩm chất và năng lực nghĩa là khi tuyển chọn bổ nhiệm phải dựa theo tiêu chuẩn đức, tài chứ không lấy thân tín làm trọng. Nó đòi hỏi người làm công tác tổ chức phải công tâm, phải xuất phát từ lợi ích của nhân dân và nhà nước, phải kiên quyết uốn nắm những biểu hiện tiêu cực như lợi dụng chức quyền để mưu lợi ích riêng. - Khi sử dụng cán bộ trước hết phải nhận ra được những ưu điểm và mặt mạnh của nó, đồng thời tạo mọi điều kiện để những ưu điểm và mặt mạnh ấy được phát huy một cách đầy đủ. Đối với những mặt yếu của họ thì phải biết để không bắt họ làm quá khả năng. Đồng thời trong phạm vi cho phép, phải tạo mọi điều kiện cho họ khắc phục những mặt yếu đó. Khi tuyển lựa và bổ nhiệm cán bộ phải căn cứ vào tài năng, tri thức, hứng thú, phẩm chất, tư cách, sức khoẻ... của từng người để sắp xếp vào các vị trí tương xứng. Chỉ có như vậy mới có thể đạt tới sự phối hợp tối ưu giữa người với việc, mới thực sự làm cho người và việc phù hợp, chức vụ tương xứng với năng lực, từng người làm hết tài năng của mình và mọi tài năng đều được tận dụng. - Khi đánh giá cán bộ phải lấy hiệu quả công tác và sự đóng góp thực tế làm thước đo phẩm chất và năng lực cán bộ. Khi đề bạt phải bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ, đề bạt chức vụ phải dựa trên thành tích, công lao để đặt ra một nấc thang phấn đấu cho những người làm việc thực sự với thực tài, thực lực. Mạnh dạn đề bạt những người trẻ có tài để họ có điều kiện đóng góp cho xã hội. Nếu chỉ lấy thâm niên công tác làm thước đo chủ yếu để đề bạt tiến cử thì sẽ nảy sinh hiện tượng xếp hàng theo thâm niên một cách bất hợp lý, các nhân tài sẽ bị chèn ép, và việc dùng người lấy đức tài làm trọng sẽ không thể thực hiện được. - Sử dụng cán bộ phải gắn liền với quản lý cán bộ, sử dụng cán bộ còn phải gắn liền với việc bồi dưỡng toàn diện. Phần thiếu hụt cơ bản nhất của đội ngũ cán bộ công chức quản lý nhà nước hiện nay là kiến thức về quản lý hành chính nhà nước, pháp luật, ngoại ngữ tin học và các kiến thức khác do đòi hỏi của nền kinh tế khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, xây dựng nhà nước pháp quyền và mở cửa hội nhập với quốc tế. Đội ngũ cán bộ công chức phục vụ sự nghiệp có trình độ chuyên môn không theo kịp, tụt hậu so với thế giới, cán bộ chính quyền cơ sở số lượng đông nhưng chất lượng thấp. Như vậy vấn đề đặt ra trước hết là phải tăng cường việc đào tạo cán bộ công chức, phải coi việc đào tạo là quyền lợi và nghĩa vụ. Việc đào tạo cán bộ công chức nhà nước bao gồm đào tạo trước khi nắm giữ chức vụ, đào tạo để đề bạt và đào tạo khi đang nắm giữ chức vụ. Khi đào tạo cần quán triệt nguyên tắc nhất trí, giữa kết quả học tập với sử dụng. Dạy theo đúng nhu cầu để vươn tới hiệu quả thực sự và chủ yếu là để nâng cao năng lực. - Thực hiện tốt việc luân chuyển cán bộ theo quy hoạch để đào tạo cán bộ lãnh đạo và quản lý. - Mọi cán bộ công chức phải chịu sự giám sát của quần chúng nhân dân. Dân làm chủ đất nước thông qua những đại diện mà mình bầu ra. Người đại diện phải luôn luôn phấn đấu xứng đáng với lòng tin và sự tín nhiệm của dân. Phải nghiên cứu xác định cơ chế rõ ràng và tổ chức để dân có thể thực thi đầy đủ quyền hạn của mình. Dân có quyền bầu thì cũng có quyền bãi miễn những người không hoàn thành nhiệm vụ, cán bộ công chức làm tốt thì được dân khen thưởng, làm xấu thì bị dân xử phạt. Đó là sức mạnh của chế độ bắt nguồn từ sức mạnh của nhân dân, là chỗ khác nhau giữa chế độ ta với các chế độ phong kiến và tư bản, thể hiện bản chất và tính nhân dân của nhà nước ta. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để thể hiện bản chất ưu việt đó trên thực tế? Điều đáng quan tâm là khi được trao quyền, một bộ phận cán bộ công chức đã lạm dụng quyền hành mưu cầu lợi ích riêng. Pháp luật phải nghiêm trị những kẻ có hành vi xâm phạm quyền hạn, tài sản, tính mạng của dân; xử lý nghiêm minh những vụ việc tiêu cực; sa thải những phần tử thoái hoá biến chất trong bộ máy nhà nước. Trong một nhà nước pháp quyền, mọi tổ chức, cơ quan, cá nhân đều phải tự đặt mình trong khuôn khổ pháp luật, không có bất cứ ngoại lệ nào. Muốn vậy, phải có những cố gắng to lớn và đồng bộ trong việc hoàn thiện thể chế, trước hết là rà soát và loại bỏ những thủ tục hành chính, những quy định rắc rối, phiền hà, là miếng đất tốt nuôi dưỡng tệ quan liêu, tham nhũng; xây dựng bộ máy tinh gọn với hiệu nâng cao, bớt tầng nấc; đào tạo đội ngũ công chức tận tuỵ, liêm khiết, trong sạch và đủ trình độ, năng lực hoàn thành nhiệm vụ. Trong sử dụng cán bộ cần chú trọng đến lợi ích của cán bộ, lợi ích luôn là động lực trực tiếp thúc đẩy, kích thích tính tích cực sáng tạo của cán bộ công chức. Mức độ bảo đảm các quyền lợi cho cán bộ công chức tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội và khả năng ngân sách nhà nước, nhưng về nguyên tắc là đảm bảo đời sống của cá nhân và gia đình cán bộ công chức bằng mức sống trung bình của xã hội. 2.2.4.3. Phát huy sức mạnh của hệ thống thông tin đại chúng Thông tin đại chúng là một bộ phận rất quan trọng trong đời sống tinh thần của xã hội. Cùng với những thành tựu to lớn của đất nước trong công cuộc đổi mới, hệ thống thông tin đại chúng nước ta đã có sự chuyển biến tích cực và tiến bộ về nhiều mặt. Trong xã hội ta, báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình không chỉ là cơ quan ngôn luận của Đảng và Nhà nước, mà còn là diễn đàn của nhân dân. Thông tin đại chúng có vai trò hết sức quan trọng trong việc thực hiện dân chủ trong xã hội, nó chuyển tải kịp thời các chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước nói chung và thông tin về đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực, lạm quyền, vi phạm quyền tự do dân chủ của người dân. Với vai trò là một thiết chế giám sát mang tính xã hội, hệ thống thông tin đại chúng, đài phát thanh và truyền hình là phương tiện hữu hiệu trong việc công khai, phanh phui những vụ việc quan liêu tham nhũng, vi phạm quyền làm chủ trước quần chúng nhân dân, tạo dư luận phê phán rộng khắp của xã hội đối với các hành vi tiêu cực, góp phần giáo dục phòng ngừa chúng một cách có hiệu quả. Đặc biệt, ngoài việc tạo diễn đàn rộng rãi trong cả nước, báo chí là phương tiện giúp các cơ quan chức năng phát hiện các cá nhân có hành vi tiêu cực; cung cấp các tư liệu, tài liệu, sự kiện để điều tra nghiên cứu, xác minh, kết luận nhanh chóng, kịp thời chính xác; đồng thời góp phần quan trọng phát hiện ra những sơ hở, chưa hợp lý trong cơ chế, chính sách giúp nhà nước kịp thời điều chỉnh. Các phương tiện thông tin đại chúng đưa tin đúng đắn, có tổ chức, quản lý lãnh đạo tốt sẽ có tác dụng to lớn và có hiệu quả mạnh trong việc thực hiện dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra đối với mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Trong thời gian gần đây, báo chí và đài truyền hình ngày càng sát cuộc sống hơn, tính Đảng, tính nhân dân, tính chiến đấu của báo chí và đài truyền hình được tăng cường. Chất lượng chính trị, chất lượng nghề nghiệp của báo chí và đài truyền hình được nâng lên một bước. Các phương tiện thông tin đại chúng giữ vai trò là tiếng nói của Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội và là diễn đàn đáng tin cậy của nhân dân. Các phương tiện thông tin đại chúng tuyên truyền phổ biến đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, phản ánh nguyện vọng chính đáng của các tầng lớp nhân dân, đóng góp tích cực vào nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, phấn đấu tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, tạo ra bầu không khí dân chủ, cởi mở trong xã hội. Trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng, chống tiêu cực, báo chí và đài truyền hình cả nước đã dũng cảm phát huy vai trò xung kích, thể hiện rõ "chức năng giám sát" cán bộ; đảng viên, giám sát các tổ chức, cơ quan chính quyền nhà nước... có thể nói hầu hết các vụ tiêu cực lớn được đưa ra xét xử trong những năm vừa qua đều đã được báo chí cảnh báo trước công luận. Có được những kết quả trên đây là do Hiến pháp, luật báo chí và các văn bản quy phạm pháp luật đã thể chế hoá quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của công dân. Các nhà báo tự do hành nghề trong khuôn khổ pháp luật, được pháp luật bảo vệ và chịu trách nhiệm trước pháp luật và công luận về những thông tin của mình. Mọi công dân có quyền phát biểu ý kiến trên công luận về mọi vấn đề, từ những kiến nghị xây dựng pháp luật, phê bình công việc của cán bộ, đảng viên và các cơ quan Đảng, Nhà nước và đoàn thể, miễn là phù hợp với lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, của CNXH. Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu, báo chí thông tin đại chúng nước ta vẫn còn khuyết điểm, báo chí chưa thực hiện tốt phương châm quan trọng của công tác tuyên truyền giáo dục nhận thức sâu sắc tác dụng của việc phát hiện, tuyên truyền, cổ vũ những điển hình tiên tiến để nhân rộng thành phong trào quần chúng, thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng. Đồng thời phải chú ý phê phán kịp thời mặt tiêu cực, tạo điều kiện là môi trường thuận lợi cho cái mới, cái tích cực, cái tiến bộ phát triển. Phải nhận diện đúng cái mới, cái tích cực, tiến bộ và cái tiêu cực, lạc hậu để "biểu dương đúng mức" và "phê phán kịp thời". Khuynh hướng thương mại hoá đã dẫn đến biểu hiện xa rời tôn chỉ, mục đích của một số cơ quan báo chí. Đáng lưu ý là trong đội ngũ các nhà báo đã có một số ít người vì chạy theo lợi ích riêng, để đồng tiền chi phối ngòi bút, hoặc vì định kiến cá nhân mà xuyên tạc sự thật, gây nhiều thông tin, đánh mất phẩm giá cao quý của người làm báo là lòng trung thực, vi phạm nghiêm trọng "Quy ước đạo đức nghề nghiệp báo chí", gây tác hại xấu đến uy tín báo chí. Để thực hiện tốt vai trò vừa là tiếng nói của Đảng, của Nhà nước và của các tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, vừa là diễn đàn của nhân dân thì hệ thống truyền thông đại chúng cần nâng cao chất lượng chính trị, tư tưởng, văn hoá của. Nhà nước cần có chính sách hợp lý và đúng đắn đến đội ngũ những người làm báo - đài. Đội ngũ này không những cần tăng về số lượng mà còn phải mạnh về chất lượng, có phẩm chất chính trị, đạo đức trong sáng, có trình độ chuyên môn cao, có tinh thần làm việc tận tụy, có bản lĩnh khi trực tiếp tham gia các vụ việc chống tiêu cực. Trong chống tiêu cực báo chí phải trung thực, thẳng thắn, tôn trọng sự thật khách quan, đồng thời thông tin phải chính xác, có tính định hướng dư luận, nâng cao tri thức toàn diện, giáo dục ý thức dân chủ cho nhân dân. Mặt khác, thông tin đại chúng phải hướng tới mục tiêu tăng cường sự kiên định lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH, chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định sự lãnh đạo của Đảng đối với toàn xã hội và trong việc xây dựng nhà nước XHCN của dân, do dân và vì dân. Bên cạnh đó phải lưu ý một điều là Bộ Văn hoá- Thông tin phải quản lý kịp thời và có phương cách xử lý mang tính “nghệ thuật” những phản ánh tiêu cực trong xã hội mà báo chí nêu để không làm tổn hại đến uy tín quốc gia nếu những tiêu cực ấy liên quan đến các khoản đầu tư, hỗ trợ kinh tế- xã hội từ các tổ chức quốc tế và các nước. Tóm lại, để có thể thực hiện tốt dân chủ ở nước ta, vấn đề đặt ra là phải nhanh chóng và dứt khoát xây dựng được Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong điều kiện đặc thù của Việt Nam. Đặc thù đó chính là phải đảm bảo được bản chất của giai cấp công nhân. Với bản chất của giai cấp công nhân, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt nam được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt nam. Nhà nước là một thành tố của hệ thống chính trị bên cạnh Đảng cầm quyền và các tổ chức chính trị- xã hội.Vậy vấn đề đặt ra đối với chúng ta là quan hệ trong việc thực hiện vai trò, chức năng quyền lực giữa Đảng và Nhà nước cũng như mối quan hệ đối tác giữa Nhà nước với các tổ chức chính trị sẽ là như thế nào trong việc thực hiện dân chủ ở nước ta hiện nay? Phương thức lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ xây dựng nền kinh thế thị trường và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã được khái quát chung trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ :”Đảng lãnh đạo xã hội bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương công tác....Đảng không làm thay công việc của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị” [7, tr.21]. Tuy nhiên, trong thực tế triển khai và vận hành thì quan hệ giữa Đảng với Nhà nước nói riêng và hệ thống chính trị nói chung vẫn đang đặt ra nhiều câu hỏi cần giải đáp xung quanh vấn đề quyền lực để tránh một thực trạng “Đảng hoá nhà nước” và “ Nhà nước hoá Đảng”?! Trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, quan hệ của Đảng không chỉ là với Nhà nước và các tổ chức chính trị- xã hội, mà còn có quan hệ trực tiếp của Đảng với Dân, bởi vì nhân dân là người nắm giữ quyền lực của mọi quyền lực, là thế lực duy nhất có thể xoay chuyển lịch sử của đất nước. Hiện nay, quan hệ Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý - Dân làm chủ dường như mới thuận theo một chiều, còn chiều ngược lại Dân - Nhà nước - Đảng, mới chỉ thấy rõ Dân làm chủ đối với Nhà nước thông qua bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp chứ chưa có sự chế ước quyền lực của nhân dân đối với Đảng, dân mới chỉ thể hiện sự tín nhiệm đối với Đảng trong tự bản thân từng con người.. Thời gian gần đây có rất rất nhiều vụ việc vi phạm pháp luật của cán bộ - đảng viên có chức có quyền nhưng kết quả xét xử những quan chức vi phạm ấy không thật sự bình đẳng với công dân bình thường vi phạm pháp luật, sự thực ấy chứng tỏ rằng dân chủ của chúng ta vẫn là hình thức, trong xã hội vẫn tồn tại “vùng cấm”, tồn tại đặc quyền. Vì vậy, mặc dù đề tài luận văn nghiên cứu vai trò của Nhà nước trong việc thực hiện dân chủ, nhưng với những đặc thù của nước ta, nếu không nghiêm túc và khẩn trương có những giải pháp trong thực tiễn về chế ước quyền lực của nhân dân đối với Đảng thì liệu có thể đảm bảo đầy đủ dân chủ trong điều kiện một đảng duy nhất lãnh đạo? Vai trò của Nhà nước đối với quá trình dân chủ phụ thuộc rất trực tiếp dân chủ trong nội bộ Đảng, bởi vì quan hệ giữa Đảng và Nhà nước nếu không có sự minh bạch về quyền lực thì không thể nói đến dân chủ trong xã hội. Đó là một quan hệ nhân quả! Đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị là một yêu cầu cấp thiết để đảm bảo thực hiện dân chủ có hiệu quả và thực chất ở nước ta hiện nay. Vấn đề đặt ra tiếp theo liên quan đến nguyên tắc tập trung dân chủ- nguyên tắc tổ chức và hoạt động của toàn bộ hệ thống chính trị của chúng ta. Bởi vì, nếu không thực hiện và tuân thủ một cách đúng đắn và khoa học thì rất có thể nguyên tắc này sẽ bị biến tướng thành hai thực tế: hoặc là tập trung thì tập trung quá mức dẫn đến mất dân chủ; hoặc là dân chủ trở thành dân chủ quá trớn, thành tự do vô chính phủ. Theo nguyên tắc, thiểu số phục tùng đa số, vậy thì điều gì sẽ xẩy ra nếu một nghị quyết được thông qua do đa số là sai lầm, thậm chí là vi phạm pháp luật, ví dụ, như đã từng xảy ra ở cơ quan quản lý cửa khẩu Tân Thanh- Lạng Sơn? Theo nguyên tắc, tập thể quyết định, cá nhân phụ trách, vậy thì cơ chế chịu trách nhiệm sẽ như thế nào nếu quyết định đó của tập thể là sai lầm? Trong trường hợp như vậy, dân chủ đã đánh mất ý nghĩa và vai trò của nó! Bởi vì dân chủ là để phát huy tính đúng đắn và hợp lý cho sự phát triển chứ dân chủ không thể là tấm bình phong cho những sai lầm và phi pháp không những của một vài cá nhân riêng lẻ mà cả đối với một tập thể. Theo nguyên tắc, cấp dưới phục tùng cấp trên, vậy thì có dân chủ không trong việc xử sơ thẩm vụ án chia chác đất công ở Đồ sơn, khi mà toà án NDTC Thành phố chịu sự chỉ đạo của thường trực Thành uỷ ? Tất cả những gì xảy ra trong thực tế cho thấy cần nghiên cứu và bổ sung thậm chí là sửa đổi cho nguyên tắc tập trung dân chủ một cơ chế nữa, đó là cá nhân quyết định, tập thể giám sát. Giám sát ở đây sẽ là sự giám sát uy tín cá nhân người lãnh đạo thông qua lá phiếu bầu cử trực tiếp. Quyết định cá nhân sẽ đòi hỏi làm tăng ý thức chịu trách nhiệm của người đứng đầu đối với tập thể và vị lãnh đạo ấy không thể độc đoán chuyên quyền vì đã có cơ chế của lá phiếu trực tiếp chế ước. Người lãnh đạo phải tự hoàn thiện bản thân về mọi mặt: trình độ chuyên môn và năng lực quản lý, phẩm chất và uy tín cá nhân, khă năng giao tiếp và thu phục nhân tâm...Ngược lại, tập thể giám sát sẽ làm cho mỗi thành viên trong một tổ chức đoàn thể phát huy tính tích cực chính trị, khả năng và trí tuệ cá nhân vào việc lựa chọn người đại diện cho mình. Do đó bước đi của một nền dân chủ hiện đại là phải kết hợp và chuyển dần từ chế độ dân chủ đại diện sang chế độ dân chủ trực tiếp. Vấn đề cuối cùng đặt ra, mà vì nhiều lý do, trong nội dung của luận văn chưa được đề cập cho việc thực hiện dân chủ liên quan đến vai trò của Nhà nước- Đó là sự phát triển của một xã hội dân sự. Muốn có dân chủ phải xây dựng nhà nước pháp quyền, mà nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự thì gắn liền với nhau như hình với bóng. Không có xã hội dân sự thì không có nhà nước pháp quyền, đồng thời, xã hội dân sự chỉ có thể tồn tại và phát huy tác dụng của nó khi dựa vào nhà nước pháp quyền. Xã hội dân sự chính là đối tác bình đẳng của Nhà nước chứ nó không phải là cái đuôi hay là cánh tay của Nhà nước. Nó giữ vai trò là đối quyền của quyền lực nhà nước, mà về thực chất là tạo điều kiện để người dân thực sự tham gia vào việc hoạch định, thực hiện và giám sát các chủ trương và chính sách của Nhà nước, thực hiện trách nhiệm và quyền phản biện xã hội đối với Nhà nước. Hiện nay chúng ta đang phải chứng kiến một thực tế là nhiều tổ chức đoàn thể quần chúng đã không phát huy được vai trò của mình vì gần như bị “nhà nước hoá” toàn bộ, vai trò làm chủ của người dân đáng lẽ ra, từ thế chủ động lại rơi vào thế bị động. Vì vậy, bên cạnh việc đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân thì vấn đề “xã hội dân sự” cần được đặt ra một cách nghiêm túc với điều kiện cụ thể ở Việt Nam. Vấn đề khó giải quyết nhất trong việc phát huy dân chủ ở nước ta hiện nay là việc giải quyết mâu thuẫn sau: Để người dân làm chủ thì phải giảm thiểu quyền lực độc quyền của Nhà nước đối với tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nhà nước chỉ thể hiện vai trò người đại diện, thay mặt nhân dân quản lý xã hội bằng hệ thống pháp luật. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua các tổ chức, đoàn thể chính trị - xã hội. Nhưng hiện nay các tổ chức đoàn thể đó chính lại là “cánh tay” của Đảng- cơ quan lãnh đạo Nhà nước, kinh phí hoạt động của các tổ chức đó lấy từ ngân sách Nhà nước. Vậy thì các tổ chức đó sẽ bảo vệ quyền lợi của người dân như thế nào khi về mặt kinh tế phụ thuộc vào chính Nhà nước? Sự yếu kém và gần như tê liệt của các tổ chức Công đoàn ở nước ta hiện nay chính là minh chứng cho việc không giải quyết được mâu thuẫn nêu trên. Đó chính là một vấn đề của Triết học! KẾT LUẬN Quá trình thực hiện dân chủ ở nước ta hiện nay phụ thuộc nhiều vào vai trò của Nhà nước XHCN Việt Nam. Nhà nước ta với bản chất là nhà nước của dân do dân, vì dân cần phát huy vai trò của mình một cách tích cực chủ động, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân phát huy quyền làm chủ của mình trên mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội. Trước hết là tiếp tục phát huy dân chủ về kinh tế. Chuyển mạnh hơn sang kinh tế thị trường, hình thành đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với điều kiện nước ta. Dân chủ hóa đời sống kinh tế đất nước theo hướng phát triển toàn diện, đồng bộ và bình đẳng giữa các thành phần kinh tế nhằm huy động tối đa các nguồn lực, khơi dậy sức bật vốn có của các tầng lớp nhân dân để phát triển kinh tế, cải thiện đời sống cho nhân dân. Tích cực chủ động hội nhập kinh tế quốc tế trên nền tảng một nền kinh tế độc lập tự chủ nhằm giữ vững nền độc lập, tự do của đất nước. Xây dựng một nền kinh tế hùng mạnh là điều kiện cơ sở vật chất cần thiết để tạo dựng một nền dân chủ bền vững. Để bảo đảm một nền dân chủ được thực thi một cách có hiệu quả đòi hỏi phải xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vững mạnh. Bảo đảm và tăng cường hiệu lực quản lý của nhà nước pháp quyền XHCN, không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật thống nhất, đầy đủ, phù hợp, có tính khả thi cao một cách đồng bộ với công cuộc cải cách nền hành chính quốc gia. Quyết tâm xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch và có hiệu quả, nhằm đáp ứng nhu cầu quản lý nhà nước trong tình hình mới, giải quyết nhanh và tốt những vấn đề bức xúc của xã hội. Nâng cao hơn nữa chất lượng đội ngũ cán bộ, thực hiện tốt chế độ trách nhiệm cá nhân đối với cán bộ công chức nhà nước, phân công, phân nhiệm rõ ràng, nhất là đối với người đứng đầu trong việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Tạo điều kiện nâng cao tính tích cực và chủ động của nhân dân trong việc tham gia quản lý nhà nước, nhất là công tác kiểm tra, giám sát công việc của nhà nước. Có cơ chế thích hợp để nhân dân tham gia bàn bạc, góp ý kiến vào chủ trương chính sách, nhiệm vụ của cả Nhà nước Trung ương lẫn chính quyền địa phương. Nâng cao nhận thức và nâng cao năng lực thực hành dân chủ không chỉ cho cán bộ mà còn cho cả người dân. Dân chủ hóa đời sống văn hóa, xã hội và tinh thần của nhân dân trên cơ sở tăng cường mạnh mẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, bảo đảm sự tự do bình đẳng cùng phát triển giữa các dân tộc, các tôn giáo, tín ngưỡng trên lãnh thổ Việt Nam và cả đồng bào ta ở nước ngoài; thâu thái tinh thần văn hóa nhân loại và vốn văn hoá dân tộc nhằm xây dựng một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Bảo đảm kết hợp hữu cơ giữa phát triển kinh tế với thực hiện công bằng xã hội, khắc phục tình trạng phân hóa giàu nghèo và phân cực trong xã hội. Như vậy để tạo dựng một nền dân chủ thực chất, bền vững, ngoài việc phải phát triển nền kinh tế vững mạnh, xây dựng nền tảng cơ sở hạ tầng cần thiết thì còn phải đổi mới toàn diện hệ thống chính trị, mà trong đó quan trọng là khẩn trương xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN. Dân chủ là quy luật hình thành, phát triển và tự hoàn thiện của hệ thống chính trị; nó vừa là mục tiêu vừa là một động lực của công cuộc đổi mới xã hội. Dân chủ không phải tự nhiên mà có, mà dân chủ phải thông qua đấu tranh và giải quyết mâu thuẫn. Giải quyết và đấu tranh trong từng xã hội như thế nào phải xét đến điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ thể mà nhà nước của xã hội đó ra đời và tồn tại. Dân chủ vừa là cái phổ biến cũng vừa là cái đặc thù nhưng có một điều ai cũng phải thừa nhận: Nhân dân chính là người chủ đích thực của xã hội! Nhà nước và xã hội công dân là hai mặt của một vấn đề. Giải quyết tốt mối quan hệ này chính là cơ sở để phát triển dân chủ. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Báo Nhân dân ngày 17/6/2006. Phạm Văn Bính (2002), "Tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh đến nền dân chủ XHCN ở nước ta hiện nay", Lý luận Chính trị, (2). Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991), Nxb Sự thật, Hà Nội. Nguyễn Đăng Dung (2005), Sự hạn chế quyền lợi nhà nước, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội. Trần Thái Dương (2004), Hỏi đáp những tri thức cơ bản môn lý luận nhà nước và pháp luật, Nxb Tư pháp, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hoàng Thanh Đạm (dịch) (1996), Tinh thần Pháp luật, Nxb Giáo dục và trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội, Hà Nội. Hoàng Văn Hảo (2003), "Vấn đề dân chủ và các đặc trưng của mô hình tổng thể nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam", Nhà nước và Pháp luật, (2). Đỗ Trung Hiếu (2002), "Một số khía cạnh của khái niệm dân chủ", Khoa học xã hội, (3). Đỗ Trung Hiếu (2002), Nhà nước XHCN với việc xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Trần Thị Hòe (2002), Vai trò của nhà nước trong việc bảo đảm quyền con người ở nước ta hiện nay, Luận văn thạc sĩ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Hội đồng lý luận Trung ương (2004), Vững bước trên con đường đã chọn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Phan Văn Khải (2006), Bài phát biểu tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khkóa XI, ngày 16/6/2006. V.I.Lênin (1976), Toàn tập, Tập 33, Nxb Tiến bộ Mátxcơva. C.Mác (1974), Góp phần phê phán triết học pháp quyền Hêghen, Nxb Sự thật, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Phạm Thành Nam - Đỗ Thị Thanh (2005), Phát huy dân chủ trong đấu tranh chống tham nhũng ở nước ta hiện nay, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. Mai Thị Minh Ngọc (2003), Ý thức pháp luật với việc xây dựng nền dân chủ XHCN ở nước ta hiện nay, luận văn thạc sĩ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Đỗ Nguyễn Phương, Trần Ngọc Đường (1992), Xây dựng nền dân chủ XHCN và nhà nước pháp quyền, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đào Duy Quát (2002), "Phê phán các quan điểm sai trái", Thông tin công tác tư tưởng. Nguyễn Thanh Sơn (2003), "Bàn thêm về vấn đề dân chủ", Lý luận chính trị, (3). Phạm Xuân Sơn (2002), "Dân chủ và dân chủ cơ sở một số vấn đề lý luận và thực tiễn", Thông tin khoa học, (2). Trần Hậu Thành (2005), Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. Nguyễn Trọng Thóc (2005), Xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Văn Thông (1998), Hệ thống chính trị ở các nước tư bản phát triển hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2005), "Báo cáo kết quả phối hợp rút kinh nghiệm một năm thực hiện Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003", Tạp chí kiểm sát (112BC-TCKS). Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh (1995), Một số vấn đề triết học Mác - Lênin với công cuộc đổi mới, Hà Nội. Nguyễn Văn Vĩnh (1993), Thực chất của quá trình dân chủ hóa xã hội chủ nghĩa ở nước ta, Luận văn thạc sĩ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docVai trò của nhà nước trong việc thực hiện dân chủ ở nước ta hiện nay.doc
Luận văn liên quan