MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thể chế hóa chủ trương của Đảng, tại Kỳ họp thứ VIII ngày 28/10/1995, Quốc hội Khóa IX đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung Luật tổ chức Tòa án nhân dân; ngày 21/5/1996 Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành “Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính”, đã được sửa đổi, bổ sung năm 1998 tạo cơ sở pháp lý cho việc tổ chức và hoạt động của Tòa hành chính trong hệ thống Tòa án nhân dân. Những quy định này gọi là những quy định về tố tụng hành chính.
Các văn bản pháp luật trên là cơ sở pháp lý cho việc xác lập một thiết chế mới - thiết chế được nhiều nhà khoa học pháp lý coi là một “biểu hiện” đặc trưng của nhà nước pháp quyền, thể hiện chế độ trách nhiệm qua lại giữa công dân với nhà nước, bảo đảm thực hiện quyền công dân và pháp chế trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước thông qua thủ tục tố tụng với những nguyên tắc dân chủ, công khai, bình đẳng. Ngoài ra, các quy định này còn trao cho công dân một công cụ mới để thực hiện quyền khiếu nại đối với CQNN, cán bộ của CQNN. Thể hiện một bước tiến mới của nhà nước ta trong việc tạo ra các điều kiện về mặt pháp luật để chủ động hội nhập quốc tế.
Kể từ khi được ban hành, các quy định của pháp luật tố tụng hành chính đã phần nào khẳng định vai trò của mình trong việc giải quyết tranh chấp hành chính, đóng góp vào công cuộc cải cách nền hành chính, cải cách tư pháp, buộc các cơ quan hành chính nhà nước phải tự nâng cao năng lực, hoàn thiện thủ tục và phương thức quản lý xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho công dân thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của mình. Tuy nhiên, trên thực tế thì các vụ án được khởi kiện tại tòa án hành chính chiếm một số lượng không lớn so với tổng số các vụ khiếu kiện hành chính, hoặc có khởi kiện thì vì lý do này, lý do khác, như chưa qua thủ tục khiếu nại tại cơ quan hành chính, vụ việc không thuộc thẩm quyền của tòa án, đã hết thời hiệu khởi kiện, nên tòa án không thụ lý giải quyết. Các văn bản tố tụng hành chính quy định về trình tự, thủ tục còn chưa phù hợp với đặc thù của tố tụng hành chính; cơ chế, chính sách đối với Tòa án nói chung, Tòa hành chính nói riêng còn có những điểm chưa hợp lý, nên còn để xảy ra tình trạng Thẩm phán “e ngại” khi giải quyết các vụ án hành chính. Một số cơ quan hành chính, cán bộ công chức hành chính có QĐHC, HVHC bị khởi kiện do không hiểu rõ hoặc không tôn trọng các quy định của pháp luật tố tụng hành chính đã không thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án hành chính, thi hành án hành chính, làm cho thiết chế Toà hành chính không thể thực hiện đầy đủ được vai trò bảo vệ quyền công dân mà Đảng và Nhà nước mong muốn khi thành lập ra nó.
Trước tình hình trên, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta đã đề ra nhiệm vụ: “khắc phục tình trạng chồng chéo, đùn đẩy trách nhiệm gây khó khăn, chậm chễ trong công việc và giải quyết khiếu kiện của dân. Nâng cao vai trò của Tòa hành chính trong việc giải quyết khiếu kiện hành chính”. Sau đó, Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 2/1/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới đã tiếp tục khẳng định: “Nghiên cứu mở rộng thẩm quyền xét xử của Tòa án trong việc giải quyết khiếu kiện hành chính để góp phần khắc phục tình trạng trì trệ trong công tác giải quyết khiếu kiện hành chính hiện nay”.
Việc thành lập Toà hành chính là một chủ trương đúng đắn, phù hợp với yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền, nhưng các quy định của pháp luật tố tụng hành chính chưa đáp ứng được yêu cầu, mục tiêu đề ra, chưa thể hiện đầy đủ vai trò của mình trong thực tiễn. Vì vậy, nghiên cứu vấn đề vai trò của pháp luật tố tụng hành chính là rất cấp thiết hiện nay.
Đặc biệt hiện nay, dưới góc độ lý luận vấn đề vai trò của pháp luật tố tụng hành chính đã có nhiều công trình khoa học, bài viết trên các sách báo pháp lý, nghiên cứu ở các khía cạnh về mối quan hệ tương quan giữa pháp luật tố tụng hành chính với một số lĩnh vực của đời sống xã hội, nhưng mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu vai trò của nó đối với nền hành chính nhà nước hoặc đối với việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan và tổ chức trong giải quyết tranh chấp hành chính, mà chưa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện về vai trò của pháp luật tố tụng hành chính. Chính vì vậy, tôi đã chọn đề tài “Vai trò của pháp luật tố tụng hành chính ở Việt Nam hiện nay” để làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay, ở Việt Nam đã có một số công trình nghiên cứu liên quan tới vai trò của pháp luật tố tụng hành chính như: “Thiết lập tài phán hành chính ở nước ta” – GS.TS Nguyễn Duy Gia (chủ biên), Nxb Giáo dục, Hà Nội, năm1995 – các tác giả phân tích những vấn đề lý luận, các quan điểm, nguyên tắc tổ chức Toà án hành chính ở Việt Nam;“Một số vấn đề về tài phán hành chính ở Việt Nam”- PTS. Lê Bình Vọng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994, tác giả phân tích vị trí của tài phán hành chính trong nền hành chính quốc gia và sự cần thiết phải thiết lập hệ thống toà án hành chính ở Việt Nam; “Tài phán hành chính ở Việt Nam”- PTS. Đinh Văn Mậu và PTS. Phạm Hồng Thái, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1995, các tác giả phân tích những vấn đề chung về tài phán hành chính và vấn đề xác định thẩm quyền của toà án hành chính; “Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân trong việc giải quyết các khiếu kiện hành chính”- Nguyễn Thanh Bình, Luận án tiến sĩ luật học, Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật, 2003, trên cơ sở lý luận về thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính của Tòa án nhân dân, tác giả nghiên cứu thực trạng thẩm quyền của tòa án và đề xuất các phương hướng hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính của tòa án; “Một số vấn đề về đổi mới cơ chế giải quyết khiếu kiện hành chính ở Việt Nam”- TS. Nguyễn Văn Thanh và LG. Đinh Văn Minh, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2004, nghiên cứu về vị trí, vai trò của thiết chế toà hành chính trong cơ chế giải quyết khiếu kiện hành chính ở Việt Nam hiện nay; “Số chuyên đề về Tòa hành chính và việc giải quyết khiếu kiện của tổ chức, công dân”- Bộ Tư pháp, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, tháng 12/2001 đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau về toà hành chính và pháp luật TTHC. Nghiên cứu về vấn đề này còn có các bài viết như: “Một số nguyên tắc đặc thù trong tố tụng hành chính”- PTS. Đặng Quang Phương, tạp chí Quản lý nhà nước, số 1/1998, tác giả phân tích các nguyên tắc đặc thù của tố tụng hành chính Việt Nam; “Một số khía cạnh của việc nâng cao hiệu suất hoạt động của Tòa hành chính trong việc giải quyết khiếu kiện hành chính”- TS. Vũ Thư, tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 8/2003, trên cơ sở phân tích một số bất cập trong nội dung của pháp luật TTHC, tác giả đã đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao vai trò của toà hành chính; Bài viết “Thủ tục tố tụng hành chính” trong cuốn Hệ thống tư pháp và cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay của tác giả Vũ Thư – nghiên cứu sự hình thành con đường giải quyết tranh chấp hành chính ở Việt Nam từ 1945 đến nay; “Cải cách hệ thống tài phán hành chính bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân”- Lê Hồng Sơn, tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 7/2003, vận dụng cơ sở lý luận vai trò của tài phán hành chính tác giả đã kiến nghị một số giải pháp về mô hình tổ chức và phạm vi thẩm quyền, đối tượng xét xử nhằm nâng cao vai trò của toà án hành chính ở Việt Nam hiện nay.
Những công trình nói trên chỉ nghiên cứu ở khía cạnh này hoặc khía cạnh khác hay chỉ đề cập tới những vấn đề có liên quan tới vai trò của pháp luật TTHC, mà chưa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ, có hệ thống cả về mặt lý luận và thực tiễn về vai trò của pháp luật TTHC. Vì vậy, có thể nói rằng đây là lần đầu tiên vai trò của pháp luật TTHC được tiếp cận dưới góc độ lý luận Nhà nước và pháp quyền một cách toàn diện, có hệ thống cả về phương diện lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích của luận văn là phân tích cơ sở lý luận và đánh giá thực trạng vai trò của pháp luật TTHC trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, trên cơ sở đó, xây dựng những quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao vai trò của pháp luật TTHC.
Trên cơ sở mục đích đặt ra, luận văn có nhiệm vụ:
- Trình bày khái niệm, đặc điểm, nhiệm vụ của pháp luật TTHC và nêu lên vai trò của pháp luật TTHC.
- Phân tích những tiêu chí để đánh giá vai trò của pháp luật TTHC.
- Trình bày một số vấn đề về pháp luật TTHC của một số nước trên thế giới và sự vận dụng nhằm nâng cao vai trò của pháp luật TTHC Việt Nam.
- Nêu lên quá trình hình thành phát triển của pháp luật TTHC Việt Nam từ năm 1945 đến nay.
- Phân tích, đánh giá những ưu điểm và hạn chế về vai trò của pháp luật TTHC ở Việt Nam hiện nay.
- Nêu lên những quan điểm và đề xuất những giải pháp cụ thể có tính khả thi nhằm nâng cao vai trò của pháp luật TTHC.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi của luận văn này, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu lý luận và thực trạng vai trò của pháp luật TTHC trên cơ sở phân tích, đánh giá nội dung cơ bản của pháp luật tố tụng hành chính hiện hành ở Việt Nam (các quy định về tổ chức Tòa hành chính, quyền khởi kiện VAHC tại tòa án của công dân, thẩm quyền và quyền hạn của Tòa hành chính, một số vấn đề về thủ tục tố tụng trong giải quyết VAHC); hình thức của pháp luật TTHC; thực tiễn thực hiện pháp luật TTHC trong những năm qua. Trên cơ sở phân tích thực trạng vai trò của pháp luật TTHC từ đó rút ra những kết luận làm cơ sở cho việc đề ra những quan điểm và giải pháp nâng cao vai trò pháp luật TTHC.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Luận văn đ¬ược thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, t¬ư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng ta về nhà nước và pháp luật trong lĩnh vực tố tụng hành chính.
* Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn được thực hiện bởi các ph¬ương pháp nghiên cứu nh¬ư phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, diễn giải, lịch sử.
6. Những điểm mới của luận văn
- Lần đầu tiên luận văn phân tích những cơ sở lý luận về vai trò của pháp luật TTHC để chứng minh cho quan điểm đúng đắn của Đảng về việc nâng cao vai trò của Tòa hành chính trong việc giải quyết các khiếu kiện hành chính.
- Lần đầu tiên luận văn đã đánh giá có tính hệ thống về quá trình phát triển của pháp luật TTHC, đánh giá thực trạng vai trò của pháp luật TTHC ở Việt Nam hiện nay.
- Đặc biệt, đây cũng là lần đầu tiên luận văn đưa ra các quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao vai trò của pháp luật TTHC.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn đã đóng góp một số vấn đề lý luận về vai trò của pháp luật TTHC có thể giúp cho các nhà hoạch định chính sách, nhà lập pháp, những người làm công tác nghiên cứu, làm công tác xét xử án hành chính có thêm một phần thông tin lý luận về vai trò của pháp luật TTHC, từ đó đóng góp vào việc xây dựng, tổ chức thực hiện và bảo vệ pháp luật ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho sinh viên trong các trường chuyên luật và không chuyên luật, cho học viên đang học tập trong hệ thống các trường chính trị, cho những người quan tâm nghiên cứu về pháp luật TTHC và vai trò của pháp luật TTHC.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3 chương 7 tiết.
117 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5448 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Vai trò của pháp luật tố tụng hành chính ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o, bảo đảm cho mọi quyết định và hành vi hành chính trái pháp luật đều
được phát hiện và có thể bị khởi kiện trước tòa án” và "từng bước mở rộng
thẩm quyền xét xử các khiếu kiện hành chính của toà án nhân dân" của Đảng
và Nhà nước, trước mắt pháp luật cần bổ sung các loại vụ việc sau cho toà án:
+ Khiếu kiện QĐHC, HVHC trong việc áp dụng các biện pháp cưỡng
chế hành chính;
+ Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc của các tổ chức chính
90
trị, chính trị - xã hội trong các trường hợp được Nhà nước uỷ quyền thực hiện
chức năng quản lý nhà nước theo quy định của pháp luật;
+ Khiếu kiện QĐHC, HVHC liên quan đến quản lý, cung cấp dịch vụ
công cho công dân của các CQNN;
+ Khiếu kiện QĐHC, HVHC trong lĩnh vực xuất bản, in ấn, báo chí,
truyền hình, xuất nhập khẩu sách báo.
- Bổ sung quy định cho phép tòa án tuyên bố tính bất hợp pháp của các
quyết định hành chính quy phạm được dùng làm căn cứ ban hành các quyết
định hành chính hoặc thực hiện hành vi hành chính bị khởi kiện
Như đã phân tích tại Chương 2, trong thực tiễn quản lý hành chính nhà
nước các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền thường ban hành các quyết
định, thể hiện dưới hình thức văn bản, với nhiều tên gọi khác nhau theo luật
định như: luật, nghị quyết, nghị định, quyết định, chỉ thị, thông tư…có chứa
đựng các quy tắc xử sự chung, được áp dụng nhiều lần đối với mọi đối tượng
hoặc một nhóm đối tượng. Trong đó có các quyết định được ban hành để điều
chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động quản lý hành chính nhà
nước, những quyết định này trong khoa học pháp lý thường gọi là QĐHC quy
phạm. Về mặt lý luận thì các QĐHC quy phạm cũng có thể trái pháp luật khi
chúng trái với các quy định của văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao hơn,
khi áp dụng cũng có thể gây thiệt hại tới quyền và lợi ích hợp pháp của cá
nhân, CQNN, tổ chức.
Do vậy, pháp luật cần cho phép tòa án, trong khi xét xử các VAHC đối
với các QĐHC cá biệt hoặc HVHC, nếu phát hiện các QĐHC quy phạm được
dùng làm căn cứ ban hành các QĐHC cá biệt hoặc thực hiện HVHC bị khởi
kiện trái pháp luật, có quyền tuyên bố tính bất hợp pháp của nó, đồng thời yêu
cầu các CQNN có thẩm quyền hủy bỏ hoặc đình chỉ thi hành quyết định đó.
Thứ tư, sửa đổi pháp luật về tổ chức toà án
Việc pháp luật quy định Toà án nhân dân có thẩm quyền xét xử các
91
tranh chấp hành chính như hiện nay là phù hợp với thực tiễn pháp lý và tổ
chức bộ máy nhà nước của nước ta. Tuy nhiên, việc tổ chức hệ thống toà án
nhân dân theo cấp hành chính - lãnh thổ đã làm ảnh hưởng không nhỏ tới
nguyên tắc độc lập xét xử, cùng với tiến trình cải cách tư pháp pháp luật về tổ
chức toà án nói chung, toà hành chính nói riêng cần sửa đổi theo hướng bảo
đảm và thực hiện đúng theo nguyên tắc hai cấp xét xử, tổ chức hệ thống tòa án
theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính, bao gồm các
tòa án sơ thẩm, tòa án phúc thẩm, tòa thượng thẩm và tòa án nhân dân tối cao.
Toà án sơ thẩm được tổ chức ở một hoặc một số đơn vị hành chính cấp
huyện; toà án phúc thẩm được tổ chức ở đơn vị hành chính cấp tỉnh, có nhiệm
vụ chủ yếu là xét xử phúc thẩm và xét xử sơ thẩm một số vụ án; tổ chức một
số toà thượng thẩm khu vực để làm nhiệm vụ xét xử phúc thẩm các vụ án mà
hiện nay tòa án nhân dân tối cao đang đảm nhiệm để toà án tối cao chỉ tập
trung làm nhiệm vụ xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm và tổng kết kinh nghiệm
xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật. Trong các toà án sơ thẩm,
phúc thẩm, thượng thẩm có các phân toà hành chính làm nhiệm vụ xét xử các
tranh chấp hành chính.
Thứ năm, hoàn thiện các quy định có tính đặc thù trong tố tụng
hành chính
- Bổ sung quy định về các căn cứ đánh giá tính hợp pháp của các quyết
định hành chính bị khiếu kiện
Xuất phát từ ý nghĩa vô cùng quan trọng của các căn cứ đánh giá tính
hợp pháp của các QĐHC. Để tạo cơ sở pháp lý cho toà án khi xem xét và ra
các phán quyết về tính hợp pháp của các QĐHC, pháp luật cần quy định cụ
thể các căn cứ này theo những nội dung chính sau:
+ Căn cứ về chủ thể ban hành QĐHC;
+ Căn cứ về nội dung của QĐHC;
+ Căn cứ về trình tự, thủ tục ban hành QĐHC;
92
+ Căn cứ về hình thức của QĐHC.
- Sửa đổi, bổ sung quy định về việc cho phép cơ quan nhà nước sửa đổi
hoặc hủy bỏ quyết định hành chính bị khởi kiện trong quá trình giải quyết vụ
án hành chính
Mục đích của việc cho phép người bị kiện trong quá trình giải quyết vụ
án hành chính được sửa đổi, hủy bỏ QĐHC bị khiếu kiện là làm cho vụ việc
không bị kéo dài, nhưng pháp luật không quy định cụ thể về phạm vi, thời
gian sửa đổi hoặc hủy bỏ dẫn đến gây rắc rối về mặt thủ tục tố tụng, ảnh
hưởng đến chất lượng giải quyết vụ án. Vì vậy, pháp luật cần quy định chặt
chẽ về phạm vi và thời gian sửa đổi, hủy bỏ theo các hướng sau:
+ Người bị kiện chỉ có quyền sửa đổi, hủy bỏ QĐHC bị khiếu kiện
trước khi mở phiên toà;
+ Người bị kiện không được sửa đổi, hủy bỏ QĐHC bị khiếu kiện theo
hướng không có lợi cho người khởi kiện.
- Sửa đổi, bổ sung quy định về nghĩa vụ chứng minh của cơ quan nhà
nước trong tố tụng hành chính
Xuất phát từ quan hệ bất bình đẳng trong tranh chấp hành chính, người
bị kiện là bên chủ động, có quyền đơn phương ra các QĐHC, HVHC trên cơ
sở các quy định của pháp luật. Để bảo đảm sự bình đẳng giữa các bên trong
tố tụng hành chính, pháp luật cần quy định người bị kiện có nghĩa vụ chứng
minh tính hợp pháp của QĐHC, HVHC bị khiếu kiện, đồng thời cũng phải
quy định biện pháp xử lý trong trường hợp bên bị kiện không thực hiện hoặc
chậm chễ thực hiện nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của mình. Cụ thể như sau:
+ Bên bị kiện có nghĩa vụ chứng minh tính hợp pháp của QĐHC,
HVHC bị khiếu kiện;
+ Trong một thời hạn nhất định, sau khi nhận được thông báo về việc bị
khởi kiện, nếu bên bị kiện không cung cấp tài liệu, chứng cứ để chứng minh
tính hợp pháp của QĐHC, HVHC bị khiếu kiện thì Toà án có quyền coi
93
những điều trình bày của người khởi kiện là đúng sự thật.
- Bổ sung quy định về thi hành bản án, quyết định của toà án về việc
giải quyết vụ án hành chính
Thi hành bản án, quyết định của toà án về việc giải quyết vụ án hành
chính có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
công dân, kiểm soát có hiệu quả hoạt động hành chính nhà nước, thể hiện trên
thực tế kết quả của việc xét xử vụ án. Ngoài việc quy định các nguyên tắc
chung về thi hành án theo Điều 74 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án
hành chính và quy định của pháp luật về thi hành án dân sự, pháp luật cần bổ
sung quy định bảo đảm cho việc thi hành án hành chính bằng cách:
+ Quy định chế tài xử lý (kỷ luật hoặc hành chính) đối với các cơ quan,
cá nhân cố tình không thi hành hoặc chậm trễ trong việc thi hành bản án,
quyết định của toà án về việc giải quyết vụ án hành chính;
+ Tạo cơ sở pháp lý cho việc thành lập quỹ bồi thường nhà nước để
thực hiện việc bồi thường thiệt hại về vật chất do những hành vi công vụ của
CQNN, người có thẩm quyền trong CQNN gây ra.
Thứ sáu, hệ thống hoá các văn bản quy phạm pháp luật về tố tụng
hành chính
Sự bất cập của hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về TTHC
như đã nêu ở Chương 2 phần nào đã làm ảnh hưởng tới vai trò của pháp luật
TTHC. Để nâng cao vai trò của pháp luật TTHC thì trong thời gian tới
chúng ta cần tiếp tục rà soát lại toàn bộ các văn bản quy phạm pháp luật có
liên quan tới hoạt động xét xử hành chính của toà án, khắc phục những quy
định còn mâu thuẫn, chồng chéo, sửa đổi những quy định không phù hợp, bổ
sung những quy định mới để khắc phục những "lỗ hổng" trong pháp luật
TTHC, trước hết là tập trung ban hành những văn bản hướng dẫn thi hành
pháp luật, đặc biệt là hướng dẫn thi hành Luật khiếu nại, tố cáo 1998 (đã
được sửa đổi bổ sung năm 2004), các quy định về thẩm quyền, quyền hạn,
94
thủ tục thụ lý, xác minh, thu thập chứng cứ, đình chỉ xét xử, chuyển vụ án,
xóa sổ thụ lý của toà án trong xét xử hành chính trong Pháp lệnh Thủ tục
giải quyết các vụ án hành chính, sau đó tiến tới việc xây dựng thành những
đạo luật có giá trị pháp lý cao.
Để khắc phục tình trạng hiện nay các loại QĐHC, HVHC cụ thể trong
các lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước, thuộc thẩm quyền giải quyết của
toà án được quy định trong quá nhiều văn bản pháp luật ở các cấp độ khác
nhau, nên trong thời gian tới cần nghiên cứu ban hành "Luật về khiếu nại đến
toà án những hành vi (quyết định) đã xâm phạm đến quyền và tự do của công
dân" [9, tr.29]. để tạo cơ sở pháp lý và thuận tiện cho công dân khi cần yêu
cầu toà án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trước sự xâm phạm của
các QĐHC, HVHC trái pháp luật.
3.2.2. Tổ chức thực hiện đúng pháp luật tố tụng hành chính
Cùng với việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật, thực hiện đúng pháp
luật TTHC cũng là một giải pháp quan trọng để nâng cao vai trò của pháp luật
TTHC. Hai giải pháp này có mối quan hệ mật thiết, gắn bó và bổ sung cho
nhau, hệ thống pháp luật TTHC hoàn thiện giúp cho hoạt động thực hiện nó
được đúng và đầy đủ, thực hiện đúng pháp luật TTHC sẽ góp phần hoàn thiện
pháp luật TTHC, vì qua thực tiễn thực hiện pháp luật TTHC, chúng ta có thể
phát hiện ra những ưu điểm và hạn chế, những nội dung phù hợp hoặc không
phù hợp với thực tiễn TTHC để kịp thời hủy bỏ, sửa đổi những nội dung chưa
phù hợp, bổ sung những nội dung chưa được quy định nhằm hoàn thiện pháp
luật. Thông qua hoạt động thực hiện pháp luật TTHC, mà qua đó chủ trương,
đường lối của Đảng về TTHC được kiểm nghiệm trên thực tế, làm cơ sở cho
Đảng xây dựng, sửa đổi, bổ sung các chủ trương, đường lối của mình về
TTHC. Cũng thông qua hoạt động thực hiện pháp luật TTHC, chúng ta phát
hiện ra những quy định không phù hợp, giúp cho Nhà nước kịp thời sửa đổi,
bổ sung những quy định nhằm bảo đảm cho việc thể chế hóa đúng định hướng
95
về nội dung đường lối, chính sách của Đảng về TTHC. Như vậy, thực hiện
pháp luật TTHC là hoạt động mà thông qua đó vai trò của pháp luật TTHC
được thể hiện và thực hiện đúng pháp luật TTHC sẽ góp phần nâng cao vai trò
của pháp luật TTHC.
Thực hiện pháp luật TTHC là hoạt động đưa pháp luật vào cuộc sống,
thực hiện đúng pháp luật TTHC góp phần nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của cá nhân, CQNN, tổ chức, góp phần củng cố lòng tin của
nhân dân đối với pháp luật, làm cho nhân dân sử dụng nó như là một phương
tiện hữu hiệu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, củng cố lòng tin
của nhân dân đối với đường lối của Đảng nói chung, đường lối về TTHC nói
riêng, qua đó góp phần nâng cao vai trò của pháp luật tố tụng hành chính. Để
thực hiện đúng các quy phạm pháp luật TTHC, chúng ta cần thực hiện các
biện pháp sau:
Một là, xây dựng đội ngũ cán bộ và thẩm phán làm công tác giải quyết
các tranh chấp hành chính có phẩm chất chính trị, năng lực chuyên môn
nghiệp vụ và có kiến thức về quản lý hành chính nhà nước
Theo đánh giá chung của Tòa án nhân dân tối cao về đội ngũ cán bộ tòa
án nói chung, cán bộ làm công tác giải quyết các tranh chấp hành chính nói
riêng thì trình độ chuyên môn nghiệp vụ và kiến thức về quản lý hành chính
nhà nước còn có những hạn chế nhất định, một bộ phận nhỏ xa sút về phẩm
chất chính trị và đạo đức. Trong khi đó, TTHC từ nhận đơn, thụ lý đến thi
hành án là một quá trình khá phức tạp, phải tuân theo những quy định chặt
chẽ về thủ tục, có nhiều đặc thù so với các loại hình tố tụng khác. Các khiếu
kiện hành chính nảy sinh trong tất cả các lĩnh vực quản lý hành chính nhà
nước, do nhiều loại văn bản của các CQNN khác nhau điều chỉnh, mặt khác
bên bị kiện trong VAHC luôn luôn là CQNN hoặc người có thẩm quyền trong
CQNN. Do vậy, việc có thực hiện đúng pháp luật TTHC hay không phụ thuộc
rất nhiều vào năng lực chuyên môn nghiệp vụ, phẩm chất chính trị và kiến
96
thức về quản lý hành chính nhà nước của đội ngũ cán bộ làm công tác xét xử
hành chính, chính vì vậy Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã
đề ra nhiệm vụ “Xây dựng đội ngũ cán bộ thẩm phán, thư ký tòa án…có phẩm
chất chính trị và đạo đức chí công vô tư, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ
vững vàng, bảo đảm cho bộ máy trong sạch, vững mạnh”.
Để thực hiện nhiệm vụ trên, trong thời gian tới ngành tòa án phải tăng
cường đội ngũ thẩm phán, hội thẩm nhân dân và cán bộ tòa án cả về số lượng
và chất lượng, thực hiện tiêu chuẩn hóa đội ngũ. Thường xuyên giáo dục
chính trị tư tưởng, đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ và kiến thức về
quản lý hành chính nhà nước, rà soát để bảo đảm cho đội ngũ vừa tinh thông
nghiệp vụ, vừa trong sạch về phẩm chất chính trị và đạo đức.
Hai là, bảo đảm cơ sở vật chất, kinh phí hoạt động cho ngành tòa án
nhân dân, hoàn thiện chế độ chính sách đối với cán bộ tòa án
Mặc dù, việc bảo đảm cơ sở vật chất, kinh phí hoạt động cho ngành tòa
án nhân dân không phải là yếu tố quyết định, nhưng nó góp phần tạo ra các
điều kiện cần thiết để thực hiện đúng pháp luật TTHC. Trong thời gian qua,
ngành tòa án đã được Đảng và Nhà nước quan tâm đầu tư, xây dựng cơ sở vật
chất, trang thiết bị nhưng thực tiễn cho thấy nó vẫn chưa đáp ứng được yêu
cầu phục vụ công tác xét xử. Do vậy, trong thời gian tới cần tiếp tục đầu tư,
trang bị các phương tiện, thiết bị ứng dụng công nghệ thông tin, tin học để tạo
điều kiện cho cán bộ tòa án tiếp cận nhanh chóng với các thông tin về pháp
luật, các thành tựu khoa học pháp lý, các kiến thức về quản lý hành chính nhà
nước và các lĩnh vực khác để nâng cao năng lực xét xử nói chung, năng lực
xét xử hành chính nói riêng.
Bên cạnh đó, do đặc thù của nghề xét xử, phải chịu nhiều áp lực về
chính trị tư tưởng và chuyên môn nghiệp vụ, nên cần hoàn thiện chính sách
đãi ngộ đối với đội ngũ cán bộ tòa án nhằm bảo đảm đời sống cho họ, để họ
yên tâm công tác, tránh được sự tác động đến hoạt động chuyên môn ảnh
97
hưởng tới việc thực hiện đúng pháp luật trong hoạt động xét xử.
Ba là, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp
luật nhằm nâng cao nhận thức về pháp luật tố tụng hành chính cho toàn thể
cộng đồng xã hội, bảo đảm cho mọi người hiểu đúng và đầy đủ các quyền,
nghĩa vụ của mình trong tố tụng hành chính
Nhận thức đầy đủ pháp luật TTHC giúp cho các chủ thể có niềm tin và
xử sự theo pháp luật một cách tích cực, bảo đảm cho hoạt động thực hiện
pháp luật TTHC được đúng và đầy đủ, trên cơ sở đó mà nâng cao vai trò của
pháp luật TTHC. Vì vậy, cần phải nâng cao ý thức về pháp luật TTHC cho
các chủ thể, như thông qua hoạt động tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp
luật TTHC, bằng nhiều hình thức như các buổi nói chuyện chuyên đề, các
cuộc thi tìm hiểu…, bằng các phương tiện thông tin đại chúng, sách báo, các
hình thức trợ giúp pháp lý, giáo dục trong các lớp ngắn hạn, trung hạn và dài
hạn cho các loại đối tượng cụ thể, để đạt được các mục tiêu: các cán bộ làm
công tác xét xử hành chính hiểu đúng, hiểu đầy đủ nội dung các quy định về
thủ tục tố tụng, các quy định pháp luật về quản lý hành chính nhà nước, ít
nhất là trong các lĩnh vực thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án. Đối với các
chủ thể khác, công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật TTHC
bảo đảm cho họ hiểu đúng và đầy đủ các loại QĐHC, HVHC nào được quyền
khởi kiện tại tòa án; trình tự, thủ tục, điều kiện khởi kiện và các quyền, nghĩa
vụ của họ khi tham gia tố tụng hành chính.
Ngoài các biện pháp kể trên, để thực hiện đúng pháp luật TTHC thì
ngành tòa án cần phải tăng cường công tác kiểm tra, giám đốc xét xử để kịp
thời phát hiện và sửa chữa những sai sót trong hoạt động TTHC, qua đó tổng
kết kinh nghiệm xét xử và hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật. Các cơ
quan, đại biểu dân cử, các phương tiện thông tin đại chúng trong phạm vi
chức năng, quyền hạn của mình cũng phải tăng cường giám sát hoạt động xét
xử của tòa án nói chung, tố tụng hành chính nói riêng để hoạt động tố tụng
98
hành chính được đúng.
3.2.3. Đổi mới cơ chế phân công, phối hợp hoạt động giữa các cơ
quan xây dựng pháp luật và nâng cao trình độ của cán bộ xây dựng, ban
hành pháp luật tố tụng hành chính
Xây dựng pháp luật là một hoạt động phức hợp bao gồm một
phạm vi rộng lớn các hành vi kế tiếp nhau, quan hệ chặt chẽ với
nhau, do nhiều chủ thể có vị trí, chức năng, quyền hạn khác nhau
tiến hành nhằm chuyển hoá ý chí của giai cấp cầm quyền thành
những qui tắc pháp lý, thể hiện chúng dưới những hình thức pháp
luật [25, tr.225-226].
Pháp luật TTHC là phương tiện quan trọng để thể chế đường lối, chủ
trương của Đảng đối với hoạt động giải quyết khiếu nại của công dân, là
phương tiện bảo đảm pháp chế và kỷ luật trong hoạt động hành chính nhà
nước, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của công dân trước sự xâm phạm của các
QĐHC, HVHC trái pháp luật của các CQNN, người có thẩm quyền trong
CQNN. Việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật TTHC có ý nghĩa
quan trọng trong việc nâng cao vai trò của pháp luật TTHC.
Trong thời gian qua, hoạt động ban hành các văn bản quy phạm pháp
luật về TTHC đã có những bước tiến quan trọng trong việc thể chế hoá các
nghị quyết của Đảng về tố tụng hành chính, ban hành một số lượng văn bản
luật như Luật, Pháp lệnh, Nghị định, Nghị quyết của hội đồng thẩm phán toà
án nhân dân tối cao…tạo ra một khung pháp lý để giải quyết tranh chấp hành
chính tại toà án, góp phần quan trọng vào công cuộc đổi mới toàn diện đất
nước và chủ động hội nhập quốc tế.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, hoạt động xây dựng và ban
hành các văn bản pháp luật về TTHC từ khâu lập chương trình, soạn thảo,
thẩm tra, thẩm định, xem xét thông qua còn nhiều hạn chế dẫn đến chất lượng
văn bản pháp luật về TTHC còn nhiều bất cập cả về nội dung và hình thức
99
văn bản, còn có tình trạng quy định chưa rõ ràng, còn có "lỗ hổng" pháp luật,
mâu thuẫn, chồng chéo, gây khó khăn cho việc thực thi.
Hoạt động xây dựng pháp luật nói chung và pháp luật TTHC nói riêng
bao gồm nhiều hình thức hoạt động khác nhau, tuân theo một trình tự luật
định và các hình thức này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Quá trình này
bao gồm các hình thức:
- Hoạt động nhận thức nhằm hình thành các nguyên tắc, phương hướng,
mục tiêu xây dựng hệ thống pháp luật;
- Hoạt động lập chương trình xây dựng pháp luật;
- Hoạt động soạn thảo và thông qua các dự án văn bản quy phạm pháp
luật;
- Hoạt động chuẩn bị các văn bản phát sinh (văn bản kèm theo) nếu có;
- Hoạt động giải thích pháp luật.
Như vậy, hoạt động xây dựng, ban hành pháp luật TTHC được thực
hiện qua nhiều giai đoạn với các chủ thể khác nhau và do vậy việc nâng cao
chất lượng các văn bản quy phạm pháp luật về TTHC phụ thuộc nhiều vào
việc đổi mới sự phân công, phối hợp hoạt động giữa các cơ quan và trình độ
của những người làm công tác xây dựng, ban hành pháp luật TTHC. Để nâng
cao chất lượng hoạt động xây dựng, ban hành pháp luật TTHC cần thực hiện
được những yêu cầu sau:
- Tăng cường công tác thẩm định các dự án xây dựng pháp luật nhằm
loại bỏ tính cục bộ, khắc phục những chồng chéo, mâu thuẫn…trong nội dung
của các văn bản pháp luật;
- Lập chương trình xây dựng các văn bản pháp luật về TTHC phải bảo
đảm các nội dung: chương trình xây dựng các văn bản pháp luật về TTHC
phải là phương tiện để thể chế chủ trương, đường lối của Đảng về giải quyết
khiếu kiện hành chính, bảo đảm quyền tự do dân chủ của công dân, cải cách
hành chính, cải cách tư pháp, từng bước xây dựng và hoàn thiện nhà nước
100
pháp quyền xã hội chủ nghĩa;
- Đổi mới công tác soạn thảo các dự thảo văn bản pháp luật về TTHC,
phân công, phân định trách nhiệm cho từng cơ quan soạn thảo, nâng cao chất
lượng tổng kết tình hình thi hành pháp luật TTHC, khảo sát, đánh giá thực
trạng các khiếu kiện hành chính liên quan đến dự án, tổ chức lấy ý kiến của
các cơ quan, tổ chức và nhân dân;
- Đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật và kiến thức trong các lĩnh
vực khác cho cán bộ tham gia xây dựng, ban hành văn bản pháp luật về
TTHC, trước hết là những kiến thức về chính trị để nắm bắt được mục tiêu và
chủ trương của Đảng, có bản lĩnh chính trị và đạo đức cách mạng, sau đó là
kiến thức về khoa học pháp lý để nắm được những khái niệm, phạm trù của
khoa học pháp lý, có kiến thức về luật học so sánh để tiếp thu có chọn lọc
kinh nghiệm của nước ngoài, xây dựng pháp luật phù hợp với pháp luật quốc
tế và có kỹ năng soạn thảo các văn bản pháp luật một cách rõ ràng, chính xác
làm cơ sở cho hoạt động xây dựng pháp luật, chuyển hoá chính xác chủ
trương, chính sách của Đảng thành các quy phạm pháp luật. Tăng cường công
tác nghiên cứu khoa học pháp lý, đào tạo cán bộ pháp lý giỏi giúp cho việc
hoạch định chính sách, chiến lược, chương trình xây dựng pháp luật, có chế
độ đãi ngộ thoả đáng để thu hút những người có trình độ chuyên môn cao
tham gia vào công tác xây dựng và ban hành pháp luật;
- Nâng cao trình độ năng lực pháp lý của Đại biểu quốc hội để xây
dựng và ban hành đầy đủ và tốt hơn các quy phạm pháp luật tố tụng hành
chính. Đại biểu quốc hội là người đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân
dân, hoạt động chính của Đại biểu quốc hội là hoạt động lập pháp. Để ban
hành ra những đạo luật tốt và đầy đủ, trong đó có các đạo luật về TTHC, đòi
hỏi phải nâng cao trình độ năng lực pháp lý của Đại biểu quốc hội. Trước hết
phải quy định rõ tiêu chuẩn của những người ra ứng cử đại biểu quốc hội, bao
gồm: các tiêu chẩn về phẩm chất chính trị, đạo đức, trình độ lý luận chính trị;
101
sau đó là phải có trình độ kiến thức pháp lý, một số kiến thức khoa học khác
và khiến thức về quản lý hành chính nhà nước để các Đại biểu quốc hội có thể
thực hiện tốt hơn quyền trình dự án luật, biểu quyết luật, giám sát luật, phát
hiện ra các nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật, những sai sót, bất cập, mâu
thuẫn, chồng chéo của pháp luật nói chung, pháp luật TTHC nói riêng.
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động xây dựng và ban
hành pháp luật TTHC nhằm thể chế hoá đúng tư tưởng, quan điểm của Đảng
và bảo đảm thực hiện có kết quả trong đời sống xã hội. Đây là nguyên tắc cơ
bản, xuyên suốt trong hoạt động xây dựng và ban hành pháp luật, cũng không
có nghĩa là Đảng áp đặt, bao biện làm thay các CQNN trong hoạt động xây
dựng và ban hành pháp luật TTHC, mà tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối
với hoạt động xây dựng và ban hành pháp luật TTHC là tăng cường khả năng
vạch ra các chủ trương đúng đắn về TTHC, khả năng giáo dục, thuyết phục
các cơ quan xây dựng và ban hành pháp luật TTHC chấp nhận đường lối của
mình để thể chế, ban hành thành các quy phạm pháp luật.
Kết luận chương 3
Trên cơ sở quán triệt các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước
về xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân, vì dân, các nguyên tắc của pháp luật xã hội chủ nghĩa, các hạn chế và
nguyên nhân hạn chế được rút ra từ việc đánh giá thực trạng. Tác giả đã trình
bày các quan điểm nâng cao vai trò của pháp luật TTHC ở Việt Nam hiện
nay bao gồm: Nâng cao vai trò của pháp luật tố tụng hành chính phải căn cứ
vào đường lối, chủ trương của Đảng về tố tụng hành chính; Nâng cao vai trò
của pháp luật tố tụng hành chính phải đảm bảo các nguyên tắc của pháp luật
xã hội chủ nghĩa; Nâng cao vai trò của pháp luật tố tụng hành chính phải đáp
ứng yêu cầu của cải cách hành chính, cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa; Nâng cao vai trò của pháp luật tố tụng hành
102
chính phải phù hợp với thực tiễn tố tụng hành chính và vận dụng có chọn lọc
kinh nghiệm của nước ngoài phù hợp với Việt Nam
Tác giả cũng đề xuất các giải pháp để nâng cao vai trò của pháp luật
TTHC ở Việt Nam hiện nay bao gồm: Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật
tố tụng hành chính để tạo cơ sở pháp lý đầy đủ cho hoạt động TTHC; Tổ chức
thực hiện đúng pháp luật tố tụng hành chính để pháp luật TTHC đi vào thực
tiễn cuộc sống và phát huy hiệu lực trên thực tế; Đổi mới cơ chế phân công,
phối hợp hoạt động giữa các cơ quan xây dựng pháp luật và nâng cao trình độ
của cán bộ xây dựng, ban hành pháp luật tố tụng hành chính nhằm tạo ra cơ
sở cho việc ban hành những quy định về TTHC có chất lượng, có tính khoa
học và phù hợp với thực tiễn giải quyết tranh chấp hành chính ở Việt Nam
hiện nay.
103
KẾT LUẬN
Giải quyết các tranh chấp hành chính hay khiếu kiện hành chính có ý
nghĩa vô cùng quan trọng trong việc phát huy nền dân chủ, xây dựng và hoàn
thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, việc xây dựng và hoàn
hiện cơ chế giải quyết tranh chấp hành chính đã trở thành một trong những
nội dung, động lực và mục tiêu của cách mạng Việt Nam ngay từ những buổi
đầu lập nước. Đây là vấn đề lớn, không thể giải quyết ngay trong một lúc
nhưng lại là một đòi hỏi cấp bách của thực tiễn, bởi vậy, giải quyết khiếu kiện
hành chính phải cần đến một cơ chế đồng bộ, bằng sự kết hợp của cả phương
thức hành chính và phương thức toà án, trong đó hoạt động giải quyết bằng
toà án tuy là phương thức mới ở Việt Nam nhưng nó đã thể hiện sự tiến bộ,
tính dân chủ, khách quan, công bằng của nó trong thực tiễn giải quyết tranh
chấp hành chính. Pháp luật tố tụng hành chính, cơ sở pháp lý cho hoạt động
giải quyết tranh chấp hành chính bằng con đường toà án có vai trò rất quan
trọng và không thể thay thế bằng các hình thức pháp lý khác. Vai trò của pháp
luật TTHC được thể hiện thông qua hoạt động xây dựng pháp luật, bằng việc
xây dựng và ban hành các quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động tố tụng
hành chính, trên cơ sở đó vai trò của pháp luật TTHC còn được phần nào thể
hiện thông qua hoạt động thực hiện pháp luật của nhân dân.
Thực trạng vai trò của pháp luật TTHC ở Việt Nam hiện nay cho thấy
bên cạnh những thành tựu, ưu điểm không thể phủ nhận, nó còn không ít
những khiếm khuyết, bất cập. Những hạn chế đó bộc lộ cả trong hệ thống
pháp luật TTHC thực định, thông qua một số quy phạm pháp luật, chế định
pháp luật và trong hiệu quả, chất lượng của hoạt động thực hiện pháp luật
TTHC cũng như những hạn chế và bất cập trong ý thức về pháp luật TTHC
của nhân dân. Thực trạng đó bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu
là do những hạn chế trong hoạt động của các cơ quan xây dựng, ban hành và
104
thực hiện pháp luật TTHC; những quan điểm, thói quen sử dụng pháp luật của
nhân dân do tàn tích để lại, những hạn chế trong hoạt động nghiên cứu khoa
học pháp lý trước những đòi hỏi cấp bách của hoạt động giải quyết khiếu nại
hành chính.
Trên cơ sở những tiền đề lý luận về vai trò của pháp luật TTHC và
những nguyên nhân được rút ra từ việc đánh giá thực trạng vai trò của pháp
luật TTHC ở Việt Nam hiện nay, luận văn đề xuất một số quan điểm và giải
pháp chủ yếu nhằm nâng cao vai trò của pháp luật TTHC trong thời gian tới.
Các quan điểm chỉ đạo tập trung vào một số vấn đề như: phải căn cứ vào chủ
trương, đường lối của Đảng về hoạt động TTHC, căn cứ vào các nguyên tắc
của pháp luật xã hội chủ nghĩa, vào thực tiễn TTHC Việt Nam, tiếp thu có
chọn lọc kinh nghiệm nước ngoài và phải đáp ứng yêu cầu cải cách hành
chính, cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Từ
đó, các giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao vai trò của pháp luật TTHC đặt
trọng tâm vào các giải pháp: tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật tố tụng
hành chính; tổ chức thực hiện đúng pháp luật TTHC để tìm ra những điểm
hạn chế, bất hợp lý của quy phạm pháp luật TTHC, trên cơ sở đó mà hoàn
thiện pháp luật TTHC, nâng cao vai trò của pháp luật TTHC và đổi mới cơ
chế phân công phối hợp giữa các cơ quan và nâng cao trình độ của các cán bộ
xây dựng, ban hành pháp luật TTHC.
Với những gì đã đạt được, luận văn hy vọng được đóng góp một phần
nhỏ vào việc giải đáp những đòi hỏi cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn nhằm
nâng cao vai trò của pháp luật TTHC ở Việt Nam hiện nay.
105
PHỤ LỤC
Các văn bản quy phạm pháp luật về tố tụng hành chính
tính đến năm 2004
CÁC
VĂN
BẢN
QUY
PHẠM
PHÁP
LUẬT
VỀ
THẨM
QUYỀN
CỦA
TAND
(THEO
KHOẢN
10
ĐIỀU
11
PHÁP
LỆNH
TTGQC
VAHC)
Nghị định số 76/CP ngày 29/11/1996 hướng dẫn thi hành một số quy định
về quyền tác giả trong Bộ luật Dân sự.
Nghị định số 63/CP ngày 24/10/1996 quy định chi tiết về sở hữu công nghiệp
Nghị định số 57/CP ngày 31/5/1997 quy định về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực đo lường và chất lượng hàng hóa.
Nghị định số 45/1998/NĐ-CP ngày 01/7/1998 quy định chi tiết về chuyển
giao công nghệ.
Nghị định số 72/2000/NĐ-CP ngày 05/12/2000 về công bố, phổ biến tác
phẩm ra nước ngoài.
Nghị định 06/2001/NĐ-CP ngày 01/02/2001 sửa đổi, bổ sung một số điều
Nghị định số 63/CP ngày 24/10/1996 về sở hữu công nghiệp.
Nghị định số 12/1999/NĐ-CP ngày 06/3/1999 về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp.
Nghị định số 101/2001/NĐ-CP ngày 31/12/2001 Quy định chi tiết thi hành
một số điều của Luật Hải quan về thủ tục hải quan, chế độ kiểm tra,
giám sát hải quan.
Pháp lệnh số 37/2001/PL-UBTVQH10 ngày 25/7/2001 về luật sư.
Nghị định số 31/2001/NĐ-CP ngày 26/6/2001 về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực văn hóa - thông tin.
Pháp lệnh của Uỷ ban thường vụ Quốc hội số 44/2002/PL-UBTVQH10
ngày 2/7/2002 về việc xử lý vi phạm hành chính.
Nghị định số 13/2001/NĐ-CP ngày 20/4/2001 về bảo hộ giống cây trồng mới.
Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngỳa 08/12/2000 về công chức, chứng thực.
106
VĂN
BẢN
QUY
PHẠM
PHÁP
LUẬT
VỀ
QUẢN
LÝ
NHÀ,
ĐẤT
Luật đất đai năm 1993 (sửa đổi bổ sung năm 1998, 2000, 2001)
Luật Đất đai năm 2003
Nghị định số 04/2000/NĐ-CP ngày 11/02/2000 về thi hành Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật Đất đai 1998.
Nghị định số 66/2001/NĐ-CP ngày 28/9/2001 sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị định số 04/2000/NĐ-CP ngày 11/02/2000 về thi hành
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai.
Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 về thi hành Luật Đất đai 2003.
Nghị định số 164/2004/NĐ-CP ngày 14/9/2004 về kê biên, đấu giá quyền
sử dụng đất để bảo đảm thi hành án.
Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 về bồi thường, hỗ trợ và
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
Nghị định số 198/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 về thu tiền sử dụng đất.
Nghị định số 188/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 về phương pháp xác định
giá đất và khung giá các loại đất.
Thông tư liên tịch của TANDTC, VKSNDTC, TCĐC số 1/2002/TTLT-
TANDTC - VKSNDTC-TCĐC ngày 03/01/2002 hướng dẫn về thẩm
quyền của Tòa án nhân dân trong việc giải quyết các tranh chấp liên
quan đến quyền sử dụng đất.
Nghị định số 19/1999/NĐ-CP ngày 29/3/1999 về thủ tục chuyển đổi,
chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế quyền sử dụng đất và
thế chấp, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất đai.
Nghị định số 79/2001/NĐ-CP ngày 01/11/2001 sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị định số 17/1999/NĐ-CP ngày 29/3/1999 về thủ tục
chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế quyền sử
dụng đất và thế chấp, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất.
Nghị định số 38/2000/NĐ-CP ngày 23/8/2000 về thu tiền sử dụng đất.
Nghị định 88/CP ngày 17/8/1994 về quản lý và sử dụng đất đô thị.
Nghị định 60/CP ngày 5/7/1994 về quyền SH nhà và QSD đất ở tại đô thị.
107
Nghị định 61/CP ngày 05/7/1994 về mua bán và kinh doanh nhà ở.
Nghị định 21/CP ngày 16/4/1996 về sửa đổi bổ sung điều 5 và 7 Nghị định
số 61/CP ngày 05/7/1994 về mua bán và kinh doanh nhà ở.
Nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội số 58/1998/NQ-UBTVQH10 ngày
24/8/1998 về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1/7/1991.
Nghị định số 64-CP ngày 27/9/1993 ban hành bản quy định về việc giao
đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài
vào mục đích sản xuất nông nghiệp.
Nghị định số 163/1999/NĐ-CP ngày 16/11/1999 về giao đất, cho thuê đất
lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định, lâu
dài vào mục đích lâm nghiệp.
Nghị định số 22/1998/NĐ-CP ngày 24/4/1998 về đền bù thiệt hại khi Nhà
nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích an ninh, quốc phòng, lợi
ích quốc gia, lợi ích công cộng.
Thông tư của Tổng cục Địa chính số 346/1998/TT-TCĐC ngày 16/3/1998
hướng dẫn thủ tục đăng ký đất đai, lập hồ sơ địa chính và cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất.
Thông tư của Tổng cục địa chính số 1990/2001/TC-TCĐC ngày
30/11/2001 hướng dẫn kê khai đăng ký đất đai, lập hồ sơ địa chính và
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Thông tư của Bộ trưởng Bộ Xây dựng số 383/BXD-ĐT ngày 5/10/1991
của Bộ Xây dựng hướng dẫn thi hành Quyết định của Chủ tịch Hội
đồng Bộ trưởng về việc giải quyết một số vấn đề về nhà ở.
Công văn của Tòa án nhân dân tối cao số 169/2002/KHXX ngày
15/11/2002 về việc đường lối giải quyết các khiếu kiện, các tranh
chấp đòi lại đất đã giao cho người khác sử dụng.
Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 1995.
Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002.
Nghị định số 134/2003/NĐ-CP ngày 14/11/2003 quy định chi tiết thi hành
108
CÁC
VĂN
BẢN
QUY
PHẠM
PHÁP
LUẬT
VỀ XỬ
PHẠT
VI
PHẠM
HÀNH
CHÍNH
một số điều của Pháp lệnh xử lý VPHC năm 2002.
Nghị định số 53/2001/NĐ-CP ngày 23/8/2001 hướng dẫn thi hành các hình
phạt cấm cư trú và quản chế.
Nghị định số 52/2001/NĐ-CP ngày 23/8/2001 hướng dẫn thi hành biện
pháp tư pháp đưa vào trường giáo dưỡng.
Nghị định số 163/2003/NĐ-CP ngày 19/12/2003 quy định chi tiết thi hành
biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
Nghị định số 54/2001/NĐ-CP ngày 23/8/2001 hướng dẫn thi hành hình
phạt trục xuất.
Nghị định số 135/2004/NĐ-CP ngày 10/6/2004 quy định chế độ áp dụng
biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh, tổ chức hoạt động của cơ sở chữa
bệnh theo Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và chế độ áp dụng đối
với người chưa thành niên, người tự nguyện vào cơ sở chữa bệnh.
Nghị định số 62/2004/NĐ-CP ngày 07/9/2004 ban hành Quy chế tạm giữ
người theo thủ tục hành chính.
Thông tư của Bộ Tài chính số 72/2004/TT-BTC ngày 15/7/2004 hướng
dẫn việc quản lý và xử lý tang vật, phương tiện tịch thu sung quỹ
Nhà nước do vi phạm hành chính.
Nghị định số 04/CP ngày 10/1/1997 về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực quản sử dụng đất đai.
Nghị định số 182/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực đất đai.
Nghị định số 48/CP ngày 5/5/1997 về xử phạt VPHC trong quản lý xây
dựng, quản lý nhà và công trình kỹ thuật hạ tầng đối với đô thị.
Nghị định số 126/2004/NĐ-CP ngày 26/5/2004 về xử phạt vi phạm hành
chính trong hoạt động xây dựng, quản lý công trình hạ tầng đô thị và
quản lý sử dụng nhà.
Nghị định số 22/CP ngày 14/4/1996 về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực thuế.
Nghị định số 100/2004/NĐ-CP ngày 25/02/2004 về xử phạt vi phạm hành
109
chính trong lĩnh vực thuế.
Thông tư của Bộ Tài chính số 114/1999/TT-BTC ngày 23/9/1999 bổ sung
Thông tư số 128/TT-BTC ngày 22/9/1998 hướng dẫn thực hiện Nghị
định số 22/CP ngày 17/4/1996 của Chính phủ về việc xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực thuế.
Công văn của Bộ Tài chính số 15242 TC/TCT ngày 24/12/2004 về việc
hướng dẫn xử phạt vi phạm hành chính về thuế.
Nghị định số 106/2003/NĐ-CP ngày 23/9/2003 quy định về việc xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực phí, lệ phí.
Thông tư của Bộ Tài chính số 06/2004/TT-BTC ngày 04/02/2004 hướng
dẫn thực hiện Nghị định số 106/2003/NĐ-CP ngày 23/9/2003 của
Chính phủ quy định về việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực phí, lệ phí.
Nghị định số 169/2004/NĐ-CP ngày 22/9/2004 quy định về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực giá.
Thông tư của Bộ tài chính số 110/2004/TT-BTC ngày 18/11/2004 hướng dẫn
thực hiện Nghị định số 169/2004/NĐ-CP ngày 22/9/2004 của Chính
phủ quy định về việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giá.
Nghị định số 161/2004/NĐ-CP ngày 07/9/2004 về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán.
Nghị định số 18/CP ngày 24/02/1997 về việc xử lý vi phạm hành chính
trong lĩnh vực Ngân hàng.
Nghị định số 202/2004/NĐ-CP ngày 10/12/2004 về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng.
Nghị định số 49/1999/NĐ-CP ngày 08/7/1999 về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực kế toán.
Nghị định số 185/2004/NĐ-CP ngày 04/11/2004 về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực kế toán.
Nghị định số 77/CP ngày 29/11/1996 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản.
110
Nghị định số 17/2002/NĐ-CP ngày 08/02/2002 sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị định số 77/CP ngày 29/11/2996 của Chính phủ về xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và
quản lý lâm sản.
Nghị định số 139/2004/NĐ-CP ngày 25/6/2004 về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản.
Nghị định số 31/2001/NĐ-CP ngày 26/6/201 về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực văn hóa - thông tin.
Nghị định số 37/2003/NĐ-CP ngày 10/4/2003 về xử phạt vi phạm hành
chính về đăng ký kinh doanh.
Nghị định số 01/CP ngày 3/1/1996 về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực thương mại.
Nghị định số 01/2002/CP ngày 3/1/2002 sửa đổi bổ sung Nghị định 01/CP
về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại.
Nghị định số 175/2004/NĐ-CP ngày 10/10/2004 về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực thương mại.
Thông tư của Bộ Thương mại số 09/2001/TT-BTM ngày 13/4/2001 về tổ chức,
nhiệm vụ, quyền hạn của lực lượng quản lý thị trường ở địa phương.
Nghị định số 16/2000/NĐ-CP ngày 10/5/2000 quy định xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực quản lý nhà nước về chuyển giao công nghệ.
Nghị định số 16/CP ngày 20/3/1996 về XPVPHC trong lĩnh vực quản lý
Nhà nước về hải quan.
Nghị định số 58/2000/NĐ-CP ngày 24/10/2000 về sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị định số 16/CP ngày 20/3/1996 và Nghị định số
54/1998/NĐ-CP ngày 21/7/1998 của Chính phủ quy định việc xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý Nhà nước về hải quan.
Nghị định 107/2002/NĐ-CP ngày 23 tháng 12 năm 2002 quy định phạm vi
địa bàn hoạt động hải quan; quan hệ phối hợp trong phòng, chống
buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới và các hành vi
khác vi phạm pháp luật hải quan.
111
Nghị định số 138/2004/NĐ-CP ngày 17/6/2004 quy định việc xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan.
Nghị định số 173/2004/NĐ-CP ngày 30/9/2004 quy định về thủ tục, cưỡng
chế và xử phạt vi phạm hành chính trong thi hành án dân sự.
Nghị định số 15/2003/NĐ-CP ngày 19/02/2003 quy định xử phạt vi phạm
hành chính về giao thông đường bộ.
Công văn của Bộ tài chính số 4232 TC/KBNN ngày 27/11/1997 về ủy
quyền thu phạt hành chính.
VĂN
BẢN
QUY
PHẠM
PHÁP
LUẬT
VỀ
QUẢN
LÝ
CÁN
BỘ,
CÔNG
CHỨC
Pháp lệnh số 01/1998/PL-UBTVQH10 ngày 26/02/1998 cán bộ, công chức.
Nghị định số 97/1998/QĐ-CP ngày 17/11/1998 về xử lý kỷ luật và trách
nhiệm vật chất đối với công chức.
Nghị định số 96/1998/CP-NĐ ngày 17/11/1998 về chế độ thôi việc đối với
cán bộ, công chức.
Pháp lệnh số 21/2000/PL-UBTVQH10 ngày 28/4/2000 sửa đổi, bổ sung
một số điều của Pháp lệnh cán bộ, công chức.
Pháp lệnh số 11/2003/PL-UBTVQH11 ngày 29/4/2003 sửa đổi, bổ sung
một số điều của Pháp lệnh cán bộ, công chức.
Nghị định số 117/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 về việc tuyển dụng, sử
dụng và quản lý cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước.
Nghị định số 116/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 về việc tuyển dụng, sử dụng
và quản lý cán bộ, công chức trong các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước.
Công văn của Bộ Nội vụ số 537/BNV-CCVC ngày 15/3/2004 về việc
hướng dẫn một số vấn đề trong tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán
bộ, công chức.
Nghị định số 114/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 về cán bộ, công chức xã,
phường, thị trấn.
Nghị định số 121/2003/NĐ-CP ngày 21/10/2003 về chế độ, chính sách đối
với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn.
Nghị định số 71/2003/NĐ-CP ngày 19/6/2003 về phân cấp quản lý biên
chế hành chính, sự nghiệp nhà nước.
112
Nghị định 68/2000/NĐ-CP ngày 17/11/2000 về thực hiện chế độ hợp đồng một
số loại công việc trong cơ quan hành chính Nhà nước, đơn vị sự nghiệp.
VĂN
BẢN
QUY
PHẠM
PHÁP
LUẬT
VỀ
THỦ
TỤC
TỐ
TỤNG
Pháp lệnh TTGQCVAHC 1996 và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung 1998.
Nghị quyết 03 ngày 18/4/2003 của HĐTP TANDTC hướng dẫn một số
quy định của Pháp lệnh TTGQCVAHC.
Công văn 39/KHXX ngày 6/7/1996 hướng dẫn một số quy định của Pháp
lệnh TTGQCVAHC.
Nghị định số 70/CP ngày 12/6/1997 về án phí, lệ phí Tòa án.
Công văn số 16/1999/KHXX của TANDTC giải đáp một số vướng mắc về
Hình sự - Dân sự - Kinh tế - Lao động - hành chính và tố tụng.
Công văn 24/1999/KHXX của TANDTC giải đáp một số vướng mắc về
hình sự - dân sự - kinh tế - lao động - hành chính và tố tụng.
Công văn 24/1999/KHXX của TANDTC giải đáp một số vướng mắc về
hình sự - dân sự - kinh tế - lao động - hành chính và tố tụng.
Công văn TANDTC số 166/2001/KHXX ngày 14/12/2001 về việc tính
thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Công văn của TANDTC số 189/2002/KHXX ngày 31/12/2002 về việc quyết
định về án phí trong bản án dân sự, kinh tế, lao động, hành chính.
VĂN
BẢN
QUY
PHẠM
PHÁP
LUẬT
KHÁC
Hiến pháp nước CHXHCNVN
Bộ Luật dân sự.
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004.
Luật sửa đổi, bổ sung Luật tổ chức TAND.
Luật Khiếu nại, tố cáo (sửa đổi, bổ sung) năm 2004
Quyết định số 220/2003/QĐ-TTg ngày 28/10/2003 về danh mục bí mật
Nhà nước, độ tuyệt mật, tối mật của Ban cán sự Đảng ngoài nước.
Nghị định 47/CP về bồi thường thiệt hại do cán bộ, công chức và người
tiến hành tố tụng gây ra.
Nghị định 51/CP về đăng ký và quản lý hộ khẩu.
113
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Hoàng Anh (2005), “Những căn cứ đánh giá tính hợp pháp của
quyết định hành chính trong xét xử hành chính ở Cộng hoà Pháp và
Vương quốc Bỉ”, Toà án nhân dân, (3), tr. 43-47.
2. Phạm Quốc Anh (2004), “Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng
ta về hoạt động tư pháp”, Nhà nước và pháp luật, (9), tr. 8-15.
3. Ban Bí thư, Chỉ thị số 09- CT/TW ngày 6/3/2002 về một số vấn đề cấp bách
cần thực hiện trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo hiện nay.
4. Báo Nhân dân số 17993 ngày 5/11/2004, tr.8.
5. Nguyễn Thanh Bình (2003), Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân trong
việc giải quyết các khiếu kiện hành chính, Luận án tiến sĩ luật học, Viện
Nghiên cứu nhà nước và pháp luật, Hà Nội.
6. Bộ Chính trị, Nghị quyết số 08- NQ/TW ngày 2/1/2002 về một số nhiệm vụ
trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới.
7. Bộ Chính trị, Nghị quyết số 48 – NQ/TW ngày 24/5/2005 của về Chiến lược
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010,
định hướng đến năm 2020.
8. Bộ Chính trị, Nghị quyết số 49 – NQ/TW ngày 24/5/2005 về Chiến lược Cải
cách tư pháp đến năm 2020.
9. Lê Cảm (2004), "Một số vấn đề chung về cải cách tư pháp ở Việt Nam
trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền", Cải cách tư pháp ở
Việt Nam trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền, tr.19-38.
10. Nguyễn Đăng Dung (2001),“Pháp luật không chỉ là công cụ của nhà
nước”, Nghiên cứu lập pháp, (11), tr.53-57.
11. Nguyễn Đăng Dung (2004), Thể chế tư pháp trong nhà nước pháp quyền,
Nxb Tư pháp, Hà Nội.
12. Trần Thái Dương (2004), “Thể chế hoá đường lối của Đảng”, Nghiên cứu
114
lập pháp, (12), tr. 42-46.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (1995), Văn kiện Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp
hành Trung ương Khoá VII, Lưu hành nội bộ, Hà Nội.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp
hành Trung ương Khoá VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (1995), Văn kiện Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp
hành Trung ương Khoá IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
18. Đặng Xuân Đào (2005),“Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành
chính - những vấn đề cần sửa đổi bổ sung”, Toà án nhân dân,(3), tr.1-7.
19. Đặng Xuân Đào (2002), “Một số vấn đề về quy định tại Điều 3 và Điều 20
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính”, Toà án nhân dân,
(1), tr.23-25.
20. Bùi Xuân Đức (1995), “Phân định tài phán hành chính và tư pháp hành
chính”, Nhà nước và pháp luật, (4), tr. 3-6.
21. Trần Ngọc Đường, Chu Văn Thành (1994), Mối quan hệ pháp lý giữa cá
nhân công dân với nhà nước, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
22. Nguyễn Duy Gia (chủ biên 1995), Thiết lập tài phán hành chính ở nước ta,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
23. Phrăngxoa Galuđiên Ghinius (2003), Bàn về hành chính Pháp, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
24. Trần Quang Hiển (2004), Hoàn thiện pháp luật về tài phán hành chính ở
Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh.
25. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2004), Tài liệu nghiên cứu và
115
học tập môn lý luận về nhà nước và pháp luật, (1), Nxb Lý luận chính
trị, Hà Nội.
26. Học viện Hành chính Quốc gia (2004), Giáo trình luật hành chính và tài
phán hành chính Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
27. Học viện Hành chính Quốc gia (2003), Hành chính công, Nxb Thống kê,
Hà Nội.
28. Học viện Tư pháp (2004), Kỹ năng xét xử các vụ án hành chính, Nxb Tư
pháp, Hà Nội.
29. Trần Đại Hưng (2004), “Hoàn thiện nội dung và phương pháp lãnh đạo
của Đảng đối với công tác tư pháp”, Cộng sản, (21), tr.9-13,24
30. Nguyễn Thị Thương Huyền (2001), “Bàn về thẩm quyền của Toà hành
chính”, Khoa học pháp lý, (3), tr.17-21.
31. V.I. Lê-nin (1977), toàn tập-tập 36, Nxb Tiến bộ, Mat-xcơ-va.
32. Trần Đức Lương (2002), “Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân, vì dân, ngày càng trong sạch, vững mạnh là nhiệm vụ
thường xuyên của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta”, Cộng sản, (1), tr.6-11.
33. Trần Đức Lương (2002), “Đẩy mạnh cải cách tư pháp đáp ứng yêu cầu xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”, Cộng sản, (10), tr.3-9,15.
34. Đinh Văn Mậu, Phạm Hồng Thái (1996), Tài phán hành chính ở Việt
Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
35. Đinh Văn Mậu (2004), “Quan niệm và vấn đề hoàn thiện thể chế, cơ chế
giải quyết tranh chấp hành chính”, Quản lý nhà nước, (106), tr.5-8,27.
36. Đinh Văn Minh (2003), “Bàn về thẩm quyền và đối tượng xét xử hành
chính”, Thanh tra, (1+2), tr.37-39.
37. Đặng Quang Phương (1998), “Một số nguyên tắc đặc thù trong tố tụng
hành chính”, Quản lý nhà nước, (1), tr.29-32.
38. Nguyễn Văn Quang (2004), “Về xác định các căn cứ đánh giá tính hợp
pháp của quyết định hành chính trong xét xử các vụ án hành chính”,
116
Luật học, (4), tr.46-54.
39. Quốc hội Khoá IX, Kỳ họp thứ 7 (1995), Báo cáo tổng hợp ý kiến của các
Đại biểu quốc hội trao đổi ở tổ về dự án luật tổ chức Toà án hành chính.
40. Lê Hồng Sơn (2003), “Cải cách hệ thống tài phán hành chính bảo đảm
thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân”, Nhà
nước và pháp luật, (7), tr.12-18.
41. Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (2001), Số chuyên đề về Tòa hành chính và
việc giải quyết khiếu kiện của tổ chức, công dân, (12/2001), Nxb Quân
đội, Hà Nội.
42. Lê Xuân Thân (2002), “Một số ý kiến về tổ chức và hoạt động của Toà
hành chính”, Nhà nước và pháp luật, (7), tr.31-36.
43. Thanh tra nhà nước (1994), Thuyết minh Dự án luật tổ chức toà án hành
chính và pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ kiện hành chính.
44. Nguyễn Văn Thanh, Đinh Văn Minh (2004), Một số vấn đề về đổi mới cơ
chế giải quyết khiếu kiện hành chính ở Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
45. Vũ Thư (2003), “Một số khía cạnh của việc nâng cao hiệu suất hoạt động
của Tòa hành chính trong việc giải quyết các khiếu kiện hành chính”,
Nhà nước và pháp luật, (8), tr.25-31.
46. Vũ Thư (2003), “Sự hình thành và phát triển của tư pháp hành chính ở
nước ta”, Nghiên cứu lập pháp, (10), tr.23-27.
47. Vũ Thư (2003), “Tính hợp pháp và hợp lý của các văn bản pháp luật và các
biện pháp xử lý các khiếm khuyết của nó”, Nhà nước và pháp luật, (1),
tr.8-15.
48. Vũ Thư (1998), “Hai con đường giải quyết khiếu nại hành chính, giải
pháp lựa chọn và triển vọng”, Toà án nhân dân, (6), tr.2-4.
49. Vũ Thư (2002), “Thủ tục tố tụng hành chính”, Hệ thống tư pháp và cải
cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay, tr. 340-381.
50. Toà án nhân dân tối cao, Báo cáo công tác ngành toà án năm 1996, 1997,
117
1998, 1999, 2000, 2001, 2002.
51. Toà án nhân dân tối cao, Báo cáo công tác ngành toà án năm 2003.
52. Toà án nhân dân tối cao, Báo cáo công tác ngành toà án năm 2004.
53. Trương Vĩnh Trọng (2004), “Nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu kiện
hành chính góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập
quốc tế”, Thanh tra, (4), tr.4-5.
54. Trường Đại học Luật Hà Nội (2000), Giáo trình lý luận về nhà nước và
pháp luật, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
55. Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ Luật
học, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
56. Trường Đại học Luật Hà Nội (2004), Giáo trình Luật tố tụng hành chính
Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
57. Văn phòng Quốc hội (2004), CD-ROM Cơ sở dữ liệu luật Việt Nam, phiên
bản 3.0.
58. Viện Nghiên cứu nhà nước và pháp luật (1994), Xã hội và Pháp luật, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
59. Lê Bình Vọng (1994), Một số vấn đề về tài phán hành chính ở Việt Nam,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
60. Vũ Khắc Xương (1997), “Bàn về trách nhiệm của các cơ quan hành pháp
và tư pháp trong việc giải quyết khiếu kiện hành chính”, Quản lý nhà
nước, (5), tr. 18-20.
61. Nguyễn Như Ý (Chủ biên 1998), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hoá
thông tin, Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Vai trò của pháp luật tố tụng hành chính ở Việt Nam hiện nay.pdf