Vai trò của viện kiểm sát đối với việc khởi tố bị can

MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những cơ quan có thẩm quyền quyết định khởi tố bị can, Viện kiểm sát là cơ quan có vai trò rất quan trọng, đảm bảo việc khởi tố bị can được đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội. Viện kiểm sát không chỉ là cơ quan có quyền trực tiếp quyết định khởi tố bị can mà còn có nhiệm vụ, quyền hạn kiểm sát việc khởi tố bị can của cơ quan có thẩm quyền khác. Vì vậy, vai trò của Viện kiểm sát có ảnh hưởng quyết định đến hiệu quả của việc quyết định khởi tố bị can. Qua thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự thời gian gần đây cho thấy, mặc dù pháp luật tố tụng hình sự đã có những qui định khá đầy đủ về quyết định khởi tố bị can, song trong quá trình thực hiện các qui định của luật vẫn còn một số bất cập, đặc biệt là những quy định liên quan đến vai trò của Viện kiểm sát trong việc áp dụng những qui định này. Về nguyên tắc, mọi tội phạm và người thực hiện hành vi bị coi là tội phạm đều phải bị xử lí về hình sự. Nhưng việc xử lí làm sao để đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, tránh việc oan, sai là điều hết sức cần thiết. Hiến pháp năm 1992 của chúng ta qui định về quyền cơ bản của công dân, Điều 4 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 đã qui định về tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện việc khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử các vụ án hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung, Viện kiểm sát nói riêng vẫn còn để xảy ra tình trạng oan, sai. Việc oan, sai này xảy ra ở những giai đoạn khác nhau và trong những biện pháp tố tụng khác nhau, có thể từ khi bắt đầu các thủ tục tố tụng như khởi tố vụ án, khởi tố bị can, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, đến giai đoạn truy tố, xét xử. Chính vì vậy, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã nhận định trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới, đã nhận định về chất lượng công tác tư pháp: “ nói chung chưa ngang tầm với yêu cầu và đòi hỏi của nhân dân; còn nhiều trường hợp bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, vi phạm các quyền tự do, dân chủ của công dân, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và cơ quan tư pháp”. Những tồn tại và hạn chế này xuất phát từ nhiều những nguyên nhân khác nhau, từ nguyên nhân chủ quan đến nguyên nhân khách quan. Đồng thời, Nghị quyết cũng đã xác định một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới, trong đó xác định: “Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm đảm bảo không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, xử lí kịp thời những trường hợp sai phạm của những người tiến hành tố tụng khi thi hành nhiệm vụ.” Để tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 02/6/2005, Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Nghị quyết đã có những vấn đề liên quan đến trách nhiệm và vai trò của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra, đó là “ Nghiên cứu việc chuyển Viện kiểm sát thành Viện Công tố, tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra”. Theo đó, Viện kiểm sát tập trung vào chức năng công tố, tăng cường hơn nữa vai trò đối với hoạt động điều tra, trong đó có hoạt động phê chuẩn quyết định khởi tố bị can và kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với việc khởi tố bị can của Cơ quan điều tra. Trước thực trạng đó, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ về vai trò của Viện kiểm sát đối với việc khởi tố bị can, không chỉ dựa trên cơ sở những quy định của pháp luật tố tụng hình sự mà phải kết hợp với đánh giá thực tiễn hoạt động khởi tố bị can của Viện kiểm sát trong những năm gần đây, nhất là từ khi thực hiện Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, từ đó tìm ra những tồn tại, nguyên nhân và đề xuất các giải pháp khắc phục, góp phần nâng cao hơn nữa vai trò của Viện kiểm sát đối với việc khởi tố bị can. Đây là lý do tác giả chọn “Vai trò của Viện kiểm sát đối với việc khởi tố bị can” làm đề tài Luận văn Thạc sĩ Luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Từ trước đến nay, có khá nhiều công trình nghiên cứu thể hiện dưới dạng các bài viết đăng trên các tạp chí về chức năng của Viện kiểm sát, về khởi tố bị can. Có thể nêu ra một số bài viết như: Một số vấn đề lí luận, thực tiễn về khởi tố bị can (Tạp chí toà án- Toà án nhân dân tối cao, số 7/2006, tr.22-24); Áp dụng các qui định của Bộ luật Tố tụng hình sự về việc quyết định khởi tố bị can, thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can (Tạp chí Kiểm sát- Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, số 02/2007, tr.22-26, 46) của Tiến sĩ Trần Quang Tiệp; Từ thực tiễn một năm thực hiện qui định tại Điều 126 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về việc phê chuẩn quyết định khởi tố bị can (Tạp chí Kiểm sát- Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, số 4/2006, tr. 44-47) của Hương Nhung; Một số vấn đề lí luận và thực tiễn của việc khởi tố vụ án hình sự và việc kiểm sát việc khởi tố vụ án (Tạp chí Kiểm sát- Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, số 02/2007, tr. 6-11) của Tiến sĩ Phạm Mạnh Hùng; Một số vấn đề về khởi tố bị can và phê chuẩn quyết định khởi tố bị can (Tạp chí Kiểm sát- Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, số 02/2007, tr. 18-21) của Tiến sĩ Đỗ Văn Đương; Cần sửa đổi, bổ sung một số qui định của Bộ luật Tố tụng hình sự về khởi tố bị can, thay đổi, bổ sung quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can (Tạp chí Kiểm sát- Viện kiểm sát nhân dân tối cao, số 23/2008, tr.13-17) của Nguyễn Tiến Sơn; Bàn về thẩm quyền của Viện kiểm sát trong việc quyết định khởi tố bị can (Tạp chí kiểm sát- Viện kiểm sát nhân dân tối cao, số Tân Xuân (02)/2009, tr. 35-38) của Nguyễn Ngọc Khánh . Ngoài ra, khởi tố bị can còn được thể hiện dưới hình thức là một số mục nhỏ trong các công trình nghiên cứu như: Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra, Nxb Tư pháp, Hà Nội (2005), tr 62, của Tập thể tác giả: Tiến sĩ Lê Hữu Thể (Chủ biên), Tiến sĩ Đỗ Văn Đương, Nông Xuân Trường; Quyền công tố ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội (2002), tr47-48, của Lê Thị Tuyết Hoa. Những bài viết, công trình nghiên cứu nêu trên chỉ đề cập đến khởi tố bị can với tư cách là một hoạt động trong tổng thể các hoạt động tố tụng hình sự hoặc nghiên cứu với tư cách đó là một phương diện (mặt) hoạt động chủ yếu để làm sáng tỏ chức năng của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự mà chưa có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu vấn đề này trong và trên cơ sở mối liên hệ với vai trò của Viện kiểm sát. Xuất phát từ tình hình nghiên cứu như trên cho thấy, cần phải có sự nghiên cứu việc khởi tố bị can một cách độc lập, phân tích việc áp dụng qui định này trong mối liên hệ với vai trò của Viện kiểm sát, đánh giá việc thực hiện ở những góc độ khác nhau để phát huy những ưu điểm và khắc phục những hạn chế trong thực tiễn áp dụng. 3. Mục đích, nhiệm vụ của Luận văn Trên cơ sở nghiên cứu một số vấn đề lí luận, qui định của pháp luật tố tụng hình sự, kết hợp với đánh giá thực tiễn áp dụng qui định về khởi tố bị can trong thời gian gần đây, Luận văn nhằm mục đích làm sáng tỏ các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về khởi tố bị can, đặc biệt là các qui định về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát đối với việc khởi tố bị can. Ngoài ra, tác giả còn phân tích những nguyên nhân hạn chế vai trò của Viện kiểm sát trong việc áp dụng qui định về khởi tố bị can, từ đó mạnh dạn đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự, đặc biệt là các quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về khởi tố bị can và một số giải pháp khắc phục các nguyên nhân chủ quan, khách quan khác ảnh hưởng đến thực tiễn áp dụng qui định về khởi tố bị can, góp phần nâng cao hơn nữa vai trò của Viện kiểm sát trong việc áp dụng qui định này. Để thực hiện được mục đích nghiên cứu và phù hợp với phạm vi nghiên cứu của Luận văn, tác giả đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau đây: - Nghiên cứu một số vấn đề lí luận về khởi tố bị can: khái niệm, mục đích, ý nghĩa của việc khởi tố bị can; Nghiên cứu những quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành, thể hiện vai trò của Viện kiểm sát đối với việc khởi tố bị can. - Đánh giá thực tiễn hoạt động kiểm sát việc khởi tố bị can trong 6 năm trở lại đây (từ năm 2005 đến 2010), tìm ra những nguyên nhân hạn chế vai trò của Viện kiểm sát đối với việc khởi tố bị can. - Trên cơ sở những nguyên nhân đó, tác giả đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự, khắc phục những hạn chế trong thực tiễn áp dụng, nâng cao chất lượng, hiệu quả của việc khởi tố bị can nói chung, vai trò của Viện kiểm sát đối với việc khởi tố bị can nói riêng. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là một số vấn đề về lí luận, các qui định của pháp luật và thực tiễn thực hiện các qui định của pháp luật về vai trò của Viện kiểm sát đối với việc khởi tố bị can. Do thời gian và khuôn khổ có hạn, Luận văn chỉ tập trung vào việc nghiên cứu vấn đề: - Vai trò của Viện kiểm sát đối với việc khởi tố bị can theo qui định của pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam (theo qui định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 và Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 và một số văn bản có liên quan). - Những hạn chế trong việc thực hiện những qui định của pháp luật về vai trò của Viện kiểm sát nói chung (gồm cả Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân sự) đối với việc khởi tố bị can. 5. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được hoàn thành dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của triết học Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác như: Thống kê, phân tích, so sánh, tổng hợp, dựa trên các quy phạm pháp luật hiện hành, các tài liệu, sách báo liên quan, các bài viết của các tác giả đã nghiên cứu trước đó, kết hợp với đánh giá thực tiễn áp dụng để hoàn thành Luận văn này một cách có chất lượng. 6. Đóng góp mới của Luận văn - Điểm mới của Luận văn là làm rõ một số vấn đề lí luận và thực tiễn của việc khởi tố bị can, nghiên cứu khởi tố bị can một cách độc lập với nghĩa là một việc mà không phải là một hoạt động, đặc biệt chú trọng đến những quy định về vai trò của Viện kiểm sát đối với việc khởi tố bị can. Đây là một hướng nghiên cứu hoàn toàn mới, Tác giả hy vọng bằng việc đánh giá những quy định của pháp luật Tố tụng hình sự về khởi tố bị can, xoay quanh vai trò của Viện kiểm sát, sẽ tạo ra được một cách nhìn mới về vấn đề này. - Phát hiện được một số vướng mắc, bất cập trong thực tiễn áp dụng pháp luật Tố tụng hình sự về vai trò của Viện kiểm sát đối với việc khởi tố bị can. - Đề xuất sửa đổi, bổ sung một số qui định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao vai trò của Viện kiểm sát đối với việc khởi tố bị can. 7. Ý nghĩa của Luận văn Đây là công trình nghiên cứu về vai trò của Viện kiểm sát đối với việc khởi tố bị can, góp phần làm giàu thêm kiến thức trong pháp luật Tố tụng hình sự, góp phần trong đấu tranh, phòng, chống tội phạm, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác giảng dạy, nghiên cứu trong các trường đào tạo về pháp luật và cũng là tài liệu để những người tiến hành tố tụng trong Tố tụng hình sự vận dụng vào thực tiễn công tác. 8. Kết cấu của Luận văn Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, phần nội dung chính của Luận văn bao gồm 03 chương: - Chương 1: Một số vấn đề lí luận về vai trò của Viện kiểm sát đối với việc khởi tố bị can. - Chương 2: Qui định của pháp luật và thực trạng hoạt động của Viện kiểm sát đối với việc khởi tố bị can. - Chương 3: Một số giải pháp, kiến nghị góp phần nâng cao vai trò của Viện kiểm sát đối với việc khởi tố bị can.

doc71 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4817 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Vai trò của viện kiểm sát đối với việc khởi tố bị can, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ạn giải quyết vụ án, gây tốn kém về kinh phí cho các cơ quan tiến hành tố tụng. Trên thực tế, có nhiều trường hợp việc định tội danh khá phức tạp và có nhiều quan điểm đánh giá khác nhau, mặc dù hồ sơ vụ án có đầy đủ chứng cứ, tài liệu chứng minh hành vi phạm tội của bị can, nhưng do các cơ quan tiến hành tố tụng có quan điểm đánh giá chứng cứ khác nhau, xác định tội danh khác nhau, dẫn đến việc chuyển đi, chuyển lại hồ sơ vụ án giữa các cơ quan tiến hành tố tụng nhiều lần, không cần thiết. + Khoản 6 Điều 126 và khoản 3 Điều 127 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm2003 có qui định Cơ quan điều tra phải giao ngay quyết định khởi tố bị can, quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can của mình hoặc quyết định khởi tố bị can, quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can của Viện kiểm sát và giải thích quyền, nghĩa vụ cho bị can quy định tại Điều 49. Đây là qui định cần thiết để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người bị khởi tố bị can. Tuy nhiên, nếu qui định như vậy là cứng nhắc. Thông tư số 05/2005/TTLT-VKSTC-BCA-BQP ngày 07/9/2005 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng về quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện Kiểm sát trong việc thực hiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 đã hướng dẫn và khắc phục qui định này tại Mục 12.1. Theo đó, hồ sơ đề nghị Viện kiểm sát xét phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can phải có biên bản giao quyết định khởi tố bị can, quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can cho bị can, trừ các trường hợp “không thể giao ngay các quyết định này cho bị can như trường hợp bắt bị can tại ngoại để tạm giam hoặc phải khám xét chỗ ở, nơi làm việc của bị can; bị can trốn; bị can tại ngoại do không triệu tập hoặc gặp ngay được...”. Vì vậy, qui định này cần được “Luật hoá”. + Tương tự như vậy, Khoản 3 Điều 126 qui định: “Sau khi khởi tố bị can, Cơ quan điều tra phải chụp ảnh, lập danh chỉ bản của bị can và đưa vào hồ sơ vụ án”. Qui định này là cần thiết và để xác định rõ từ đầu: ai là người bị khởi tố? Tuy nhiên, có vấn đề đặt ra là: “sau khi khởi tố bị can” có thể là “ngay sau khi khởi tố bị can” nhưng cũng có thể là sau đó, xuyên suốt quá trình điều tra thì mới “chụp ảnh, lập danh chỉ bản của bị can”. Quá trình thực hiện qui định này trên thực tiễn, Cơ quan điều tra cho rằng bị can chưa bắt được nên việc chụp ảnh, lập danh chỉ bản là không thể. Để tránh trường hợp, khi mới bị bắt, người thực hiện hành vi phạm tội khai gian dối, trong khi Cơ quan điều tra chưa chụp ảnh, cũng chưa thể lập danh chỉ bản ngay mà chỉ căn cứ vào lời khai của người bị bắt giữ để làm nguồn xác minh. Nói “danh chỉ bản” là cách nói thuận về từ ngữ. Nếu trường hợp Cơ quan điều tra đã chụp ảnh hoặc lập chỉ bản người bị bắt thì việc xác minh để có danh bản sẽ đảm bảo chính xác và đúng người. Vì vậy, qui định này cần được sửa đổi cho phù hợp với thực tiễn áp dụng. *) Nguyên nhân từ yếu tố con người Đánh giá một cách khái quát về đội ngũ cán bộ tư pháp nói chung và đội ngũ cán bộ tư pháp, trong đó có các Điều tra viên, Kiểm sát viên, Báo cáo tổng kết 4 năm thực hiện Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị do Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương tổng kết đã nêu: Đội ngũ cán bộ tư pháp và bổ trợ tư pháp còn hạn chế về năng lực, chậm đổi mới nhận thức, ý thức trách nhiệm chưa cao nên đã không đáp ứng được yêu cầu ngày càng nặng nề của việc thực hiện các nhiệm vụ cải cách tư pháp, thậm chí có một số ít sa sút về phẩm chất, đạo đức, chính trị, vi phạm pháp luật bị xử lý hành chính và truy cứu trách nhiệm hình sự. Bên cạnh đó công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tư pháp dù đã có nhiều cố gắng song chưa mang tính đồng bộ, tổng thể và còn tiến hành chậm. ở nhiều địa phương, nhất là ở cấp huyện, đội ngũ cán bộ tư pháp còn thiếu và yếu. Ngoài ra, việc chuẩn bị lực lượng cán bộ tư pháp giỏi về ngoại ngữ, tinh thông nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu chủ động hội nhập quốc tế mặc dù đã có chủ trương song vẫn chưa được thực hiện; ở một số cơ quan tư pháp còn chưa ý thức được tầm quan trọng của vấn đề này nên chưa có lộ trình cụ thể. [14, tr 28] Sau đây tác giả sẽ đề cập đến một số nguyên nhân xuất phát từ yếu tố con người, đặc biệt là những nguyên nhân có liên quan đến vai trò của Viện kiểm sát trong việc khởi tố bị can. + Trình độ, năng lực nghiệp vụ, nhận thức pháp luật của độ ngũ cán bộ còn hạn chế Hiện nay, ở nước ta đang là thời điểm chuyển giao giữa hai thế hệ cán bộ, công chức Nhà nước. Một thế hệ là những người trưởng thành từ những năm 70-80 của thế kỉ 20, đã trải qua thời kỳ chế độ bao cấp. Thế hệ còn lại là những cán bộ trẻ, được đào tạo qua trường lớp chính quy. Tuy nhiên, vì những nguyên nhân chủ quan và khách quan nên nhận thức và trình độ của cả hai thế hệ cán bộ này đôi khi còn có những hạn chế nhất định.Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Báo cáo của Ban chỉ đạo cải cách Tư pháp Trung ương về kết quả 4 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 2-1-2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của Công tác tư pháp trong thời gian tới. Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Báo cáo của Ban chỉ đạo cải cách Tư pháp Trung ương về kết quả 4 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 2-1-2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của Công tác tư pháp trong thời gian tới. Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Báo cáo của Ban chỉ đạo cải cách Tư pháp Trung ương về kết quả 4 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 2-1-2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của Công tác tư pháp trong thời gian tới. Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Báo cáo của Ban chỉ đạo cải cách Tư pháp Trung ương về kết quả 4 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 2-1-2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của Công tác tư pháp trong thời gian tới. Đối với những Kiểm sát viên và những người làm công tác tư pháp thuộc thế hệ trước là những người chủ yếu được chuyển ngành từ các cơ quan khác sang, sau đó qua các lớp học nghiệp vụ, chuyên tu, tại chức đã được chuyển đổi về mặt bằng cấp cho phù hợp với quy định của pháp luật trong từng giai đoạn. Song về mặt chất lượng kiến thức pháp luật có được từ các lớp học nói trên rất hạn chế. Đối với thế hệ cán bộ trẻ được đào tạo qua các trường đại học chính quy hiện nay, do chịu ảnh hưởng của cách dạy và học theo nếp cũ, thiếu sự chủ động, sáng tạo từ phía người học, phương pháp dạy học thiên về dạy lý thuyết nhiều hơn thực hành. Vì vậy, khi ra trường được phân công các công việc cụ thể, những cán bộ này chưa thích nghi ngay với môi trường công việc thực tiễn. + Tình trạng thiếu cán bộ chưa được khắc phục Cho đến thời điểm hiện nay mặc dù đã có nhiều nỗ lực trong công tác tuyển chọn cán bộ, bổ nhiệm các chức danh tư pháp cho những người có đủ điều kiện, nhưng trên toàn quốc số lượng các Kiểm sát viên, Điều tra viên vẫn còn thiếu. Theo đánh giá của Ban chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương trong Báo cáo kết quả 4 năm thực hiện Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ chính trị: “Việc thiếu cán bộ có chức danh tư pháp ở một số cơ quan, nhất là ở Cơ quan điều tra, Tòa án, Viện kiểm sát ở một số thành phố lớn đã dẫn tới tình trạng quá tải trong công việc được giao, dẫn đến không thể xem xét, giải quyết kỹ lưỡng tất cả các vụ việc vì sức ép bảo đảm thời gian tố tụng” [14, tr 30] *) Nguyên nhân từ yếu tố cơ sở vật chất - Trong những năm qua, nguồn kinh phí cấp cho các hoạt động liên quan đến việc tiếp nhận, phân loại, xử lí tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố, mặc dù được cải thiện nhiều nhưng còn hạn chế. Với mức thu nhập chính từ lương và phụ cấp như hiện nay, chưa đảm bảo cho cán bộ yên tâm công tác, phần nào đã ảnh hưởng đến tinh thần trách nhiệm trong công việc. Đây có thể là nguyên nhân gián tiếp dẫn đến tình trạng một số cán bộ, Kiểm sát viên, Điều tra viên có hành vi làm sai lệch hồ sơ vụ án để vụ lợi cá nhân. Đánh giá một cách khái quát về những vấn đề còn hạn chế trong việc chưa đảm bảo cơ sở vật chất, chính sách, chế độ hợp lý đối với các hoạt động tư pháp nói chung, khởi tố bị can nói riêng đã được Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương đánh giá như sau: Ngân sách của Nhà nước nói chung, trong đó ngân sách dành cho công tác tư pháp và chế độ, chính sách cho các cán bộ tư pháp đã có sự đầu tư, quan tâm nhiều hơn trước xong vẫn rất eo hẹp so với yêu cầu của nhiệm vụ. Trong khi đó, việc thiếu một cơ chế linh hoạt để huy động các nguồn kinh phí dành cho đầu tư cơ sở, vật chất, phương tiện làm việc cho các cơ quan tư pháp chưa được khắc phục, cũng là những nguyên nhân ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện các nhiệm vụ cải cách tư pháp. [14, tr 30] - Những năm gần đây, ngành Kiểm sát đã được đầu tư kinh phí xây dựng trụ sở làm việc, trang bị những phương tiện cần thiết cho việc thực hiện công tác nhiệm vụ, như: máy tính, máy in, máy photocopy… song, có thể thấy rằng: số lượng thì thiếu, chất lượng thì chưa bảo đảm. Đơn cử như máy photocopy để sao, chụp tài liệu lập hồ sơ kiểm sát, nhất là hồ sơ ban đầu thì không phải đơn vị nào cũng được trang bị những máy có chất lượng. Máy vi tính thì 3 đến 4 Kiểm sát viên sử dụng chung một máy…Sự thiếu và yếu này đã làm ảnh hưởng khá nhiều đến hoạt động nghiệp vụ của cán bộ, Kiểm sát viên. Kết luận chương 2: Qua việc nghiên cứu qui định của luật thực định và đánh giá thực trạng hoạt động của Viện kiểm sát đối với việc khởi tố bị can theo qui định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, có thể thấy: Qui định của pháp luật về cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu đấu tranh, phòng, chống tội phạm. Tuy nhiên vẫn còn nhiều bất cập về qui định cần được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Viện kiểm sát đã phát huy tinh thần chủ động, tích cực, phối hợp tốt với Cơ quan điều tra, thể hiện vai trò chủ đạo, bám sát quá trình điều tra vụ án. Bên cạnh những kết quả đạt được, vai trò của Viện kiểm sát còn bộc lộ một số tồn tại cần khắc phục. Những tồn tại đó là do cả nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan. Việc phân tích, đánh giá những tồn tại, tìm ra những nguyên nhân là cần thiết, tuy nhiên mục đích nghiên cứu cuối cùng chỉ đạt được khi chúng ta đề ra được những giải pháp, kiến nghị khắc phục những nguyên nhân của tồn tại, góp phần nâng cao vai trò của Viện kiểm sát đối với việc khởi tố bị can. Đó là nội dung sẽ được tác giả đề cập tới trong nội dung Chương tiếp theo của Luận văn. CHƯƠNG 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT ĐỐI VỚI VIỆC KHỞI TỐ BỊ CAN 3.1. Quan điểm chỉ đạo hoàn thiện vai trò của Viện kiểm sát đối với việc khởi tố bị can Trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lí của Nhà nước, đi đôi với việc quản lí, vận hành nền kinh tế phát triển theo định hướng chung, cần có một nền pháp luật đủ mạnh để điều chỉnh có hiệu quả các mối quan hệ trong nền kinh tế. Trong quá trình đó, vai trò của các cơ quan tư pháp là hết sức quan trọng. Thực tế có những vấn đề nảy sinh trong hoạt động của các cơ quan tư pháp đã cho thấy, chất lượng của các cơ quan tư pháp chưa ngang tầm với yêu cầu và đòi hỏi của xã hội. Việc xử lí tội phạm chưa triệt để, vẫn xảy ra nhiều trường hợp bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, trong truy tố vẫn còn oan, sai, xâm phạm đến quyền- lợi ích hợp pháp của công dân, như nhận định của Ban Chấp hành Trung ương Đảng trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới, về chất lượng công tác tư pháp: “… nói chung chưa ngang tầm với yêu cầu và đòi hỏi của nhân dân; còn nhiều trường hợp bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, vi phạm các quyền tự do, dân chủ của công dân, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và cơ quan tư pháp”. Với mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, Bộ Chính trị xác định nhiệm vụ của Viện kiểm sát các cấp trong Nghị quyết này là: “thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm đảm bảo không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, xử lí kịp thời những trường hợp sai phạm của những người tiến hành tố tụng khi thi hành nhiệm vụ.” [18, tr.3]. Đồng thời, Ban Chấp hành Trung ương đã nghị quyết những vấn đề liên quan đến trách nhiệm và vai trò của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra, đó là “… tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra” [15, tr5]. Trong giai đoạn hiện nay, yêu cầu đặt ra đối với Viện kiểm sát là phải nâng cao chất lượng trong việc thực hiện tốt chức năng do pháp luật qui định, để hoàn thành nhiệm vụ được giao, đáp ứng yêu cầu của cuộc đấu tranh, phòng, chống tội phạm trong tình hình mới. Theo đó, “Viện kiểm sát các cấp cần nâng cao hơn nữa tính chủ động và vai trò quyết định của công tố trong đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, khắc phục tình trạng để lọt tội phạm, làm oan người vô tội” [16, tr.3]. Trên cơ sở các vấn đề lí luận cơ bản về thực hành quyền công tố và kiểm sát việc khởi tố bị can, qua đánh giá những qui định của pháp luật, cũng như thực trạng vai trò của Viện kiểm sát đối với hoạt động này, để Viện kiểm sát làm tốt hơn nữa vai trò chủ đạo và quyết định của mình đối với việc khởi tố bị can, góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả của hoạt động này, tác giả cho rằng, cần phải thực hiện một số giải pháp cơ bản sau đây: 3.2. Một số giải pháp 3.2.1. Giải pháp để hoàn thiện quy định của pháp luật về khởi tố bị can + Để xác định rõ thời điểm là bị can, theo tác giả, khoản 1 Điều 49 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 cần được sửa đổi, bổ sung như sau: “Bị can là người đã bị khởi tố về hình sự và được Viện kiểm sát phê chuẩn”. Mặt khác, nội dung điều 49 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 cũng cần phải được phân định rõ quyền và nghĩa vụ của bị can tương ứng với thời điểm của Cơ quan điều tra khởi tố bị can nhưng chưa được Viện kiểm sát phê chuẩn và thời điểm sau khi Viện kiểm sát phê chuẩn quyết định khởi tố bị can để bảo đảm chặt chẽ, góp phần thống nhất về nhận thức trong quá trình tiến hành tố tụng. + Việc ra quyết định khởi tố bị can là để tiến hành điều tra với một người mà cơ quan công tố chưa có đủ chứng cứ chứng minh người đó phạm tội. Do đó, khoản 1 Điều 126 Bộ luật Tố tụng hình sự cần sửa đổi theo hướng: “khi có đủ căn cứ để xác định một người bị nghi thực hiện hành vi phạm tội thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát ra quyết định khởi tố về hình sự đối với người đó” + Nếu giữ như quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành về việc Viện kiểm sát phê chuẩn quyết định khởi tố bị can thì cần phải quy định rõ trách nhiệm giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát như sau: Một là, nếu Viện kiểm sát huỷ bỏ quyết định khởi tố bị can thì Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát chịu trách nhiệm độc lập về quyết định của mình. Hai là, nếu Viện kiểm sát đồng ý với Cơ quan điều tra và phê chuẩn quyết định khởi tố bị can thì Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát cùng liên đới chịu trách nhiệm của Cơ quan điều tra sau khi đã được Viện kiểm sát phê chuẩn quyết định khởi tố bị can. Do đó, qui định của Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước cũng cần phải được sửa đổi cho phù hợp với việc phân định trách nhiệm của Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra, kể cả các qui định về phê chuẩn quyết định tạm giữ, quyết định tạm giam... mà có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát. + Khoản 3 Điều 126 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 cần được sửa đổi, bổ sung như sau: “Ngay sau khi khởi tố bị can, Cơ quan điều tra phải chụp ảnh, lập chỉ bản, danh bản của bị can và đưa vào hồ sơ vụ án, trừ trường hợp không thể lập ngay được” + Khoản 4 Điều 126 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 qui định chưa thống nhất về việc Viện kiểm sát xét phê chuẩn “việc khởi tố” hay phê chuẩn “quyết định khởi tố”. Tác giả quan điểm, phê chuẩn là phê chuẩn quyết định khởi tố bị can chứ không phải là phê chuẩn việc khởi tố, nên khoản 4 Điều 126 cần sửa đổi như sau: “4. Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định khởi tố bị can, Cơ quan điều tra phải gửi quyết định khởi tố và tài liệu liên quan đến việc khởi tố bị can đó cho Viện kiểm sát cùng cấp để xét phê chuẩn quyết định khởi tố. Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được quyết định khởi tố bị can và các tài liệu liên quan, Viện kiểm sát phải quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn quyết định khởi tố bị can và gửi ngay cho Cơ quan điều tra. + Tại khoản 5 điều 126 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định: Sau khi nhận hồ sơ và kết luận điều tra mà Viện kiểm sát phát hiện có người khác đã thực hiện hành vi phạm tội trong vụ án chưa bị khởi tố thì Viện kiểm sát ra quyết định khởi tố bị can, còn trong giai đoạn điều tra nếu Viện kiểm sát phát hiện có người khác đã thực hiện hành vi phạm tội trong vụ án chưa bị khởi tố thì Viện kiểm sát chỉ có quyền yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố bị can. Quy định này làm hạn chế quyền hạn của Viện kiểm sát trong việc bảo đảm không bỏ lọt tội phạm. Vì vậy, để nâng cao trách nhiệm của Viện kiểm sát, cần bổ sung vào khoản 5 Điều 126 Bộ luật Tố tụng hình sự nội dung như sau: trường hợp đã yêu cầu khởi tố bị can mà Cơ quan điều tra không thực hiện thì Viện kiểm sát ra quyết định khởi tố bị can yêu cầu Cơ quan điều tra tiến hành điều tra. Khoản 5 được sửa đổi, bổ sung như sau: “5. Trong trường hợp phát hiện có người đã thực hiện hành vi phạm tội chưa bị khởi tố thì Viện kiểm sát yêu cầu Cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố bị can. Trường hợp Viện kiểm sát đã yêu cầu khởi tố bị can mà Cơ quan điều tra không thực hiện thì Viện kiểm sát ra quyết định khởi tố bị can và yêu cầu Cơ quan điều tra tiến hành điều tra. Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định khởi tố bị can, Viện kiểm sát phải gửi cho Cơ quan điều tra để tiến hành điều tra.” + Bổ sung qui định tại khoản 6 Điều 126: “6. Cơ quan điều tra phải giao ngay quyết định khởi tố bị can của mình hoặc quyết định khởi tố bị can của Viện kiểm sát và giải thích quyền, nghĩa vụ cho bị can quy định tại Điều 49 của Bộ luật này. Sau khi nhận được quyết định phê chuẩn hoặc quyết định huỷ bỏ quyết định khởi tố bị can của Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra phải giao ngay cho bị can. Trong trường hợp không thể giao ngay được thì sau khi có quyết định phê chuẩn của viện kiểm sát cùng cấp, Cơ quan điều tra phải giao ngay các quyết định đó (cả quyết định của Cơ quan điều tra và quyết định phê chuẩn của Viện kiểm sát) cho bị can. Việc giao nhận các quyết định nói trên phải lập biên bản theo quy định tại Điều 95 của Bộ luật này.” + Việc Cơ quan điều tra được quyền ra quyết định thay đổi tội danh là cần thiết để phù hợp với hành vi phạm tội của bị can. Tuy nhiên, để bảo vệ quyền của bị can, Điều 127 cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng: Khoản 1 sửa đổi như sau: “1. Khi tiến hành điều tra, nếu có căn cứ xác định hành vi phạm tội của bị can không phạm vào tội đã bị khởi tố, thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát ra quyết định thay đổi quyết định khởi tố bị can. Trong trường hợp xác định hành vi phạm tội của bị can không phạm vào tội đã bị khởi tố mà phạm vào tội khác không cùng Chương của Bộ luật Hình sự thì Cơ quan điều tra phải ra quyết định đình chỉ điều tra đối với bị can về tội danh đã khởi tố và ra quyết định khởi tố bị can về tội danh mới để tiến hành điều tra.” Khoản 3 Điều 127 được sửa đổi, bổ sung như sau: “3. Cơ quan điều tra phải giao ngay quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can của mình hoặc quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can của Viện kiểm sát và giải thích quyền, nghĩa vụ cho bị can quy định tại Điều 49 của Bộ luật này. Sau khi nhận được quyết định phê chuẩn hoặc quyết định huỷ bỏ quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can của Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra phải giao ngay cho bị can. Trong trường hợp không thể giao ngay được thì sau khi có quyết định phê chuẩn của viện kiểm sát cùng cấp, Cơ quan điều tra phải giao ngay các quyết định đó (cả quyết định của Cơ quan điều tra và quyết định phê chuẩn của Viện kiểm sát) cho bị can. Việc giao nhận các quyết định nói trên phải lập biên bản theo quy định tại Điều 95 của Bộ luật này.” + Tại điều 127 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định mọi trường hợp Viện kiểm sát thay đổi quyết định khởi tố bị can phải chuyển cho Cơ quan điều tra để tiến hành điều tra, dẫn đến phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung là không cần thiết. Theo tác giả, chỉ những trường hợp khởi tố bổ sung thì Viện kiểm sát mới chuyển cho Cơ quan điều tra để tiến hành điều tra, còn trong trường hợp có đủ căn cứ, tài liệu để truy tố bị can về một tội danh khác với tội danh đã khởi tố thì Viện kiểm sát ra quyết định thay đổi quyết định khởi tố bị can và chỉ trong trường hợp cần thiết phải hoàn tất các thủ tục tố tụng thì Viện kiểm sát mới chuyển cho Cơ quan điều tra để tiến hành điều tra. Vì vậy, cần phải nghiên cứu sửa đổi điều 127 Bộ lụât Tố tụng hình sự cho phù hợp với thực tiễn. 3.2.2. Giải pháp liên quan đến yếu tố con người - Tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa việc đổi mới công tác tổ chức và cán bộ, đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp, tăng cường cán bộ, Kiểm sát viên có năng lực cho đơn vị làm công tác kiểm sát điều tra, đặc biệt là đơn vị làm công tác phân loại, xử lí. Bác Hồ đã chỉ rõ “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc, công việc có thành hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Các văn kiện của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới, đã nêu rõ, việc đổi mới công tác tổ chức và cán bộ là một trong những biện pháp đặc biệt quan trọng để Viện kiểm sát có thể làm tốt chức năng công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Những năm qua, công tác tổ chức và cán bộ của ngành đã có những tiến bộ đáng kể, đáp ứng ngày càng tốt hơn các yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp. Ngành kiểm sát đã làm tốt công tác tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sắp xếp, sử dụng, qui hoạch, điều động, bổ nhiệm và luân chuyển cán bộ. Mặc dù vậy, công tác cán bộ vẫn còn có những tồn tại, giải quyết chế độ do tồn tại của lịch sử là chính, những bất cập là không thể tránh khỏi. Với nhận thức: công tác phân loại, xử lí ban đầu là hết sức quan trọng, có ý nghĩa xuyên suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự, công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc khởi tố bị can của Viện kiểm sát còn là tiêu chuẩn để đánh giá chất lượng và hiệu quả hoạt động của ngành. Do vậy, cần phải tiếp tục đổi mới công tác tổ chức, cán bộ theo hướng cán bộ có phẩm chất đạo đức tốt, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ cao, như mong muốn của Bác Hồ là phải “vừa hồng, vừa chuyên”, phù hợp với công tác kiểm sát việc khởi tố bị can. Nhưng trước hết, ở giai đoạn đào tạo trước khi được tuyển dụng vào ngành Kiểm sát nhân dân, ngành giáo dục cần nghiên cứu cải tiến phương pháp dạy và học trong các trường Đại học, theo hướng gia tăng thời lượng thực hành, gắn lí thuyết với thực hành, lấy người học làm trung tâm…, như vậy khi sinh viên tốt nghiệp ra trường mới có thể đáp ứng được ngay đòi hỏi của công việc thực tiễn. Ngành kiểm sát cần tổ chức thường xuyên các lớp tập huấn ngắn ngày về công tác nghiệp vụ nói chung và công tác khởi tố, điều tra nói riêng cho các cán bộ có thẩm quyền, đặc biệt là các Kiểm sát viên, nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ, nhận thức pháp luật, góp phần hạn chế các vi phạm trong thực tiễn áp dụng pháp luật. Trong các chương trình học cần cải tiến cả về nội dung và hình thức cho sát với đòi hỏi của thực tiễn, tránh tình trạng những kiến thức được học chỉ mang tính lý thuyết, đây là một sự lãng phí lớn. - Toàn ngành kiểm sát cần phải quán triệt đầy đủ tư tưởng, nắm vững quan điểm và thực hiện đúng đường lối, chính sách đổi mới của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong quá trình thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự, trong đó có hoạt động kiểm sát việc khởi tố bị can. Có thể nói, việc nắm vững đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước là một yêu cầu bắt buộc đối với ngành Kiểm sát nhân dân. Bản chất của hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp đòi hỏi Viện kiểm sát phải bảo đảm cho mọi hoạt động của Cơ quan điều tra, Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, Lực lượng cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra được tiến hành đúng qui định của pháp luật. Điều này cũng có nghĩa là Viện kiểm sát phải nắm vững các qui định của pháp luật để làm căn cứ cho hoạt động kiểm sát. Để thực hiện được giải pháp này, trách nhiệm trước hết thuộc về các cấp Viện kiểm sát, lãnh đạo các Viện kiểm sát và trách nhiệm của mỗi cán bộ, Kiểm sát viên. Đó còn là trách nhiệm của các cơ quan có trách nhiệm liên quan. Bởi thực tế đã xảy ra, luật được ban hành nhưng không áp dụng trực tiếp được mà phải “chờ” có văn bản hướng dẫn, qui định chi tiết. Nếu áp dụng được thì lại có những quan điểm khác nhau mà không có hướng dẫn thống nhất. Điều đó đã gây ra nhiều khó khăn cho các cơ quan tư pháp, trong đó có Viện kiểm sát. Thực tế đó đặt ra yêu cầu phải có sự hướng dẫn, giải thích thống nhất và kịp thời, hạn chế đến mức chấm dứt tình trạng hướng dẫn đơn ngành. Điều này có nghĩa là phải ban hành hướng dẫn liên ngành, thay thế văn bản hướng dẫn đơn ngành, có thể chỉ cần hướng dẫn bằng công văn hoặc kết luận Hội nghị. - Chú trọng việc giáo dục ý thức trách nhiệm, phẩm chất đạo đức, nâng cao trình độ chính trị, chuyên môn nghiệp vụ của Kiểm sát viên. Có thể nói, luôn luôn rèn luyện phẩm chất đạo đức, nâng cao trình độ về chính trị và nghiệp vụ, thực hiện công việc đúng lương tâm và trách nhiệm là đòi hỏi không của riêng quá trình cải cách tư pháp mà còn là đòi hỏi có tính thường xuyên, liên tục đối với người cán bộ kiểm sát nói chung và đối với Kiểm sát viên nói riêng. Việc giáo dục ý thức trách nhiệm, phẩm chất đạo đức, nâng cao trình độ chính trị, chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ, Kiểm sát viên là một yêu cầu cấp thiết trong giai đoạn hiện nay, khi mà cuộc đấu tranh, phòng, chống tội phạm đang đặt ra những yêu cầu ngày càng cao hơn. Đó là trách nhiệm của các cấp cơ quan, Viện kiểm sát, cũng là trách nhiệm của mỗi cán bộ, Kiểm sát viên. Do đó, cần tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị và pháp luật, nghiên cứu tổng kết thực tiễn, ứng dụng những giải pháp, tham gia xây dựng pháp luật, chú trọng việc tập huấn và tổng kết chuyên đề. Các buổi giảng dạy, tập huấn cũng đã được mở nhiều hơn trong ngành Kiểm sát, tuy nhiên thời lượng chưa nhiều nên đòi hỏi ở chính mỗi cán bộ, Kiểm sát viên phải tích cực trong việc tự học, tự đọc là chính, tăng cường việc trao đổi nghiệp vụ trong quá trình thực hiện công tác chuyên môn. Trường hợp xem xét hồ sơ phê chuẩn quyết định khởi tố bị can mà thấy mắc, cán bộ, Kiểm sát viên làm công tác phân loại, xử lí nên trao đổi với những đồng nghiệp khác để cùng học tập ở “bài học thực tiễn”, tránh tình trạng “ôm” để làm kinh nghiệm riêng cho bản thân mình. Trong việc tập huấn, quy trình thực hiện cũng cần được đổi mới, thực hiện theo chuyên đề, nội dung cụ thể do Vụ công tác chuyên môn chịu trách nhiệm. Do tính chất của công việc, đội ngũ giáo viên, giảng viên nếu chỉ tập trung vào nghiên cứu sẽ chỉ là chuyên gia trong mảng nghiên cứu mà không có thực tiễn, trong khi đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên lại thiếu về lí luận. Do đó, đội ngũ giáo viên nên là kiêm chức và thường xuyên được luân chuyển từ nghiệp vụ sang nghiên cứu và ngược lại. Việc đào tạo cơ bản do các cơ sở đào tạo trình độ Đại học Luật đảm nhiệm, còn việc đào tạo nghiệp vụ kiểm sát cần phải giao cho ngành Kiểm sát đào tạo. Những năm qua, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã thực hiện có hiệu quả việc đào tạo nghiệp vụ Kiểm sát viên cho cán bộ vào ngành có trình độ Đại học Luật, sau khi được bổ nhiệm đã thực hiện khá tốt nhiệm vụ được giao. - Cải tiến công tác tuyển chọn, bổ nhiệm, sắp xếp và bố trí cán bộ Chú trọng hơn nữa trong công tác tuyển chọn người vào các cơ quan tư pháp và bổ nhiệm các chức danh tư pháp. Những cán bộ được tuyển chọn và bổ nhiệm cần đảm bảo cả về bằng cấp (trình độ chuyên môn) cũng như phẩm chất, đạo đức. Ngoài ra, trong quá trình tuyển chọn công chức phải hạn chế đến mức thấp nhất các trường hợp tiêu cực. Nên chọn hình thức tuyển chọn phải qua thi tuyển, bỏ hình thức xét tuyển. Nhà nước cần quan tâm hơn nữa, có các biện pháp ưu đãi hơn trong việc thu hút những người có năng lực thực sự thi tuyển vào các cơ quan tư pháp, từ đó khắc phục kịp thời tình trạng cán bộ không những thiếu mà còn yếu như hiện nay. Ở một số địa phương còn đưa tiêu chuẩn là phải có trình độ trung cấp về lí luận chính trị trở lên vào làm tiêu chuẩn xét bổ nhiệm. Theo tôi, đây là qui định không đúng theo qui định của Pháp lệnh Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 về tiêu chuẩn bổ nhiệm Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân. Đề nghị Viện kiểm sát nhân dân tối cao có hướng dẫn cụ thể về vấn đề này để tránh tình trạng thiếu cán bộ, Kiểm sát viên như hiện nay. - Đổi mới công tác tổ chức, quản lí, chỉ đạo, điều hành Trong thực hành quyền công tố và kiểm sát việc khởi tố bị can cần tăng cường vai trò của Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát các cấp, kết hợp với tăng cường quyền hạn và trách nhiệm của các Kiểm sát viên. Theo đó, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát các cấp cần tham gia trực tiếp vào hoạt động này, trong trường hợp Kiểm sát viên phân loại, xử lí thấy có vướng mắc. Ví dụ, trong trường hợp Kiểm sát viên có đề xuất hoặc báo cáo xin ý kiến Viện trưởng, Phó Viện trưởng về việc huỷ quyết định khởi tố bị can để ra quyết định khởi tố bị can thì Viện trưởng, Phó Viện trưởng phải trực tiếp vào cuộc, xem xét, quyết định, trực tiếp yêu cầu điều tra xác minh, làm rõ những căn cứ. Công tác quản lí không chỉ chú trọng vào việc quản lí nghiệp vụ mà còn phải chú trọng vào việc quản lí con người. Hiện nay, theo qui định mới của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ cả ngành nên tâm lí của một số cán bộ, Kiểm sát viên, đặc biệt là ở Viện kiểm sát cấp huyện thích và chỉ muốn được làm công tác kiểm sát việc giải quyết án hình sự. Do vậy, lãnh đạo các đơn vị Viện kiểm sát cấp huyện cần tổ chức, bố trí cho tất cả cán bộ, Kiểm sát viên ở các bộ phận công tác được kiểm sát việc giải quyết án hình sự. Đây cũng chính là phương pháp để tạo ra sự phối hợp giữa các bộ phận công tác trong đơn vị. Nâng cao vai trò lãnh đạo của Viện kiểm sát còn đòi hỏi phải nâng cao hơn nữa vai trò chỉ đạo của Viện kiểm sát cấp trên với Viện kiểm sát cấp dưới. Viện kiểm sát cấp dưới chấp hành tốt việc báo cáo, thống kê, thỉnh thị. Viện kiểm sát cấp trên thường xuyên tổng kết, rút kinh nghiệm, trả lời thỉnh thị, hướng dẫn nghiệp vụ với Viện kiểm sát cấp dưới. 3.2.3. Giải pháp liên quan đến yếu tố cơ sở vật chất - Cần đầu tư để xây dựng những Trụ sở Viện kiểm sát mới, sửa chữa nâng cấp những trụ sở Viện kiểm sát đã xuống cấp, trang bị các máy móc, thiết bị phục vụ công tác nghiệp vụ, như: máy vi tính, máy in, máy photocopy, máy scan,… nhằm phục vụ nhiệm vụ của ngành trong tình hình mới, tạo môi trường làm việc tốt hơn, góp phần nâng cao hiệu quả công việc. - Cần có sự ưu đãi nhiều hơn về chế độ, chính sách đối với cán bộ, Kiểm sát viên, trong đó cần có sự quan tâm hơn nữa về chính sách lương, phụ cấp đối với những cán bộ công tác trong các cơ quan tư pháp, để họ yên tâm công tác, có trách nhiệm hơn với công việc, hạn chế được sự cám dỗ về vật chất, không bị các thế lực bên ngoài mua chuộc. 3.3. Kiến nghị Trên cơ sở lí luận về khởi tố bị can và vai trò của Viện kiểm sát đối với việc khởi tố bị can, qua đánh giá thực trạng vai trò của Viện kiểm sát trong thời gian qua, tìm ra những nguyên nhân và giải pháp, để thực hiện tốt hơn nữa vai trò của Viện kiểm sát, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, xin có một số kiến nghị sau: Thứ nhất: Kiện toàn nhanh chóng và sắp xếp lại đội ngũ cán bộ có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho bộ phận thực hành quyền công tố và kiểm sát việc giải quyết án hình sự, đặc biệt là những cán bộ có khả năng tinh tế cho bộ phận phân loại, xử lí án hình sự. Việc sắp xếp phải phù hợp với năng lực, sở trường công tác nhưng vẫn đảm bảo để đào tạo cán bộ toàn diện, thông khâu. Nói như vậy không có nghĩa là coi nhẹ các khâu nghiệp vụ khác, mà là để nhấn mạnh một vấn đề cơ bản: thực hành quyền công tố và kiểm sát việc giải quyết án hình sự là hoạt động chủ yếu, có ý nghĩa quyết định nhất trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành Kiểm sát, mà khởi tố bị can là hoạt động “đầu vào” cần được đặc biệt quan tâm. Thứ hai: Đổi mới công tác quản lí, chỉ đạo, điều hành trong hoạt động, sớm ban hành Qui chế về thỉnh thị và trả lời thỉnh thị. Các Qui chế nghiệp vụ được ban hành trong ngành, trong đó có Qui chế Công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự được ban hành kèm theo Quyết định số 07/2008/QĐ-VKSTC ngày 02/01/2008 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã qui định về thỉnh thị và trả lời thỉnh thị nhưng mới chỉ dừng lại ở qui định mang tính qui tắc, chưa đáp ứng được yêu cầu của quá trình giải quyết, nhất là đảm bảo thời hạn phê chuẩn quyết định khởi tố bị can. Thứ ba: Tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa các bộ phận, đơn vị nghiệp vụ trong nội bộ Viện kiểm sát, giữa Viện kiểm sát cấp trên và Viện kiểm sát cấp dưới, giữa Viện kiểm sát với Cơ quan điều tra và các cơ quan, ban, ngành khác trong việc tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Trong công tác phối hợp cần có các qui chế để thực hiện. Thứ tư: Chú trọng công tác tập huấn, quán triệt các văn bản qui phạm pháp luật có liên quan đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành. Bên cạnh đó, cùng với việc tham gia hoàn thiện pháp luật là việc hướng dẫn thi hành pháp luật. Thực hiện thường xuyên việc tổng kết chuyên đề và rút kinh nghiệm nghiệp vụ, trao đổi qua diễn đàn: Báo điện tử của ngành, Báo Bảo vệ pháp luật, Tạp chí Kiểm sát. Thứ năm: Tăng cường đầu tư hơn nữa cơ sở vật chất, trang thiết bị và phương tiện làm việc cho Viện kiểm sát các cấp, đặc biệt là Viện kiểm sát cấp huyện. Đầu tư các phương tiện làm việc như: máy ảnh, máy vi tính… Quan tâm đến các chế độ về lương và phụ cấp, các chế độ khác cho cán bộ, Kiểm sát viên. Thứ sáu: Sửa đổi các qui định có liên quan đến vai trò của Viện kiểm sát đối với việc khởi tố bị can theo qui định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 như đã nêu. Kết luận chương 3: Trên đây là một số giải pháp và kiến nghị nhằm góp phần nâng cao hơn nữa vai trò của Viện kiểm sát đối với việc khởi tố bị can. Qua việc nêu quan điểm chỉ đạo hoàn thiện vai trò của Viện kiểm sát đối với việc khởi tố bị can, đưa ra những giải pháp và đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao vai trò của Viện kiểm sát đối với việc khởi tố bị can. Những giải pháp nói trên có liên quan mật thiết và có sự hỗ trợ lẫn nhau, phải được xây dựng, thực hiện một cách đồng bộ. Tác giả hi vọng rằng, với những giải pháp và kiến nghị đó, khi được thực hiện, sẽ góp phần nâng cao vai trò của Viện kiểm sát đối với việc khởi tố bị can, đồng thời tạo điều kiện tốt hơn để Viện kiểm sát thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình trong tố tụng hình sự; bảo đảm việc khởi tố bị can đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và không bỏ lọt tội phạm cũng như người thực hiện hành vi phạm tội. KẾT LUẬN Khởi tố bị can và phê chuẩn quyết định khởi tố bị can được thực hiện trong giai đoạn ban đầu của quá trình điều tra vụ án là một vấn đề khó khăn, phức tạp, có ý nghĩa hết sức quan trọng. Các Nghị quyết của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới đã nhấn mạnh đến vị trí, vai trò quan trọng của Viện kiểm sát trong các hoạt động tư pháp nói chung, cũng như đối với các hoạt động điều tra ở giai đoạn điều tra nói riêng, trong đó có hoạt động khởi tố bị can. Các quan điểm của Đảng về vị trí, vai trò của Viện kiểm sát trong hoạt động tố tụng hình sự được qui định khá đầy đủ và chi tiết trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002. Theo qui định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 thì Viện kiểm sát có vai trò quan trọng và quyết định đối với việc quyết định khởi tố bị can, xét về quyền hạn thì rất lớn nhưng trách nhiệm lại nặng nề, trong khi đó các biện pháp để bảo đảm cho Viện kiểm sát đối với hoạt động này vẫn còn những hạn chế nhất định. Qua nghiên cứu một cách khá đầy đủ về lí luận và các qui định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Viện kiểm sát trong hoạt động này, cũng như nghiên cứu về thực trạng vai trò của Viện kiểm sát đối với việc khởi tố bị can thể hiện qua ba chương của Luận văn, tác giả đưa ra một số kết luận sau: 1. Khởi tố bị can là một hoạt động tố tụng ban đầu có ý nghĩa hết sức quan trọng xuyên suốt cả quá trình điều tra, truy tố. Trong hoạt động này, Viện kiểm sát có vai trò quan trọng và quyết định và là cơ quan chịu trách nhiệm chính, không những có quyền trực tiếp khởi tố bị can mà còn là cơ quan kiểm sát việc thực hiện các qui định này của các cơ quan có thẩm quyền khác. 2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện nay về vai trò của Viện kiểm sát đối với việc khởi tố bị can vẫn còn bất cập, có quy định không rõ ràng, mâu thuẫn, dẫn đến những cách hiểu khác nhau, đây là một trong những nguyên nhân chính làm hạn chế vai trò của Viện kiểm sát đối với hoạt động này. 3. Nhận thức pháp luật, trình độ năng lực nghiệp vụ của những người có thẩm quyền đối với việc khởi tố bị can còn hạn chế. Trách nhiệm của các Điều tra viên, Kiểm sát viên trong việc áp dụng các qui định của pháp luật về khởi tố bị can mặc dù đã được nâng lên nhưng vẫn “chưa xứng tầm” và đáp ứng được đòi hỏi của công việc. Nhiều cán bộ có sự sa sút về phẩm chất đạo đức dẫn đến vi phạm kỷ luật, vi phạm pháp luật. 4. Cơ sở vật chất đầu tư cho ngành Kiểm sát để thực hiện nhiệm vụ chuyên môn còn thiếu và nếu có thì chất lượng chưa đảm bảo. Chế độ, chính sách cho những người làm việc trong các cơ quan tư pháp đã được quan tâm hơn nhưng vẫn còn có sự hạn chế, tạo ra tâm lý yên tâm thực sự cho cán bộ, Kiểm sát viên trong quá trình công tác. 5. Để nâng cao vai trò của Viện kiểm sát đối với việc khởi tố bị can cũng như nâng cao tinh thần trách nhiệm của các cán bộ có thẩm quyền trong việc thực hiện các qui định của pháp luật về khởi tố bị can, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của việc khởi tố bị can trên thực tế, cần sửa đổi những quy định của pháp luật hiện hành cho đầy đủ, chặt chẽ và thống nhất; Quan tâm hơn nữa đến yếu tố con người; Tăng cường cơ sở vật chất cho công tác tư pháp nói chung và hoạt động khởi tố bị can nói riêng. 6. Với giải pháp và kiến nghị nhằm mục đích nâng cao vai trò của Viện kiểm sát đối với việc khởi tố bị can, tác giả hy vọng được đóng góp một phần nhỏ bé vào việc hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự nói chung và Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 nói riêng, đặc biệt là về khởi tố bị can, góp phần nâng cao hiệu quả của công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động điều tra. Việc nghiên cứu về khởi tố bị can theo hướng lấy vai trò của Viện kiểm sát làm trung tâm là một hướng nghiên cứu mới về cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn, vì vậy trong quá trình nghiên cứu không thể tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được sự góp ý của các thầy giáo, cô giáo, cùng toàn thể các quí độc giả để có thể nghiên cứu một cách sâu sắc hơn về vấn đề này. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1- Phạm Thanh Bình (1997), Một số vấn đề chung quanh việc tạm giữ, tạm giam, Nxb Đồng Nai, Đồng Nai. 2- Nguyễn Mai Bộ (1997), Những biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự, Nxb chính trị Quốc gia, Hà Nội. 3- Mai Bộ (2003), “Về các biện pháp ngăn chặn trong dự thảo Bộ luật Tố tụng hình sự sửa đổi”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (8), tr.9-12. 4- Mai Bộ (2004), “Các loại thời hạn tạm giam trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (8), tr. 10-14. 5- Mai Bộ (2006), “Áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam đối với người chưa thành niên phạm tội”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (5), tr. 28-30. 6- Bộ luật Hình sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1999 (2000), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 7- Bộ luật Tố tụng hình sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm1988 (1989), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 8- Bộ luật Tố tụng hình sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2003 (2004), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 9- Chính phủ (1957), Nghị định số 301-TTg về quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân dân. 10- Chính phủ (1998), Nghị định số 89/1998/NĐ-CP ngày 07-11-1998 ban hành Quy chế về tạm giữ, tạm giam. 11- Chính phủ (2002), Nghị định số 98/2002/NĐ-CP ngày 27-11-2002, Sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế về tạm giữ, tạm giam ban hành kèm theo Nghị định số 89/1998/NĐ-CP ngày 07-11-1998 của Chính phủ. 12- Đảng cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 2-1-2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của Công tác tư pháp trong thời gian tới. 13- Đảng cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2-6-2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. 14- Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Báo cáo của Ban chỉ đạo cải cách Tư pháp Trung ương về kết quả 4 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 2-1-2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của Công tác tư pháp trong thời gian tới. 15- Đỗ Văn Đương (2003), “Sửa đổi các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về việc bắt khẩn cấp và tạm giam”, Tạp chí Kiểm sát, (4) , tr. 40-41. 16- Nguyễn Văn Điệp (2005), Các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội. 17- Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, (2001), Nxb Sự thật, Hà Nội. 18- Uông Quang Huy (2004), “Những điểm mới cơ bản của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (5), tr. 21-25. 19- Phạm Mạnh Hùng (2003), “Một số ý kiến về bắt khẩn cấp, tạm giam và các thời hạn trong tố tụng hình sự”, Tạp chí Kiểm sát, (3) , tr. 36-37. 20- Trịnh Văn Khải (2000), Nguyên tắc bảo đảm quyền bất khả xâm phạm thân thể của công dân và vai trò của Viện kiểm sát đối với việc bảo đảm thực hiện nguyên tắc này, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Trường Đại học luật Hà Nội. 21- Luật số 103/SL/005 ngày 20-5-1957 về việc bảo đảm tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, thư tín, đồ vật của nhân dân. 22- Luật số 02/SL-76 ngày 15-3-1976 của Hội đồng Chính phủ ( 1976 ) 23- Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002, (2002). 24- Nguyễn Thị Mai (2005), “Tình trạng tạm giữ, tạm giam bị can, bị cáo khi đã hết thời hạn tạm giam, tạm giữ, trách nhiệm thuộc về ai ?”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (7), tr. 14-19. 25- Khuất Văn Nga (2006), “Kết quả thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW và một số đề nghị của ngành Kiểm sát trong thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW về cải cách tư pháp”, Tạp chí Kiểm sát, (5), tr. 6-9. 26- Nhà Pháp luật Việt -Pháp (1998), Bộ luật Tố tụng hình sự của nước Cộng hòa Pháp (Bản dịch), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 27- Nguyễn Vạn Nguyên (1995), Các biện pháp ngăn chặn và những vấn đề nâng cao hiệu quả của chúng, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 28- Nguyễn Nông (2004), “Thủ tục áp dụng biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn truy tố”, Tạp chí Kiểm sát, (5), tr. 33-34. 29- Phạm Vũ Ngọc Quang (2003), “Về áp dụng biện pháp tạm giam đối với bị can sau khi kết thúc điều tra”, Tạp chí Kiểm sát, (1), tr. 37-42. 30- Tạ Phong Tần (2003), “Biện pháp ngăn chặn phải phục vụ tốt cho công tác điều tra”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (8), tr .6-7. 31- Thông tư Liên tịch số 05/2005/TTLT ngày 07-9-2005 của VKSNDTC-BCA-BQP về quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện Kiểm sát trong việc thực hiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003. 32- Nguyễn Duy Thuận (1999), Các biện pháp ngăn chặn những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 33- Trần Quang Tiệp (2003), Lịch sử luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 34- Trần Quang Tiệp (2005), “Một số vấn đề lý luận về biện pháp tạm giam trong tố tụng hình sự”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (11), tr. 44-48. 35- Tòa án nhân dân tối cao (2004), Nghị quyết số 03/2004/NQ-HĐTP ngày 02-10-2004 của Hội đồng thẩm phán hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất “Những quy định chung” của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. 36- Tòa án nhân dân tối cao (2004), Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP ngày 05-11-2004 của Hội đồng thẩm phán hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ ba “Xét xử sơ thẩm” của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 37- Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, (2004), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 38- Trường Đại học Luật Hà Nội, (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ Luật hình sự, Luật tố tụng hình sự, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 39- Viện khoa học Kiểm sát - Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (1993), Bộ luật Tố tụng hình sự Nhật Bản (Bản dịch). 40- Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2002), Báo cáo tổng kết công tác kiểm sát giam giữ, cải tạo năm 2002, Hà Nội. 41- Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2003), Báo cáo tổng kết công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù năm 2003, Hà Nội. 42- Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2004), Báo cáo tổng kết công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù năm 2004, Hà Nội. 43- Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2005), Báo cáo tổng kết công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù năm 2005, Hà Nội. 44- Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2002), Báo cáo tổng kết công tác của ngành kiểm sát nhân dân năm 2002, Hà Nội. 45- Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2003), Báo cáo tổng kết công tác của ngành kiểm sát nhân dân năm 2003, Hà Nội. 46- Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2004), Báo cáo tổng kết công tác của ngành kiểm sát nhân dân năm 2004, Hà Nội. 47- Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2005), Báo cáo tổng kết công tác của ngành kiểm sát nhân dân năm 2005, Hà Nội. 48- Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2005), Quy chế tạm thời về công tác Kiểm sát tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù, Hà Nội. 49- Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2005), Quy chế tạm thời về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự, Hà Nội. 50- Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2005), Quy chế tạm thời về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử các vụ án hình sự, Hà Nội. 1- Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam, Từ điển Bách khoa Việt Nam, tập 2, Nxb Từ điển Bách khoa, 2002. 2- Nguyễn Duy Lâm, TS Nguyễn Thanh, Thuật ngữ pháp lí dùng trong hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân, Nxb Tư pháp, 2004. 3- Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách khoa, 1999. 4- TS Lê Hữu Thể (Chủ biên), TS Đỗ Văn Đương, CN Nông Xuân Trường (2005), Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra, Nxb Tư pháp, Hà Nội. 5- Lê Thị Tuyết Hoa (2002), Quyền công tố ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội. 6- TS Trần Quang Tiệp (2006), Một số vấn đề lí luận, thực tiễn về khởi tố bị can, Tạp chí Tòa án nhân dân, t4/2006 7- TS. Nguyễn Ngọc Khánh (2009), Bàn về thẩm quyền của Viện kiểm sát trong việc quyết định khởi tố bị can, Tạp chí Kiểm sát số Tân Xuân. 8- Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2006), Báo cáo tổng kết công tác của ngành kiểm sát nhân dân năm 2005, Hà Nội. 9- Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2007), Báo cáo tổng kết công tác của ngành kiểm sát nhân dân năm 2006, Hà Nội. 10- Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2007), Báo cáo tổng kết công tác của ngành kiểm sát nhân dân năm 2007, Hà Nội. 11- Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2008), Báo cáo tổng kết công tác của ngành kiểm sát nhân dân năm 2008, Hà Nội. 12- Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2009), Báo cáo tổng kết công tác của ngành kiểm sát nhân dân năm 2009, Hà Nội. 13- Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2010), Báo cáo tổng kết công tác của ngành kiểm sát nhân dân năm 2010, Hà Nội. 14- Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Báo cáo của Ban Chỉ đạo cải cách Tư pháp Trung ương về kết quả 4 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới. 15- Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Ban Chấp hành Trung ương về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. 16- Nông Đức Mạnh, “Phấn đấu không ngừng hoàn thành tốt nhiệm vụ, xứng đáng với niềm tin của Đảng và nhân dân”, Tạp chí Kiểm sát số 08/2000. 17- Viện Ngôn ngữ học (2005), Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng. 18- Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của Công tác tư pháp trong thời gian tới. 19- Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992. 20- Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002. 21- Vụ Công tác lập pháp- Viện Khoa học kiểm sát (2003), Những sửa đổi cơ bản của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Nxb Tư pháp, Hà Nội. 22- Thông tư Liên tịch số 05/2005/TTLT-VKSTC-BCA-BQP ngày 07/9/2005 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng về quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện Kiểm sát trong việc thực hiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003. 23- Quyết định số 789/2007/QĐ-BCA ngày 12/7/2007 của Bộ Trưởng Bộ Công an về việc bổ sung, sửa đổi các biểu mẫu sử dụng trong hoạt động tố tụng hình sự của lực lượng công an nhân dân ban hành kèm theo Quyết định số 1351/2004/QĐ-BCA(C11) ngày 18/11/2004. 24- Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm 2004 25- Qui chế Công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự ban hành kèm theo Quyết định số 07/2008/QĐ-VKSTC ngày 02/01/2008 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. 26- Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp luật (1995), Tội phạm học, Luật hình sự và Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia. 27- Báo cáo tổng kết 7 năm thi hành Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docVai trò của Viện kiểm sát đối với việc khởi tố bị can.doc