Vai trò của thị trường tài chính đến ổn định kinh tế vĩ mô ở việt nam hiện nay

Việt Nam không thể đẩy quá nhanh việc xây dựng thị trường tài chính, cũng như thị trường chứng khoán vượt lên trên sự phát triển chung của nền kinh tế, tức là phải phát triển đồng bộ, tất nhiên là phải có sự ưu tiên xây dựng các tiền đề, cơ sở hạ tầng nào đó. Chúng ta không thể nôn nóng, cũng như không thể ngồi chờ cho đủ điều kiện được. Như phần đầu bài viết đã đề cập, thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán có mối liên hệ mật thiết với nhau. Khi lãi suất trên thị trường tiền tệ tăng lên, khi thị trường tiền tệ nóng lên, thì thị trường chứng khoán cũng sôi động. Phát triển thị trường tiền tệ, làm tăng tốc độ chu chuyển vốn ngắn hạn trong nền kinh tế, nâng cao khả năng kinh doanh trên thị trường tiền tệ của các tổ chức trung gian tài chính, tạo điều kiện cho các tổ chức này sẵn sàng tham gia có hiệu quả trên thị trường chứng khoán. Theo đó một số đinh hướng cho phát triển TTTC như sau: - Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính, trực tiếp là Ủy ban chứng khoán Nhà nước phối hợp chặt chẽ mạnh dạn đưa 2-4 Ngân hàng thương mại cổ phần đầu tiên niêm yết cổ phiếu trên Trung tâm giao dịch chứng khoán. Phối hợp chặt chẽ, trên cơ sở tài trợ quốc tế, tổ chức các cuộc hội thảo, khóa đào tạo, tập huấn ngắn ngày về nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán và niêm yết cổ phiếu của Ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán. Bộ Tài chính cũng nên cùng Ngân hàng Nhà nước tập trung tháo gỡ vướng mắc trong việc định giá Ngân hàng thương mại và một số giải pháp khác đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa hai Ngân hàng thương mại Nhà nước đầu tiên theo kế hoạch.

docx47 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2455 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Vai trò của thị trường tài chính đến ổn định kinh tế vĩ mô ở việt nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g mở: Nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động ngân hàng trung ương mua vào hoặc bán ra những giấy tờ có giá của chính phủ trên thị trường. Thông qua hoạt động mua bán giấy tờ có giá, ngân hàng trung ương tác động trực tiếp đến nguồn vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng, từ đó điều tiết lượng cung ứng tiền tệ và tác động gián tiếp đến lãi suất thị trường. 3.1, Thực trạng: Thống kê từ đầu năm nay đến hết tháng 3/2011, NHNN đã bơm ra thị trường mở 1.285.146 tỷ đồng, trong khi hút về 1.202.214,1 tỷ đồng. Như vậy, mức bơm ròng đạt 82.931,9 tỷ đồng. Số liệu cụ thể được thể hiện tổng hợp qua bảng dưới đây: (Xem bảng 1). Qua bảng 1 cho thấy trong tháng 4/2011, NHNN cũng đã bơm ra thị trường mở 519.695,7 tỷ đồng và hút về 453.002,7 tỷ đồng. Mức bơm ròng là 66.693 tỷ đồng. Trong 2 tuần đầu tháng 4/2011 (từ 4/4 đến 15/4), sau khi nâng lãi suất thị trường mở từ 12% lên 13%, NHNN liên tục bơm tiền qua thị trường này nhưng với khối lượng dè chừng. Nhu cầu vay trên thị trường mở vẫn lớn khi tỷ lệ đăng kí/ chào thầu ở mức gần 230%. Bảng 1: Tình hình hoạt động NV thị trường mở 6 tháng đầu năm 2011 Đơn vị tính: Tỷ đồng Nguồn: Ngân hàng Nhà nước và tổng hợp của nhóm tác giả Qua bảng 2 cho thấy từ năm 2008, NHNN đã bơm ròng 100.685 tỷ đồng; năm 2009, cũng bơm ròng tới 122.830 tỷ đồng; năm 2010, bơm ròng 294.304 tỷ đồng, trong khi đó, 6 tháng đầu năm 2011, chỉ bơm ròng 13.056 tỷ đồng. Điều này thể hiện NHNN quyết tâm thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, nhằm mục đích kiềm chế lạm phát. Bảng 2: Lượng tiền cung ứng ròng qua nghiệp vụ thị trường mở Đơn vị tính: tỷ đồng Biểu đồ 2: Lượng tiền cung ứng ròng qua nghiệp vụ thị trường mở Đơn vị: Tỷ đồng Nhìn vào biểu đồ 2 ta có thể thấy lượng tiền NHNN bơm ra giảm dần trong 6 tháng đầu năm 2011. Lãi suất NVTTM (hay lãi suất OMO) tính đến hết tháng 6/2011, vẫn được giữ nguyên ở mức 15%/năm. Việc thắt chặt tiền tệ thông qua hút ròng trên nghiệp vụ thị trường mở của NHNN cùng các chính sách điều tiết vĩ mô khác đã có những kết quả bước đầu khi CPI tháng 6/2011 CPI tăng 1,09%, giảm so với mức tăng 2,21% của tháng 5/2011 đã mang lại tín hiệu đáng mừng cho nền kinh tế. Bảng 3: Doanh số giao dịch nghiệp vụ thị trường mở qua các năm Đơn vị: tỷ đồng Qua bảng số liệu 3 cho thấy, trong 6 tháng đầu năm 2011, NHNN đã thực hiện 241 phiên giao dịch mua có kỳ hạn. Để đảm bảo khả năng thanh khoản cho các TCTD nên NHNN chỉ chào các phiên giao dịch mua có kỳ hạn và chủ yếu là kỳ hạn ngắn, chỉ có 7 ngày và tất cả các phiên đều đấu thầu khối lượng. Các chủ thể tham gia thị trường trong 6 tháng đầu năm 2011cũng tăng mạnh, gần như các chủ thể đăng ký tham gia thị trường, nếu có đủ điều kiện đều được giao dịch và đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời. Các chủ thể tham gia gồm: 05 NHTM Nhà nước, 32 NHTMCP, 01 ngân hàng liên doanh, 07 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 04 công ty tài chính. Doanh số giao dịch trên nghiệp vụ thị trường mở liên tục tăng, năm sau cao hơn năm trước theo cả hai chiều mua và bán. Năm 2008, tổng doanh số trúng thầu là 1.036.066 tỷ đồng, đến cuối năm 2010, tổng doanh số trúng thầu là 2.108.715 tỷ đồng. Tuy nhiên, 6 tháng đầu năm 2011, NHNN lại “hút” là chủ yếu, (tháng 5 và 6); NHNN chỉ bơm ra khoảng 13.056 tỷ đồng. Điều này cho thấy thị trường mở là một “kênh” cung ứng hoặc thu hút tiền về quan trọng của NHNN nhằm thực hiện mục tiêu của CSTT. Khối lượng giao dịch trong từng phiên cũng ngày càng tăng từ bình quân 2.577 tỷ đồng/phiên năm 2008 lên 3.240 tỷ đồng/phiên năm 2010 và 9.544 tỷ đồng/phiên năm 2011. 3.2, Vai trò: NHNN điều hành chủ động, linh hoạt, hiệu quả công cụ nghiệp vụ thị trường mở. cùng với các công cụ chính sách tiền tệ khác, bước đầu đã kiềm chế lạm phát và thực hiện có hiệu quả các mục tiêu khác của CSTT. Lượng tiền cung ứng và rút về của thị trường mở có sự phối hợp chặt chẽ với các công cụ khác của CSTT nhằm phát tín hiệu điều hành CSTT. Cùng với thị trường mở, NHNN vẫn duy trì các công cụ khác của CSTT như chính sách tái cấp vốn, dự trữ bắt buộc. Do vậy, trong các thời điểm cụ thể, thị trường mở được điều hành linh hoạt, góp phần tạo sự phối hợp chặt chẽ với các công cụ CSTT khác nhằm đạt được mục tiêu CSTT. Qua nghiệp vụ thị trường mở; NHNN đã điều tiết linh hoạt vốn khả dụng cho các TCTD. Nghiệp vụ thị trường mở có vai trò quan trọng trong việc điều tiết cung cầu về vốn ngắn hạn cho các TCTD nhằm hỗ trợ hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống của các chủ thể trong nền kinh tế. Có thể nhận thấy nghiệp vụ thị trường mở Việt Nam đã góp phần nhất định trong quá trình phát triển kinh tế đất nước, nhất là trong điều kiện hiện nay. Sự thay đổi lãi suất nghiệp vụ thị trường mở làm tăng khả năng điều tiết lãi suất thị trường của NHNN Việt Nam .Hoạt động nghiệp vụ thị trường mở sẽ tác động đến lượng tiền cung ứng, từ đó tác động đến lãi suất thị trường. Lãi suất thị trường mở được điều hành linh hoạt trong khoảng giữa lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu để định hướng lãi suất thị trường, phát tín hiệu về quan điểm điều hành CSTT trong từng thời kỳ thể hiện rõ vai trò của lãi suất thị trường mở trong việc hỗ trợ NHNN điều tiết lãi suất thị trường. công tác dự báo vốn khả dụng của NHNN đã có nhiều cải thiện, kết quả dự báo trong kì dự báo là 1 tháng không có nhiều sai lệch về tổng thể, nhưng trong dự báo biến động hàng ngày còn nhiều sai số. Tuy nhiên, do việc thực hiện chào mua được thực hiện 2 phiên một ngày, nên việc chỉnh sửa sai lệch dự báo được tiến hành nhanh chóng. Thị trường hối đoái: Thị trường ngoại hối hay thị trường hối đoái ngoại tệ là thị trường tiền tệ quốc tế diễn ra các hoạt động giao dịch các ngoại tệ và các phương tiện thanh toán có giá trị như ngoại tệ. 4.1, Thực trạng: Năm 2009, tỉ giá USD/VND tiếp tục đà tăng trong 4 tháng đầu năm, đặc biệt sau khi NHNN thực hiện nới rộng biên độ tỉ giá lên ±5% khiến cho tỉ giá ngoại tệ liên NH đã có đợt tăng đột biến. Năm 2010, giá USD đã tăng khá mạnh trong năm 2009, sang đến tháng 1/2010 lại giảm nhẹ và tiếp tục dao động quanh mức 18.479đồng/USD cho đến giữa tháng 2/2010. Nguyên nhân là do: Nguồn cung USD có thể tăng từ nguồn vốn đầu tư trực tiếp; từ vốn hỗ trợ phát triển chính thức; từ vốn đầu tư gián tiếp; từ nguồn kiều hối từ Việt kiều và từ lao động làm việc ở nước ngoài gia tăng; nguồn thu từ khách quốc tế đến Việt Nam gia tăng trở lại; kim ngạch xuất khẩu chuyển từ tăng trưởng âm (-) sang tăng trưởng dương (+)… Bên cạnh đó, các tập đoàn, tổng công ty lớn của Nhà nước bán ngoại tệ cho ngân hàng, sức ép tâm lý găm giữ USD do lo sợ rủi ro tỉ giá giảm, chênh lệch giữa giá thị trường tự do với giá niêm yết trên thị trường chính thức đã giảm đáng kể. Đến cuối năm 2010, thị trường ngoại hối VN rơi vào tình trạng căng thẳng khi cầu ngoại tệ quá lớn, trong khi nguồn cung lại khan hiếm. Điều này khiến cho giá USD/VND tăng mạnh, làm ảnh hưởng đến nền kinh tế vĩ mô. 6 tháng đầu năm 2011, với chính sách thắt chặt tiền tệ của NHNN, điểm nổi bật nhất của thị trường ngoại tệ là duy trì được sự ổn định. Tỉ giá giao dịch dần hạ xuống. Bắt đầu từ sự “giảm nhiệt” của tỉ giá trên thị trường tự do, chênh lệch tỉ giá giữa thị trường này so với thị trường chính thức giảm dần xuống, thậm chí có thời điểm còn thấp hơn cả thị trường chính thức – một hiện tượng hiếm thấy trong nhiều năm qua. Trên thị trường chính thức, tỉ giá giao dịch của các NHTM thường ở mức thấp hơn biên độ tối đa theo quy định (1% so với tỉ giá bình quân trên thị trường liên ngân hàng do NHNN công bố); xen kẽ những ngày tăng, tỉ giá đã có nhiều ngày đứng và nhiều ngày giảm, đây là điều hiếm thấy trước đây. Khi thị trường tự do bị thu hẹp, chênh lệch tỉ giá giữa thị trường tự do và thị trường chính thức giảm thiểu, tỉ giá cơ bản ổn định và có xu hướng giảm, đã tạo thời cơ để NHNN mua vào ngoại tệ. Theo số liệu của NHNN, tính đến hết tháng 7, NHNN đã mua được 5 tỉ USD dự trữ ngoại hối, một động thái mà từ giữa năm 2008 đến trước tháng 5/2011 chưa thực hiện được. Các doanh nghiệp và người dân đã bắt đầu bán ngoại tệ cho ngân hàng; bước đầu chuyển dần quan hệ huy động và cho vay bằng ngoại tệ sang quan hệ mua – bán ngoại tệ giữa ngân hàng với khách hàng; việc niêm yết giá thanh toán, mua – bán trực tiếp bằng ngoại tệ đã được thu hẹp. Năm 2011 đánh dấu khá nhiều thay đổi trên thị trường tài chính tiền tệ ở Việt Nam. Với những ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái toàn cầu trong hai năm 2008-2009, kinh tế Việt Nam gặp không ít khó khăn. Lạm phát của Việt Nam cũng đã tăng cao lên mức hai con số (11,8%) vào cuối năm 2010 và tiền đồng Việt Nam (VND) bị trượt giá. Những tháng đầu năm 2011 chỉ số giá tiêu dùng CPI của Việt Nam cũng đã tăng khá cao đe dọa mục tiêu kiềm chế lạm phát trong năm dưới mức hai con số. Diễn biến nêu trên đã ảnh hưởng tiêu cực tới niềm tin của người dân, thị trường và các nhà đầu tư. Tổng kết lại, trong năm 2011, giá vàng trong nước đã tăng khoảng 25%, mức tăng cao nhất đạt 40% khi giá vàng đạt đỉnh 49,2 triệu đồng/lượng vào ngày 23/8/2011, lúc này giá vàng thế giới cũng chạm đỉnh 1.920 USD/oz. Tuy nhiên càng về cuối năm, giá vàng trong nước song hành cùng giá vàng quốc tế, giảm mạnh chỉ còn mức 42-43 triệu đồng/lượng trong khi giá vàng thế giới sụt mạnh xuống 1.550 USD/oz. Mặc dù vậy, mức chênh lệch giữa giá vàng trong nước và quốc tế vẫn còn khá lớn (khoảng 2 triệu đồng/lượng). Rất nhiều liều thuốc đã được bơm vào thị trường nhằm bình ổn tâm lý người dân, đồng thời rút ngắn khoảng cách chênh lệch của giá vàng trên thị trường quốc tế và Việt Nam, tuy vậy hiệu quả vẫn đang chờ thời gian trả lời. Trong năm 2012, giá vàng trong nước sẽ vẫn bám sát diễn biến giá vàng quốc tế. 4.2, Vai trò: Đáp ứng nhu cầu mua bán ,trao đổi ngoại tệ nhằm phục vụ cho quá trình chu chuyển, thanh toán trong các lĩnh vực thương mại và phi thương mại. Công cụ để ngân hàng trung ương có thể thực hiện chính sách tiền tệ nhằm điều khiển nền kinh tế theo mục tiêu chính phủ. Thị trường ngoại hối có chức năng tín dụng. Cung cấp các công cụ cho các nhà kinh tế nghiên cứu để phòng ngừa rủi ro hối đoái trong trao đổi ngoại tệ.Đồng thời giúp các nhà đầu cơ nghiên cứu thu được lợi nhuận nếu họ dự đoán được tỷ giá hối đoái. Thị trường vốn. Sau hơn một thập kỷ phát triển, thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam cùng với các thị trường có liên quan đã tạo nên một thị trường tài chính (TTTC) Việt Nam phát triển khá đa dạng. Hiện tại,TTCK đã được coi là một cấu phần quan trọng của TTTC Việt Nam Qua 12 năm phát triển, TTCK Việt Nam đã từng trải qua một thời kỳ bùng nổ ấn tượng vào năm 2006 và sau đó lại rơi vào tình trạng suy giảm từ năm 2009 đến nay: giá chứng khoán giảm liên tục xuống mức rất thấp so với mệnh giá, nhiều công ty chứng khoán thua lỗ... 1, Vai trò của TTCK đối với nền kinh tế. Các nhà nghiên cứu lý thuyết chia TTTC gồm thị trường tiền tệ (gồm thị trường vốn ngắn hạn, thị trường hối đoái và thị trường giấy tờ có giá ngắn hạn) và thị trường vốn (trong đó gồm TTCK, TT vốn tín dụng). Như vậy, TTCK là một cấu phần quan trọng của TTTC và là phương tiện để mọi thành phần kinh tế -xã hội có thể tham gia đầu tư một cách trực tiếp hoặc gián tiếp vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp; là nơi mà chính phủ có thể huy động vốn cho nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế -xã hội. TTCK có thể coi là kênh dẫn vốn quan trọng chuyển vốn từ khu vực tiết kiệm đến khu vực đầu tư; tăng cường tính minh bạch trong sản xuất kinh doanh; góp phần tăng trưởng kinh tế; nâng cao chất lượng quản trị trong nền kinh tế vĩ mô. Rõ ràng, TTCK có vai trò quan trọng đối với sự phát triển TTTC nói chung. Thực tế thế giới cho thấy, quá trình hình thành và phát triển, TTCK đều có thể có những đóng góp hay có tác động tiêu cực đến TTTC hay đến nền kinh tế nói chung.Sự phát triển của TTCK Việt Nam chắc chắn cũng không ngoài quy luật phát triển đó. 1.1, Đóng góp và tác động của TTCK Việt Nam đối với TTTC và nền kinh tế. Các con số qua 11 năm phát triển của TTCK Việt Nam là căn cứ, cơ sở và cũng là dấu hiệu để chúng ta ta đánh giá đóng góp (bao gồm cả tác động tích cực) và chỉ ra những tác động tiêu cực của nó đến TTTC hay rộng hơn là đến nền kinh tế Việt Nam. Đóng góp của TTCK Về đóng góp hay tác động tích cực của TTCK Việt Nam, chúng ta có thể chỉ ra những đóng góp đáng kể dưới đây trên cơ sở những con số và những tỷ lệ mang tính trực quan. TTCK đã góp phần phát triển TTTC Việt Nam theo chiều rộng và chiều sâu Trong 12 năm qua, chúng ta có thể nhận thấy TTCK Việt Nam đã có sự phát triển về chiều rộng khá mạnh. Sự phát triển của TTCK đã đóng góp vào sự phát triển theo chiều rộng chung của TTTC Việt Nam là hệ thống các loại hình định chế như NHTM (bao gồm NHTM Nhà nước, NHTMCP, ngân hàng liên doanh, ngân hàng nước ngoài, ngân hàng chính sáchxã hội, ngân hàng đầu tư phát triển...), công ty tài chính, công ty đầu tư tài chính, công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ... Cho đến thời điểm giữa năm 2011, có thể nói, TTTC Việt Nam đã phát triển khá sâu rộng và có sự hội nhập quốc tế. Số lượng cácđịnh chế tài chính đã tăng lên tới con số hàng ngàn và tổng tài sản có gấp nhiều lần GDP Việt Nam. Về phát triển theo chiều sâu của TTTC (độ sâu tài chính): các chỉ số tài chính cho thấy, TTTC nói chung và TTCK Việt Nam đã có phát triển rất mạnh trong những năm gần đây. Điều này có thể thấy qua chỉ số độ sâu tài chính (M2/GDP, tín dụng so với GDP...). (xem Biểu đồ 1). Quan sát sự phát triển TTCK ta cũng thấy thị trường đã có mức tăng trưởng khá mạnh và bùng nổ từ năm 2006 đến nay. Điều này có thể thấy qua mức độ vốn hóa của thị trường, số lượng các công ty niêm yết, số lượng các tài khoản... tăng rất mạnh trong thời gian rất ngắn. Đặc biệt là từ khi Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) vào năm 2007, mức độ tăng trưởng hàng năm tăng rất nhanh. (xem Biểu đồ 2). Theo thống kê của tác giả, số công ty niêm yết vào năm 2005 chỉ có 41 công ty thì đến giữa năm 2011, số công ty niêm yết trên cả hai sàn chứng khoán đã gấp gần 17 lần. Những năm gần đây, số lượng các công ty niêm yết tăng rất mạnh, trung bình mỗi năm có khoảng hơn 100 công ty lên sàn niêm yết. Ngay cả khi điều kiện khó khăn như năm 2011, chỉ trong 6 sáu tháng đầu năm, đã có 54 công ty chưa niêm yết đăng ký thành công ty đại chúng, nâng tổng số công ty đại chúng chưa niêm yết lên 994. Tính đến thời điểm 30/6/2011, tổng cộng cả nước 1.667 công ty đại chúng, trong đó có 673 công ty đã niêm yết trên hai sở giao dịch chứng khoán, 127 công ty đăng ký giao dịch trên sàn Upcom. Một điềucũng đáng chú ý là số lượng công ty chứng khoán tăng mạnh trong khoảng 5 năm trở lại đây và vào thời kỳ chứng khoán bùng nổ: Nếu như năm 2005, chỉ có 14 công ty thì giữa năm 2011, số lượng công ty niêm yết đã tăng lên con số 105 công ty chứng khoán. Trongđó có khá nhiều công ty chứng khoán là công ty con của các NHTM lớn, các tập đoàn kinh tế lớn. Mức độ vốn hóa của TTCK so với GDP đã tăng rất nhanh từ khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO. Đến nay, mức vốn hóa đã lên trên 30% GDP ( có thời kỳ lên tới trên 40% GDP).(xem Biểu đồ 3). Số lượng tài khoản của nhà đầu tư cũng tăng lên rất nhanh chóng. Năm 2005, số lượng tài khoản ước khoảng 30 ngàn tài khoản của nhà đầu tư, thì đến (6/2011) số lượng tài khoản của nhà đầu tư đã tăng lên 1.100.000 tài khoản. Trong đó nhà đầu tư nước ngoài chiếm khoảng trên 20% số tài khoản. Điều cần lưu ý rằng, trong một thời gian dài, tiền của nhà đầu tư vẫn được nộp thẳng vào tài khoản của các công ty chứng khoán, không được quản lý một cách riêng rẽ. Chứng khoán của các nhà đầu tư cũng trong tình trạng quản lý tương tự. Tình trạng này dẫn đến một thực tế, các công ty chứng khoán được hưởng lợi từ tiền lãi tiền gửi của nhà đầu tư (sử dụng tiền của nhà đầu tư để đầu tư tiền gửi) và đã có trường hợp công ty chứng khoán “mượn” chứng khoán của nhà đầu tư để kinh doanh. Thời gian qua, ở Việt Nam đã có khá nhiều tranh chấp về chứng khoán giữa nhà đầu tư và công ty chứng khoán do nguyên nhân của tình trạng “mượn” chứng khoán này. Theo các con số thống kê, huy động vốn qua TTCK Việt Nam (qua phát hành lần đầu) cũng khá ấn tượng qua các năm, nhất là từ 2006 tới nay. Ngay cả trong điều kiện thị trường kém sôi động như 6 tháng đầu năm, huy động qua TTCK cũng đạt 27.000 tỷ đồng. TTCK đang trở thành hàn thử biểu của nền kinh tế Việt Nam Khi nền kinh tế phát triển tốt, công chúng đầu tư tin tưởng vào các doanh nghiệp khu vực sản xuất, tin vào môi trường kinh doanh tốt... thì các dòng vốn sẽ chảy vào nền kinh tế đó, do đó, giá chứng khoán sẽ cao, chỉ số chứng khoán sẽ tăng mạnh; và ngược lại, TTCK sẽ giảm sút. Các diễn biến đó đã làm cho TTCK được coi là hàn thử biểu của nền kinh tế và là chỉ báo quan trọng cho các nhà đầu tư và cho các nhà điều hành chính sách có các điều chỉnh phù hợp. Đối với TTCK Việt Nam hiện nay, rõ ràng, khi giá chứng khoán giảm liên tục, đang phản ánh tình hình kinh tế có biểu hiện mất cân đối: ít nhất là lạm phát gia tăng, thâm hụt thương mại nhiều... hoạt động ngân sách và khu vực DNNN yếu kém thất thoát nhiều. TTCK tăng cường quản trị quản lý nền kinh tế vĩ mô và vi mô Theo lý thuyết, TTCK Việt Nam góp phần tăng cường tính minh bạch quản trị điều hành kinh tế (vĩ mô) và kinh doanh (vi mô). Đánh giá về đóng góp này, như đã nêu, các chỉ số chứng khoán phản ánh rất nhanh tình hình kinh tế vĩ mô- phản ánh chất lượng, năng lực điều hành kinh tế vĩ mô và cũng phản ánh chất lượng quản lý điều hành, kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp. Quá trình phát hành chứng khoán của Chính phủ (trái phiếu) và của doanh nghiệp (cổ phiếu và trái phiếu công ty) và trong quá trình niêm yết cũng phải thực hiện chế độ công bố thông tin hoạt động, tăng cường quản lý. Quá trình đó sẽ tạo điều kiện cho tăng cường quản trị. Tại Việt Nam trong thời kỳ chưa có TTCK, các công ty trong nước thường không thực hiện chế độ công bố thông tin đầy đủ và định kỳ. Đến nay, mọi công ty đều phải công bố thông tin hàng quý hàng năm... và các thông tin bất thường. Qua đó, các nhà đầu tư giám sát công ty. Tuy nhiên, vấn đề hiện nay tại hai sở giao dịch chứng khoán Việt Nam còn tình trạng nhiều công ty chậm nộp báo cáo kiểm toán và chậm công bố thông tin. Tạo kênh huy động vốn đa dạng cho nền kinh tế, cho các doanh nghiệp Số liệu về huy động vốn qua TTCK cho thấy, thị trường này đã cùng với hệ thống NHTM tạo các kênh vốn đa dạng dài hạn và ngắn hạn cho nền kinh tế, mà nơi được hưởng lợi trực tiếp là các doanh nghiệp đang thiếu nghiêm trọng về vốn trung và dài hạn. Số liệu về phát hành lần đầu (huy động vốn qua TTCK) ở Việt Nam vừa qua cho thấy TTCK đã có tác động khơi thông vốn rất lớn cho TTTC Việt Nam và cũng như khơi thông dòng vốn từ nước ngoài chảy vào Việt Nam. Tạo ra các công cụ mới cho thị trường Từ khi có TTCK Việt Nam, rõ ràng đã có thêm rất nhiều công cụ mới trên thị trường tài chính, nhất là các công cụ tài chính dựa vào chứng khoán. Các hình thức chứng khoán hóa các khoản vay mua nhà; các khoản vay có thế chấp bằng chứng khoán... đã phát triển khá mạnh trong vài ba năm nay; những hình thức như mua khống, bán khống, hình thức kinh doanh chỉ số và margin trading... trước đây là rất lạ thì nay đã trở nên quen thuộc đối với nhà đầu tư trên TTTC Việt Nam (cho dù khuôn khổ pháp lý chưa thực sự đầy đủ cho các giao dịch này). Một số tác động tiêu cực của TTCK đến TTTC và nền kinh tế Việt Nam Đồng tiền nào cũng có hai mặt, do đó trên một số phương diện nhất định, quá trình phát triển của TTCK cũng có những hiệu ứng, tác động tiêu cực đến TTTC nói riêng và nền kinh tế nói chung. Những vấn đề đặt ra trong mối tương quan đến sự phát triển của TTTC Việt Nam. Những tác động hay những vấn đề đặt ra này rất có thể mang tính đặc trưng của nền kinh tế và TTTC Việt Nam còn ở giai đoạn đầu của quá trình phát triển còn sơ khai và tiềm năng. Tăng trưởng quá nhanh so với năng lực quản lý, cơ sở hạ tầng Có thể nhận thấy, TTCKViệt Nam tăng trưởng quá nhanh so với năng lực quản lý ở góc độ vĩ mô và vi mô cũng như so với cơ sở hạ tầng của thị trường. Dựa vào các chỉ số thị trường nêu trên như số công ty niêm yết, số công ty chứng khoán, mức vốn hóa thị trường... có quan điểm hàm ý rằng TTCK Việt Nam phát triển rất nhanh. Kinh nghiệm các nền kinh tế khác cho thấy, mức vốn hóa thị trường trong 10 năm hợp lý hay phù hợp là khoảng 20% GDP. So với mức vốn hóa TTCK Việt Nam tăng rất mạnh, có khi lên tới gần 50% (năm 2007), chỉ sau vài năm sau khi thành lập. Trong khi đó, các khuôn khổ pháp lý cũng như các điều kiện khác là khó có thể theo kịp, hay mức độ sẵn sàng thấp. Cụ thể, vấn đề “không theo kịp” đó có thể được nhìn nhận trên một số góc độ dưới đây: Khung khổ pháp lý chưa đảm bảo cho thị trường hoạt động thực sự công bằng, minh bạch cũng như đảm bảo quyền lợi của các nhà đầu tư; thị trường hoạt động trong điều kiện chưa có đủ các quy định về chống gian lận từ khâu phát hành đến giao dịch chứng khoán; chưa đủ quy định về bảo lãnh phát hành chứng khoán... Dễ nhận thấy, các quy định của pháp luật cho hoạt liên quan đến TTCK ở Việt Nam trong thời gian qua còn thiếu hụt đáng kể so với tốc độ tăng quy mô. Những thiếu hụt có thể kể đến như các quy định về giao dịch ký quỹ, các quy định về bán khống, các quy định về công ty chứng khoán cấp tín dụng cho khách hàng; các quy định về công ty chứng khoán mở sàn vàng; các quy định về tín dụng đầu tư vào chứng khoán ở mức nào là phù hợp; quy định về bảo vệ nhà đầu tư nhỏ lẻ hay các quy định chống “phát hành cổ phiếu lậu” Các chế tài xử phạt chưa đảm bảo nghiêm minh, răn đe đối với các trường hợp gian lận chứng khoán, chậm công bố thông tin. Theo Ngân hàng Thế giới (WB), hiện tại các cơ chế bảo vệ nhà đầu tư ở Việt Nam là điểm còn khá yếu và quan ngại (WB, 2011) Cơ sở hạ tầng thông tin và hạ tầng khác chưa theo kịp sự phát triển của thị trường: (1) Hạ tầng công nghệ thông tin đến nay có khá nhiều dấu hiệu chứng tỏ chúng chưa thực sự đảm bảo cho quản lý minh bạch và hiệu quả của công ty chứng khoán trong điều kiện khối này mở rộng hoạt động, tăng trưởng rất nhanh về tài sản và quy mô cũng như lĩnh vực hoạt động. Thực trạng hạ tầng công nghệ này đã phần nào cản trở khả năng tách bạch tài khoản giữa công ty chứng khoán và nhà đầu tư; hệ thống cũng là bất cập khi nhiều công ty chứng khoán đang hoạt động tương tự ngân hàng thương mại; (2) Các dịch vụ về kế toán (cả chuẩn mực), kiểm toán doanh nghiệp chưa theo kịp (số lượng công ty kiểm toán và kiểmtoán viên còn thiếu đáng kể chưa theo kịp dẫn đến kiểm toán thiếu và chậm trễ công bố thông tin); (3) Thiếu hệ thống xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp và xếp hạng trái phiếu công ty...; (4) Vấn đề phân loại, xác định ngành nghề của các công ty niêm yết đang ở tình trạng bất cập dẫn đến một thực tế là các công ty hoạt động đa ngành và không có tiêu thức và tiêu chí phân loại, cộng với việc hoạt động kinh doanh kém minh bạch nên nếu có phân loại ngành nghề để phục vụ cho việc phân tích đầu tư, hay xây dựng chỉsố chứng khoán theo ngành trở nên kém ý nghĩa và không thực tế. Hiện tại, chỉ số chứng khoán chung (VNINDEX và HNX INDEX cũng đã trở nên không theo kịp diễn biến thị trường, kém ý nghĩa đối với thị trường do nó chỉ phản ánh diễn biến giá của một vài chứngkhoán. + Trình độ dân trí về chứng khoán còn ở mức thấp, đầu tư theo tâm lý đám đông: Có rất nhiều quan sát và nghiên cứu chỉ ra rằng TTCK Việt Nam hiện nay đang ở giai đoạn đầu của sự phát triển. Tính chuyên nghiệp của các định chế chưa cao, nhà đầu tư nhỏ lẻ phản ứng theo tâm lý đám đông. Thực trạng diễn biến TTCK Việt Nam vừa qua cho thấy, nhiều công ty chứng khoán bị thua lỗ mất vốn, có nhiều lỗi giao dịch (trong thực tế, có nhiều khiếu kiện tranh chấp rất sơ đẳng...); các nhà đầu tư trên TTCK Việt Nam thường phản ứng theo tâm lý “bầy đàn” và điều đó làm cho thị trường biến động rất mạnh và rất dễ tổn thương. + Năng lực quản lý dòng vốn hiệu quả trên phương diện vĩ mô và vi mô bất cập làm trầm trọng thêm tình trạng mất cân đối trong cơ cấu kinh tế, tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng về thu nhập: Trước tình trạng về sự lệch lạc của dòng vốn đầu tư vào khu vực phi sản xuất (nhất là đầu tư vào chứng khoán), Chính phủ đã rất nỗ lực trong việc đảm bảo dòng vốn trong nền kinh tế luân chuyển hài hòa. Tuy nhiên, doanh nghiệp có khuynh hướng chạy khỏi ngành sản xuất chính (core business) để đầu tư ra ngoài ngành. Vấn đề quản lý vĩ mô về dòng tiền đã trở nên rất khó khăn từ khi có TTCK Việt Nam. Từ năm 2006 đến nay, nhiều công ty, doanh nghiệp (nhất là tổng công ty) đã bỏ ngành chủ đạo của mình để đầu cơ tài chính. Trên thực tế cho thấy, từ khi có TTCK, thị trường bất động sản cũng biến động phức tạp hơn và nhiều nguy cơ đổ vỡ hơn- do các công ty huy động vốn trên TTCK để đầu cơ vàobất động sản. Trên góc độ vi mô, chúng ta cũng có thể nhận thấy tác động của TTCK đến quan điểm quản trị vốn là tiêu cực. Các công ty dường như chỉ chú trọng đến tăng vốn mà quên lãng tăng cường quản trị giám sát. Tư tưởng lấy vốn nhiều để thay cho quản lý đã chi phối rất mạnh quá trình tăng vốn của các doanh nghiệp. Thời gian qua, khi thị trường nóng, các công ty đã phát hành tăng vốn rất ồ ạt mà không đi đôi với tăng cường quản trị tốt. Trên thực tế, việc phát hành chứng khoán (nhất là tăng vốn) ở Việt Nam diễn ra rất dễ dàng theo nghĩa quản lý quá trình sử dụng vốn do tình trạng giá chứng khoán có thời kỳ tăng liên tục và các các công ty cũng luôn trong tình trạng khát vốn. Các công ty chỉ cần có bản kế hoạch tăng vốn, xin phép cơ quan chức năng..., được đại hội cổ đông thông qua (có thể trước khi họp đại hội cổ đông), đại hội thông qua kế hoạch tăng vốn, đại hội cổ đông lại ủy quyền việc thực thi này cho hội đồng quản trị (tập thể) và hội đồng quản trị lại ủy quyền cho chủ tịch hội đồng quản trị (cá nhân). Việc phát hành và phân phối chứng khoán ra công chúng cũng là điểm đáng chú ý. Công ty thường phân phối theo cách thức riêng và có lợi cho một nhóm cổ đông nhất định mà xã hội đề cập là “chứng khoán lậu”. Cho đến nay, đã có khá nhiều dấu hiệu gian lận hoặc tương tự gian lận liên quan đến chứng khoán đã diễn ra trên TTCK Việt Nam. Thống kê chưa đầy đủ, thời kỳ chứng khoán bùng nổ (năm 2007) đã có trên 70 công ty đại chúng bị phạt vì lỗi “...chào bán chứng khoán ra công chúng và phân phối chứng khoán không đúng với quy định tại Điều 21 Luật Chứng khoán” (từ năm 2006). Năm 2008, Chánh thanh tra UBCKNN đã xử phạt hành chính đối với 124 trường hợp có các hành vi vi phạm hành chính trên TTCK VN. Trong đó có 75,8% trường hợp vi phạm cácquy định về công ty đại chúng, chào bán chứng khoán ra công chúng, chế độ báo cáo và công bố thông tin của công ty đại chúng, công ty niêm yết; 15,3% trường hợp có hành vi giao dịch giả tạo, thao túng thị trường, thực hiện giao dịch chứng khoán mà không báo cáo của các cổ đông nội bộ công ty niêm yết; và 8,9% trường hợp có hành vi phạm các quy định về hoạt động kinh doanh chứng khoán của các công ty chứng khoán, chế độ báo và công bố thông tin của công ty chứng khoán... Đặc biệt, năm2010, thị trường có nhiều quan ngại, nghi ngờ và khúc mắc về việc công bố thông tin của công ty niêm yết liên quan đến ban lãnh đạo công ty (chủ tịch hội đồng quản trị, ban kiểm soát...). Việc quản lý phần vốn tăng thêm theo kế hoạch tăng vốn của doanh nghiệp cũng đang là vấn đề. Các cổ đông nhỏ lẻ thường không hề biết việc tăng vốn của mình đã được sử dụng hiệu quả như thế nào. Chế độ thông tin công bố và thông tin với cổ đông (IR) được đánh giá là còn hạn chế và yếu đối với các công ty đại chúng hiện nay ở Việt Nam. Quá trình tăng vốn, phát hành chứng khoán và phân phối chứng khoán không đảm bảo sự công bằng theo cách thức như thực tại nêu trên ở Việt Nam, trong khi lợi ích đem lại (ước tính) cho nhóm lợi ích hàng trăm hoặc hàng ngàn tỷ đồng, trong khi chế tài xử phạt chỉ là vài chục triệu đồng (xử phạt hành chính) là một cơ chế phân phối của cải của xã hội chưa thực sự công bằng và có thể làm tăng khoảng cách giàu nghèo, hoặc những nhìn nhận của xã hội trở nên tiêu cực hơn về TTCK. Trên thực tế, trong số 100 người giàu nhất Việt Nam được báo giới công bố thì đa số đó là những người có liên quan đến bất động sản và chứng khoán (được coi là khu vực phi sản xuất). Nền kinh tế trở nên rủi ro hơn, dễ tổn thươnghơn trước các cú sốc Đối với Việt Nam, từ khi có TTCK Việt Nam, các khái niệm về đòn bẩy tài chính (hay tương tự như vậy) đã trở nên phổ biến hơn. Liên quan đến khu vực ngân hàng, từ khi có TTCK, tình hình thanh khoản ở các NHTM Việt Nam dường như trở nên căng thẳng hơn. Thời kỳ lãi suất ngân hàng bắt đầu tăng chóng mặt từ năm 2006 lại trùng với đúng giai đoạn phát triển bùng nổ (mà lịch sử chưa có tiền lệ). Theo số liệu của NHNN, cuối năm 2010, có tới trên 20% dư nợ của NHTM là cho vay bất động sản và chứng khoán (tác giả ước đoán, trước đó, tình trạng cho vay chứng khoán của các NHTM còn trầm trọng hơn nhiều). Việc tập trung cho vay phi sản xuất với tỷ lệ cao như vậy có thể đem đến lãi cao cho NHTM nhưng cũng chứa đựng rủi ro hơn đối với từng ngân hàng và hệ thống tài chính. Việc ngân hàng chấp nhận lãi suất cao tới 45% trên thị trường liên ngân hàng vào thời điểm thị trường chứng khoán bùng nổ là các năm 2006 -2008 (IMF, 2010) và người đi vay chấp nhận lãi suất cho vay gần 30%/năm như hiện nay (2011) thì chỉ có thể giải thích được nếu số tiền đó đầu cơ vào chứng khoán hay bất động sản (trực tiếp hay gián tiếp) vì khu vực sản xuất vật chất thực sự chỉ lợi nhuận bình quân ước từ 20% -25%/năm. TTCK cũng có thể làm tăng tác động của các cú sốc từ bên ngoài. Từ khi có TTCK và hội nhập quốc tế, dòng vốn nói chung và dòng vốn quốc tế vào - ra cũng mạnh hơn, TTTC Việt Nam cũng đối mặt với các rủi ro hơn. Năm 2007, dòng vốn quốc tế vào rất mạnh, TTCK cũng tăng tốc rất mạnh, nhưng khi dòng vốn chảy ra, TTCK khó khăn hơn và sụt giảm. Năm 2011, nổi lên sự tham gia của dòng vốn ETF (Exchange Traded Fund -dòng vốn nóng), TTCK biến động khá đặc biệt với sự lên giá rất mạnh của chỉ một vài mã chứng khoán trong khi nhiềumã chứng khoán lại sụt giá. Các quan sát cũng đã rất lo ngại về tình trạng những quy luật kinh tế và kỷ cương của thị trường bị “đảo lộn” như tình trạng giá chứng khoán tăng lên không hề liên quan đến kết quả hoạt động của doanh nghiệp và diễn biến kinh tế vĩ mô. Bong bóng, gây nguy cơ đổ vỡ TTTC. Tình trạng bong bóng giá chứng khoán được hiểu là giá chứng khoán tăng quá cao so với giá trị thực, giá trị bình thường của nó. Có quan điểm gọi tình trạng giá chứng khoán ở Việt Nam thời kỳ 2006-2007 là tình trạng giá “ảo” .Thực tế chỉ ra rằng tình trạng bong bóng chứng khoán, trước tiên nó làm cho sự phân bổ nguồn lực tài chính của TTCK bị lệch lạc do xã hội đổ quá nhiều tiền vào đây và thị trường không còn hoạt động theo chức năng vốn có của nó nữa mà hoạt động giống như một sòng bạc, xã hội sẽ bỏ qua nền sản xuất tạo ra của cải thực sự cho xã hội mà chuyển phần lớn vốn sang đầu cơ chứng khoán (phi sản xuất). Nếu theo cách nhận định về hiệu ứng này, thì chủ trương của Chính phủ hạn chế dòng vốn tín dụng vào chứng khoán hay nói chung là phi sản xuất theo tinh thần Nghị quyết 11/2011/NQ-CP ngày 24/2/2011 cũng như hàng loạt các quy định của NHNN (như Thông tư 13/2010 và Thông tư 19/2010 năm 2010) rõ ràng là định hướng phù hợp và có mục tiêu dài hạn là đảm bảo TTTC an toàn và ổn định hơn. Cho dù định hướng này cũng có hiệu ứng sốc đối với các doanh nghiệp đã “ngậm” quá nhiều chứng khoán hay bất động sản theo kiểu chấp nhận rủi ro quá mức.Trên quan điểm cẩn trọng, có thể nhận thấy, TTCK Việt Nam đã có thời kỳ phát triển quá nhanh và có dấu hiệu bong bóng giá vào năm 2006 -2007. Khi đó, giá chứng khoán tăng chóng mặt, chỉ số chứng khoán đạt tới trên 1000 điểm. Đi kèm với sự bùng nổ TTCK, Việt Nam đã xuất hiện các dấu hiệu gian lận chứngkhoán như làm giá chứng khoán, thao túng thị trường... làm cho tình trạng bong bóng càng trầm trọng hơn. Như đã nêu, thực tế tại TTCK Việt Nam thời gian qua có khá nhiều chứng khoán lên giá, xuống giá mà không thể giải thích được bởi các lý thuyết kinh tế. Bản thân các cổ đông lớn, các công ty niêm yết cũng công bố thông tin theo cách rất dễ gây nhầm lẫn, khó hiểu (như công bố thông tin vừa mua vừa bán cổ phiếu quỹ, hoặc thông báo mua/ bán cổ phiếu nhưng xong lại không thực hiện...). Tình trạng này càng làm cho thị trường trở nên bong bóng và chứa đựng nhiều yếu tố dễ tổn thương, đổ vỡ hệ thống, nếu không có sự tăng cường kiểm soát. TTCK lấn át ngân hàng thương mại Về nguyên tắc, có thể suy luận rằng, TTCK lấn át ngân hàng về vốn, huy động hay các dịch vụ ngân hàng... Sự lấn át này có thể hiểu là khu vực chứng khoán làm ngân hàng yếu đi do phải dàn trải nguồn lực (đầu cơ vào công ty khác) và sự lấn át khi TTCK là nơi hút vốn mạnh hơn khu vực ngân hàng và làm cho giá vốn (lãi suất huy động) ở khu vực ngân hàng cao hơn, do đó, có thể dẫn đến ngân hàng thiếu thanh khoản.Cho đến nay, dường như chưa có nhiều nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề tác động của TTCK đến khu vực ngân hàng. Có nhận định rằng, từ khi ra đời TTCK đã “tước đoạt” vị trí độc quyền của hệ thống NHTM. Điều này rõ ràng cho rằng TTCK có tác động lấn át đối với các NHTM theo một nghĩa nào đó.Ngoài ra, quan sát chỉ số chứng khoán biến động năm 2009 cho thấy có sự đồng điệu khá rõ giữa chỉ số chứng khoán với tăng trưởng tín dụng hàng tháng của khu vực ngân hàng và điều đó chứng tỏ dòng vốn tín dụng ngân hàng đáng lẽ chảy vào khu vực sản xuất đã chảy đáng kể vào khu vực chứng khoán . Theo Điều 8, Luật Các tổ chức tín dụng hiện hành, công ty chứng khoán được cấp tín dụng cho khách hàng nếu hoạt động đó liên quan đến giao dịch ký quỹ, giao dịch mua, bán lại chứng khoán. Thời gian qua, các công ty chứng khoán đã triển khai rất mạnh nghiệp vụ cho vay liên quan đến chứng khoán (cấp tín dụng). Việc cho vay nàylà cho vay ứng trước tiền bán chứng khoán, cho vay cầm cố chứng khoán... Ngoài ra, đa số các công ty chứng khoán ở Việt Nam đã thực hiện huy động vốn tương tự như NHTM dưới cái tên nghiệp vụ rất đặc biệt là “hợp đồng hợp tác kinh doanh, đầu tư chứng khoán”. Theo nghiệp vụ đó, công ty chứng khoán nhận tiền của người có tiền (không gọi là người gửi tiền) để cho vay lại người khác. Hiện tại, không có cơ quan nào có thống kê và công bố về dư nợ cho vay chứng khoán và huy động vốn theo hình thức này của các công ty chứng khoán. Tình trạng Chủ tịch HĐQT Công ty Chứng khoán Hà Thành thời gian qua phải bỏ trốn để lại hàng trăm tỷ đồng thất thoát phản ánh rằng nghiệp vụ cho vay ở các công ty chứng khoán không được quản lý tốt- do không phải là định chế chuyên nghiệp như NHTM. Đáng chú ý, kết quả kinh doanh 6 tháng đầu năm 2011 có 12 công ty chứng khoán lỗ 1.020 tỷ đồng. Theo thông tin sơ bộ cho thấy, phàm những công ty chứng khoán nào cấp tín dụng lớn (dư nợ cho vay) thì đó là những công ty thua lỗ tài chính lớn. Tình trạng đó lại càng cho thấy sự lấn át của công ty chứng khoán về cấp tín dụng hay huy động vốn (dưới cách thức này hay cách thức khác) là không đưa đến một nền tài chính hiệu quả, lành mạnh mà đang đưa đến hiệu ứng ngược lại. Ngoài ra, chúng ta cũng thấy, chính sự ra đời của TTCK cũng làm các ngân hàng lãng quên chức năng cho vay nền kinh tế, mà chuyển sang hoạt động đầu tư tài chính hoặc tương tự như góp vốn liên doanh, thành lập công ty con một cách tràn lan. Theo số liệu và đánh giá của Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia, thời gian qua, nhiều ngân hàng trong nước dù không đảm bảo hệ số an toàn vốn thiểu nhưng vẫn gia tăng tỷ lệ góp vốn, mua cổ phần ở tổ chức khác mà coi nhẹ việc duy trì mức đủ vốn cũng có thể là biểu hiện về tác động tiêu cực của TTCK lên các TTTC ngân hàng. Hiện đang có trào lưu về tập đoàn tài chính ngân hàng với mô hình khá phổ biến đang hình thành ở Việt Nam hiện nay là: NHTM + Công ty chứng khoán + Công ty quản lý quỹ + Công ty vàng + Công ty bất động sản + Công ty cho thuê tài chính... Trào lưu này rất có thể lại càng làm tăng sự lấn át của TTCK đối với hoạt động ngân hàng thuần túy -do ngân hàng thường huy động để chuyển vốn sang công ty con là công ty chứng khoán... 1.2, Kết luận và gợi ý chính sách Qua đánh giá khái quát trên đây, có thể nhận thấy, TTCK Việt Nam đến nay đã phát triển khá mạnh, cho dù TTCK có đóng góp và có tác động tích cực thì thị trường vẫn có nhiều tác động tiêu cực đáng quan tâm. Các tác động tiêu cực hay các mặt hạn chế của TTCK là thị trường phát triển dường như quá nhanh hay quá nóng so với khuôn khổ pháp lý và trình độ thị trường. Những tác động tiêu cực cụ thể là làm cho nền kinh tế trở nên rủi ro hơn, dễ tổn thương hơn; tình trạng bong bóng, nguy cơ đổ vỡ TTTC; TTCK lấn át ngân hàng thương mại... Trong điều kiện đó, bài viết có một vài gợi ý chính sách về phát triển TTCK trong thời gian tới như sau: (i)-Cơ cấu lại TTTC nói chung và TTCK Việt Nam đảm bảo phát triển theo cơ cấu phù hợp, tuần tự và có trật tự. Quan điểm của tác giả cho rằng, mục tiêu cơ cấu cần đảm bảo các thị trường phát triển có trật tự và đặc biệt đảm bảo sự phát triển tuần tự phù hợp với tăng trưởng kinh tế, trình độ dân trí, khuôn khổ pháp luật, phù hợp với quá trình hội nhập quốc tế và tiến trình tự do hóa tài chính ở Việt Nam. Trong đó, hết sức chú ý việc cho phép các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp và đặc biệt là các NHTM tham giavào lĩnh vực chứng khoán một cách có trình tự, có quản lý và trong tầm kiểm soát. Theo kinh nghiệm quốc tế (Till Algels Govern, 2006), nhìn chung, các nền kinh tế còn ở trình độ thấp đều thực hiện kiểm soát có chọn lọc ngân hàng kinh doanh các lĩnh vực được coi là nhạy cảm. Theo khảo sát ở nhiều quốc gia, có ba lĩnh vực mà NHTM thường tham gia, đó là: chứng khoán, bảo hiểm, bất động sản. Người ta cũng thấy rằng, các quốc gia khác nhau thì có mức độ hạn chế khác nhau đối với ba lĩnh vực trên. Sự tham gia của các NHTM vào các lĩnh vực này được xác định như sau: (xem Bảng 2). Năm 2006, nhóm nghiên cứu của Đại học Cambridge đã tiến hành nghiên cứu mức độ tham gia của các NHTM vào các lĩnh vực kinh doanh mạo hiểm như nhà đất, bảo hiểm, chứng khoán theoluật định trên cơ sở lựa chọn ngẫu nhiên 152 quốc gia và vùng lãnh thổ. Những kết quả của nghiên cứu này cũng cho những gợi ý chính sách nhất định. Đồ thị dưới đây cho thấy mức độ “cấm đoán” NHTM kinh doanh bất động sản, chứng khoán, bảo hiểm theo điều tra ngẫu nhiên 152 quốc gia vào năm 2006 (Till Algels Govern, 2006 ). Kết quả điều tra cho kết quả chủ yếu như sau: (xem Hình 1). -Về mức độ hạn chế NHTM kinh doanh chứng khoán: chỉ có 4 quốc gia cấm hoàn toàn NHTM kinh doanh chứng khoán đối với NHTM, 21quốc gia hạn chế, 66 nước cho phép theo kiểu có kiểm soát/cấp phép; 61 quốc gia không cấm. -Về mức độ hạn chế NHTM kinh doanh bất động sản: có tới 48 quốc gia cấm hoàn toàn NHTM kinh doanh lĩnh vực này, 36 quốc gia hạn chế, 37 nước cho phép theo kiểu có kiểm soát/cấp phép; 11 quốc gia không cấm. -Về mức độ hạn chế NHTM kinh doanh bảo hiểm: có tới 39 quốc gia cấm hoàn toàn NHTM kinh doanh lĩnh vực này, 53 quốc gia hạn chế, 47 nước cho phép theo kiểu có kiểm soát/cấp phép; 14 quốc gia không cấm. Kết quả điều tra cũng cho thấy, tùy theo mức độ phát triển của thị trường tài chính, năng lực quản lý của cơ quan quản lý và bản thân các NHTM mà có sự khác nhau về mức độ hạn chế NHTM kinh doanh vào các lĩnh vực này. Các nền kinh tế phát triển thì có mức độ tự do hóa cao hơn hẳn các nước kém phát triển. Tăng cường việc xây dựng khuôn khổ pháp lý đồng bộ, đảm bảo thị trường phát triển hiệu quả. Thị trường là nơi rất sáng tạo và nhanh nhạy, do đó, việc nghiên cứu để ban hành các quy định hướng dẫn và đảm bảo sự tuân thủ của thị trường là vô cùng quan trọng và cần thiết trong thời gian tới. Việc ban hành các quy định cần theo hướng quy định và khuyến khích thị trường tăng trưởng trên cơ sở đảm bảo tuân thủ các điều kiện an toàn cho thị trường, đảm bảo quyền lợi cho nhà đầu tư. Tăng cường quản lý kinh tế vĩ mô. Nhà nước cần có giải pháp tăng cường năng lực quản lý kinh tế vĩ mô phù hợp như duy trì tăng trưởng kinh tế ổn định, đảm bảo các chính sách minh bạch. Thị trường chứng khoán rất nhạy cảm đối với các diễn biến kinh tế vĩ mô. Do đó, việc minh bạch chính sách và đảm bảo sự ổn định kinh tế vĩ mô sẽ đảm bảo để thị trường phát triển ổn định. - Tăng cường quản trị doanh nghiệp. Nâng cao và tăng cường quản trị doanh nghiệp theo hướng tiếp cận thông lệ tốt nhất của thế giới về quản trị doanh nghiệp: Đảm bảo quyền lợi của các cổ đông nhỏ lẻ, nhà đầu tư nhỏ lẻ; đảm bảo quá trình tăng vốn được quản lý và kiểm soát chặt chẽ. Đặc biệt cần phải giảm thiểu tình trạng tăng vốn vô hạn độ và quan điểm lấy vốn để thay cho quản trị hiện nay tại các doanh nghiệp Việt Nam. - Tăng cường giám sát thị trường. Chính phủ và các cơ quan quản lý cần có giải pháp giám sát thị trường hoạt động hiệu quả công bằng. Các giám sát cần đảm bảo chống gian lận chứng khoán (nội gián, làm giá, thao túng giá chứng khoán...). Mạnh dạn áp dụng các tội danh hình sự đối với các trường hợp gian lận chứng khoán có hệ thống, có tổ chức (vì sự gian lận có tổ chức chứng tỏ có tính hình sự); việc hành chính hóa, chỉ phạt vi phạm hành chính vài chục triệu đồng với tội danh chứng khoán liên quan đến gian lận để thu lợi hàng trăm hay hàng ngàn tỷ đồng rõ ràng là không phù hợp. Ngoài ra, kinh nghiệm quốc tế cho thấy, sự gian lận chứng khoán có thể làm sụp đổ cả thị trường. Đảm bảo để các công ty chứng khoán hoạt động đúng luật. Ngăn chặn việc huy động/cho vay chứng khoán quá nhiều và không quản lý được như thời gian qua ở Việt Nam. Cần thiết phải làm rõ chức năng hoạt động của công ty chứng khoán, hoặc đảm bảo tính chuyên nghiệp hơn nữa về hoạt độngtương tự ngân hàng của công ty chứng khoán. Hạn chế hoặc theo hình thức điều kiện an toàn đối với mô hình tập đoàn tài chính (trong đó có ngân hàng -công ty chứng khoán). Tăng cường quản lý dòng vốn ngoại. Tăng cường quản lý dòng vốn quốc tế, nhấtlà dòng vốn ETF, đảm bảo để có thể hưởng lợi tốt nhất từ dòng vốn này mà không gây tác động tiêu cực lên TTTC trong nước. Các chính sách như thuế, quản lý ngoại hối nên hạn chế các dòng vốn ngắn hạn mà mà nên khuyến khích các dòng vốn dài hạn có tính cam kết cao như đầu tư dưới dạng cổ đông chiến lược. Thị trường vốn tín dụng: Thực trạng thị trường vốn tín dụng hiện nay Một số chỉ tiêu tài chính của các nhóm tổ chức tín dụng tính đến 30/6/2012 (đơn vị: tỷ đồng). Dư nợ tín dụng tính đến 30/4/2012. Riêng nợ xấu cập nhật hết quý 1/2012 - Nguồn: Ngân hàng Nhà nước. Tính đến ngày 30/6, tổng tài sản của các tổ chức dụng ở Việt Nam tăng 37.266 tỷ đồng, tương đương mức tăng 0,76% so với cuối tháng 4/2012. Trong khi đó, vốn tự có tăng thêm 2.731 tỷ đồng, vốn điều lệ tăng trên 12.000 tỷ đồng. Tổng tài sản của các nhóm tổ chức tín dụng tính đến 30/6/2012 (đơn vị: tỷ đồng) - Nguồn: Ngân hàng Nhà nước. Tính đến 30/6, tổng tài sản của khối ngân hàng thương mại nhà nước đã tăng thêm 43.861 tỷ đồng, tương đương 22,66% so với 2 tháng trước. Tương tự, tài sản của khối ngân hàng thương mại cổ phần, quỹ tính dụng trung ương tăng nhẹ. Ngược lại, tài sản của ngân hàng liên doanh, nước ngoài giảm tới 6.733 tỷ đồng, tương đương 12,4% so với 2 tháng trước. Vốn điều lệ của các nhóm tổ chức tín dụng tính đến 30/6/2012 (Đơn vị: tỷ đồng) - Nguồn: Ngân hàng Nhà nước. Về vốn điều lệ của các tổ chức tín dụng, tính đến 30/6, vốn của khối ngân hàng thương mại Nhà nước tăng thêm 8.745 tỷ đồng, tương đương mức tăng 8,5% so với cuối tháng 4/2012. Tương tự, vốn điều lệ của ngân hàng cổ phần tăng 2.787 tỷ đồng, công ty tài chính, cho thuê (+500 tỷ đồng),... Vốn tự có của các nhóm tổ chức tín dụng (không bao gồm Ngân hàng Chính sách xã hội) tính đến 30/6/2012 (đơn vị: tỷ đồng) - Nguồn: Ngân hàng Nhà nước. Tính đến 30/6, vốn tự có của các tổ chức tín dụng đạt 416.884 tỷ đồng, tăng 2.731 tỷ đồng so với cuối tháng 4/2012. Tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản (ROA) quý 2 (Đơn vị:%) - Nguồn: Ngân hàng Nhà nước. Lợi nhuận ròng trên vốn chủ sở hữu (ROE) quý 2 (Đơn vị:%) - Nguồn: Ngân hàng Nhà nước. Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu của các nhóm tổ chức tín dụng (không bao gồm Ngân hàng Chính sách xã hội) - Nguồn: Ngân hàng Nhà nước. Về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, nhìn chung, so với cuối tháng 4, các nhóm tổ chức tín dụng đã không cải thiện được tình hình khi tỷ lệ này đến 30/6 là 14,19%, giảm nhẹ so với mức 14,55% cuối tháng 4/2012. Đáng chú ý, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu của công ty tài chính, cho thuê đã giảm từ 11,71% hồi cuối tháng 4 xuống 8,65% tính đến cuối tháng 6/2012. Tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn của các nhóm tổ chức tín dụng (không bao gồm Ngân hàng Chính sách xã hội) - Nguồn: Ngân hàng Nhà nước. Tỷ lệ cấp tín dụng so với nguồn vốn huy động (thị trường 1) của các nhóm tổ chức tín dụng – Nguồn: Ngân hàng Nhà nước. Vai trò Vai trò của tín dụng trong nền kinh tế thị trường. Thứ nhất. Tín dụng là điều kiện đảm bảo quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra thường xuyên liên tục. Trong một thời điểm trong nền kinh tế luân tồn tại hai nhóm doanh nghiệp: Một nhóm “ tạm thời thừa vốn “ và muốn sử dụng số vốn nhàn rỗi này để kiếm lời trong một thời gian nhất định. Một nhóm “ tạm thời thiếu vốn “ và muốn tìm kiếm nguồn vốn nhàn rỗi khác để đáp ứng nhu cầu hiện tại. Nhờ hoạt động tín dụng mà cả hai nhóm doanh nghiệp đều được thoả mãn về vốn và dẫn đến quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra một cách thương xuyên, liên tục, nguồn vốn được sử dụng một cách tối đa. Thứ hai. Tín dụng huy động, tập trung vốn thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Bất kỳ một quốc gia nào muốn phát triển nền kinh tế cũng cần phải có một nguồn vốn đầu tư lớn để đổi mới công nghệ, tăng năng suất lao động, giảm giá thành sản phẩm, chiến thắng trong cạnh tranh. Nhưng để có lượng vốn đầu lớn như vậy thì chỉ có quan hệ tín dụng với đáp ứng được điều đó bởi quan hệ tín dụng sẽ tập trung huy động mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế và đáp ứng nhu cầu đó. Thứ ba. Tín dụng góp phần nâng cao mức sống của dân cư. Một trong những ví dụ điển hình để minh chứng cho điều này là thông qua quan hệ tín dụng mà những người có thu nhập thấp những người tàn tật đã có được nhà ở, phương tiện đi lại, điện thoại v.v. Bởi họ có thể sử dụng phương thức vay trả góp. Thứ tư. Là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Như ta đã biết cơ cấu kinh tế được quyết định bởi cơ cấu đầu tư mà tín dụng lại quyết định đến cơ cấu đầu tư. Nhà nước thông qua hoạt động của các Ngân hàng thương mại, chủ yếu là hoạt động tín dụng để điều chỉnh cơ cấu kinh tế. Các hình thức tín dụng Ngân hàng. Hoạt động tín dụng Ngân hàng bao gồm các nghiệp vụ: Cho vay, chiết khấu, bảo lãnh, cho thuê tài chính. Hoạt động cho vay. Hoạt động tín dụng là hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại. Tuy nhiên trong hoạt động tín dụng thì hoạt động cho vay đóng vai trò quan trọng và chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng tài sản và nó cũng là hoạt động mang lại lợi nhuận chủ yếu cho Ngân hàng. Định hướng cho phát triển thị trường tài chính Việt Nam không thể đẩy quá nhanh việc xây dựng thị trường tài chính, cũng như thị trường chứng khoán vượt lên trên sự phát triển chung của nền kinh tế, tức là phải phát triển đồng bộ, tất nhiên là phải có sự ưu tiên xây dựng các tiền đề, cơ sở hạ tầng nào đó. Chúng ta không thể nôn nóng, cũng như không thể ngồi chờ cho đủ điều kiện được. Như phần đầu bài viết đã đề cập, thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán có mối liên hệ mật thiết với nhau. Khi lãi suất trên thị trường tiền tệ tăng lên, khi thị trường tiền tệ nóng lên, thì thị trường chứng khoán cũng sôi động. Phát triển thị trường tiền tệ, làm tăng tốc độ chu chuyển vốn ngắn hạn trong nền kinh tế, nâng cao khả năng kinh doanh trên thị trường tiền tệ của các tổ chức trung gian tài chính, tạo điều kiện cho các tổ chức này sẵn sàng tham gia có hiệu quả trên thị trường chứng khoán. Theo đó một số đinh hướng cho phát triển TTTC như sau: - Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính, trực tiếp là Ủy ban chứng khoán Nhà nước phối hợp chặt chẽ mạnh dạn đưa 2-4 Ngân hàng thương mại cổ phần đầu tiên niêm yết cổ phiếu trên Trung tâm giao dịch chứng khoán. Phối hợp chặt chẽ, trên cơ sở tài trợ quốc tế, tổ chức các cuộc hội thảo, khóa đào tạo, tập huấn ngắn ngày về nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán và niêm yết cổ phiếu của Ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán. Bộ Tài chính cũng nên cùng Ngân hàng Nhà nước tập trung tháo gỡ vướng mắc trong việc định giá Ngân hàng thương mại và một số giải pháp khác đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa hai Ngân hàng thương mại Nhà nước đầu tiên theo kế hoạch. - Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính phối hợp tăng khối lượng tín phiếu Kho bạc Nhà nước đấu thầu hàng quý, hàng năm. Có thể tăng tần suất các phiên đấu thầu từ 1 phiên/1tuần hiện nay lên 2 phiên/tuần. Linh hoạt hơn nữa lãi suất đấu thầu qua các phiên theo sát diễn biến trên thị trường. Thời hạn tín phiếu cũng có thể đa dạng hơn, như kỳ hạn 60 ngày, 90 ngày... thay cho chỉ có loại 360 ngày như hiện nay. Cần có cơ chế để các Ngân hàng thương mại cổ phần và Ngân hàng khác có quy mô nhỏ hơn có thể trúng thầu tín phiếu trên thị trường này. Đặc biệt là Bộ Tài chính cần có biện pháp đưa các Công ty bảo hiểm, tổ chức bảo hiểm tham gia đấu thầu tín phiếu, không nên để tình trạng lãng phí vốn hay quan hệ tiền gửi không kỳ hạn trực tiếp với các tổ chức tín dụng như hiện nay. - Ngân hàng Nhà nước có biện pháp bảo đảm tính hệ thống của Quỹ tín dụng, có cơ chế điều hòa vốn linh hoạt hơn của hệ thống này. Trên cơ sở đó tạo điều kiện thu hút Quỹ tín dụng tham gia thị trường liên ngân hàng và các dạng khác của thị trường tiền tệ so Ngân hàng Nhà nước tổ chức, vận hành. - Ngân hàng Nhà nước nâng cấp thị trường nội tệ liên ngân hàng, thể hiện rõ vai trò can thiệp cuối cùng của Ngân hàng Nhà nước trên thị trường này. Tiến tới công bố được lãi suất thị trường nội tệ liên ngân hàng ở Việt Nam do là lãi suất chủ đạo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. - Bản thân các Tổ chức trung gian tài chính cần phải nhanh chóng đa dạng hóa các nghiệp vụ kinh doanh của mình, nhất là nghiệp vụ kinh doanh trên thị trường tiền tệ theo thông lệ quốc tế. Các Ngân hàng thương mại mạnh dạn đầu tư hơn nữa cho các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán và thu hút tiền gửi không kỳ hạn, dịch vụ thanh toán cho khách hàng. Đây cũng chính là các nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán trong thời gian tới, cũng như là khách hàng tiềm năng của nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán mà Ngân hàng thương mại cần nhằm tới thu hút.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxtai_chinh_tien_te_1__2187(1).docx
Luận văn liên quan