Vai trò điều tiết kinh tế của ngân hàng nhà nước Việt Nam - thực trạng và giải pháp

CHƯƠNG I. NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM I. Sự thành lập và phát triển của ngân hàng nhà nước Việt Nam 3 II. Vị trí ngân hàng nhà nước Việt Nam trong bộ máy quản lý của nhà nước . 6 III. Chức năng quyền hạn, nhiệm vụ của NHNN Việt Nam . 6 IV. Hệ thống tổ chức và cơ chế điều hành của NHNN Việt Nam 8 CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM I. Nguyên nhân dẫn đến sự phát triển của NHNN Việt Nam hiện nay 10 II. Thực trạng phát triển của NHNN Việt Nam 11 1. Sôi động dòng vốn qua ngân hàng 11 2. Việt nam đủ điều kiện vay vốn . 13 3. những thành tích nổi bật 15 III. Những hạn chế của Ngân hàng 20 1. Những vấn đề cần quan tâm tháo gỡ 21 2. Cần có sự liên kết . 24 CHƯƠNG III. NHỮNG HẠN CHẾ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM 1. Những vấn đề cần quan tâm tháo gỡ . 2. Ngân hàng nhà nước Việt Nam cần có sự liên kết

doc32 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5178 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Vai trò điều tiết kinh tế của ngân hàng nhà nước Việt Nam - thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
một hệ thống nhà nước thống nhất bao gồm bộ máy tổ chức của ngân hàng nhà nước và bộ máy tổ chức của ngân hàng chuyên nghiệp như : ngân hàng công nghiệp , ngân hàng thương mại ,ngân hàng nông nghiệp , ngân hàng ngoại thưong : quỹ tiết kiệm XHCN . hệ thống ngân hàng tiếp tục củng cố và nâng cao vai trò trung tâm tiền mặt, trung tâm tín dụng và trung tâm thanh toán của nền kinh tế. Từ sau đại hội toàn quốc của đảng lần thứ VI cả nước bước vào thời kỳ đổi mới thực hiện chủ trương của chính phủ ngày từ 19860-1986, ngân hàng nhà nước đã tiến hành làm thí điểm việc chuyển họat động nhà nước sang hạch toán kinh doanh XHCN. Tiếp đó, ngày 26 -3 – 1988 chính phủ lại ra nghị định 053 HĐBT về tổ chức bộ máy ngân hàng tổ chức việt nam và nội dung chủ yếu là tổ chức thành hệ thống ngân hàng trong cả nước thành hai cấp: Ngân hàng nhà nước và ngân hàng chuyên doanh đồng thời phân định rõ quyền hạn nhiệm vụ quản lý nhà nước và độc quyền phát hành tiền là do ngân hàng nhà nước đảm nhiệm tổ chức kinh doanh tiền tệ trực tiếp đối với nền kinh tế. Ngày 24-5-1990, nhà nước ban hành 02 pháp lệnh “pháp lệnh ngân hàng nhà nước và pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính” có hiệu lực thi hành năm 1990 đó là bước tiến quan trọng trong việc hợp pháp hóa hoạt động ngân hàng nhằm tiếp tục đổi mới căn bản và toàn diện công tác ngân hàng, thực hiện hai pháp lệnh đó hệ thống tổ chức ngân hàng được bố trí lại theo yêu cầu của chức năng nhiệm vụ mới, Phân định rõ rãng hai cấp : cấm quản lý nhà nước ở tầm vĩ mô do ngân hàng nhà nước đảm nhiệm cấm kinh doanh tác nghiệp với tư cách là các doanh nghiệp với tư cách là các doanh nghiệp với nhiều thành phần kinh tế hoạt động kinh doanh tiền tệ và hoạt động ngân hàng và dịch vụ ngân hàng do các ngân hàng thương mại các hợp tác xã tín dụng và các công ty tài chính đảm nhiệm. đồng thời xây dựng lại hệ thống chính sách chế độ và cơ chế nghiệp vụ về tiền tệ, tín dụng thanh toán và phương thức quản trị điều hành để đảm bảo cho hoạt động của toàn bộ hệ thống ngân hàng theo đúng pháp lệnh nhanh chóng thích ứng với cơ chế thị trường ( Sách tiền tệ ngân hàng – Trang 209 ÷ 214) II. VỊ TRÍ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM TRONG BỘ MÁY QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC. Ngân hàng nhà nước Việt Nam được thành lập với tư cách là một cơ quan ngang bộ trong bộ máy quản lý của nhà nước thuộc sở hữu nhà nước và thực hiện chức năng quản lý nhà nước trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng, ngân hàng. Gắn liền với quá trình xây dựng, phát triển và đổi mới của đất nước, ngân hàng nhà nước cũng ngày càng khẳng định vị trí của mình, ngày nay đã và đang tiếp tục đổi mới để đáp ứng yêu cầu của một ngân hàng trung ương trong cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. cho đến nay, vị trí của ngân hàng Nhà Nước đã xác định trong pháp lệnh” Ngân hàng nhà nước” năm 1990: “ “Ngân hàng Nhà nước Việt Nam gọi tắt là Ngân Hàng Nhà Nước, là cơ quan của Hội đồng bộ trưởng ( nay là chính phủ) có chức năng quản lý Nhà nước về họat động tiền tệ, là cơ quan duy nhất phát hành tiền của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” ( Sách tiền tệ ngân hàng – Trang 215, 216) III. CHỨC NĂNG, QUYỀN HẠN, NHIỆM VỤ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM. Sau bảy năm pháp lệnh đi vào thực tế của cuộc sống, đã chứng minh vai trò to lớn của 02 pháp lệnh nói trên đối với toàn bộ hoạt động tiền tệ tín dụng và ngân hàng và đó là bước tiến quan trọng việc luật pháp luật hóa hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên, nhằm đổi mới căn bản và toàn diện hoạt động ngân hàng, trên cơ sở khắc phục những hạn chế của pháp lệnh, ngày 26-12-1997, chủ tịch nước đã công bố “ luật ngân hàng Nhà nước Việt Nam”, trong đó khẳng định lại và quy định rõ chức năng của ngân hàng nhà nước Việt Nam là thực hiện quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng: Là ngân hàng phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và ngân hàng làm dịch vụ tiền tệ cho chính phủ, với các nhiệm vụ và quyền hạn sau đây : Trong việc thực hiện chức năng quản lý Nhà nước : Tham gia xây dựng chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước. Xây dựng dự án chính sách tiền tệ quốc gia để Chính phủ xem xét trình Quốc hội quyết định và tổ chức thực hiện chính sách này; xây dựng chiến lược phát triển hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng Việt Nam; Xây dựng các dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác về tiền tệ và hoạt động ngân hàng; ban hành các văn bản quy phạm luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng theo thẩm quyền; Cấp, thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động của các tổ chức tín dụng, trừ trường hợp do Thủ tướng Chính phủ quyết định; cấp, thu hồi giấy phép hoạt ngân hàng các tổ chức khác; quyết định giải thể, chấp thuận chia tách, hợp nhất, sáp nhập các tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật. Kiểm tra thanh tra hoạt động ngân hàng; kiểm soát tín dụng; Xử lý các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tiền tệ, họat động ngân hàng theo thẩm quyền. Quản lý việc vay, trả nợ nước ngoài của các doanh nghiệp theo quy định cảu chính phủ Chủ trì và theo dõi kết quả thực hiện các cân thanh toán quốc tế. Quản lý hoạt động ngoại hối và quản lý hoạt động kinh doanh vàng. Ký kết, tham gia điều ước quốc tế về tiền tệ và hoạt động ngân hàng theo quy định của pháp luật. Đại diện cho cộng Hòa xã hội chủ nghĩa việt nam tại các tổ chức tiền tệ và ngân hàng quốc tế trong những trường hợp được Chủ tịch nước, Chính phủ ủy quyền; Tổ chức đào tạo, bòi dưỡng nghiệp vụ ngân hàng, nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ ngân hàng. Trong việc thực hiện chức năng ngân hàng trung ương : Tổ chức in, đúc, bảo quản,vận chuyển tiền; thực hiện nghiệp vụ phát hành, thu hồi, thay thế và tiêu hủy tiền; Thực hiện tái cấp vốn nhằm cung ứng tín dụng ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho nền kinh tế; Điều hành thị trường tiền tệ; thực hiện nghiệp vụ thị trường mở; Kiểm soát dự trữ quốc tế, quản lý dự trữ ngoại hối Nhà nước; Tổ chức hệ thống thanh toán qua ngân hàng, làm dịch vụ thanh toán, quản lý việc cung ứng các phương tiện thanh toán; Làm đại lý và thực hiện các dịch vụ ngân hàng cho kho bạc Nhà nước; Tổ chức hệ thống thông tin và làm các dịch vụ thông tin ngân hàng. ( Sách tiền tệ ngân hàng – Trang 227 ÷ 230) IV. HỆ THỐNG TỔ CHỨC VÀ CƠ CHẾ, ĐIỀU HÀNH CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM Hệ thống tổ chức. Gắn liền với quá trình đổi mới kinh tế hệ thống tổ chức ngân hàng Nhà nước đã được bố trí, sắp xếp và đang từng bước hoàn chỉnh theo yêu cầu thực hiện chức năng nhiệm vụ của một ngân hàng trung ương trong nền kinh tế tiền tệ có sự quản lý của Nhà nước. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là một pháp nhân, đặt trụ sở tại Thủ đô Hà Nội và có các chi nhánh trực thuộc đặt tại các tỉnh, thành phố và đặc khu trong cả nước. Tại trụ sở ngân hàng Trung ương, bộ máy tổ chức được bố trí theo từng khối : Khối nghiên cứu, hoạch định các chính sách, tiền tệ,v.v… ; Khối thanh tra, kiểm soát, khối kế toán, thanh toán, xử lý thông tin, khối hậu cần,v.v… phù hợp với yêu cầu thực hiện vai trò một tổ chức ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Theo đó, các chi nhánh ngân hàng trực thuộc được bố trí cơ cấu tổ chức của chi nhánh cho phù hợp với chức trách của một ngân hàng Nhà nước tịa địa phương. Họat động ngân hàng Nhà nước đặt dưới quyền điều hành của Thống đốc ngân hàng Nhà nước – Thành viên của Hội đồng chính phủ. Giúp việc cho Thống đốc có một số phó thống đốc, trong đó có một phó thống đốc thường trực. Thống đốc ngân hàng Nhà nước có nhiệm vụ và quyền hạn: Triệu tập và chủ tọa các phiên họp; điều hành hoạt động của ngân hàng nhà nước; Quyết định tổ chức bộ máy, quy chế hoạt động của các cơ quan, đơn vị thuộc ngân hàng Nhà nước, Tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ, tín dụng, các qui định của ngân hàng Nhà nước; Ký kết những điều ước quốc tế và hợp đồng tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối và ngân hàng trong phạm vi quyền hạn Nhà nước giao; Khởi kiện các vụ kiện dân sự, đề nghị khởi tố vụ án hình sự liên quan đến hoạt động tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối và ngân hàng; trình thủ tướng chính phủ báo cáo hàng năm về hoạt động của ngân hàng nhà nước. Căn cứ theo luật ngân hàng nhà nước Việt Nam,, chính phủ thành lập Hội đồng tư vấn chính sách tiền tệ quốc gia để tư vấn cho chính phủ trong việc quyết định những vấn đề thuộc nhiệm vụ quyền hạn của chính phủ về chính sách tiền tệ. Hội đồng tư vấn chính sách tiền tệ quốc gia gồm : Chủ tịch là một phó thủ tướng chính phủ, Ủy viên thường trực là thống đốc ngân hàng nhà nước, các ủy viên khác là đại diện Bộ Tài Chính, Bộ kế hoạch và đầu tư, các bộ, ngành hữu quan khác và các chuyên gia về lĩnh vực ngân hàng. Nhiệm vụ và quyền hạn cuả hội đồng tư vấn chính sách tiền tệ quốc gia do chính phủ quy định. ( Sách tiền tệ ngân hàng – Trang 234 ÷ 236 ) CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM Nguyên nhân dẫn đến sự phát triển của NHNN Việt Nam hiện nay: Một là, số đông người dân, các doanh nghiệp, hộ kinh doanh ngày càng làm quen với dịch vụ ngân hàng tiện ích, tin tưởng vào ngân hàng. Tăng khả năng tiết kiệm và sử dụng tiền nhàn rỗi gửi vào ngân hàng vừa an toàn, vừa có lãi, vừa được hưởng các tiện ích khác. Không chỉ mở tài khỏan thanh toán, mở tài khoản thanh toán, mở tài khoản sử dụng thẻ mà còn gửi tiết kiệm và các kỳ hạn khác nhau. Đây là xu hướng văn minh, tiến bộ của nền kinh tế, cho phép giảm tỷ trọng thanh toán bằng biền mặt thanh toán thẻ, thanh toán điện tử liên ngân hàng…. Ngày càng được sử dụng phổ biến hơn. Hai là, về nguyên lý cũng như thực tiễn, vốn đầu tư cho nền kinh tế của hệ thống ngân hàng thời kì này sẽ tạo ra tăng trưởng ở thời kỳ sau, ít nhất là 6 tháng. Như vậy trong các tháng cuối năm cũng như năm 2008 và các năm tới có thể khẳng định nền kinh tế Việt Nam tiếp tục có tốc độ phát triển cao không chỉ dư vốn cho vay của hệ thống ngân hàng mà còn do tốc độ chu chuyển vốn trong thanh toán, khả năng huy động vốn để đáp ứng cho các kênh đầu tư khác: đầu tư trên thị trường chứng khoán, đầu tư trực tiếp nước ngoài, thành lập quỹ đầu tư và doanh nghiệp Ba là, hệ thống ngân hàng Việt Nam đang đổi mới mạnh mẽ và cạnh tranh rất sôi động sau 1 năm nền kinh tế nước ta gia nhập WTO. Cụ thể màng lưới của các ngân hàng được mở rộng với tốc độ rất nhanh đến gần dân, tiện lợi cho doanh nghiêp. Công nghệ ngân hàng đang sử dụng và chuẩn bị được lắp đặt ở vào trình độ hiện đại của thế giới. Quy mô vốn điều lệ và năng lực tài chính của các ngân hàng được nâng cao lên rõ rệt. Trình độ quản trị điều hành, chất lượng nguồn nhân lực được cải thiện. Các quan hệ liên doanh, liên kết, hợp tác… giữa các ngân hàng thương mại trong nước với các tập đoàn tài chính lớn của thế giới, với các doanh nghiệp khác của Việt Nam theo hướng hình thành tập đoàn kinh doanh đa năng… ngày càng chặt chẽ. Thực trạng phát triển của NHNN Việt Nam Sôi động dòng vốn qua Ngân hàng Năm 2007 còn gần 2 tháng nữa mới kết thúc, nhưng dòng vốn chu chuyển qua hệ thống ngân hàng tăng trưởng cao nhất từ trước tới nay và vượt xa dự báo từ đầu năm của các nhà quản lý và quản trị ngân hàng cho thấy những diễn biến tích cực và rất đáng mừng của nền kinh tế ở thời điểm hiện tại cũng như trung và dài hạn Tại thành phố Hồ Chí Minh, trung tâm kinh tế lớn nhất và sôi động nhất cả nước, tính đến hết tháng 10-2007, tổng nguồn vốn huy động của các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng trên địa bàn đật 437.000 tỷ đồng, tăng 53% so với cuối nămg 2006 và tăng tới 73% so với cùng kỳ năm trước. Đây là mức tăng lớn nhất từ trước tới nay. Trong số đó thì vốn huy động bằng nội tệ đạt 322.706 tỷ đồng, vốn huy động ngoại tệ quy đổi đạt 114.294 tỷ đồng, chiếm 26,1%. Dự báo đến hết năm 2007, tổng nguồn vốn huy động trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh đạt 460.000 – 465.000 tỷ đồng, tăng 62-65% so với cuối năm 2006. Tại Hà Nội, tính đến hết tháng 10-2007, tổng nguồn vốn huy động của các Ngân hàng thương mại và Tổ chức tín dụng trên địa bàn thành phố Hà Nội đạt 326.624 tỷ đồng, tăng 34,54% so với cuối nămg 2006, đây là mức tăng lớn nhất trong nhiều năm. Dự báo đến hết năm 2007, tổng nguồn vốn huy động của các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng trên địa bàn thành phố sẽ đạt 350.000 – 355.000 tỷ đồng, tăng 42 – 44% so với cuối năm 2006. Đây là mức độ tăng trưởng cao ngoài dự kiến từ đầu năm của hầu hết các ngân hàng. Về sức hấp thụ vốn cho tăng trưởng kinh tế qua điển hình ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh cũng cho những diễn biến ngoài dự đoán. Cũng tính đến hết tháng 10-2007, tổng dư nợ cho vay của các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh ước tính đạt 345.000 tỷ đồng, tăng 50% so với cuối năm 2006 và tăng 63% so với cùng kỳ này năm trước. Phân theo tiền tệ thì dư nợ cho vay bằng nội tệ đạt 241.155 tỷ đồng, dư nợ cho vay bằng ngoại tệ đạt 103.445 tỷ đồng. Phân theo kỳ hạn thì dư nợ cho vay ngắn hạng đạt 209.647 tỷ đồng, dư nợ trung và dài hạn đạt 135.353 tỷ đồng. Do tỷ giá ổn định, lãi suất cho vay ngoại tệ chỉ bằng 50%-60% mức lãi suất cho vay nội tệ nên nhiều doanh nghiệp thích vay vốn ngoại tệ hơn, ngược lại người gửi tiền thì thích gửi bằng nội tệ hơn vì lãi suất tiền gửi cùng kỳ hạn của nội tệ cao gấp 2 lần tiền gửi ngoại tệ. Tại Hà Nội, dư nợ cho vay cũng tăng với tốc độ rất lớn. Tính đến hết thán 10-2007, tổng dư nợ cho vay đạt 163.838 tỷ đồng, tăng 37,44% so với cuối năm 2006. Dự báo đến hết năm 2007, dư nợ cho vay sẽ đạt 171.000 – 174.999 tỷ đồng, tăng 45% - 48% so với cuối năm trước. Đây cũng là mức tăng cao nhất từ trước đến nay và vượt xa nhiều so với dự báo từ đầu năm của các ngân hàng. Một số ngân hàng thương mại cổ phần sẽ có mức tăng dư nợ tới 55% đến 65%. Về cơ cấu dư nợ phân theo thời hạn, cho vay ngắn hạn đạt 100.089 tỷ đồng, tăng 33,50% và dư nợ cho vay trung dài hạn đạt 63,749 tỷ đồng, tăng 44,10%. Tín dụng trung dài hạn tăng cao hơn ngắn hạn chứng tỏ nhu cầu vốn đầu tư chiều sâu, đầu tư cho mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng nhà xưởng, lắp đặt trang thiết bị mới và hiện đại tăng lên. Một nguyên nhân khác, vốn đầu tư cho các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu đô thị mới, dự án nhà ở, vốn cho vay mua nhà chung cư, mua ôtô, phương tiện vận chuyển, máy móc,thiết bị thi công, xây dựng khách sạn, văn phòng cho thuê, trung tâm thương mại, siêu thị…. Cũng tăng cao. Về cơ cấu dư nợ theo tiền tệ, dự nợ cho vay bằng nội tệ đạt 100.092 tỷ đồng, tăng 38.8% và dư nợ cho vay ngoại tệ đạt 34.72%. Nguyên nhân dư nợ cho vay nội tệ cao hơn ngoại tệ cũng tương tự như ở thành phố Hồ Chí Minh. Không chỉ riêng ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, mà trong cả nước, nhất là những tỉnh, thành phố lớn, có tốc độ công nghệ hoá nhanh,… các luồng vốn huy động, thanh toán, cho vay… của hệ thống ngân hàng cũng có tốc đô tăng trưởng cao ngoài dự kiến. ( Việt Nam đủ điều kiện vay vốn dành cho các nước có thu nhập trung bình: Ông Robert B.Zoellick, Chủ tịch Ngân hàng thế giới, hôm nay tuyên bố, Việt Nam đã đủ didều kiện để tiếp cận nguồn tài chính của Ngân hàng thế giới (WB) cho các nước có thu nhập trung bình. Ông Robert B.Zoellick nói: “Việt Nam đã đạt được những tiến bộ đáng ghi nhận trong thập kỷ qua về giảm nghèo, và nhóm Ngân hàng thế giới cam kết sẽ tiếp tục đẩy mạnh mối quan hệ đối tác tốt đẹp với Việt Nam khi Việt Nam đang tiến lên con đường phát triển bền vững cho mọi người”. Ông Zoellick cũng cho biết, trong chuyến thăm Việt Nam vào mùa hè vừa qua, ông đã tận mắt chứng kiến quyết tâm của Việt Nam nhằm phát huy những thành công đã đạt được, và WB đang chuẩn bị trợ giúp cho những nỗ lực này bằng cả hỗ trợ tài chính lẫn kỹ thuật. Tại cuộc họp báo trực tuyến giữa Washington và Hà Nội sáng nay, ông Ajay Chhiibber, Giám đốc WB tại Việt Nam, cho biết Việt Nam được WB công nhận có đủ điều kiện tiếp cận nguồn vốn vay từ Ngân hàng Tái thiết và phát triển (IBRD). Đây là nguồn tín dụng có lãi suất thấp nhất đối với các khoản cho vay thương mại dành cho các nước đang phát triển. Nguồn vốn này nhằm giảm nghèo tại các nước có thu nhập trung bình và các nước đang phát triển nhưng có độ tin cậy tín dụng, thông qua việc khuyến khích phát triển bền vững qua các khoản vay, bảo lãnh tín dụng, quản lý rủi ro, và dịch vụ tư vấn và phân tích. Các khoản vahy IBRD cũng ưu đãi hơn điều khoản của các khoản vay tương tự cho các nước có thu nhập trung bình trên thị trường tài chính quốc tế. Theo ông Chhibber, nguồn vốn này sẽ bổ sung cho hỗ trợ tài chính từ nguồn tài chính của WB cho các nước có thu nhập thấp là Hiệp hội Phát triển quốc tế (IDA) mà Việt Nam hiện đang được hưởng. Việt Nam đã được vay hơn 7 tỷ USD của IDA từ năm 1993, khi đó tỷ lệ nghèo của Việt Nam đang là 58%. Đến năm 2004, tỷ lệ này đã giảm xuống còn 20%. GDP bình quân đầu người đã tăng nhanh, từ dưới 200 USD/người vào năm 1993 lên 835 USD/người năm 2007. Mặc dù Việt Nam hiện vẫn chưa là nước có thu nhập trung bình, nhưng ông Chhibber cho biết, trước khi đưa ra quyết định này WB đã thành lập một nhóm nghiên cứu rất kỹ các điều kiện của Việt Nam, và nhóm này đã đưa ra kết luận “Việt Nam sẽ trở thành nước có thu nhapạ trung bình trong thời gian tới”. Ông Chhibber cho biết, các khoản vay IBRD vẫn áp dụng các chính sách về an toàn vốn như các khoản vay khác của WB. Tuy nhiên, ông tin tưởng Việt Nam sẽ sử dụng hiệu quả các khoản vay này. Ông Chhibber cũng cho biết, mỗi năm WB sẽ đánh giá kết quả của các khoản cho vay. Nếu các nguồn vốn vay thật sự hiệu quả thì Việt Nam sẽ được nhận nhiều vốn vay hơn. Việt Nam đang tăng trưởng nhanh khiến nhu cầu vốn lớn (khoảng 30% GDP) để đáp ứng mục tiêu phát triển, đặc biệt là cơ sở hạ tầng. Việt Nam cũng đang gặp phải nhiều thách thức, trong đó nhu cầu cải thiện khuôn khổ chính sách về thể chế cho kinh tế thị trường, bảo đảm hoà nhập xã hội, giải quyết các vấn đề môi trường và chống tham nhũng. Việc xây dựng cơ sở hạ tầng cơ bản và phát triển nguồn năng lượng, nâng cấp giáo dục đại học và cải thiện môi trường kinh doanh cũng rất quan trọng để phát triển bền vững. Hỗ trợ tài chính của WB sẽ là nguồn hỗ trợ quan trọng và cần thiết để giải quyết những thách thức trên. (Theo WB: Theo nhân dân ) Những thành tích nổi bậc: Ngân hàng nhà nước Việt Nam đã và đang chấp cánh cho nền kinh tế tăng trưởng. Trong những năm qua, hệ thống tài chính – tiền tệ của nước ta đã phát triển và đổi mới liên tục, đóng góp quan trọng vào tăng trưởng, phát triển, xoá đói giảm nghèo. Một hệ thống tài chính – tiền tệ đã hình thành, đáp ứng ngày càng có hiệu quả hơn nhu cầu phát triển của nền kinh tế, nhu cầu kinh doanh của doanh nghiệp, nông dân cũng như nhu cầu thanh toán và tiêu dùng của dân cư. Nếu như trong những năm 1990, độ sâu tài chính mức độ tiền tệ hoá của nền kinh tế còn thấp thì trong những năm gần đây đã nhanh chóng tăng lên và đạt mức trung bình của các nền kinh tế có mức thu nhập tương đương. Thành tích nổi bậc của Ngân hàng nhà nước được thể hiện trên các mặt sau: Tham mưu cho Chính phủ, Quốc hội ban hành 2 Luật về Ngân hàng: Xây dựng chiến lược phát triển ngành Ngân hàng đến 2010 trình Bộ Chính trị thông qua. Thể chế hoá 2 Luật về Ngân hàng vầ các văn bản của Chính phủ. Đồng thời, xây dựng và ban hành hàng loạt các cơ chế, chính sách về hoạt đồng tiền tệ – ngân hàng, tạo hành lang pháp lý cho họat động của Ngân hàng Nhà nước và các Tổ chức tín dụng Tiếp tục thực hiện mạnh mẽ chương trình cải cách toàn diện hệ thống ngân hàng, nằm đảm bảo đủ sức cạnh tranh và hội nhập quốc tế. Ngân hàng Nhà nước đã xây dựng trình Chính phủ phê duyệt đề án cơ cấu lại các Ngân hàng thương mại nhà nước, củng cố chấn chỉnh các Ngân hàng thương mại cổ phần và QTDND. Đến nay các TCTD đã có bước phát triển mới, họat động lành mạnh, hiệu quả hơn. Hàng lọat cơ chế, chính sách mới phù hợp với thông lệ và chuẩn mục quốc tế đã và đang thực hiện có hiệu quả tại các TCTD. Nâng cao năng lực quản lý điều hành của Ngân hàng Nhà nứơc và các TCTD thực hiện công khai, minh bạch về tài chính và kết quả họat động. Kiên quyết khắc phục tình trạng yếu kém,xây dựng hệ thống Ngân hàng Việt Nam hiện đại, đáp ứng được đòi hỏi ngày càng cao của nền kinh tế. Ngân hàng nhà nước đã triển khai thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp, cơ bản đã khắc phục được tình trạng yếu kém, khó khăn của các Tổ chức tín dụng. Đến nay, khối ngân hàng thương mại cổ phần đang họat động hiệu quả, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Đổi mới cơ bản phương pháp điều hành chính sách tiền tệ, từ việc can thiệp bằng mệnh lệnh hành chính, sang điều hành bằng các công cụ gián tiếp một cách linh họat, thận trong, theo tín hiệu thị trường, đồng thời trao quyền tự chủ họat động kinh doanh cho các TCTD. Điều hành lãi suất gắn với diễn biến lạm phát và tỷ giá ngọai tệ, phù hợp với thông lệ quốc tế. Lãi suất được hình thành trên cơ sở quan hệ cung cầu vốn trong nền kinh tế. Thực hiện nhiệm vụ quản lý quỹ dự trữ ngoại hối của nhà nứơc. Bằng họat động nghiệp vụ thông minh. Quỹ dự trữ ngoại hối được sử dụng hiệu quả, đảm bảo an toan, tránh được rủi ro, và không ngừng sinh lời, phát triển. Đến nay, Quỹ dự trữ ngoại hối đã tăng 40 lần so với năm 1991, đáp ứng từ 10 đến 12 tuần nhập khẩu, phù hợp với thông lệ quốc tế. Thông qua Quỹ dự trữ ngoại hối, đã thực hiện mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ,ổn định giá trị đồng Việt Nam, bình ổn tỷ giá, can thiệp thị trường khi cần thiết, đảm bảo khả năng thanh toán quốc tế và góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. Mở rộng mạng lưới nhằm huy động tối đa các nguồn lực trong nước, đầu tư phát triển nền kinh tế. Nhờ phát triển mạnh các dịch vụ, tiện ích Ngân hàng như: thanh toán, cải tiến thủ tục hành chính, đổi mới phong cách giao dịch, tăng cường các biện pháp huy động vốn, ngành Ngân hàng đã huy động được hàng nghìn tỷ đồng để đầu tư vào những chương trình kinh tế trọng điểm có ý nghĩa xương sống của nền kinh tế. Tốc độ tăng bình quân nguồn vốn huy động hằng năm trên 24%, trong đó vốn trung và dài hạn chiếm trên 30%. Do thực hiện tốt công tác huy động, việc cho vay đã mở rộng đến mọi thành phần kinh tế. Vì vậy, tốc độ tăng trưởng dư nợ bình quân trong những năm qua đạt trên 22%. Trong đó, tỷ trọng cho vay trung và dài hạn để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước chiếm tỷ lệ 40%. Hầu hết các chương trình , công trình dự án quan trọng khác của nhà nước. Đặc biệt, ngành Ngân hàng đã dành nguồn vốn đáng kể để đầu tư phục vu chuyển đổi cơ cấu kinh tế và phát triển nông nghiệp, nông thôn trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tạo việc làm cho hàng triệu lao động, hỗ trợ tích cực trực tiếp cho công cuộc xóa đói giảm nghèo, với thành tựu nổi bật cho cộng đồng quốc tế đáng giá. Chủ động đề xuất các giải pháp chính phủ và bộ chính trị ngăn chăn có hiệu quả tác động xấu của cuộc khủng hoảng Tài chính tiền tệ, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và chính trị xã hội. Họat động kinh doanh của các tổ chúc tín dụng ngày càng có hiệu quả và đóng góp to lớn vào công cuộc xây dựng phát triển đất nước. Trong điều kiện thực tiễn hiện nay, vốn Ngân hàng luôn chiếm tỷ trọng khá cao trong các tổ chức kinh tế, vì vậy Ngân hàng trở thành điểm tựa vững chắc cho các tổ chức kinh tế. Thực hiện tốt nghĩa vụ với ngân sách nhà nước. Chỉ tính 10 năm trở lại đây, ngành Ngân hàng đã đóng góp vào ngân sách nhà nước hàng chục nghìn tỷ đồn. Ngoài ra các tổ chức tín dụng đã giảm hàng trăm tỷ đồng tiền lãi cho khách hàng mỗi năm, vốn ngân hàng đã góp phần vực dậy hàng trăm doanh nghiệp đứng trước bờ vực phá sản trở lại kinh doanh có hiệu quả, đóng góp tích cực cho ngân sách nhà nước. Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được Đảng và Nhà nước giao về chương trình xóa đói giảm nghèo; cho vay về chương trình xóa đói giảm nghèo; cho vay chương trình phát triển đồng bằng sông Cửu Long; cho vay khắc phục hậu quả thiên tai; cho vay ưu đãi về lãi suất khu vực núi,hải đảo; lập quỹ tín dụng đào tạo ngày cảng mở rộng để cho sinh viên, học sinh vay tiền ăn học với thời gian 10-15 năm, lãi suất bằng 50% lãi suất thương mại thông thường, trong thời gian đi học không thu lãi. Hiện đại hóa Ngân hàng luôn được coi là nhiệm vụ trọng tâm trong 10 năm trở lại đây. Để tồn tại, phát triển trong xu hướng toàn cầu hóa hiện nay, ngành Ngân hàng đã không ngừng đổi mới công nghệ tiên tiến và đưa các dịch vụ mới vào họat động. Nếu như trước đây, việc thanh toán qua thẻ, hay gửi tiền một nơi rút ra nhiều nơi còn rất xa lạ với công chúng Việt Nam, thì ngaỳ nay đã trở thành phương tiện thanh toán thông dụng trong đời sống kinh tế –xã hội. Hiện đại hóa các phương tiện thanh tóan là mục tiêu của toàn ngành, nhờ đó tiết giảm được chi phí cho họat động sản xuất kinh doanh, tiết kiệm được chi phí cho họat động sản xuất kinh doanh, tiết kiệm được các chi phí xã hội khác đồng thời đẩy mạnh tốc độ luân chuyển vốn. Với trình độ và côn nghệ thanh toán tiên tiến hiện nay, luôn đảm bảo cho các họat động kinh tế diễn ra thông suốt, cả trong và ngoài nước Mở rộng, tăng cường họat động đối ngoại và hợp tác quốc tế với các Ngân hàng trong khu vực cũng như trên thế giới theo hướng đa phương hóa và đa dạng hóa, nâng cao sức cạnh tranh tiến đến hội nhập quốc tế. Duy trì tốt quan hệ với các tổ chức tài chính – Ngân hàng quốc tế như IMF,WB,ADB… tham gia Hiệp hội ngân hàng các nước ASEAN. Đến nay Ngân hàng Việt Nam đã có quan hệ giao dịch với trên 2.0000 Ngân hàng và tổ chức Tài chính của hơn 100 nước và tổ chức quốc tế trên thế giới. Ngân hàng Nhà nước đã làm tốt nhiệm vụ cơ quan đại diện cho chính phủ tại các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế, tạo điều kiện tranh thủ các nguồn tài trợ ưu đãi dài hạn để đổi mới hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế. Đặc biệt đã thực hiện nhiệm vụ quốc tế cao cả đối với Cách mạng và Ngân hàng các nước Lào, Cam puchia và Cuba. Ngân hàng Việt Nam đã giúp đỡ ngân hàng hai nước Lào và Campuchia đào tạo hàng ngàn cán bộ có trình độ từ đại học trở lên, đồng thời cử hàng trăm chuyên gia có kinh nghiệm sang giúp đỡ tại chỗ về xây dựng hệ thống tổ chức bộ máy Ngân hàng, hoạch định chính sách tiền tệ, hoàn thiện nghiệp vụ Ngân hàng, kiềm chế và đẩy lùi lạm phát cho 2 nước Lào, Campuchia. Xây dựng hệ thống đào tạo chính quy hiện đại, đáp ứng đòi hỏi trong giai đoạn phát triển mới của ngành và xã hội. Xây dựng tổ chức Đảng và các tổ chức chính trị đòan thể vững mạnh. Tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng, khắc phục các mặt yếu kém và khuyết điểm, tổ chức tốt các phong trào thi đua và các họat động xã hội trong toàn và các họat động xã hội trong ngành. Động viên toàn hể các bộ công nhân viên chức đòan kết tương trợ lẫn nhau hoàn thành tốt các nhiệm vụ chuyên môn trong thời kỳ cách mạng. Với thành tựu đạt được trong 10 năm qua, ngành ngân hàng đã được Đảng và nhà nứơc ghi nhận bằng những phần thưởng cao quý: 1 huân chương Sao vàng, 10 đơn vị được phong tặng danh hiệu anh hùng lao động, 25 danh hiệu Chiến sĩ thi đua toàn quốc, 1 Huân chương Hồ Chí minh (1996); 3 huân chương độc lập hạng nhất; 1 huân chương độc lập hạng nhì; 6 huân chuo7ng độc lập hạng ba; 1 huân chương chiến công hạng 3; 16 huân chương lao động hạng nhất; 44 huân chương lao động hạng nhì; 263 huân chương lao động hạng 3; 32 cờ thi đua của Chính phủ và hàng trăm bằng khen của thủ tướng Chính phủ ….. Ngoài ra được các Bộ, Ngành đoàn thể và UBND Tỉnh, Thành phố tặng thưởng hàng nghìn bằng khen va huy chương các loại . NHỮNG HẠN CHẾ CỦA NGÂN HÀNG Do ngân hàng vẫn là một lĩnh vực hoàn toàn mở trong các cam kết hội nhập quốc tế nên nhiều chuyên gia đã cho rằng, giới nhà băng cần tăng tốc đề nâng cao năng lực cạnh tranh hơn bất cứ một ngành nghề nào. Đã qua rồi cái thời khối quốc doanh độc quyền “làm mưa, làm gió” trên thị trường. Giờ đây, thị trường liên ngân hàng không chỉ đa dạng và giàu tính cạnh tranh bởi sự nắm giữ thị trừơng của các tổ chức tài chính quốc tế (khối NHTMCP), nhất là xu hướng sắp xuất hiện các ngân hàng 100% vốn nước ngoài. Những điều này cũng đang đe dọa làm xáo trộn các cơ cấu thị phần tiền tệ trên thị trường. Theo cam kết, Việt Nam sẽ phải mở cửa hoàn toàn các quy định về việc khống chế tỷ lệ tham gia góp vốn, giá trị giao dịch, dịch vụ các ngân hàng nước ngoài ngay trong năm 2008. Như vậy, sau khi thực hiện các cam kết tại hiệp định khung về hợp tác thương mại dịch vụ (AFAS) của hiệp hội các nước ASEAN, giới ngân hàng Việt Nam sẽ không còn nhiều thời gian trong cuộc cạnh tranh ngay trong sân nhà. Thực tế, ngân hàng chưa hẳn là lĩnh vực chậm cải cách trong nền kinh tế nước ta. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng, một trong những thách thức lớn nhất trong quá trình phát triển, hội nhập quốc tế chính là ở trình độ phát triển còn yếu kém, tiềm lực tài chính hạn chế, công nghệ cũng như những vấn đề quản trị vẫn còn thua kém của nước ta. Tới nay, bình quân tổng khối lượng tài sản của khối NHTM quốc doanh vẫn chỉ xoay quanh con số xấp xỉ 160.000 tỷ đồng – khoảng hơn 10 triệu USD. Trong khi đó, chỉ một ngân hàng cỡ trung bình trong khu vực cũng đã sở hữu vốn tự có gấp vài ba lần con số này. Trong khi với các ngân hàng nước ngoài, điểm mạnh chủ đạo của họ vẫn là dịch vụ, thì tại Việt Nam, sự nghèo nàn và thiếu cơ động ở các sản phẩm, hạng mục đầu tư vẫn chưa thực sự nâng tầm. Theo đánh giá của các chuyên gia chuyên ngành, việc vẫn còn thiếu các định chế quản lý theo tiêu chuẩn quốc tế, từ quản trị tới kiểm toán…. Chính là lý do lớn nhất của vấn đề này Những vấn đề quan tâm, tháo gỡ để thúc đẩy hoạt động ngân hàng tiếp tục phát triển mạnh mẽ. Có lẽ khẳng định, năm 2006 là năm thành công nhất của ngành Ngân hàng Việt Nam từ trước tới nay. Điều này thể hiện rõ nét nhất qua sự phát triển vượt bậc cả về quy mô cũng như chất lượng hoạt động của hệ thống các tổ chức tín dụng và ngân hàng đã trở thành mối quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư trong và ngòai nước. Nguyên nhân của thành công này một phần do thời cơ mang laịi từ sự phát triển, hội nhập của đất nước, từ chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước đối với hoạt động ngân hàng, một phần do tinh thần nỗ lực của bản thân các ngân hàng trong việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Thị trường tiền tệ, tín dụng ổn định và hành lang pháp lý về hoạt độn ngân hàng tiếp tục được đổi mới, hòan thiện đã tạo môi trường hoạt động thuận lợi và bình đẳng cho các tổ chức tín dụng, nhất là đối với các ngân hàng thương mại cổ phần. Theo Phó Chủ tịch Hội đồng quản trị ACB Nguyễn Đức Kiên, có 3 sự đổi mới trong cơ chế chính sách ảnh hưởng tích cực đến hoạt động của ACB trong thời gian qua là cơ chế bảo hiểm giá vàng, quy định về việc mở chi nhánh ngân hàng thương mại (Quyết định 888) và quy định về phân loại nợ, trích lập dự phòng và xử lý rủi ro trong hoạt động tín dụng (Quyết định 493). Từ khi có chính sách mới về cơ chế bảo hiểm giá vàng, năm nào ACB bán vàng ra cũng có lãi (trước kia ACB thường bị lỗ khi bán vàng huy động tiết kiệm để lấy tiền đồng cho vay). Trong vòng 11 năm ACB mới có 24 chi nhánh (mỗi lần mở chi nhánh phải xin đến 18 con dấu, 18 chữ ký), từ sau khi có Quyết định 888, trong vòng 2 năm ACB đã thành lập được 50 chi nhánh đưa số huy động tiết kiẹm dân cư của ACB từ 7.000 tỷ đồng lên 31.000 tỷ, gần đuổi kịp huy động tiết kiệm của ngân hàng thương mại nhà nước. Mặc dù có một số ý kiến cho rằng có những khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện Quyết định 888, nhưng ACB rất ủng hộ quyết định này. Tương tự, đối với Quyết định 493, cũng có một số ý kiến cho rằng có nhiều vấn đề cần sửa đổi, bổ sung, nhưng thực tế quyết định này đã giúp ngân hàng thương mại phân loại nợ chính xác và cụ thể hơn. Các ngân hàng thương mại đã có sự chuẩn bị cho tiến trình hội nhập như tăng năng lực tài chính, tiếp tục đổi mới công nghệ, đa dạng hóa các hoạt động dịch vụ, từng bước áp dụng theo các chuẩn quốc tế, mở rộng mạng lưới, thành lập các công ty con, thâm nhập tài chính vào các thành phần kinh tế, các ngành kinh tế, gắn kết với các tập đòan tài chính có tiềm lực… Đây chính là sự khôn khéo và nhạy bén của các ngân hàng thương mại trong thời gian qua. Với những nỗ lực vượt bậc của các ngân hàng, trong năm 2006, các chỉ số hoạt động của các ngân hàng thương mại đều tăng trưởng ở mức độ cao, trong đó những ngân hàng tăng gấp đôi (ACB), nhờ đó trái phiếu và cổ phiếu của các ngân hàng được nhà đầu tư rất quan tâm. Trong nỗ lực chung của các ngân hàng, phải kể đến nỗ lực của những ngân hàng nhỏ, mới thành lập trong việc tìm kiếm đối tác chiến lược để tăng vốn và có những ngân hàng đã tăng từ 2-3 lần vốn điều lệ ban đầu. Mặc dù hệ thống Ngân hàng đã phát triển mạnh mẽ, hiệu quả trong năm 2006 những để tiếp tục duy trì được sự phát triển này trong bối cảnh Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của WTO, tổ chức thương mại lớn nhất thế giới với sự tham gia của 150 nước chiếm 90% dân số, 95% GDP và kim ngạch xuất khẩu của thế giới, ngành Ngân hàng còn rất nhiều việc phải làm. Vụ trưởng Vụ chiến lược phát triển ngân hàng Lê Xuân Nghĩa cho rằng, có 3 vấn đề cần phải triển khai mạnh mẽ đối với hoạt động ngân hàng trong thời gian tới, đó là vấn đề xây dựng Ngân hàng Nhà nước thành Ngân hàng Trung ương hiện đại, cổ phần hóa ngân hàng thương mại nhà nước và mở cửa thị trường tài chính (qua 2 cánh cửa: sự xuất hiện của các tập đoàn tài chính quốc tế tại Việt Nam và mở cửa từng bước giao dịch vốn). Ngân hàng nhà nước cần đẩy nhanh tiến độ xây dựng Luật ngân hàng Trung ương và hòan thiện hệ thống giám sát, đặc biệt là giám sát từ xa để biến nó trở thành công cụ giám sát sắc bén, đáp ứng nhu cầu mở cửa, cải cách và hỗ trợ các ngân hàng thương mại hoạt động an tòan trong điều kiện hội nhập. Cần có sự liên kết: Nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng, DN Việt Nam vẫn yếu về liên kết, đối tác với Ngân hàng trong nước điều này là không ngoại lệ. Tính đến hết tháng 8-2007, cả nước có khỏang 6,5 triệu tài khỏan thẻ các loại do 20 NHTM phát hành và thanh toán, được sử dụng trên 4.000 ATM, số lượng ATM so với người dân như vậy là quá ít. Hơn nữa, số lượng má ATM lại chủ yếu chỉ đặt tại TP.HCM và Hà Nội. Số máy ATM này lại không được liên kết với nhau mà chia thành 4 mạng ATM, hoạt động độc lập với nhau. Ông Trần Phương Bình cho rằng, Chỉ thị 20 sẽ gặp nhiều khó khăn khi triển khai thực hiện vì năng lực của hệ thống ngân hàng Việt Nam còn nhiều hạn chế. Có rất nhiều vấn đề cần bàn về năng lực của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Nếu nói về dịch vụ thẻ ATM, hiện nay, Việt Nam quá thiếu máy ATM, đặc biệt là vùng sâu vùng xa. Theo ông Đặng Mạnh Phổ, Tổng giám đốc Công ty Chuyển mạch Tài chính Quốc gia (Banknet VN), hệ thống máy ATM chỉ đa số tập trung ở các thành phố lớn, còn ở các khu vực nông thông, vùng sâu vùng xa đều chưa có nhu cầu về thẻ ATM nên các ngân hàng không chú trọng đầu tư. Đó là một vấn đề khó khăn. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng nhất là việc kết nối thẻ giữa các ngân hàng với nhau. Ông Phổ cho rằng, việc thành lập nhóm kiểu như vậy vẫn gây bất tiện cho khách sử dụng thẻ ATM vì mỗi nhóm chỉ có thể đặt máy ATM ở một vài khu vực mà không phải là ở tất cả mọi nơi. Bởi vậy, vấn đề kết nối luôn là bài toán khó cần phải có thời gian để có lời giải của hệ thống ngân hàng nói chung và mỗi ngân hàng nói riêng. Muối giải quyết bài toán nà lại phải giải được bài toán về công nghệ và sự phối hợp giữa các ngân hàng mà trước hết, cần phải xử lý sự khác biệt về công nghệ để quy về một chuẩn chung. Tuy nhiên, theo ông Phổ việc kết nối là trong tầm tay bởi Banknet VN đã sẵn sàng về mặt công nghệ. Tháng 8 vừa qua, Ngân hàng Nhà nước đã cho Banknet VN làm Trung tâm bù trừ quốc gia, và đến cuối năm 2008, việc kết nối các ngân hàng có phát hành thẻ qua Banknet VN sẽ hòan tất. Vấn đề còn lại là mỗi ngân hàng có mong muốn kết nối hay không mà thôi. Những tồn tại và thách thức. Để đạt mục tiêu tăng trưởng cao và bền vững, đến năm 2010, vượt qua ngưỡng nước có thu nhập thấp (mức hiện nay là GDP dưới 735 USD), hệ thống tài chính – tiền tệ phải có sự phát triển vượt bậc cả về lượng lẫn về chất. Với hệt số ICOR hiện nay khoảng 4.7, để đạt được tốc độ tăng trưởng GDP 8-9% năm, hàng năm phải đầu tư 37-42% GDP, trong đó phần vốn trong nước phải có vai trò quyết định. Kinh tế Việt Nam rất cần vốn để đầu tư phát triển, song số vốn ít ỏi trong nền kinh tế cũng chưa được huy động đầy đủ và phân bố sử dụng có hiệu quả. Những thiếu sót này liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến chất lượng và quy mô của hệ thống tài chính – tiền tệ. Chừng nào các Tổng công ty lớn nhất chưa được cổ phần hóa và chưa được ghi danh trên thị trường chứng khoán trong nước và trên thế giới để thu hút vốn một cách nhanh nhạy và phân tán rủi ro, chừng đó hệ thống tài chính Việt Nam vẫn phải dựa vào kênh ngân hàng thương mại là chủ yếu để huy động vốn. Trước hệt, cần phát triển hài hòa thị trường chứng khoán và hệ thống ngân hàng, vì hệ thống chứng khoán cho phép chia sẻ lợi nhuận và phân tán rủi ro với số lượng rất lớn người tham gia mua bán chứng khoán trong khi hệt thống ngân hàng phải một mình chịu rủi ro khi cho vay. Phát triển thị trường chứng khoán đòi hỏi những nổ lực rất cơ bản của hệ thống pháp luật về kế toán, kiểm tóan, công khai, minh bạch; hệ thống giám sát và quản lý nhà nước có tính chuyên nghiệp cao, trình độ phát triển của quản trị kinh doanh và một hệ thống báo chí có trách nhiệm. Như vậy, việc phát triển hệ thống tài chính-tiền tệ là một nhiệm vụ liên ngành, phức hợp đòi hỏi một quá trình nỗ lực liên tục của nhà nước và doanh nghiệp. Hệ thống ngân hàng thương mại tuy đã phát triển và được tăng vốn trong những năm gần đây, song với các ngân hàng thương mại trong khu vực, vẫn còn quá nhỏ bé về quy mô và thiếu kinh nghiệm trong các dịch vụ tài chính quốc tế, phân tích thị trường và đánh gí dự án. Chất lượng tín dụng không cao, chịu sự can thiệp nhiều mặt của chính quyền các cấp, tỷ lệ nợ xấu theo tiêu chuẩn quốc tế còn cao. Các ngân hàng thương mại nhà nước chưa thực sự tự chủ tài chính đầy đủ, các quyết định của ngân hàng chưa được thực hiện theo các tiêu chuẩn hiệu quả của ngân hàng mà còn phải tuân theo những áp lực ngòai ngân hàng. Trên thực tế, ngân hàng thương mại nhà nước phải gánh chịu hậu quả của hoạt động yếu kém của doanh nghiệp nhà nước vốn là khách hàng chủ chốt của các ngân hàng này. Do pháp luật về sở hữu chưa thật cụ thể và rõ ràng, thủ tục của ngân hàng cần quá nhiều chữ ký và con dấu chỉ để bảo đảm an tòan trước pháp luật chứ không tạo thuận lợi cho khách hàng. Chủ trương cổ phần hóa các ngân hàng thương mại nhà nước được thực hiện quá chậm. Hệ thống ngân hàng chưa tuân thủ đầy đủ các tiêu chuẩn và thông lệ công khai, minh bạch các kết quả hoạt động, hệ thống số liệu ít được công bố thường xuyên và có hệ thống, như dự trữ ngoại tệ cũng được coi là bí mật quốc gia. Tỷ lệ sử dụng tiền mặt trong nền kinh tế còn quá cao, hạn chế khả năng giám sát lưu thông tiền tệ. Chức năng thống nhất quản lý nhà nước về chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước chưa được thực hiện tốt, một số hoạt động các Quỹ tín dụng ưu đãi đầu tư trực thuộc Bộ Tài chính liên quan đến hoạt động tín dụng. Tín dụng ngòai hệ thống ngân hàng trong dân và các hoạt động tiền tệ phi chính thức còn chiếm tỷ lệ khá cao. Đồng tiền Việt Nam chưa có giá trị chuyển đổi đầy đủ. Chiến lược, chiến thuật cải cách và phát triển hệ thống tài chính – tiền tệ. Do ý nghĩa và tầm quan trọng của hệ thống tài chính-tiền tệ, việc mở rộng, phát triển, nâng cao chất lượng hoạt động và hiện đại hóa hệ thống tài chính-tiền tệ phải là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu. Nâng cao năng lực của hệ thống tài chính tiền tệ và tài khóa chung… Vì vậy, cải cách hệ thống pháp luật, thực hiện cạnh tranh, áp dụng các chuẩn mực quốc tế là những chuẩn bị cần thiết. Mục tiêu là phải sớm xây dựng đồng bộ hệ thống tài chính – tiền tệ hiện đại, có trình độ chuyên môn cao, có trình độ tương đương với khu vực. Hệ thống tài chính tiền tệ phải bảo đảm hiệu quả, tăng trưởng lâu bền của nền kinh tế và nhất thiết tránh được khủng hoảng tài chính tiền tệ. Điều đó, đòi hỏi nỗ lực đồng bộ của Chính phủ, hệ thống tài chính tiền tệ và doanh nghiệp. CHƯƠNG III NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT TRIỂN NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM Những cải tổ từ gốc : Dự kiến, đến năm 2020, hệ thống ngân hàng quốc doanh sẽ phải đóng một vai trò nhất định trong khu vực và trên thị trường quốc tế. Trong mục tiêu xây dụng và hướng tới sự lớn mạnh của các tập đoàn Ngân Hàng Việt Nam, Vai trò của ngân hàng trung ương là rất lớn. Thậm chí một số nhà hoạch định chiến lược còn muốn đưa các cổ phiếu hoặc trái phiếu phát hành từ ngân hàng Việt Nam ra nước ngoài. Muốn thực thi những định hướng lớn này, chính NHNN cần những cuộc cải tổ riêng cho mình. Không phải ngẫu nhiên khi vừa qua, quỹ tiền tệ Quốc tế vẫn đánh giá NHNN Việt Nam. Ở vào bậc thấp nhất trong những mức độ độc lập của các ngân hàng Trung ương thế giới. Nhiệm vụ điều tiết trên thị trường cảu NHNN Việt Nam hiện vẫn có nhiều liên quan, ràng buộc nhiều khi quá mức đối với các NHTM. Ở các nước phát triển, sự độc lập của ngân hàng trung ương vẫn là thước đo quan trọng nhất để đánh giá sự bền vững và phát triển của hệ thống ngân hàng. Dĩ nhiên, đây là một chiến lược vĩ mô đòi hỏi rất nhiều hỗ trợ từ nhiều phía. Nhưng đầu tiên, lộ trình thực hiện của sự thay đổi ngân hàng Trung ương vẫn sẽ là những nỗ lực của bộ máy lập pháp. Từ năm 2005, nhiều người đã hồ hởi với dự án ban hành hai luật mới : Luật Ngân Hàng nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng. tuy nhiên, cho tới nay, hai bộ luật này được đánh giá cao về uy lực pháp lý này đều chưa trở thành hiện thực. Năm 2010, dự kiến, một hệ thống pháp lý đầy đủ sẽ đi vào hoạt động, không chỉ trên cơ sở tổ chức lại bộ máy, mà còn điều chỉnh cả chức năng, nhiệm vụ của NHNN trong việc điều tiết, thực thi các chính sách tiền tệ. Được biết, thời gian tới, các chi nhánh của Ngân Hàng Trung ương sẽ được tối giản về chức năng, nhằm tăng cường tới mức cao nhất cho những chi nhánh quan trọng và có sức ảnh hưởng lớn nhất. Trong một cuộc trả lời phỏng vấn mới đây, cũng về phương hướng cải tổ ngân hàng Nhà nước, một quan chức cấp cao đã khẳng định : Ngân hàng Trung ương hiện đang khẩn trương rà soát lại hệ thống các cơ chế, chính sách trong lĩnh vực ngân hàng để bổ sung cho dự luật mới đang được soạn thảo. Định hướng về việc xây dựng một hành lang pháp lý cho hoạt động giao dịch, thanh toán các tổ chức tín dụng và doanh nghiệp đã và đang được xúc tiến một cách tích cực nhất. Bên cạnh đó, NHNN cũng đẩy mạnh việc xây dựng hện thống cảnh báo cho hệ thống ngân hàng – điều từ lâu vẫn không được coi trọng đúng mức. NHỮNG VẤN ĐỀ CẤP BÁCH CẦN XÚC TIẾN Thứ nhất Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước nên có những thông điệp rõ ràng về chủ trương, chính sách lớn trong họat động tiền tệ, tín dụng, ngân hàng để các ngân hàng thương mại có định hướng họat động. chính phủ công khai các công trình trọng điểm quốc gia cần vay vốn ngân hàng thương mại cổ phần có cơ hội tham gia Thứ hai, về hoàn thiện cơ sở pháp lý, việc sửa đổi luật ngân hàng sắp tới cần hạn chế tối đa việc cấp giấy phép con mà theo hướng đưa ra các điều kiện để ngân hàng náo có đủ điều kiện thì được thực hiện không pải xin phép qua nhiều cấp làm mất thời gian, lỡ cơ hội kinh doanh của nhiều ngân hàng. Việc xây dựng nghị định thay thế nghị định số 19/2000/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của ngân hàng thương mại có ảnh hưởng rất lớn đến các ngân hàng thương mại nên đề nghị ngân hàng Nhà nước cân nhắc kĩ để vừa đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế, vừa phù hợp với điều kiện Việt Nam Thứ ba, quy định mới về mức vốn nghị định ( Nghị định số 141/2006/NĐ-CP) làm một số ngân hàng gặp khó khăn trong việc tăng vốn vì thời gian hơi gấp. Để hỗ trợ các ngân hàng, đề nghị ngân hàng Nhà nứơc xem xét, tạo điều kiện cho các ngân hàng nhất là các ngân hàng nhỏ, có điều kiện mở rộng mạng lưới, chiếm lĩnh thị trường nội địa. Theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, việc mở rộng mạng lưới chi nhánh thực hiện căn cứ vào quy mô vốn. tuy nhiên, các ngân hàng thương mại đang có xu hướng xây dựng mô hình hoạt động theo các mảng họat động nghiệp vụ, đề nghị ngân hàng nhà nước có cơ chế để tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại được thành lập những chi nhánh theo loại hình nghiệp vụ (bán buôn, bán lẻ, khách hàng doanh nghiệp….), các ngân hàng lựa chọn cơ cấu thích hợp với khả năng vốn khả năng nhân sự và khả năng kiểm soát rủi ro. Để công tác quản lý của Ngân hàng Nhà nước được tập trung và triết giảm chi phí về bộ máy của các tổ chức tín dụng, đề nghị ngân hàng Nhà nước cho phép thực hiện cơ chế báo cáo thống kê theo hướng: hội sở hoặc chi nhánh trung tâm của ngân hàng thương mại tại từng địa phương sẽ chịu trách nhiệm thực hiện chế độ báo cáo trực tiếp cho Ngân hàng Nhà nước Thứ tư, một số quy định của Chín phủ, Ngân hàng Nhà nước và Bộ tài chính về các công cụ tiền tệ (trái phiếu, tín phiếu) chưa thống nhất, đề nghị Ngân hàng Nhà nước nghiên cứu để phối hợp với Bộ, ngành liên quan để có các điều chỉnh cho phù hợp, thống nhất. Thứ năm, một số ngân hàng đang gặp khó khăn trong triển khai thực hiện ngân hàng điện tử, đề nghị ngân hàng Nhà nước xây dựng một dự án đầu tư làm điểm, từ đó chuyển giao công nghệ làm điểm, từ đó chuyển giao công nghệ đề ngân hàng khác học tập Về dịch vụ thẻ, đề nghị Ngân hàng nhà nứơc kết hợp chặt chẽ với Hiệp hội ngân hàng để cùng các ngân hàng hội viên ngất là Hội thẻ thúc đẩy sớm việc kết nối thanh toán thẻ. Về hiện đại hóa họat động ngân hàng, vừa qua một số ngân hàng được hưởng thụ một số dự án hiện đại hóa do WB tài trợ. Các ngân hàng khác rất mong muốn có sự chuyển giao công nghệ giữa các ngân hàng, nhất là những sản phẩm về mặt quản lý như mô hình tổ chức, sổ tay tín dụng, quản lý rủi ro để các ngân hàng khác học tập. Thứ sáu, hiện nay, trong nền kinh tế đang tồn tại khá nhiều hệ thống thanh toán như hệ thống thanh toán của Ngân hàng Nhà, hệ thống thanh toán của kho bạc Nhà nước, hệ thống thanh toán của ngân hàng phát triển, hệ th6óng thanh toán của trung tâm lưu ký chứng khoán…. Các hệ thống thanh toán nảy chưa có sự kết nối với nhau. Để đảm baỏ an toàn, thúc đẩ họat động thanh toán trong nền kinh tế quốc dân phát triển và tiết kiệm chi phí cho xã hội, các hệ thống thanh toán phải được kết nối với nhau, torng đó hệ thống thanh toán của Ngân hàng Nhà nước là trung tâm. Thứ bảy, nguồn lực của các ngân hàng thương mại hiện nay còn thiếu hụt do có hiện tượng “co kéo” cán bộ của nhau khi các ngân hàng mở rộng mạng lưới. Mặt khác, nguồn ngân lực đang có xu hướng luân chuyển từ các ngân hàng thương mại nhà nước dang các ngân hàng thương mại cổ phần và các ngân hàng nước ngoài. Sắp tới sẽ có thêm nhiều ngân hàng và các chi nhánh mới được thành lập (Nhất là các ngân hàng nước ngoài, chi nhánh của ngân hàng thương mại cổ phần) vì vậy các ngân hàng ngoài chiến lược đào tạo nguồn nhân lực cần có chiến lược giữ lại nguồn nhân lực torn đó phải chú trọng vấn đề đãi ngộ. Ngân hàng Nhà nước cũng cần có chiến lược cụ thể thì mới giữ được nguồn nhân lực chất xám cao của mình Thứ tám, một số ngân hàng chưa chấp hành tốt quy định về lãi suất do hiệp hội ngân hàng đưa ra. Để tăng tính hiệu quả trong kiểm soát lãi suất, Hiệp hội không nên quy định mức lãi suất một cách cứng nhắc, mà cần thay đổi sao cho phù hợp và nên có những biện pháp xử lý đối với những đơn vị thực hiện không nghiêm chỉnh, có mức thưởng đối với những đơn vị thực hiện nghiêm túc. III. MỤC TIÊU VÀ ĐỊNH HƯỚNG : 1. Mục tiêu và định hướng phát triển ngân hàng trong thời gian tới : Ngày 24/5/2006, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 112/2006/QĐ – TTg phê duyệt đề án phát triển ngành ngân hàng đến năm 2010 và tầm nhìn 2020 theo hướng cơ cấu lại một cách toàn diện mô hình tổ chức và hoạt động của NHNN. Nâng cao vị thế của NHNN, dẩm bảo NHNN là NHTW htực sự, độc lập tự chủ trong xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ. Mục tiêu chủ yếu là ổn định tiền tệ, kiểm soát lạm phát, bảo đảm an toàn hệ thống tiền tệ – ngân hàng, góp phần tạo dựng môi trường vĩ mô thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo. Đổi mới cơ cấu tổ chức của NHNN từ trung ương xuống các chi nhánh theo hướng tính gọn, chuyên nghiệp, có đủ nguồn lực và khả năng xây dựng, thực thi chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị trường dựa trên cơ sở tiên tiến, thực hiện các thông lệ, chuẩn mực quốc tế về hành động NHTW, hội nhập với cộng đồng tài chính quốc tế. Sắp xếp lại các doanh nghiệp trực thuộc NHNN theo hướng chỉ giữ lại Nhà máy in tiền Quốc gia. Điều hành chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thận trọng, linh hoạt và hiệu quả trên nền tảng các công cụ CSTT hiện đại và công nghệ tiên tiến, xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị trường, từng bước nâng cao tính chuyển đổi của VND. Tăng cường hiệu lực của NHNN về quản lý, giám sát các giao dịch ngoại hồi, tự do hóa giao dịch vãng lai và từng bước nới lõng kiểm soát các giao dịch vốn một cách thận trọng, phù hợp với lộ trình mở cửa thị trường tài chính. Tăng nhanh dự trữ ngoại hồi Nhà nước, thực hiện có hiệu quả cơ chế tỷ giá hối đoái linh hoạt theo cơ chế thị trường. Xây dựng hệ thống giám sát ngân hàng hiện đại và hiệu quả, cả về thể chế, mô hình tổ chức, nguồn nhân lực và phương pháp thanh tra giám sát nhằm đáp ứng nhu cầu thực tế về phát triển hệ thống ngân hàng, thực hiện đúng các nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế về giám sát ngân hàng. Thành lập cơ quan giám sát an tòn hoạt động ngân hàng thuộc NHNN trên cơ sở thanh traNHNN hiện nay, đảm bảo sau năm 2010 sẽ xây dựng được cơ quan giám sát tài chính tổng hợp, đồng thời hoàn thiện các điều kiện cho một hệ thống giám sát có hiệu quả, đổi mới và nâng cao có hiệu quả của các phương pháp giám sát ngân hàng. ( KẾT LUẬN Cho đến hôm nay, hệ thống ngân hàng vẫn là nhân tố nóng cốt, tích cực trong công cuộc đổi mới toàn diện nền kinh tế đất nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vận hành bằng cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô cảu nhà nước theo định hướng XHCN. Nền văn minh tiền tệ Việt Nam đã từng bước khẳng định thông qua tính ổn định giá trị, tính đa dạng về phương tiện thanh toán hay tiền mặt và không ngừng hoàn thiện các công nghệ điều hành của những công nghệ kinh doanh hiện đại hướng về các nhu cầu tiện ích đa dạng của mọi tầng lớp nhân dân. Sự lớn mạnh và thay đổi nhanh chóng theo chiều hướng ngày càng hiện đại, phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế cùng với sự tiếp nối truyền thống vẻ vang của ngành trong hơn nửa thế kỷ thế kỷ qua chắc chắn ngân hàng Việt Nam cũng sẽ không phụ lòng tin của Đảng, của nhân dân và của bạn bè quốc tế. Với nhiệm vụ quan trọng là một ngời chiến sĩ xung kích trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước những thách thức và thời cơ.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docVai trò điều tiết kinh tế của ngân hàng nhà nước việt nam- thực trạng và giải pháp.doc
Luận văn liên quan