PHẦN MỞ ĐẦU1.1 Lí do chọn đề tài:
Định hướng phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010 của đảng ta, tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X đã xác định: “ hiện nay và nhiều năm tới, vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn có tầm chiến lược đặc biệt quan trọng”, là vấn đề chiến lược trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, góp phần quan trong thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, là cơ sở ổn định chính trị và an ninh quốc phòng; là yếu tố quan trọng đảm bảo sự phát triển bền vững của đất nước trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng trước hết phải xuất phát từ lợi ích của nông dân, phát huy vai trò của giai cấp nông dân, tạo điều kiện thuận lợi giúp nông dân nâng cao trình độ mọi mặt, có đời sống vật chất và tinh thần ngày càng cao.
Trong những năm qua, nhiều chương trình đã được thực hiện, như chương trình giống, chương trình khoa học công nghệ, chương trình khuyến nông, chương trình 135 hay chương trình mục tiêu quốc gia xoá đói giảm nghèo và việc làm. Tuy nhiên, những chương trình hay dự án này chỉ mới được giải quyết một số riêng rẽ (như cơ sơ hạ tầng, môi trường) hoặc nhiệm vụ xoá đói giảm nghèo cho những vùng đặc biệt khó khăn, vùng nghèo. Tuy nhiên việc triển khai thực hiện còn chậm trễ do bị rang buộc bởi các cơ chế, chính sách và năng lực đội ngũ cán bộ cơ sở còn hạn chế trong việc phát triển nông thôn văn minh, hiện đại.
Để xây dựng một nông thôn mới bền vững và phát triển, cần phải chú trọng đến việc nâng cao năng lực cho cộng đồng người dân của nông thôn, đặc biệt là quan tâm đến vai trò của ngượi dân.
Tuy nhiên, trên thực tế nhiều nơi chưa phát huy được vai trò của nông dân trong thực hiện các dự án phát triển nông thôn. Có rất nhiều lý do và lực cản như trình độ hiểu biết của người dân, năng lực quản lý, cơ chế, phương pháp triển khai thực hiện và điều kiện cơ sở hạ tầng thấp kém,
Hiện nay một số mô hình phát triển nông thôn mới đang thực hiện ở một số tỉnh trên cả nước một cách có chọn lọc các phương pháp, kế thừa bài học kinh nghiệm của một số nước trên thế giới nhằm huy động sự tham gia của người dân. Vấn đề nâng cao vai trò của người dân thực hiện chủ yếu thông qua một số mô hình phát triển nông thôn mới vẫn chưa được cụ thể hoá một cách chi tiết, chưa mô phỏng nó thành phương pháp để thực hiện có tính đồng bộ, thống nhất, phù hợp với tình hình thực tế.
Xuất phát từ những yêu cầu về phát triển nông thôn mới và tình hình trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Vai trò của nông dân trong việc tham gia xây dựng mô hình nông thôn mới ở việt nam”.
23 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 12410 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Vai trò của nông dân trong việc tham gia xây dựng mô hình nông thôn mới ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VAI TRÒ CỦA NÔNG DÂN TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở VIỆT NAM
1. PHẦN MỞ ĐẦU:
1.1 Lí do chọn đề tài:
Định hướng phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010 của đảng ta, tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X đã xác định: “ hiện nay và nhiều năm tới, vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn có tầm chiến lược đặc biệt quan trọng”, là vấn đề chiến lược trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, góp phần quan trong thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, là cơ sở ổn định chính trị và an ninh quốc phòng; là yếu tố quan trọng đảm bảo sự phát triển bền vững của đất nước trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng trước hết phải xuất phát từ lợi ích của nông dân, phát huy vai trò của giai cấp nông dân, tạo điều kiện thuận lợi giúp nông dân nâng cao trình độ mọi mặt, có đời sống vật chất và tinh thần ngày càng cao.
Trong những năm qua, nhiều chương trình đã được thực hiện, như chương trình giống, chương trình khoa học công nghệ, chương trình khuyến nông, chương trình 135 hay chương trình mục tiêu quốc gia xoá đói giảm nghèo và việc làm. Tuy nhiên, những chương trình hay dự án này chỉ mới được giải quyết một số riêng rẽ (như cơ sơ hạ tầng, môi trường) hoặc nhiệm vụ xoá đói giảm nghèo cho những vùng đặc biệt khó khăn, vùng nghèo. Tuy nhiên việc triển khai thực hiện còn chậm trễ do bị rang buộc bởi các cơ chế, chính sách và năng lực đội ngũ cán bộ cơ sở còn hạn chế trong việc phát triển nông thôn văn minh, hiện đại.
Để xây dựng một nông thôn mới bền vững và phát triển, cần phải chú trọng đến việc nâng cao năng lực cho cộng đồng người dân của nông thôn, đặc biệt là quan tâm đến vai trò của ngượi dân.
Tuy nhiên, trên thực tế nhiều nơi chưa phát huy được vai trò của nông dân trong thực hiện các dự án phát triển nông thôn. Có rất nhiều lý do và lực cản như trình độ hiểu biết của người dân, năng lực quản lý, cơ chế, phương pháp triển khai thực hiện và điều kiện cơ sở hạ tầng thấp kém,…
Hiện nay một số mô hình phát triển nông thôn mới đang thực hiện ở một số tỉnh trên cả nước một cách có chọn lọc các phương pháp, kế thừa bài học kinh nghiệm của một số nước trên thế giới nhằm huy động sự tham gia của người dân. Vấn đề nâng cao vai trò của người dân thực hiện chủ yếu thông qua một số mô hình phát triển nông thôn mới vẫn chưa được cụ thể hoá một cách chi tiết, chưa mô phỏng nó thành phương pháp để thực hiện có tính đồng bộ, thống nhất, phù hợp với tình hình thực tế.
Xuất phát từ những yêu cầu về phát triển nông thôn mới và tình hình trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Vai trò của nông dân trong việc tham gia xây dựng mô hình nông thôn mới ở việt nam”.
1.2 Mục đích nghiên cứu của đề tài:
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò của nông dân trong việc tham gia xây dựng nông thôn mới.
- Đánh giá vai trò của nông dân trong việc xây dựng mô hình nông thôn mới tại việt nam.
-Đề xuất các giải pháp để nâng cao vai trò của người dân trong việc xây dựng mô hình nông thôn mới ở việt nam.
2. Nội dung:
2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1. Một số khái niệm
Để tìm hiểu các quan điểm về phát triển nông thôn, chúng ta hãy tìm hiểu về khái niệm nông dân, nông thôn:
Nông dân là những người lao động cư trú ở nông thôn, tham gia sản xuất nông nghiệp. Nông dân sống chủ yếu bằng ruộng vườn, sau đó đến các ngành nghề mà tư liệu qan xuất chính là đất đai. Tùy từng quốc gia, từng thời kì lịch sử, người nông dân có quyền sở hữu khác nhau về ruộng đất. Họ hình thành nên giai cấp nông dân, có vị trí, vai trò nhất định trong xã hội.
Nông thôn: là vùng sinh sống của tập hợp dân cư, trong đó có nhiều nông dân. Tập hợp này tham gia vào các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường trong một thể chế chính trị nhất định và chịu ảnh hưởng của các tổ chức khác.
Phát triển nông thôn là một quá trình nhằm cải thiện và nâng cao đời sống của người dân nông thôn một cách bền vững về kinh tế xã hội, văn hoá và môi trường, quá trình này, trước hết là do nỗ lực từ chính người dân nông thôn và có sự hỗ trợ tích cực của Chính phủ và các tổ chức khác.
Xây dựng mô hình nông thôn mới là một chính sách về một mô hình phát triển cả về nông nghiệp và nông thôn, nên vừa mang tính tổng hợp, bao quát nhiều lĩnh vực, vừa đi sâu giải quyết nhiều vấn đề cụ thể, đồng thời giải quyết các mối quan hệ với các chính sách khác, các lĩnh vực khác trong sự tính toán, cân đối mang tính tổng thể, khắc phục tình trạng rời rạc, hoặc duy ý chí.
2.1.2. Nội dung và vai trò của nông dân trong việc tham gia xây dựng mô hình nông thôn mới
Sự tham gia của nông dân vào việc xây dựng nông thôn mới được coi như nhân tố quan trọng, quyết định sự thành bại của việc áp dụng phương pháp tiếp cận phát triển dựa vào nội lực và do cộng đồng làm chủ trong thí điểm mô hình. Khi tham gia vào quá trình phát triển thôn mới với sự hỗ trợ của Nhà nước, người dân tại các cộng đồng dân cư nông thôn sẽ từng bước được tăng cường kỹ năng, năng lực về quản lý nhằm tận dụng triệt để các nguồn lực tại chỗ và bên ngoài. Khi xem xét quá trình tham gia của người dân trong các hoạt động trong phát triển nông thôn, vai trò của người dân ở đây được thể hiện: Dân biết, dân bàn, dân đóng góp, dân làm, dân kiểm tra, dân quản lý và dân hưởng lợi. Như vậy, vai trò của người dân vẫn theo một trật tự nhất định, các trật tự ở đây hoàn toàn phù hợp với quan điểm của Đảng ta “lấy dân làm gốc”. Các nội dung trong nâng cao vai trò của người dân trong việc tham gia xây dựng mô hình nông thôn mới được hiểu:
- Dân biết: là quyền lợi, nghĩa vụ và sự hiểu biết của người nông dân về những kiến thức bản địa có thể đóng góp vào quá trình quy hoạch nông thôn, quá trình khảo sát thiết kế các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn. Mặt khác, người dân có điều kiện tham gia hiệu quả hơn vào các giai đoạn sau của quá trình xây dựng công trình; Người dân nắm được thông tin đầy đủ về công trình mà họ tham gia như: mục đích xây dựng công trình, quy mô công trình, các yêu cầu đóng góp từ công đồng, trách nhiệm và quyền lợi của cộng đồng người dân được hưởng lợi.
- Dân bàn: bao gồm sự tham gia ý kiến của người dân liên quan đến kế hoạch phát triển sản xuất, liên quan đến các giải pháp, mọi hoạt động của nông dân trên địa bàn như: bàn luận mở ra một hướng sản xuất mới, đầu tư xây dựng công trình phúc lợi công cộng, các giải pháp thiết kế, phương thức khai thác công trình, tổ chức quản lý công trình, các mức đóng góp và các định mức chi tiêu từ các nguồn thu, phương thức quản lý tài chính, … trong nội bộ cộng đồng dân cư hưởng lợi.
- Dân làm: chính là sự tham gia lao động trực tiếp từ người dân vào các hoạt động phát triển nông thôn như: đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, các hoạt động của các nhóm khuyến nông, khuyến lâm, nhóm tín dụng tiết kiệm và những công việc liên quan đến tổ chức tiếp nhận, quản lý và sử dụng công trình. Người dân trực tiếp tham gia vào quá trình cụ thể trong việc lập kế hoạch có sự tham gia cho từng hoạt động thi công, quản lý và duy tu bảo dưỡng, từ những việc tham gia đó đã tạo cơ hội cho người dân có việc làm, tăng thu nhập cho người dân. ngoài ra dân còn góp của góp công. Hình thức đóng góp có thể bằng tiền, sức lao động, vật tư tại chỗ hoặc đóng góp bằng trí tuệ.
Dân kiểm tra: dân kiểm tra mọi vấn đề, mọi công việc đ ề ra, là biểu hiện cao nhất của tinh thần "Dân chủ". Từ chủ trương của nhà nước đưa ra xây dựng cơ sở hạ tầng; hoặc như việc cấp đất, cấp vốn cho một đơn vị, cho đến hiệu quả đích thực của các vấn đề đầu tư xây dựng công trình phúc lợi công cộng, các giải pháp thiết kế, phương thức khai thác công trình, tổ chức quản lý công trình, các mức đóng góp và các định mức chi tiêu từ các nguồn thu, phương thức quản lý tài chính… đều phải được dân kiểm tra, chất vấn, theo dõi, giám sát đến nơi đến chốn, trên tinh thần "Dĩ công vi thượng".
Dân hưởng lợi: dân được hưởng những gì mà dân làm, dân đóng góp trong xây dựng nông thôn mới.
2.1.3. Điều kiện cần có để xây dựng mô hình nông thôn mới theo Đề án của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn
-Cần phát huy sức mạnh cộng đồng: Thực hiện Nghị quyết của Trung ương, của Tỉnh uỷ về “nông nghiệp, nông dân, nông thôn”. Đây là một đề án có ý nghĩa đặc biệt quan trọng nhằm phát triển nông thôn một cách toàn diện, nâng cao đời sống người dân về mọi mặt và được thực hiện chủ yếu theo phương châm dựa vào nội lực của cộng đồng.
-Rất cần thể chế, chính sách “thông minh”: Xây dựng nông thôn mới là một vấn phức tạp vì liên quan đến nhiều ngành, nhiều chính sách và hoạt động có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến khu vực nông thôn và đời sống của người dân. Các xã cũng cần lựa chọn các tiêu chí để ưu tiên thực hiện nhằm giải quyết các vấn đề bức xúc về phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, hoàn thành sớm các tiêu chí có điều kiện thuận lợi để thực hiện.
-Khơi dậy tinh thần đoàn kết, ý thức vươn lên của người dân: Người dân nông thôn đóng vai trò chủ thể trong quá trình xây dựng nông thôn ổn định và phát triển bền vững. Ngoài phần đầu tư của Trung ương và địa phương, nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới cấp xã được thực hiện theo phương châm dựa vào nội lực của cộng đồng là chính. Do vậy, việc khơi dậy tinh thần đoàn kết, ý thức vươn lên của người dân là hết sức cần thiết trong quá trình triển khai thực hiện đề án.
Theo đó, người dân tham gia đầu tư phát triển sản xuất, xây dựng nhà ở, tham gia đầu tư các công trình công ích như giao thông, thuỷ lợi…, tham gia các hoạt động y tế, giáo dục, môi trường.
-Điều quan trọng là các ngành, địa phương cần tập trung tuyên truyền, vận động để mọi người dân hiểu rõ mục tiêu chính của Chương trình xây dựng nông thôn mới là nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân nông thôn. Từ đó, từng người dân sẽ phát huy tốt vai trò chủ động, tích cực trong thực hiện chương trình thông qua việc quyết định các vấn đề quan trọng như công tác quy hoạch, xây dựng danh mục công trình, kể cả việc góp vốn đầu tư.
2.1.4 Các tiêu chí xây dựng nông thôn mới theo Đề án của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn.
Nhóm I: gồm tiêu chí 1 là quy hoạch sử dụng đất và hạ tầng thiết yếu cho phát triển nông nghiệp hàng hóa, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ.
Đơn vị cơ bản của mô hình nông thôn mới là làng - xã. Làng - xã thực sự là một cộng đồng, trong đó quản lý của Nhà nước không can thiệp sâu vào đời sống nông thôn trên tinh thần tôn trọng tính tự quản của người dân thông qua hương ước, lệ làng (không trái với pháp luật của Nhà nước). Quản lý của Nhà nước và tự quản của nông dân được kết hợp hài hoà; các giá trị truyền thống làng xã được phát huy tối đa, tạo ra bầu không khí tâm lý xã hội tích cực, bảo đảm trạng thái cân bằng trong đời sống kinh tế - xã hội ở nông thôn, giữ vững anninh trật tự xã hội,…nhằm hình thành môi trường thuận lợi cho sự phát triển kinh tế nông thôn.
Nhóm II: gồm từ tiêu chí thứ 2 đến tiêu chí thứ 9 là các Nhóm tiêu chí hạ tầng kinh tế - xã hội : Giao thông, thủy lợi, ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ, thực hiện cơ giới hóa nông nghiệp, điện, trường học; cơ sở vật chất văn hóa; chợ nông thôn, bưu điện, nhà ở dân cư;
Đáp ứng yêu cầu thị trường hoá, đô thị hoá, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chuẩn bị những điều kiện vật chất và tinh thần giúp nông dân làm ăn sinh sống và trở nên thịnh vượngngay trên mảnh đất mà họ đã gắn bó lâu đời. Trước hết, cần tạo cho người dân có điều kiệnđể chuyển đổi lối sống và canh tác tự cung tự cấp, thuần nông (cổ truyền) sang sản xuất hàng hoá, dịch vụ, du lịch, để họ “ly nông bất ly hương”.
Nh óm III: Gồm tiêu chí thứ 10 đến tiêu chí thứ 13 là Nhóm tiêu chí kinh tế và tổ chức sản xuất: Thu nhập, hộ nghèo; cơ cấu lao động; hình thức tổ chức sản xuất.
phải có khả năng khai thác hợp lý và nuôi dưỡng các nguồn lực, đạt tăng trưởng kinh tế cao và bền vững; môi trường sinh thái được giữ gìn; tiềm năng du lịch được khai thác; làng nghề truyền thống, làng nghề tiểu thủ công nghiệp được khôi phục; ứng dụng công nghệ cao về quản lý, về sinh học...; cơ cấu kinh tế nông thôn phát triển hài hoà, hội nhập địa phương, vùng, cả nước và quốc tế.
Nh óm IV: Gồm từ tiêu chi thứ 14 đến tiêu chí thứ 17 là nhóm tiêu chí Văn hóa – Xã hội- môi trường : Giáo dục, y tế; văn hóa; môi trường.
Dân chủ nông thôn mở rộng và đi vào thực chất. Các chủ thể nông thôn (lao động nông thôn, chủ trang trại, hộ nông dân, các tổ chức phi chính phủ, nhà nước, tư nhân…) có khả năng, điều kiện và trình độ để tham gia tích cực vào các quá trình ra quyết định về chính sách phát triển nông thôn; thông tin minh bạch, thông suốt và hiệu quả giữa các tác nhân có liên quan; phân phối công bằng. Người nông dân thực sự “được tự do và quyết định trên luống cày và thửa ruộng của mình”, lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh làm giàu cho mình, cho quê hương theo đúng chủ trương đường lối của Đảng và chính sách, pháp luậtcủa Nhà nước.
Nh óm V: gồm tiêu chí 18 và tiêu chí 19 l à chính trị, an ninh trật tự xã hội. Nông dân, nông thôn có văn hoá phát triển, dân trí được nâng lên, sức lao động được giải phóng, nhiệt tình cách mạng được phát huy. Đó chính là sức mạnh nội sinh của làng xã trong công cuộc xây dựng nông thôn mới. Người nông dân có cuộc sống ổn định, giàu có, trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật và tay nghề cao, lối sống văn minh hiện đại nhưng vẫn giữ được những giá trị văn hoá, bản sắc truyền thống “tắt lửa tối đèn” có nhau, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, tham gia tích cực mọi phong trào chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh quốc phòng, đối ngoại…nhằm vừa tự hoàn thiện bản thân, nâng cao chất lượng cuộc sống của mình, vừa góp phần xây dựng quê hương văn minh giàu đẹp.
2.1.5 Các nguyên tắc xây dựng NMT theo chương trình mục tiêu giai đoạn 2010-2020:
(1) Xây dựng NMT theo chuẩn mực là bộ tiêu chí quốc gia NTM do thủ tướng chính phủ quyết định.
(2) Phạm vi thực hiện là địa bàn cấp xã.
(3) Cộng đồng cư dân là chủ thể xây dựng NMT.
(4) Mục tiêu chương trình quốc gia NMT là chương trình khung, tổng thể, bao trùm các mục tiêu về phát triển nông thôn quyết định 2010-2020, đã xá định các nội dung cần thiết để đạt 19 tiêu chí.
2.1.6 Các giải pháp chủ yếu xây dựng mô hình nông thôn mới
Trong đề án Chương trình mục tiêu quốc gia về Nông thôn mới, Chính phủ quyết định 6 giải pháp chủ yếu để thực hiện 11 nội dung mà Chương trình mục tiêu quốc gia đề ra, nhằm đạt mục tiêu cụ thể từ nay đến năm 2015 có 20% số xã đạt chuẩn nông thôn mới và đến năm 2020 có 50% số xã đạt chuẩn nông thôn mới (theo bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới do Chính phủ ban hành). một số điểm cần lưu ý khi thực hiện các giải pháp để xây dựng nông thôn mới.
Một là, trong quá trình tổ chức cuộc vận động xã hội về xây dựng nông thôn mới phải nhận thức được vị thế chủ thể của người nông dân (bao gồm cả vị thế chính trị, kinh tế). Đây là nhóm dân số đông nhất hiện nay ở nước ta, nhưng hiện tại đời sống kinh tế - văn hóa đang còn nhiều khó khăn và nhìn chung là nhận thức thấp.
Theo đó, nông thôn là khu vực rộng lớn nhất, đa dạng cư dân, đa dạng văn hóa truyền thống (kể cả tập tục lạc hậu) hạ tầng lạc hậu…, môi trường sinh thái đang bị hủy hoại nghiêm trọng. Vì vậy, cần có cách tổ chức vận động phù hợp.
Hai là, quyết định lựa chọn một cách khoa học, sát thực tế với từng địa phương những nội dung, việc cần ưu tiên làm trước. Trong đó, kiên trì quy hoạch, bổ sung quy hoạch lại nông thôn theo tiêu chí nông thôn mới và phải đi trước một bước.
Từ quy hoạch tổng thể, phân khu chức năng đến quy hoạch chi tiết, tôn trọng quá trình tích lũy nhiều đời quy hoạch làng quê VN. Hạn chế tối đa gây xáo trộn, tốn kém gây tâm lý không tốt, không thiết thực khi làm quy hoạch. Việc đầu tư cần thiết về cơ sở hạ tầng trong quá trình xây dựng nông thôn mới chỉ thực hiện khi phê duyệt xong quy hoạch.
Ba là, kiên trì, lâu dài hỗ trợ nông dân về khoa học – kỹ thuật, đưa tiến bộ khoa học vào nông nghiệp, nông thôn. Nông dân và con cái họ chịu nhiều thiệt thòi về điều kiện tiếp nhận khoa học – kỹ thuật mới. Không đủ lực (kể cả tiền và trình độ học vấn) để ứng dụng khoa học – kỹ thuật. Phải đi từ thấp lên cao, đưa ứng dụng kỹ thuật mới phải thực tế. Khuyến nông là một giải pháp rất hữu hiệu ở nước ta và kinh nghiệm quốc tế. Cùng với việc này là tập trung triển khai nhanh chương trình đào tạo cho cư dân nông thôn.
Bốn là, đầu tư từ nhiều nguồn cho nông thôn để xây dựng hạ tầng và công trình phúc lợi công cộng (hiện nay Chính phủ quyết định bảy hạng mục công trình “cứng”) Nhà nước đầu tư 100%, tạo sự thay đổi bộ mặt nông thôn. Nhưng về lâu dài là chính sách thu hút sự đầu tư của doanh nghiệp về với nông thôn.
Thực tế hiện nay cho thấy, sản phẩm nông nghiệp đang góp phần nâng vị thế quốc gia trên trường quốc tế về mặt kinh tế. Sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu đứng trong tốp năm trên thị trường quốc tế. Nhưng hiện nay, doanh nghiệp đứng chân ở nông thôn quá ít, chính sách giảm phần rủi ro cho người nông dân trong sản xuất nông, lâm, thủy sản quá thiếu, doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực này hiệu quả cũng thấp và thiếu ổn định, thường đẩy rủi ro về người sản xuất. Nếu sự phát triển sản xuất của cư dân nông thôn gắn kết với doanh nghiệp tại nông thôn, theo đơn đặt hang của doanh nghiệp đó là cách tốt nhất không chỉ là huy động nguồn lực, mà còn là cách “dẫn dắt nông dân ra thị trường” khắc phục được kiểu đưa thị trường về nông thôn – “thả nổi nông dân trong cơ chế thị trường”.
Mặt khác, tạo cơ hội để nông dân nông thôn tham gia đầu tư không chỉ cho sản xuất của chính mình, mà cả phúc lợi công cộng do chính mình được hưởng. Hình thành “giá đỡ” để nông dân yên tâm sản xuất sản phẩm nông, lâm, ngư nghiệp.
2.2. Cơ sở thực tiễn . 15
2.2.1 Kinh nghiệm của một số nước về xây dựng mô hình nông thôn mới trên thế giới. 15
Nhờ hiệu quả của phong trào Saemaul Undong mà Hàn Quốc từ một nước nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu trở thành một quốc gia giàu có, hiện đại bậc nhất châu Á.
Phong trào Saemaul Undong của Hàn Quốc: Nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực đến khu vực kinh tế nông thôn khi thực hiện Kế hoạch 5 năm lần thứ I (1962-1966) và thứ II (1966-1971) với chủ trương công nghiệp hóa hướng đến xuất khẩu, tháng 4 năm 1970, Chính phủ Hàn Quốc phát động phong trào Saemaul Undong. Mục tiêu của phong trào này là "nhằm biến đổi cộng đồng nông thôn cũ thành cộng đồng nông thôn mới: mọi người làm việc và hợp tác với nhau xây dựng cộng đồng mình ngày một đẹp hơn và giàu hơn. Cuối cùng là để xây dựng một quốc gia ngày một giàu mạnh hơn".
Theo đó, Chính phủ vừa tăng đầu tư vào nông thôn vừa đặt mục tiêu thay đổi suy nghĩ ỷ lại, thụ động vốn tồn tại trong đại bộ phận dân cư nông thôn. Điểm đặc biệt của phong trào NTM của Hàn Quốc là Nhà nước chỉ hỗ trợ một phần nguyên, vật liệu còn nông dân mới chính là đối tượng ra quyết định và thực thi mọi việc. Saemaul Undong cũng rất chú trọng đến phát huy dân chủ trong xây dựng NTM với việc dân bầu ra một nam và một nữ lãnh đạo phong trào. Ngoài ra, Tổng thống còn định kỳ mời 2 lãnh đạo phong trào ở cấp làng xã tham dự cuộc họp của Hội đồng Chính phủ để trực tiếp lắng nghe ý kiến từ các đại diện này. Nhằm tăng thu nhập cho nông dân, Chính phủ Hàn Quốc áp dụng chính sách miễn thuế xăng dầu, máy móc nông nghiệp, giá điện rẻ cho chế biến nông sản. Ngân hàng Nông nghiệp cho doanh nghiệp vay vốn đầu tư về nông thôn với lãi suất giảm 2% so với đầu tư vào ngành nghề khác... Năm 2005, Nhà nước ban hành đạo luật quy định mọi hoạt động của các bộ, ngành, chính quyền phải hướng về nông dân. Nhờ hiệu quả của phong trào Saemaul Undong mà Hàn Quốc từ một nước nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu trở thành một quốc gia giàu có, hiện đại bậc nhất châu Á.
Nhật Bản và phong trào "Mỗi làng, một sản phẩm": Từ năm 1979, Tỉnh trưởng Oita-Tiến sĩ Morihiko Hiramatsu đã khởi xướng và phát triển phong trào "Mỗi làng, một sản phẩm" (One Village, one Product-OVOP) với mục tiêu phát triển vùng nông thôn của khu vực này một cách tương xứng với sự phát triển chung của cả Nhật Bản. Phong trào "mỗi làng một sản phẩm" dựa trên 3 nguyên tắc chính là: địa phương hóa rồi hướng tới toàn cầu; tự chủ, tự lập, nỗ lực sáng tạo; phát triển nguồn nhân lực. Trong đó, nhấn mạnh đến vai trò của chính quyền địa phương trong việc hỗ trợ kỹ thuật, quảng bá, hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm được xác định là thế mạnh. Sau 20 năm áp dụng OVOP, Nhật Bản đã có 329 sản phẩm đặc sản địa phương có giá trị thương mại cao như như nấm hương Shitake, rượu Shochu lúa mạch, cam Kabosu,... giúp nâng cao thu nhập của nông dân địa phương.
2.2.2. Xây dựng mô hình nông thôn mới ở Việt Nam
Sau gần 2 năm thực hiện, chương trình thí điểm mô hình nông thôn mới đã thành công bước đầu và đạt được một số kết quả quan trọng. Mô hình nông thôn mới theo 19 tiêu chí đã được hình thành, khẳng định việc lấy xã làm địa bàn tổ chức thực hiện và tổ chức xây dựng mô hình theo Bộ tiêu chí nông thôn mới là phù hợp.
Chương trình xây dựng thí điểm mô hình nông thôn mới được thực hiện tại 11 xã, gồm Thanh Chăn (Điện Biên), Tân Thịnh (Bắc Giang), Hải Đường (Nam Định), Thuỵ Hương (Hà Nội), Tam Phước (Quảng Nam), Tân Lập (Bình Phước), Gia Phố (Hà Tĩnh), Tân Hội (Lâm Đồng), Tân Thông Hội (TP. Hồ Chí Minh), Mỹ Long Nam (Trà Vinh) và Đình Hoà (Kiên Giang). Mục tiêu của chương trình nhằm thử nghiệm các nội dung, phương pháp, cách làm, cơ chế, chính sách, xác định trách nhiệm và mối quan hệ chỉ đạo giữa các cấp trong việc xây dựng nông thôn mới; hình thành các mô hình trên thực tiễn về nông thôn mới để rút kinh nghiệm triển khai chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới trên diện rộng.
Theo kết quả đánh giá của các địa phương, đến nay đã có 7/11 xã đạt được 10 tiêu chí trở lên, gồm Thuỵ Hương; Tân Thịnh; Hải Đường; Gia Phố; Tân Thông Hội; Mỹ Long Nam; Định Hoà; trong đó có 3 xã đạt 14/19 tiêu chí trở lên là Thuỵ Hương 13, Tân Thịnh 14, Tân thông Hội 14. Có 3 xã đạt từ 8-10 tiêu chí, gồm Tân Lập, Tân Hội, Tam Phước. Riêng xã Thanh Chăn (Điện Biên) tuy là xã khó khăn nhất, nhưng đã đạt 7/19 tiêu chí. Một số xã đạt kết quả tương đối toàn diện như: Hải Đường, Tân Thịnh, Tân Thông Hội... Một số xã đạt được mô hình tốt ở một số mặt như: quy hoạch và thực hiện tốt quy hoạch ở Hải Đường; phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập ở Mỹ Long Nam; huy động nguồn lực ở Thanh Chăn và Định Hoà; phát triển sản xuất gắn với quy hoạch đồng ruộng và cơ sở hạ tầng ở Tam Phước; phong trào cải tạo điều kiện sống của các hộ dân cư ở Tân Thịnh; liên kết sản xuất giữa nông dân với doanh nghiệp ở Thụy Hương, Tân Hội; thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông thôn ở Tân Thông Hội, Tân Lập… Hiện các mô hình này là những điểm thực tiễn được các địa phương khác đến tham quan và học tập. Phát triển sản xuất, xây dựng quan hệ sản xuất, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, bảo vệ môi trường được xác định là nội dung trọng tâm đặc biệt quan trọng của Chương trình và được đẩy mạnh triển khai trong năm 2010. Đến nay, mỗi xã đã có ít nhất 3-5 dự án, điểm trình diễn về sản xuất nông nghiệp được thực hiện. Ngoài sản xuất tập trung theo các dự án, hầu hết các xã đã tăng nguồn vốn hỗ trợ nông dân thông qua chương trình khuyến nông, khuyến công, đặc biệt là vốn tín dụng để hình thành các mô hình, dự án sản xuất có hiệu quả kinh tế. Việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong xây dựng nông thôn mới đã có nhiều hình thức đa dạng hơn, thu hút người dân tham gia nhiều hơn. Xây dựng nông thôn mới đã được cán bộ, nhân dân ở cơ sở phấn khởi đón nhận, các xã điểm đã tổ chức để người dân đóng góp ý kiến vào đề án quy hoạch và bản kế hoạch xây dựng nông thôn mới của xã, tham gia bàn bạc, lựa chọn công trình xây dựng hoặc các công việc nào cần làm trước, làm sau.2.2.3 Phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong xây dựng nông thôn mới
Người dân là chủ thể trong xây dựng nông thôn mới:
- Vai trò chủ thể của nông dân trong xây dựng NTM văn minh, hiện đại được thể hiện là chủ thể tích cực tham gia vào quá trình xây dựng và thực hiện quy hoạch xây dựng NTM; chủ động, sáng tạo trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế -xã hội ở nông thôn; trực tiếp trong phát triển kinh tế và tổ chức sản xuất CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn; tích cực, sáng tạo trong xây dựng và gìn giữ đời sống văn hoá-xã hội, môi trường ở nông thôn; là nhân tố góp phần quan trọng vào xây dựng hệ thống chính trị-xã hội vững mạnh, bảo đảm ANTT ở cơ sở.
-Xây dựng NTM xác định người nông dân phải là chủ thể, vì thế chỉ khi nào cán bộ cơ sở và người dân hiểu đúng, hiểu rõ yêu cầu và nội dung xây dựng NTM thì mới tạo ra tính chủ động, tự giác tham gia và tham gia một cách sáng tạo vào việc xây dựng NTM. Chẳng hạn về vấn đề quy hoạch nông thôn, yêu cầu đặt ra là làm sao để bộ mặt NTM phải vừa kế tiếp được truyền thống văn hóa của địa phương và truyền thống hàng nghìn năm của nông thôn Việt Nam, đồng thời phù hợp với xu thế phát triển văn minh của cả nước và thế giới. Đây là khâu hết sức quan trọng, có tính chất lâu dài nên người dân phải bàn bạc và tham gia ngay từ đầu, đến khi triển khai, người dân quyết định cái gì làm trước, cái gì làm sau, phù hợp với nguồn lực của chính họ, của địa phương và của Trung ương hỗ trợ để đạt được hiệu quả cao nhất.
Để thực hiện tốt chương trình xây dựng nông thôn mới, vấn đề đặt ra là cần phải phát huy được vai trò chủ thể của người nông dân. Do đó, điều cần làm trước tiên đối với tất cả các địa phương là phải tổ chức học tập, nghiên cứu để hiểu đầy đủ và thống nhất hành động, trước hết là đội ngũ cán bộ ở các địa phương. Xây dựng nông thôn mới bắt đầu từ nhận thức.
2.2.4 Vai trò của người dân trong việc xây dựng nông thôn mới
Vai trò của nông dân trong xây dựng nông thôn mới văn minh, hiện đại, được thể hiện là:
(1) Chủ thể tích cực tham gia vào quá trình xây dựng quy hoạch và thực hiện quy hoạch xây dựng nông thôn mới;
(2) Chủ thể chủ động và sáng tạo trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở nông thôn;
(3) Chủ thể trực tiếp trong phát triển kinh tế và tổ chức sản xuất CNH- HĐH nông nghiệp, nông thôn;
(4) Chủ thể tích cực, sáng tạo trong xây dựng và gìn giữ đời sống văn hoá – xã hội, môi trường ở nông thôn;
(5) Là nhân tố góp phần quan trọng vào xây dựng hệ thống chính trị - xã hội vững mạnh, bảo đảm an ninh trật tự xã hội ở cơ sở.
Xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ chiến lược, đang đặt ra nhiều vấn đề cần tập trung nỗ lực của Nhà nước và nhân dân, giải quyết những vấn đề cấp bách, đồng thời tạo ra tiền đề cho những giai đoạn tiếp theo. Chính vì vậy, phát huy vai trò nông dân trong xây dựng nông thôn mới ở nước ta hiện nay theo chúng ta cần tập trung làm tốt một số vấn đề cơ bản sau:
Một là, đẩy mạnh CNH- HĐH nông nghiệp, nông thôn, tích cực xoá đói giảm nghèo. Đây là vấn đề có ý nghĩa quyết định, do đó cần thực hiện rà soát, bổ sung, điều chỉnh quy hoạch xây dựng nông thôn mới, quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch phát triển nông, lâm, ngư nghiệp theo hướng xây dựng nền nông nghiệp toàn diện, hiện đại. Đồng thời phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn; tiếp tục đổi mới và tổ chức lại sản xuất nông, lâm nghiệp; tăng cường áp dụng tiến bộ KH- CN và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, kết hợp có hiệu quả giữa “4 nhà”; đẩy mạnh đầu tư và hỗ trợ tín dụng cho hoạt động sản xuất nông nghiệp, đồng thời tiếp tục đẩy nhanh quá trình xây dựng, hoàn thiện và phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội ở nông thôn, như: giao thông, thuỷ lợi, điện, trường học, cơ sở vật chất văn hoá, chợ, bưu điện và nhà ở dân cư nông thôn. Tiếp tục thực hiện tốt công cuộc xoá đói, giảm nghèo; tạo việc làm nhằm ổn định đời sống cho nông dân.
Hai là, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở ở nông thôn. Cần giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị và toàn xã hội trong quá trình xây dựng nông thôn mới. Nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức địa phương. Tăng cường hiệu lực quản lý điều hành của chính quyền cơ sở. Củng cố tổ chức, đổi mới phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội ở nông thôn, nhất là tổ chức Hội Nông dân. Tạo mọi điều kiện thuận lợi để nông dân phát huy vai trò chủ thể của mình trong xây dựng nông thôn mới.
Ba là, đổi mới hoàn thiện chính sách đối với nông dân, bảo đảm lợi ích, phát huy dân chủ và mọi tiềm năng của nông dân trong xây dựng nông thôn mới. Thực hiện có hiệu quả giữa chính sách kinh tế, chính sách xã hội, an sinh xã hội trong quá trình phát triển nền kinh tế bền vững của tỉnh. Giải quyết tốt những bức xúc trong nhân dân trong quá trình phát triển công nghiệp và đô thị hoá, bảo đảm lợi ích cho người nông dân. Phát huy dân chủ ở cơ sở theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra và dân được hưởng”. Khơi dậy, sử dụng và phát huy tốt mọi tiềm năng của nông dân, như: nguồn nhân lực tại chỗ, ngành nghề đa dạng, kinh nghiệm trong sản xuất và sự gắn bó với quê hương.
Bốn là, đẩy mạnh và nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo nghề, nâng cao dân trí, tiến tới trí thức hoá đội ngũ cán bộ cơ sở. Nâng cao chất lượng đời sống văn hoá - xã hội ở nông thôn văn mình, hiện đại. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, cổ động nhằm chuyển biến và nâng cao nhận thức trọng nông dân về chương trình xây dựng nông thôn mới. Xây dựng nông thôn mới mang lại lợi ích thiết thân cho người dân sống ở nông thôn. Từ đó lôi cuốn họ tham gia tích cực với vai trò là chủ thể chân chính của quá trình này.
Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo các bậc học, nhất là giáo dục phổ thông nhằm nâng cao trình độ dân trí, trí thức hoá đội ngũ cán bộ cơ sở ở nông thôn. Song trước hết là đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn tay nghề cho nông dân để họ tự mình sản xuất, kinh doanh trên chính quê hương mình, đặc biệt những hộ nông dân mất đất do phát triển công nghiệp và đô thị hoá.
Nâng cao chất lương và hiệu quả các thiết chế văn hoá, khuyến khích, động viên các lực lượng tham gia, kịp thời phê phán các hiện tượng tiêu cực trong xã hội, xây dựng đời sống văn hoá mới lành mạnh, bảo vệ thuần phong mĩ tục ở nông thôn. Xây dựng môi trường văn hoá, đội ngũ cán bộ văn hoá thông tin cơ sở, các đội văn hoá, văn nghệ, thể thao quần chúng… thực hiện dân chủ hoá đời sống tinh thần ở nông thôn. Nâng cao chất lượng và hiệu quả khám chữa bệnh cho nhân dân, đồng thời bảo vệ môi trường sinh thái xanh - sạch - đẹp, hiện đại ở nông thôn; giữ vững an ninh trật tự và an toàn xã hội.
Những giải pháp trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong quá trình thực hiện phải giải quyết đồng bộ và toàn diện nhằm khơi dậy và phát huy tốt vai trò người nông dân trong công cuộc xây dựng nông thôn mới văn minh, hiện đại ở nước ta hiện nay giành thắng lợi.. 56
2.2.5 Vai trò của người dân trong huy động vốn vào xây dựng nông thôn mới 61
Năm 2011, Chính phủ đầu tư 1.600 tỉ đồng quy hoạch và thí điểm việc xây dựng nông thôn mới nhằm phấn đấu đến năm 2015 có 50% số làng xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới. Riêng thành phố Hà Nội đã có kế hoạch huy động đầu tư 2.600 tỉ đồng để xây dựng nông thôn mới ở các huyện ngoại thành.
-Đóng góp của nông dân là 10% là để chỉnh trang, sửa sang các công trình, đầu tư sản xuất của chính họ trên đất của họ, trong đó một số ít cũng tham gia vào các công trình công cộng. Cũng có nơi huy động ngày công, có nơi hiến đất, cũng có nơi đóng tiền.
-Vốn đầu tư của doanh nghiệp là 20%, đây là khâu bền vững nhưng để thu hút được vốn đầu tư doanh nghiệp thì các địa phương phải có quy hoạch rõ ràng, có chính sách ưu đãi để doanh nghiệp an tâm đầu tư vào nông thôn, nông nghiệp và đứng vững ở nông thôn, gắn với nông dân, phát triển sản xuất và định hướng sản xuất.
-Vốn tín dụng (bao gồm cả đầu tư phát triển và thương mại) là 30% đầu tư sản xuất cho người dân và công trình phúc lợi… .
-Hỗ trợ từ ngân sách nhà nước là 40% bao gồm 2 khoản, thứ nhất là các chương trình mục tiêu quốc gia và chương trình có mục tiêu trên địa bàn nông thôn chiếm 23%; thứ 2 là từ xây dựng nông thôn mới 17% (cho 8 nhóm, như: nước sạch môi trường, đường liên thôn, liên xóm, giao thông nội đồng, hệ thống thủy lợi kênh mương nội đồng… và 8 danh mục công trình nhà nước hỗ trợ, 7 danh mục công trình nhà nước đầu tư 100% vốn).
-Vốn tài trợ khác: Vận động, tranh thủ sự ủng hộ của các tổ chức, cá nhân, đơn vị và con em của quê hương thành đạt hướng về quê hương.
2.2.6 Vai trò nòng cốt của nông dân trong việc xây dựng nông thôn mới.
Nông dân đóng vai trò nòng cốt xây dựng nông thôn mới
Xây dựng nông thôn mới là một chủ trương mới, một chương trình lớn, rất quan trọng của Đảng, Nhà nước ta trong những năm tới, Nông dân phải tham gia tích cực, đóng vai trò nòng cốt để thực hiện thắng lợi chủ trương này.
“Xây dựng nông thôn mới gắn với xây dựng các cơ sở công nghiệp, dịch vụ và phát triển đô thị theo quy hoạch là căn bản; phát triển toàn diên, hiện đại hoá nông nghiệp là then chốt”... “Là chủ thể của quá trình phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới” (Nghị quyết 7 Trung ương khoá X) nông dân là lực lượng quyết định xây dựng nông thôn hiện đại gắn với giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, là lực lượng trực tiếp áp dụng kỹ thuật và công nghệ tiên tiến trong trồng trọt, chăn nuôi, thu hoạch, bảo quản và chế biến nông - lâm, thuỷ - hải sản, cây công nghiệp nhằm nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành và tăng giá trị sản phẩm nông nghiệp cho tiêu dùng trong nước, cho xuất khẩu và cạnh tranh thắng lợi với thị trường nông - lâm, thuỷ - hải sản thế giới ngày càng gay gắt và phức tạp và xây dựng người nông dân hiện đại xã hội chủ nghĩa tiêu biểu cho nông dân yêu nước và cách mạng Việt Nam, xây dựng hợp tác xã nông nghiệp mới thực sự tiêu biểu cho tổ chức nghề nghiệp của nông dân Việt Nam. Chỉ bằng cách đó, mới nâng cao được đời sống vật chất, văn hoá cho người nông dân, từng bước rút ngắn được khoảng cách về trình độ phát triển và đời sống giữa nông thôn với thành thị, thực hiện có hiệu quả quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn.
2.2.7 Kết quả chung đạt được. Theo kết quả đánh giá của các địa phương, đến nay đã có 7/11 xã đạt được 10 tiêu chí trở lên, gồm Thuỵ Hương; Tân Thịnh; Hải Đường; Gia Phố; Tân Thông Hội; Mỹ Long Nam; Định Hoà; trong đó có 3 xã đạt 14/19 tiêu chí trở lên là Thuỵ Hương 13, Tân Thịnh 14, Tân thông Hội 14. Có 3 xã đạt từ 8-10 tiêu chí, gồm Tân Lập, Tân Hội, Tam Phước. Riêng xã Thanh Chăn (Điện Biên) tuy là xã khó khăn nhất, nhưng đã đạt 7/19 tiêu chí. Một số xã đạt kết quả tương đối toàn diện như: Hải Đường, Tân Thịnh, Tân Thông Hội... Một số xã đạt được mô hình tốt ở một số mặt như: quy hoạch và thực hiện tốt quy hoạch ở Hải Đường; phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập ở Mỹ Long Nam; huy động nguồn lực ở Thanh Chăn và Định Hoà; phát triển sản xuất gắn với quy hoạch đồng ruộng và cơ sở hạ tầng ở Tam Phước; phong trào cải tạo điều kiện sống của các hộ dân cư ở Tân Thịnh; liên kết sản xuất giữa nông dân với doanh nghiệp ở Thụy Hương, Tân Hội; thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông thôn ở Tân Thông Hội, Tân Lập… Hiện các mô hình này là những điểm thực tiễn được các địa phương khác đến tham quan và học tập.
+ Hiện nay, hơn 900 xã trên địa bàn nông thôn toàn quốc đã triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới theo Quyết định số 800 của Thủ tướng Chính phủ. Đã có 85 xã đạt đủ 19 tiêu chí, 12% số xã đạt từ 10-15% tiêu chí, trên 50% số xã đạt từ 7% tiêu chí. + Người dân đã tham gia nhiều hơn trong các hoạt động xây dựng nông thôn mới, quan tâm hơn đến công việc của cộng đồng và tự giác thực hiện tại gia đình mình; là cơ sở để hình thành và phát triển được các phong trào xây dựng nông thôn mới. Không chỉ có người dân mà cả các cấp, ngành từ Trung ương đến địa phương cũng đã có sự thay đổi trong nhận thức về vai trò nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Việc triển khai chương trình cũng đưa ra được kinh nghiệm bước đầu về cách làm, cơ chế, triển vọng để thực hiện thành công Nghị quyết Trung ương 7 về nông nghiệp - nông dân - nông thôn”.
+Qua thực hiện thí điểm tại 11 xã đã có những mô hình tốt trên các mặt: Quy hoạch và thực hiện quy hoạch, huy động nguồn lực; phát triển sản xuất gắn với quy hoạch ruộng đồng và cơ sở hạ tầng; phong trào cải thiện điều kiện sống của các hộ dân cư; mô hình liên kết sản xuất giữa nông dân và doanh nghiệp; thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông thôn. Qua thực tiễn các mô hình đã phát huy tốt hiểu quả và đang được lan tỏa, nhân rộng.
.+ Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới đã và đang được triển khai ở các địa phương, trong đó vai trò của người nông dân là vô cùng quan trọng.
+ Trong xây dựng nông thôn mới, người nông dân được bàn và tham gia từ đầu về quy hoạch, tạo sự nhất trí, đồng lòng cao trong cả quá trình tổ chức triển khai. Người dân đã thảo luận từng việc, công trình làm trước, làm sau cho phù hợp với nguồn lực của chính họ, của địa phương và Trung ương hỗ trợ để hiệu quả nhất.
+ Đồng thời, từng người dân tự giác điều chỉnh trong nhà, vườn của mình theo quy hoạch chung của xã, góp phần văn minh, sạch – đẹp làng xã; tích cực tham gia sản xuất, xóa đói giảm nghèo, chú trọng giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, xây dựng hệ thống chính trị ở địa phương vững mạnh, bảo đảm an ninh trật tự xã hội ở nông thôn.
+ Thu nhập của người nông dân ở xã nông thôn mới tăng từ 20-30%. Đời sống nhân dân được nâng lên rõ rệt.
3. KẾT LUẬN:
Từ thực tiễn nói trên chúng ta có thể rút ra được một số bài học kinh nghiệm như:
+ Kinh nghiệm quan trọng nhất rút ra sau thời gian thực hiện thí điểm xây dựng mô hình nông thôn mới tại 11 xã điểm của cả nước là, quy hoạch phải đi trước một bước, đồng thời cần có sự cân đối đầu tư sản xuất, tăng thu nhập cho người dân và xây dựng đời sống văn hóa ở nông thôn.
+ Việc xây dựng cơ chế, chính sách, hướng dẫn nội dung xây dựng nông thôn mới còn chậm, do đó các xã đều lúng túng trong cơ chế huy động nội lực, cơ chế lồng ghép các nguồn vốn, trong tiếp cận nguồn vốn tín dụng, trong tiếp cận và giải ngân các nguồn vốn ngân sách cấp;
+ Tiến độ triển khai một số nội dung công việc còn chậm so với kế hoạch.
+ Trong thực hiện các nội dung, mới chú trọng nhiều đến các xây dựng cơ sở hạ tầng, ít quan tâm đến các hoạt động phát triển sản xuất, xây dựng các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp, xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư.
+ Hạ tầng là khâu đột phá, đầu tư có thứ tự ưu tiên.
+ Cân đối hài hoà đầu tư cho sản xuất, tăng thu nhập.
+ Xây dựng đời sống văn hoá.
+ Xây dựng cơ sở hạ tầng được quan tâm nhiều nhất.
3.1 Thuận lợi:
+ An ninh nông thôn tốt, mối đoàn kết nhân dân bền chặt và có sự đồng thuận của người dân.
+ Thu nhập của người dân không ngừng tăng cao, đồng thời tỉ lệ hộ nghèo giảm đáng kể (đánh giá theo tiêu chí mới hiện nay chỉ còn 4,6% số hộ nghèo).
Trong xây dựng nông thôn mới, người nông dân được bàn và tham gia từ đầu về quy hoạch, tạo sự nhất trí, đồng lòng cao trong cả quá trình tổ chức triển khai. Người dân đã thảo luận từng việc, công trình làm trước, làm sau cho phù hợp với nguồn lực của chính họ, của địa phương và Trung ương hỗ trợ để hiệu quả nhất.
+ Đồng thời, từng người dân tự giác điều chỉnh trong nhà, vườn của mình theo quy hoạch chung của xã, góp phần văn minh, sạch – đẹp làng xã; tích cực tham gia sản xuất, xoá đói giảm nghèo, chú trọng giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, xây dựng hệ thống chính trị ở địa phương vững mạnh, bảo đảm an ninh trật tự xã hội ở nông thôn.
3.2 Khó khăn:
Khó khăn lớn nhất là nhận thức của người dân về mục tiêu Chương trình, đây không phải là chương trình đầu tư mà là chương trình nhằm phát huy nhân tố con người, khơi dậy và phát huy mọi tiềm năng của nông dân vào công cuộc xây dựng nông thôn. Vì vậy, phải tăng cường công tác tuyên truyền, để người dân có thể hiểu được, và cả hệ thống chính trị vào cuộc tích cực hơn nữa.
Thực tế hiện nay trong quá trình chỉ đạo 11 xã điểm triển khai xây dựng nông thôn mới ở nước ta đang gặp phải ba khó khăn lớn sau đây:
+ Một là, tăng nhanh, bền vững thu nhập cho nông dân. Theo tinh thần Nghị quyết số 26-NQ/T.Ư, đến 2020 thu nhập của dân nông thôn tăng gấp 2,5 lần hiện nay, bình quân cư dân nông thôn hiện nay thu nhập 400 USD/người/năm (cả nước xấp xỉ 1.000 USD/người), trong khi cả nước hiện còn hơn 2.000 xã/9.800 xã nghèo nhất nước có tỷ lệ hộ nghèo dưới 50%, khoảng cách chênh lệch giữa nông thôn và đô thị đang ngày càng rộng ra, đất đai nông nghiệp ngày càng thu hẹp, khí hậu thời tiết ngày càng khắc nghiệt, khó kh ăn cho nông ân trong việc s ản xuất.
+ Hai là, xây dựng hạ tầng nông thôn hiện đại, trong điều kiện thực tế hạ tầng nông thôn quá lạc hậu, nhất là miền núi, vùng đồng bằng sông Cửu Long, trong khi nguồn vốn đầu tư của Chính phủ rất hạn chế. Mặt khác, lại phải xây dựng được môi trường sinh thái nông thôn, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Xây dựng nông thôn mới không phải biến nông thôn thành thành thị.
+ Ba là, chuyển dịch cơ cấu lao động trong nông thôn theo hướng giảm dần lao động nông nghiệp, sao cho đến năm 2020, lao động nông nghiệp chiếm 30% lao động của xã hội (thay vì gần 60% như hiện nay).
4.KIẾN NGHỊ:
Trước những vấn đề nêu trên thì cần có một số giải pháp để khắc phục để nâng cao vai trò của nông dân trong xây dựng nông thôn mới là:
+ Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo nghề cho nông dân, nâng cao dân trí (nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo các bậc học, nhất là giáo dục phổ thông); chú trọng việc đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn tay nghề cho nông dân để họ tự mình sản xuất, kinh doanh trên chính quê hương mình.
+ Khuyến khích nông dân tham gia lập kế hoạch phát triển làng: Người dân có vai trò rất quan trọng trong việc thành lập kế hoạch phát triển làng. Việc khuyến khích sự tham gia của người dân vào việc lập kế hoạch hết sức quan trọng, cần phát huy đẩy mạnh hơn nữa vai trò người dân.
+ Huy động nguồn lực từ dân: Để xây dựng thành công mô hình nông thôn mới, cần phát huy và huy động nguồn lực của người dân tham gia nhiệt tình, đem lại những kết quả thắng lợi không chỉ cho riêng làng Thanh Sầm mà tất cả các địa phương khác ở Việt Nam.
+Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của người dân: Người dân có vai trò rất quan trọng trong quá trình kiểm tra, giám sát các hoạt động của làng. Giúp cho việc thực hiện các hoạt động mô hình nông thôn mới thành công hơn, người dân được hưởng quyền lợi tự do của mình. 79
+Đổi mới hoàn thiện chính sách đối với nông dân, bảo đảm lợi ích, phát huy dân chủ và mọi tiềm năng của nông dân trong xây dựng nông thôn mới. Cụ thể, phát huy dân chủ ở cơ sở theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra và dân được hưởng”. Khơi dậy, sử dụng và phát huy tốt mọi tiềm năng của nông dân, như: Nguồn nhân lực tại chỗ, ngành nghề đa dạng, kinh nghiệm trong sản xuất và sự gắn bó với quê hương.
Tài liệu tham khảo:
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.Giáo trình kinh tế phát tri ển nông th ôn - Tuyết Hoa Niêkdam
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- vai_tro_cua_nong_dan_trong_xay_dung_nong_thon_moi_o_viet_nam_9632.doc