Chương I: Lý luận chung về nhân tố con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam
1.1 Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và các tiền đề của công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam 1
1.2 Vai trò của con người trong quá trình sản xuầt và phát triển khoa học – công nghệ 3
1.3 Vai trò quyết định của nhân tố con người trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam 5
Chương II: thực trang nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam.
2.1 Thực trạng về nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa 7
2.2 Vai trò của nhân lực trong thực tiễn công nghiệp hóa, hiện đại hóa . 10
Chương III: Phương hướng phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa
3.1 Xây dựng chiến lược phát triển con người trên cơ sở đó phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa . 12
3.2 Xây dựng dược một hệ thống chính sách đồng bộ đối với việc phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa 16
19 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 25731 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vai trò của nhân tố con người đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương I: Lý luận chung về nhân tố con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam.
1.1 Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và các tiền đề của công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam:
Công nhiệp hóa, hiện đại hóa là gì? Từ quan điểm đổi mới về công nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa của đại hội Đảng lần thứ VII rút ra từ thực tiễn công nghiệp hóa trên thế giới và ở nước ta, có thể đưa ra định nghĩa: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học – công nghệ , tạo ra năng suật xã hội cao.
Đối với nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại là một nhiệm vụ to lớn và một yêu cầu khách quan bởi vì cơ sở vật chất kỹ thuật của nền sản xuất hiện đại đòi hỏi phải dựa trên trình độ kỹ thuật công nghệ ngày càng cao hơn, hiện đại hơn, điều đó không chỉ dừng lại ở chỗ những yếu tố cơ sở sản xuất được cơ khí hóa mà trình độ công nghệ phải tiên tiến và thường xuyên được đổi mới. Công nghiệp hóa và hiện đại hóa chính là con đường và bước đi tất yếu để tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật trong nền sản xuất hiện đại.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa làm thay đổi căn bản kỹ thuật công nghệ sản xuất tăng năng suất lao động. Công nghiệp hóa chính là thực hiện xã hội hóa về mặt kinh tế - kỹ thuật tăng trưởng và phát triển kinh tế với tốc độ cao, góp phần ổn định ngày càng nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của mọi thành viên trong cộng đồng xã hội, là quá trình nâng cao tỷ trọng của công nghiệp trong toàn bộ các ngành kinh tế của một vùng kinh tế hay một nền kinh tế. Đó là tỷ trọng về lao động, về giá trị gia tăng, v.v...[ - 22:28, ngày 14 tháng 11 năm 2007 ]
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa không ngừng nâng cao vai trò của nhân tố con người trong nền sản xuất, đặc biệt là trong nền sản xuất lớn hiện đại kỹ thuật cao. Chỉ trên cơ sở thực hiện tốt công nghiệp hóa, hiện đại hóa mới có khả năng thực hiện và quan tâm đầy đủ đến sự phát triển tự do và toàn diện nhân tố con người làm cho con người trở nên hiện đại nắm bắt được những tiến bộ mới.
Như vậy, thực chất của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa là tạo một nền sản xuất lớn, hiện đại với mục tiêu cuối cùng là phát triển con người toàn diện và con người ở đây không chỉ được hiểu với tư cách là người lao động sản xuất mà còn có tư cách là công dân trong xã hội. Một cá nhân trong tập thể cộng đồng. Đó không chỉ là dội ngũ những người lao động có trình độ mà còn là những công dân yêu nước ý thức được nguy cơ tụt hậu để cùng nhau cố gắng vì sự nghiệp chung .
Như vậy công nghiệp hóa, hiện đại hóa xuất phát từ yếu tố con người và cũng từ con người tạo nên. Thật vậy, trong cơ chế quản lý, cơ chế kế hoạch tập trung quan liêu bao cấp của xã hội thời kỳ trước đã kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất đồng thời tạo ra những mối quan hệ sản xuất không phù hợp dẫn đến tình trạng trì trệ, kém phát triển, kinh tế đời sống của người lao động không đảm bảo trong khi nhu cầu của con người ngày càng phát triển do đó đòi hỏi phải có một cơ chế quản lý mới, một môi trường xã hội mới để đáp ứng nhu cầu, lợi ích của các mối quan hệ ngày càng phát triển của con người và công nghiệp hóa, hiện đại hóa là bước đi tất nhiên và mang tính khách quan để tạo ra một nền sản xuất hiện đại vì một cộng đồng ngày mai.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa không chỉ xuất phát từ yếu tố con người mà do con người tạo nên mà khi nào có nguồn nhân lực mới thành công bởi như đã phân tích ở trên con người là chủ thể của mọi hoạt động sản xuất vật chất và hiện đại, trang bị kỹ thuật và công nghệ tiên tiến cho ngành kinh tế quốc dân chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở đội ngũ người lao động, các cán bộ đầu ngành, chính sách phát triển của Đảng và Nhà nước.
Việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa là bước đi tất yếu trong đó phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững của nền kinh tế đất nước.
1.2 Vai trò của con người trong quá trình sản xuầt và phát triển khoa học – công nghệ
Để thấy được vai trò con người, ta đặt nó trong quan hệ so sánh với các nguồn lực khai thác ở mức dộ chi phối của nó đến sự thành công hay sự thất bại của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong tình hình hiện nay khi cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại phát triển mạnh mẽ, lao động trí tuệ ngày càng gia tăng và trở thành xu thế phổ biến của nhân loại khi công nghiệp hóa gần với hiện đại hóa lực lượng sản xuất thì vai trò quyết định của con người thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất, các nguồn lực khác tự nó chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng chúng chỉ phát huy tác dụng và có ý nghĩa tích cực khi được kết hợp với nguồn lực con người, bởi lẽ con người là nguồn lực duy nhất biết tư duy, có trí tuệ và ý chí, biết gắn các nguồn lực thành sức mạnh tổng hợp cùng tác động vào quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa. Ai cũng biết muốn tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải có vốn nhưng vốn chỉ trở thành nguồn lực quan trọng và cấp thiết của sự phát triển khi nó nằm trong tay những người biết sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả cao. Sự giàu có về tài nguyên thiên nhiên và những lợi thế về vị trí địa lý cũng sẽ mất đi nếu như chủ nhân của nó không có khả năng khai thác. Xét đến cùng thì thiếu sự hiện diện của lao động và trí tuệ của con người thì mọi nguồn lực trở thành vô nghĩa.
Thứ hai, các nguồn lực khai thác chỉ là hữu hạn, có thể bị khai thác cạn kiệt. Trong khi đó nguồn lực con người mà cốt lõi là trí tuệ lại là nguồn lực vô tận, nó có khả năng tái sinh và tự sản sinh về mặt sinh học, hơn thế nó còn đổi mới không ngừng nên được chăm lo và khai thác hợp lý. Con người đã từng bước làm chủ tự nhiên, ngày càng khám phá ra nhiều tài nguyên thiên nhiên mới hoặc sáng tạo ra những nguồn tài nguyên vốn không có sẵn trong tự nhiên.
Thứ ba, trí tuệ con người có sức mạnh vô cùng to lớn một khi nó trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Giờ đây trí tuệ con người đạt đến mức con người có thể sáng tạo ra những máy móc mô phỏng trí tuệ con người.
Thứ tư, kinh nghiệm mà nhiều nước và thực tiễn của nước ta cho thấy sự thành công của công nghiệp hóa, hiện đại hóa phụ thuộc chủ yếu vào việc hoạch định chính sách, đường lối chủ trương như tổ chức và thực hiện. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ không đạt kết quả tốt nếu không lựa chọn mô hình và hướng đi đúng với các giải pháp hữu hiệu phù hợp với điều kiện cụ thể của mỗi nước cho dù nó có đủ các nguồn lực khác, điều này lại nói lên một lần nũa vai trò của con người – chủ thể trực tiếp trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Tóm lại, tiềm năng sức lao động – con người với trí tuệ được định hướng là tài sản quý giá, là nguồn lực quan trọng nhất quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia, vai trò này càng tăng lên khi trí tuệ hóa lao động đang trở thành xu thế phổ biến vì thế trong chiến lược phát triển của mình các quốc gia đã đặt vị trí con người vào trung tâm.
1.3 Vai trò quyết định của nhân tố con người trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam.
Trước hết là nói đến vai trò tổng quát quyết định lịch sử của con người, được biểu hiện qua ba nội dung:
- Con người là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội, trực tiếp xản xuất ra của cải vật chất, là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội.
- Con người là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội.
- Con người sáng tạo ra những giá trị văn hóa tinh thần.[trang 485-486 tài liệu số 2]
Trong nghị quyết hội nghị lần thứ 4 ban chấp hành Trung Ương Đảng khóa VII khẳng định: “ sự nghiệp công nghiệp hóa có thành công hay không, đất nước Việt Nam bước vào thế kỉ XXI có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không phần lớn tùy thuộc vào con người”.
Con người có vai trò, vị trí quan trọng không gì có thể thay thế trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà chúng ta đang thực hiện với những thành công bước đầu đòi hỏi mỗi chúng ta nhận thức một cách sâu sắc những giá trị lớn lao và ý nghĩa quyết định của nhân tố con người. Để đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở một nước lạc hậu như chúng ta không thể xuất phát từ: “ Tinh thần nhân văn sâu sắc”. Nghị quyết của Đảng đã khẳng định: “ Nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài và phát huy nguồn lực tổ chức lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định sự thắng lợi của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
Để thực hiện mục tiêu, chiến lược mà đại hội VII đề ra cần khai thác và sử dụng hợp lý nhiều nguồn lực, trong đó nguồn lực con người là quý báu nhất, có vai trò quyết định đặc biệt đối với nước ta khi nguồn lực tài chính và vật chất còn hạn hẹp, nguồn lực đó là lao động trí tuệ cao, có tay nghề thạo, có phẩm chất tốt đẹp, được đào tạo, bồi dưỡng, phát huy bởi một nền giáo dục tiên tiến gắn liền với một nền khoa học công nghệ hiện đại, giáo dục phải làm tốt nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước, đội ngũ lao động cho khoa học và công nghệ.
Với bối cảnh nước ta hiện nay, với bối cảnh quốc tế đương thời để phát triển, phát huy và bồi dưỡng nhân tố con người, Đồng chí tổng bí thư Đỗ Mười nói: “ Nhất thiết phải từng bước hiện đại hoá đất nước và đời sống xã hội chúng ta chỉ có thể tăng cường, nguồn lực con người khi hiện đại hóa ngành giáo dục, văn hóa, văn nghệ, gắn liền với phát huy và kế thừa những truyền thống và bản sắc của dân tộc”. Ở các nước phát triển khác nhân tố con người rất được coi trọng: Nếu ở Mỹ, người ta chú trọng phát huy cao độ năng lực cá nhân, lợi ích cá nhân, thì ở Nhật lại rất chú ý phát huy năng lực cộng đồng và năng lực cá nhân trong cộng đồng bằng những cơ chế nghề nghiệp vi mô, tinh vi, cụ thể thích hợp ở từng công ty, xí nghiệp.[trang 194-206 tài liệu số 3]
Như vậy vấn đề về nguồn lực con người đã được cụ thể hóa trong các chính sách, nghị quyết của Đảng, Nhà nước và đã được xếp lên hàng đầu trong các chính sách và biện pháp thực hiện. Sở dĩ như vậy là vì con người có vai trò và vị trí vô cùng quan trọng không có gì thay thế được trong tình hình phát triển lịch sử của nhân loại và bản thân sự công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta cũng vậy.
Chương II: Thực trạng nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam.
2.1 Thực trạng về nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa:
– Cơ cấu các nhóm tuổi trong số dân (1-4-1999) của nước ta là:
+Dưới độ tuổi lao động: 33,1%
+Trong độ tuổi lao động: 59,3%
+Ngoài độ tuổi lao động: 7,6%
[trang 12 tài liệu số 1]
Dân số nước ta thuộc loại dân số trẻ và tốc độ tăng nguồn dân số đến độ tuổi lao động là rất cao, trong khi nền kinh tế chưa phát triển lại mất cân đối nghiêm trọng làm nảy sinh hai vấn đề: tăng năng suất lao động và giải quyết việc làm cho những người lao động trở nên bức thiết. Trong khi đó khả năng giải quyết việc làm của ta còn rất hạn chế. Vì vậy, mâu thuẫn cung cầu về số lượng và nguồn nhân lực rất lớn, gây sức ép ngày càng nặng nề về lao động và việc làm. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng di cư, gây nhiều xáo trộn về xã hội, môi trường, tác động nhiều đến cơ cấu vùng của nguồn nhân lực. Kết hợp vào đó là sự thiếu quản lý, thiếu kiến thức nên người di dân là lực lượng phá rừng, gây ô nhiễm môi trường ở cả vùng họ rời đi và nhiều vùng họ đến. Tình trạng thiếu hụt kĩ năng của người lao động rất rõ rệt. Lao động có tay nghề cao, công nhân kỹ thuật thiếu do đầu tư giáo dục và đào tạo chưa đủ, cơ cấu đào tạo chưa hợp lý, thiếu cơ sở định hướng, không xuất phát từ nhu cầu thị trường lao động. Chất lượng nguồn nhân lục nhìn chung đã được cải thiện nhiều nhưng cung về chất lượng vẫn không đáp ứng được cầu về mặt thể lực, trí lực và trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động, nguồn nhân lực của Việt Nam.
Đội ngũ tri thức Việt Nam, những người lao động trí tuệ cao, phức tạp đã trưởng thành cùng với sự phát triển của đất nước từ năm 1945, nhất là từ khoảng 20 năm trở lại đây, tri thức Việt Nam phát triển khá nhanh về số lượng và chất lượng, hiện nay nhà nước ta có khoảng 70 vạn tri thức trở lên. Đây là một lực lượng hết sức quan trọng, trong thời gian qua tri thức đã đóng góp rất lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Tuy nhiên so với yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì chưa đủ về số lượng còn chất lượng thì hạn chế.
Mặt khác, đội ngũ tri thức ở nước ta hiện nay phân bố không đều, phàn lớn tập trung ở các trung tâm thành phố lớn như Hà Nội, TP HCM, và một số trung tâm công nghiệp lớn khác, đều này do tác động của cơ chế thị trường đối với sự phân công lao động trong cả nước. Do chính sách đầu tư giữa các ngành, các vùng, nhất kà vùng cao, vùng xâu vùng xa, vùng dân tộc có ít người, ở những vùng này rất ít tri thức mà nếu có thì chất lượng rất hạn chế do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan. Do yếu tố tâm lý của người dân tộc nên việc bồi dưỡng, nâng cao giáo dục và đào tạo lại chưa được chú ý một cách thỏa đáng. Lực lượng tri thức ở nước ta tuy còn mỏng nhưng theo đánh giá của các nhà khoa học quốc tế thì đó là lực lượng có trình độ cao. Một số đã được các nhà khoa học nước ngoài chú ý và đánh giá cao qua những kết quả nghiên cứu của họ. Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân khác nhau chủ quan và khách quan đã dẫn đến tình trạng “bạc chất xám”, “chảy máu chất xám”, “lãng phí chất xám”, và “rò rỉ chất xám”. Đây là một vấn đề nghiêm trọng hiện nay.
Đội ngũ cán bộ nước ta chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu của công việc đổi mới do hạn chế của quá trình đào tạo ở nước ta nhất là trong lĩnh vực quản lý, kinh doanh nhưng nó là vốn ban đầu rất quí mà mỗi quốc gia muốn có được, tiếc thay nước ta đang tổn phí nguồn tài nguyên ấy, tiếc hơn nữa là không phải ta không nhận thấy tầm quan trọng của nó, mà các chính sách đã làm giảm thậm chí làm mất đi tính sáng tạo của những người làm khoa học bắt nguồn từ những khiếm khuyết, khe hở trong các chính sách và cơ chế đó.
Cùng với việc chuyển sang nền kinh tế thị trường và việc giảm đầu tư của nhà nước cho giáo dục thì số giáo viên, học sinh, sinh viên không những giảm dần so với tỉ lệ số dân mà còn giảm cả số lượng tuyệt đối ở các cấp học trong khi dân số lại tăng.
Nguồn bổ sung chủ yếu cho đội ngũ lao động trí thức Việt Nam ở nước ngoài đang học tập và công tác, các cơ sở khoa học của cả nước, các trường đại học, cao đẳng. Tuy nhiên nếu lấy từ mức năm 1986 thì số học sinh phổ thông, bổ túc văn hóa chuyên nghiệp đại học đang giảm dần. Tỷ lệ sinh viên đại học và cao đảng tính trên số dân rất thấp: nếu năm 1988 có 260 người/1000 dân thì đến năm 1992-1993 tỳ lệ giảm xuống còn 204/1000 dân. Trong khi số người được đào tạo giảm thì số sinh viên tốt nghiệp đại học, cao đẳng không tìm được việc làm lại tăng lên, chẳng hạn năm 1988 đến nay số sinh viên tốt nghiệp trường đại học và cao đẳng khu vực Hà Nội chưa tìm được việc làm tăng từ 13,4% lên 35,38%. Sự thừa đó là do cơ chế thị trường đã không chấp nhận một bộ phận giới trẻ thuộc một số ngành đào tạo.
Tóm lại, điểm mạnh của nước ta là số người biết chữ cao hơn với nhiều nước trong khu vực hay các nước đang phát triển khác. Nguồn nhân lực nước ta có động lực học tập tốt, thông minh, tự tin cao, khéo léo, có thể thành giỏi nếu được giáo dục và đào tạo tốt. Điểm yếu của nước ta về nguồn nhân lực chủ yếu là tri thức, nghiệp vụ kinh doanh, tiếp thị, buôn bán, quản lý và tri thức khoa học kỹ thuật cập nhật. Những hạn chế đó của nguồn nhân lực nước ta trong cơ chế thị trường và xu thế hội nhập phát triển rất cần được khắc phục càng sớm càng tốt bằng mọi biện pháp, khả năng vốn có của nước ta.
Đó là thực trạng về nguồn nhân lực của nước ta hiện nay.
2.2 Vai trò của nhân lực trong thực tiễn công nghiệp hóa, hiện đại hóa:
Có thể thấy rằng, quá trình CHN-HĐH ở Việt Nam được thực hiện trên cơ sở bảo đảm sự kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội theo hướng phát triển bền vững trong đó nhân tố con người là trung tâm. Trong tiến trình đó, việc phát triển nguồn nhân lực KHCN chất lượng cao để thực hiện thành công sự nghiệp CNH-HĐH đất nước đang là những yêu cầu hết sức cấp bách, đòi hỏi chất lượng nguồn nhân lực phải có những thay đổi mang tính đột phá.[ 30-07-2007]
Khi xác định chiến lược phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta đã chỉ rõ nguồn lực làm cơ sở cho việc thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là : nguồn lực con người Việt Nam, nguồn lực tự nhiên (tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý), cơ sở vật chất tiềm lực khoa học kĩ thuật vốn có các nguồn lực ngoài nước và kinh nghiện quản lý.
Lịch sử phát triển chân chính của xã hội loài người là lịch sử phát triển của con người, do con người, vì con người. Con người làm ra lịch sử của chính mình và là động lực của lịch sử đó. Khi khẳng định chân lý vĩnh hằng đó, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác-Lênin đã đồng thời chỉ rõ xu hướng chung của tiến trình phát triển lịch sử được quy định bởi sự phát triển của lực lượng sản xuất do con người và những công cụ sản xuất do con người tạo ra.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất phản ánh trình độ phát triển của xã hội qua việc con người khai thác và sử dụng nguồn lực tự nhiên để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho hoạt động sinh tồn, phát triển của chính con người và quyết định quan hệ của con người với con người trong sản xuất. Yếu tố hàng đầu của nguồn lực con người đó là trí tuệ, bởi vì tất cả những gì thúc đẩy con người hành động tất nhiên phải thông qua đầu óc họ, tức là thông qua trí tuệ vả yếu tố sức khỏe. Yêu cầu không thể thiếu được đối với ngành lao động bao gồm sức khỏe, thể lực và trí lực, ngoài ra còn phải có sức mạnh của niềm tin và ý chí.
Vai trò và tầm quan trọng của nguồn nhân lực đối với phát triển và tăng trưởng ngày càng được khẳng định, trong tất cả các quốc gia trên thế giới và đặc biệt là ở Việt Nam. Ở nước ta, nguồn nhân lực còn được nhấn mạnh là yếu tố nội lực quan trong nhất để xây dựng đất nước. Tuy nhiên, sức mạnh và nguồn nội lực này lại bị chi phối bởi rất nhiều yếu tố khác nhau, trong đó giáo dục và đào tạo đóng vai trò hàng đầu.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta đòi hỏi tiếp thu một cách có hiệu quả những tri thức của thế giới. Đồng thời phát huy năng lực nội sinh của đất nước. Điều này phụ thuộc rất lớn vào vai trò của đội ngũ tri thức, những người lao động trí óc, sáng tạo trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Vì vậy, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, ở nước ta cần đòi hỏi phát triển một cách liên tục và mạnh mẽ đội ngũ tri thức, đội ngũ các nhà khoa học hoạt động trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Chương III: Phương hướng phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
3.1 Xây dựng chiến lược phát triển con người trên cơ sở đó phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa :
Chúng ta đã biết nguồn lực con người cùng với trí tuệ của họ là những yếu tố quyết định sự thành công của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhưng nhìn lại hiện trạng nguồn lực con người nước ta hiện nay không khỏi có những suy nghĩ. Lực lượng lao động tuy dồi dào, con người cần cù, chịu khó sáng tạo nhưng còn hạn chế về chất lượng. Tìm ra các hình thức, phương pháp để phát huy nhân tố con người là vấn đề hết sức tỉ mỉ trên từng lĩnh vực. Một số giải pháp và phương thức chủ yếu là :
+Một là: phải điều tra, khảo sát đánh giá những mặt mạnh, những mặt yếu của con người và các tầng lớp xã hội ở các ngành, địa phương. Phân loại từng đối tượng, từng thế hệ, từng giới trong từng hoàn cảnh…để có sự hiểu biết cụ thể thì mới có phương thức, giải pháp cụ thể phát huy những nguồn lực, nhân tố tích cực của con người, hạn chế những mặt tiêu cực không có lợi cho sự nghiệp phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
+Hai là : ưu tiên và đẩy mạnh công tác giáo dục, đào tạo. Đây là biện pháp cấp bách nhất hiện nay, có thông qua giáo dục và đào tạo mới nâng cao được trí tuệ, trình độ khoa học công nghệ và cả tình cảm, ý chí. Trước tiên, việc mở rộng quy mô giáo dục và đào tạo là rất cần thiết. Nhưng cố gắng mở rộng quy mô giáo dục và đào tạo của nước ta vẫn không theo kịp tốc độ tăng dân số. Quy mô mọi ngành, bậc học hiện nay đề chua đáp ứng được yêu cầu theo học của mọi lứa tuổi. Nhìn chung, số học sinh và số trường lớp ở mọi ngành học từ mẫu giáo, các cấp phổ thông, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học đều tăng. Các hệ thống trung tâm xúc tiến việc làm, các trung tâm kỹ thuật tổng hợp, hướng nghiệp và nhiều cơ sở dạy nghề bán công, dân lập, tư thực được thành lập. Quy mô đào tạo có chuyển biến nhờ tăng cường hình thức đào tạo ngắn hạng. Riêng đối với quy mô của hệ thống đào tạo nghề ngày càng bị thu hẹp, Đảng và Nhà nước ta cần có chính sách khuyến khích mở rộng và hỗ trợ cho các trường dạy nghề nhằm thu hút học sinh, sinh viên, khắc phục sự mất cân đối trong cơ cấu ngành học, bậc học, của giáo dục đào tạo. Giáo dục mầm non có tầm quan trọng đạc biệt đứng từ góc độ chuẩn bị nền tảng về thể lực và trí lực cho nguồn nhân lực. Giáo dục phổ thông, đặc biệt là giáo dục tiểu học theo kinh nghiệm của các nước đang phát triển, là một trong những yếu tố quan trọng nhất quyết định các cơ hội và tăng trưởng kinh tế. Giáo dục, đào tạo chuyên môn nghiệp vụ kỹ thuật ngoài ý nghĩa với tăng trưởng kinh tế còn đặc biệt quan trọng trong việc phát triển, giảm nguy cơ tụt hậu. Tuy nhiên, những bất cân đối giữa các ngành đào tạo, giữa các bậc học đã gây khó khăn không ít cho sự phát triển của nền kinh tế. Một số ngành được học sinh, sinh viên theo học như một phong trào, một số ngành thì rất ít người học. Nếu không có sự điều chỉnh kịp thời, Việt Nam sẽ gặp khó khăn về đội ngũ kỹ sư, công nhân kỹ thuật như ở nhiều nước Asean, nhất là ở Thái Lan.
Giáo dục ở thành phố, đồng bằng có điều kiện phát triển hơn ở nông thôn, vùng núi, vùng xâu, vùng xa. Vì vậy, việc giáo dục và đào tạo con người ở những vùng này rất khó khăn. Để nâng cao trình độ của nguồn nhân lực ở các vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa, miền núi, Nhà nước đã có chính sách cấp học bổng, giảm học phí, ưu tiên cho các học sinh nghèo vượt khó. Từ đó giúp họ có điều kiện học tập, tìm kiếm việc làm, nâng cao mức sống. Nhờ chủ trương này mà những bất hợp lý trong cơ cấu vùng, miền của giáo dục được điều chỉnh phần nào.
Yếu tố quan trọng nhất quyết định chất lượng nguồn nhân lực là việc đổi mới mục tiêu, nội dung, chương trình và phương pháp giáo dục đào tạo. Ngoài giáo dục đào tạo văn hóa chuyên môn, nghiệp vụ về mặt lý thuyết, cần chú ý điều kiện thực hành, ứng dụng, giáo dục kĩ thuật, tác phong lao động công nghiệp, khả năng thích ứng của người lao động với những đặc điểm của nền kinh tế thị trường.
Trong điều kiện của Việt Nam hiện nay, yêu cầu đa dạng hóa các loại hình giáo dục đào tạo rất cần thiết để bổ sung, cải thiện hiện trạng nguồn nhân lực, đồng thời nâng cao hiệu quả của đầu tư cho giáo dục đào tạo để phục vụ cho nhu cầu phát triển. Trong lĩnh vực giáo dục hướng nghiệp, chúng ta cần phải kết hợp một cách khoa học giữa kế hoạch phát triển toàn diện với chính sách sử dụng sau đào tạo hợp lý để giảm lãng phí về chi phí giáo dục đào tạo của xã hội và gia đình. Người lao động được đào tạo ra lảm việc đúng ngành, đúng nghề, đúng khả năng và sở trường của mình. Ngoài ra, giáo dục hướng nghiệp còn đòi hỏi phải có công tác dự báo nghề để xác định xu hướng phát triển và nhu cầu về lao động trong từng giai đoạn. Giáo dục, đào tạo chính quy, dài hạn là cơ sở để hình thành nên bộ phận người lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao, có kỹ năng tiếp cận với khoa học, công nghệ mới, hiện đại. Ngoài ra, cần mở rộng các loại hình đào tạo ngắn hạn để cải thiện hiện trạng nguồn nhân lực hiện nay và nhanh chóng nâng cao số lao động đã qua đào tạo của ta lên. Hình thức giáo dục từ xa và tại chức cần chú ý hơn đến chất lượng và hiệu quả giáo dục.
Tóm lại, giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là một tất yếu khách quan, một nhiệm vụ trọng tâm trong quá trình đổi mới, xây dựng đất nước. Mặc dù nền giáo dục và đào tạo đã đạt được nhiều thành tựu tương đối lớn ( Việt nam có chỉ số HDI tương đối cao, được xếp vào những nước có trình độ phát triển trung bình) nhưng so với nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, nền giáo dục và đào tạo nước ta vẫn chưa đáp ứng được
+Ba là : cần có cơ chế dân chủ và chính sách động lực mạnh mẽ nhằm vào việc phát huy cao độ nhân tố con người. Cơ chế tổ chức cán bộ và bộ máy tổ chức quản lý, sản xuất kinh doanh phải cụ thể, dân chủ, khoa học và phù hợp với nhu cầu, lợi ích tập thể của mỗi người, tạo ra được động lực, sự phấn khởi, hăn hái lâu bền để phát huy cao nhất nhân tố con người. Điều này được quán triệt trong mọi chủ trương chính sách của các cấp ra quyết sách. Ở đây theo nguyên tắc : ai cống hiến cho xã hội nhiều thì sẽ được hưởng thụ nhiều ; lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng phải được kết hợp đúng đắn và thỏa mãn, trong đó lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp mạnh mẽ. Các chính sách lương bổng, khen thưởng trong thực tế có mặt còn chưa thực sự tạo được động lực mạnh mặc dù gần đây có một số tiến bộ khi chuyển sang chế độ lương mới. Cần thực sự có chế độ khuyến khích, tôn vinh đối với những người có cống hiến đặc biệt nổi bật.
+Bốn là : Cần tạo cho được một lực lượng tến bộ, tiên phong, nòng cốt, biết hợp tác hành động, phối hợp giữa cá nhân và giữa các cộng đồng, biết phát huy được nhân tố cá nhân và tập thể một cách hiệu quả.
Xã hội là thế giới của những con người hoạt động có tổ chức, do những lực lượng tiên phong, những người có đức, có tài lãnh đạo. Do đó lực lượng này không chỉ hiểu công việc mà quan trọng hơn là hiểu con người, có lòng nhân ái, thu phục nhân tâm, nghiêm khắc và độ lượng, có trình độ và năng lực giao tiếp, quan hệ, năng lực tổ chức thực tiễn để tập hợp, động viên, phát huy cho kỳ được những mặt mạnh của con người và hạn chế được những điểm yếu của họ. Đó là những người biết làm việc với con người, cho con người và vì con người, biết khơi dậy những động lực tiềm tàng, khuyến khích mọi người vươn lên, làm những điều tốt, cống hiến nhiều hơn nữa, bỏ qua mặc cảm, định kiến…hướng về tương lai, vì truyền thống nhân nghĩa lớn lao, vì tiến bộ của dân tộc và đồng bào. Hiểu con người, biết sử dụng con người vừa là một khoa học vứa là một nghệ thuật. Đó là một công việc đầy khó khăn và rất vinh quang, nhưng cũng là trọng trách của những người quản lý.
Tấm lòng, năng lực, phong cách như thế ở Hồ Chí Minh và nhiếu lãnh tụ cách mạng khác là tiêu biểu nhất. Để nhấn mạnh vai trò lãnh đạo của những người đứng đầu, của các lãnh tụ Lênin viết : “Trong lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiền phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào”.[trang 473 tài liệu số 5]
3.2 Xây dựng dược một hệ thống chinh sách đồng bộ đối với việc phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa :
-Những thành tích đã đạt được của việc giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực : cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện nay đã tác động và làm biến đổi mạnh mẽ lao động xã hội theo hướng tăng tỷ trọng của lao động trí tuệ, giảm bớt các hoạt động châ n tay, làm cho lao động trí tuệ trở thành hoạt động cơ bản của con người. Việc ứng dụng ngày càng rộng rãi tri thức vào sản xuất và tổ chức lao động đã làm cho tri thức nhanh chóng trở thành yếu tố sản xuất quan trọng nhất, thành nguồn lực kinh tế cơ bản và chủ yếu. Vai trò của các yếu tố sản xuất truyền thống như đất đai, tài nguyên thiên nhiên, vốn dẫu không mất đi nhưng đã trở thành thứ yếu. Các nghiên cứu gần đây cho thấy chỉ một phần nhỏ của sự tăng trưởng có thể giải thích bởi đầu tư vào vốn, còn phần quan trọng của tăng trưởng gắn liền với chất lượng lao động.
Trong những năm chúng ta tiến hành công cuộc đổi mới, người dân được tự do kinh doanh những lĩnh vực pháp luật không cấm, trong sinh hoạt và tư tưởng, người dân cũng được tự do thảo luận rấ nhiều so với trước ; dân chủ ở cơ sở được thể chế hóa đã có tác dụng tích cực ; sự thảo luận trong quốc hội thẳng thắn, công khai ; sự khiếu kiện của dân được giải quyết kịp thời hơn, nhân dân được tham gia trực tiếp vào những vấn đề trọng đại của đất nước. Điều này chứng tỏ nguồn nhân lực của nước ta có trình độ ngày càng được khẳng định và được trọng dụng.
Những thành tích của giáo dục và đào tạo nói chung và giáo dục đào tạo nguồn nhân lực nói riêng là to lớn nhờ đó mà mặc dù một số chỉ tiêu khác như thu nhập bình quân đầu người không cao nhưng Việt Nam vẫn có chỉ số HDI tương đối cao tuy nhiên còn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của nước ta hiện nay.
– Chính sách về sử dụng con người : con người là chủ thể đồng thời là sản phẩm của sự vận động xã hội. Vì vậy muốn phát huy yếu tố con người cần phải có môi trường thuận lợi. Việc giải phóng lực lượng sản xuất được thực hiện trước tiên và chủ yếu là xóa bỏ những cơ chế đã và đang kìm hãm tính tích cực chủ động sáng tạo của người lao động đồng thời phải xây dựng một cơ chế mới đảm bảo thực hiện giải phóng người lao động về mọi mặt.
Gần đây chính sách khuyến khích phát triển nguồn nhân lực đặc biệt là nhân tài. "Một số nước đang xây dựng và vận dụng học thuyết nhân tài vào trong công tác đào tạo và trong công tác lãnh đạo quản lý ".[trang 379-390 tài liệu số 4] Đây là điều kiện quan trọng, nguồn nhân lực, nhân tài được đào tạo tốt có cơ hội tìm kiếm việc làm phù hợp với nguyên tắc phân phối theo lao động đảm bảo công bằng trong kinh tế.
– Chính sách tiền lương, tiền thưởng : tiền lương về thực chất là khoản thù lao mà nhà nước trả cho cán bộ, công chức tương xứng với lao động và trình độ nghiệp vụ, chức trách để thực hiện những công việc mà nhà nước ùy quyền cho họ.
Để xác định đúng tiền lương tối thiểu chung cho cán bộ, công chức trước hết phải quan niệm đúng đắn về giá trị sức lao động. Đó là toàn bộ những chi phí cần thiết về ăn, mặc, ở, đi lại… bù đắp cho một lượng nhất định về cơ bắp, trí tuệ đã hao phí để duy trì cuộc sống của bản thân người lao động trong trạng thái bình thường đồng thời tái sản xuất ra sức lao động cả về số lượng và chất lượng trong những điều kiện kinh tế xã hội ổn định. Do đó, khi đồng tiền mất giá, chỉ số giá cả sinh hoạt cao thì tiền lương danh nghĩa phải được điều chỉnh thích ứng và kịp thời để đảm bảo tiền lương thực tế cho người lao động. Mới đây chính phủ đã quyết định tăng 20% lương cơ bản cho công nhân viên chức, đây là một điều đáng mừng, khích lệ tinh thần làm việc và hiệu quả cao của công nhân viên chức. Đồng thời, trong phiên họp thường kì vào tháng 6 năm 1999 chính phủ cũng đã đưa ra một hệ thống các giải pháp nhằm đảm bảo sự phát triển ổn định của tình hình kinh tế xã hội và các giải pháp chống thiểu phát (tức là lưu thông luôn thiếu tiền dẫn đến giá cả hàng hóa, dịch vụ giảm xuống một cách phổ biến trong khi tiền giấy trong kho bạc của nhà nước lại đầy ắp), thiết lập quan hệ giá cả thị trường hợp lý, kích thích sản xuất phát triển. từ đó, ta cần sửa đổi, hoàn thiện thang, bản lương cho cán bộ công chức nhà nước và chế độ phụ cấp đồng thời sắp xếp, hoàn thiện tổ chức bộ máy và biên chế cán bộ công chức bảo đảm các yêu cầu tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả giảm bớt tổng số cán bộ, công chức hưởng lương nhà nước. Trên cơ sở đó cần từng bước nâng dần lương tối thiểu chung cho cán bộ, công chức nhà nước. Trước mắt cần có sự đột phá, khắc phục sự lạc hậu và bất hợp lý của chính sách tiền lương tối thiểu hiện hành.
Đồng thời, phải có chính sách phân phối thật công bằng, “làm theo năng lực hưởng theo lao động ”, tránh tình trạng một số ngành thì lương cao, trong khi một số ngành khác lương lại thấp cho dù hao phí lao động bỏ ra như nhau. Ví dụ như ngành bưu điện, điện lực, lương nói chung (gồm cả lương cơ bản + thưởng + các khoảng lương khác) rất cao, chênh lệch nhiều so với thu nhập của cán bộ công nhân viên chức ở các ngành khác, như ngành ngân hàng. Ngay trong ngàng ngân hàng chính sách tiền lương cũng có nhiều cấp bật, lương ở ngân hàng nhà nước thấp hơn nhiều so với ở các ngành ngân hàng khác như ngân hàng ngoại thương. Chẳng hạn một kĩ sư tin học trong một chi nhánh ngân hàng nhà nước có tiền lương và thưởng tết xấp xỉ một triệu đồng, trong khi đó một nhân viên đưa thư của ngành bưu điện lại có lương và thưởng tết dao động từ 2 đến 3 triệu đồng. Sự chênh lệch này lý giải được nguyên nhân vì sao ở những ngành độc quyền người ta đang đổ xô tranh nhau vào, gây tình trạng dư thừa lao động, còn ở những ngành khác đầu vào lao động lại thiếu trầm trọng. Chính phủ cần phải có những biện pháp điều chỉnh hợp lí về đầu vào ở các trường đại học và phải tạo được động lực phát triển.
– Chính sách đối với những người làm khoa học : những người làm khoa học trước hết là những con người, họ cũng quan tâm đến lợi ích cá nhân để sống. Họ cũng cẩn tiền nhưng không phải vì tiền. Nếu họ có tiền để mở rộng phạm vi các quan hệ khoa học mà lại được trọng dụng thì chắc chắn thành quả rất lớn, chính vì không được trọng dụng thậm chí còn bị coi thường, phải nhận đồng lương thấp hơn cả lao động đơn giản. Không đủ sống bằng chính nghề nghiệp của mình cho nên tình trạng người làm khoa học có trình độ khá phải chuyển nghề hoặc giành nhiều thời gian hơn cho công việc khác thât sự là một nguy cơ nếu không khắc phục sớm tình trạng này thì nguy cơ sẽ trở thành thảm họa.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Vai trò của nhân tố con người đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa.doc