Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

A.LỜI NÓI ĐẦU Kinh tế chính trị là môn học có nhiệm vụ nghiên cứu giải thích bản chất hiện tượng kinh tế khách quan, xá địng các quy luật kinh tế,chi phối các hoạt động kinh tế xã hội. Môn kinh tế chính trị nghiên cứu các quan hệ kinh tế giữa người với người diễn ra trong tất cả các khâu của quá trình tái sản xuất xã hội-đó là quan hệ sản xuất, nó nghiên cứu trong mối quan hệ thường xuyên- là lực lượng sản xuát và cấu trúc thượng tầng. Khi nghiên cứu về kinh tế chính trị chúng ta luôn thấy sự hình thành và phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCH ở Việt Nam cũng như những nhân tố đảm bảo cho tính định hướng đó đặc biệt là vai trò của Nhà nước.Phát triển kinh tế thị trường là một tất yếu kinh tế đối với nước ta để chuyển nền kinh tế lạc hậu thành nền kinh tế hiện đại hội nhập và phân công lao động quốc tế.Nước ta muốn phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa cần có sự quản lí của Nhà nước nếu không rất dễ bị trệch hướng sang kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa,do đó vai trò kinh tế của Nhà nước là đặc biệt quan trọng. Vì thế cần phải đi sâu phân tích đánh giá chính xác vai trò kinh tế của Nhà nước để phát triển tăng trưởng kinh tế bền vững theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy “Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” là một đề tài rất hay và thú vị. Nó đã và đang là chủ đề nghiên cứu của rất nhiều nhà kinh tế. Do thế là một sinh viên khối kinh tế em thấy đề tài này rất quan trọng nên em rất muốn tìm hiểu lĩnh vực này để tăng thêm sự hiểu biết của mình cũng như nhận thức về những vấn đề đang xảy ra trong nền kinh tế của đất nước và muốn góp phần nhỏ bé của mình để xây dựng đất nước vững mạnh. Lời cảm ơn:Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Tô Đức Hạnh, trung ta Thong Tin Thư Viện trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân đã giup đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho em hoàn thành đề án này. thắc mắc gì về bài viết bạn liên hệ tới sô ***********

doc34 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3283 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh. Muốn duy trì và phát triển mọi mặt của đời sống xã hội thì nhà nước phải quan tâm đến các diều kiện vật chất cũng như thúc đẩy sự phát triển của nền sản xuất xã hội. Hơn nữa không nhà nước nào không năm trong tay một khối lượng tài sản và tiềm lực kinh tế to lớn.Đó có phải là căn nguyên đầy dủ để kết luận rằng nhà nước vốn có chức năng kinh tế hay không thì cần phải tiép tục làm sáng tỏ trên cơ sở giải quết ở mức độ sâu hơn quan hệ giữa nhà nước và kinh tế thông qua phạm trù chức năng của nhà nước.Trước hết xuất phát từ việc nhận thức khái niệm chung về chức năng của nhà nước.Nhà nước là một hệ thống xã hội vì vậy theo sự phân tích có tính tự nhiên thì nhà nước có chức năng nhất định và nó được đặt trong mối liên hệ với tổng thể đời sống xã hội cũng như mỗi thực thể khác của xã hội nên: “chức năng nhà nước đó là vai trò của nhà nước, một nhiêm vụ cực kì to lớn có tính chất bao trùm của nhà nước đối với xã hội, quyết định sự sống còn của nhà nước”. Từ đấy ta thấy rằng: “chức năng kinh tế cuả nhà nước là thể thống nhất giữa các dấu hiệu sau: là những nhiệm vụ kinh tế mà nhà nước cần phải làm vì yêu cầu của dời sống kinh tế; là những nhiệm vụ kinh tế mà nhà nước có năng lực giải quyết và phạm vi hoạt động hợp pháp của nhà nước trên lĩnh vực kinh tế”. 3.2.Các chức năng cơ bản của nhà nước: 3.2.1.Thiết lập khuôn khổ pháp luật: Chức năng này có ý nghĩa quan trọng tới sự phát triển kinh tế. Ở đây nhà nước đề ra các quy tắc trò chơi kinh tế mà các doanh nghiệp, người tiêu dùng và cả bản thân chính phủ đều phải tuân thủ. Nó bao gồm quy định về tài sản, các quy tắc về hợp đồng vào hoạt động kinh doanh, các trách nhiệm tương hỗ của các liên đoàn lao động và nhiều luật lệ để xác định môi trường kinh tế. Về nhiều mặt, các quyết định của khuôn khổ pháp luật xuất phát từ những mối quan hệ vượt ra ngoài lĩnh vực kinh tế đơn thuần. Nhưng khuôn khổ pháp luật có thể tác động tới các ứng xử của con người. 3.2.2. Hiệu quả: Nhà nước sửa chữa những khiếm khuyết của thị trường để thị trường hoạt động có hiệu quả như: hạn chế ảnh hưởng của độc quyền, tình trạng vô chính phủ dẫn đến khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp, nạn ôi nhiễm môi trường.... Trước hết, những thất bại mà thị trường gặp phải làm cho hoạt động của nó không hiệu quả là ảnh hưởng của độc quyền. Cần phải nói rằng, lợi dụng ưu thế cảu mình các tổ chức độc quyền có thể quy định giá cả để thu lợi nhuận, và do vậy phá vỡ ưu thế của cạnh tranh hoàn hảo. Vì vậy cần phải có sự can thiệp của nhà nước để hạn chế độc quyền, đảm bảo tính hiệu quả của cạnh tranh thị trường. Điều đó đảm bảo được ganh đua của những người kinh doanh, đảm bảo tính hiệu quả của nền kinh tế. Thứ hai, những tác động bên ngoài cũng dẫn đến tính không hiệu quả của hoạt động của thị trường và cũng đòi hỏi nhà nước phải can thiệp. Tác động bên ngoài xẩy ra khi doanh nghiệp tạo ra chi phí lợi ích cho doanh nghiệp khác hoặc người khác mà các doanh nghiệp đó không phải trả đúng số chi phí phải trả hoặc không được nhận những lợi ích nhẽ ra anh ta được nhận. Vì vậy nhà nước phải sử dụng đến luật lệ để điều hành kinh tế như là một phương pháp để ngăn chặn những tác động tiêu cực bên ngoài như ô nhiễm nước và không khí, khai thác đến cạn kiệt khoáng sản....Nhà nước phải đảm bảo nhiệm vụ sản xuất hàng hoá công cộng. Thứ ba là thuế. Trên thực tế phần chi phí của chính phủ phải được trả bằng thuế thu được. Tất cả mọi người đều phải chịu theo luật thuế. Sự thực là toàn bộ công dân tự mình lại đặt gánh nặng thuế lên mình và mỗi công dân cũng được hưởng phần hành công cộng do chính phủ cung cấp. Như vậy, Nhà nước phải can thiệp vào thị trường để nâng cao hiệu quả của thị trường. Nhà nước đề ra luật đi đường và bảo đảm hàng hoá công cộng như đường sá, do đó tạo điều kiện dễ dàng cho tư nhân hoạt động, ngăn cản sự lạm dụng của các doanh nghiệp khi họ trở thành những kẻ tham lam, độc quyền chiếm đường và kiềm chế hoạt động của các doanh nghiệp khác. 3.2.3. Đảm bảo sự công bằng: Mục đích của chức năng này là để vừa đảm bảo ổn định xã hội, vừa không làm triệt tiêu tích tích cực sản xuất kinh doanh của các thành viên trong xã hội. Để thực hiện chức năng này, một mặt nhà nước phải tạo ra những cơ sở về tổ chức để mọi người có cơ hội ngang nhau và đều được hưởng phần tương xứng với kết quả lao động và phần đóng góp của mình; mặt khác, trong điều kiện hoạt động hoàn hảo nhất, lí tưởng nhất của cơ chế thị trường, vẫn thấy rằng sự phân hoá, bất bình đẳng sinh ra từ kinh tế thị trường là tất yếu. Một hệ thống thị trường có hiệu quả vẫn có thể gây ra sự bất bình đẳng lớn. Vì vậy chính phủ cần thiết phải thông qua những chính sách để phân phối lại thu nhập. Công cụ quan trọng nhất của chính phủ trong lĩnh vực này là thuế thu nhập, thuế người giầu theo tỷ lệ thu nhập lớn hơn người nghèo. Thông thường thuế luỹ tiến áp dụng cho thuế thu nhập và thuế thừa kế. Bên cạnh thuế, phải có hệ thống hỗ trợ thu nhập để giúp cho người già, người tàn tật, người phải nuôi con và bảo hiểm thất nghiệp cho người không có công ăn việc làm. Hệ thống thanh toán chuyển nhượng này tạo ra mạng lưới an toàn bảo vệ những người không may khỏi bị huỷ hoại về kinh tế. Cuối cùng, chính phủ đôi khi phải trợ cấp tiêu dùng cho những nhóm người có thu nhập thấp bằng cách phát tem phiếu thực phẩm, trợ cấp y tế, cho thuê nhà với giá rẻ... 3.2.4. Ổn định kinh tế vĩ mô: Nhà nước thực hiện chức năng này thông qua các công cụ: các loại thuế, các khoản chi tiêu và những quy định hay kiểm soát vè tiền tệ. Thông qua thuế, chính phủ điều tiết tiêu dùng, đầu tư tư nhân,khuyến khích hoặc hạn chế hoạt động kinh doanh của các doanh nhân. Các khoản chi têu của chính phủ khuyến khích các doanh nghiệp hay công nhân sản xuất ra một số hàng hoá hay dịch vụ và những việc chuyển tiền nhằm trợ cấp thu nhập. Những quy định hay kiểm soát của chính phủ nhằm hướng dẫn nhân dân đi vào hoặc từ bỏ những hoạt động kinh doanh. Nhưng trong nền kinh tế ngày nay không thể có đủ việc làm mà không có lạm pháp.Trong thực tế, cho đến nay người ta thấy, những nước thực hiện tốt các chức năng kinh tế trên đây đều thành công trong việc quản lí kinh tế. Vượt quá những chức năng đó hoặc là dẫn đến chi tiêu tốn kém tạo ra bộ may quan liêu cồn kềnh kém hiệu quả hoặc làm cho nền kinh tế rối ren,dẫn đến tình trạng quản lí kém hiệu quả của nhà nước. 4.Nội dung sự can thiệp của nhà nước: Vai trò kinh tế của nhà nước được thể hiện thông qua: kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, Nhà nước quản lí và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. 4.1.Nội dung quản lí kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam: - Nhà nước xây dựng các chương trình, kế hoạch phát triển phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội ở nước ta theo các muc tiêu mong muốn. Bằng việc định hướng sự phát triển của nền kinh tế nhà nước quản lí và can thiệp vào các doanh nghiệp với mục tiêu làm giàu cho đất nước.Thực chất của việc định hướng sự phát triển của nền kinh tế là thống nhất các lợi ích khác nhau, qui tụ các lợi ích khác nhau về một lợi ích để định hướng nền kinh tế phát triển bền vững.Chính vì vậy Nhà nước đã đề ra: + Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội trong dài hạn: nước hoạch định các chương trình phát triển kinh tế xã hội mà mỗi chương trình là mỗi cơ hội đầu tư mở rộng phát triển sản xuất cho các doanh nghiệp.Từ đó nhà nước dẫn dắt các doanh nghiệp cho họ thấy chỗ nào có thể và cần phải đầu tư vào nơi nào.Và Nhà nước có thể thực hiện ý đồ chuyển dịch cơ cấu theo ngành, theo vùng lãnh thổ khai thác sử dung có hiệu quả các nguồn tài nguyên, đưa thị trường trong nước hoà nhập vào thị trường thế giới cho nền kinh tế phát triển bền vững ổn định có hiệu quả và công bằng. + Kế hoạch hoá định hướng, kế hoạch chương trình phát triển kinh tế xã hội do nhà nước đề ra.Kế hoạch mang tính định hướng; Kế hoạch hoá không phải chỉ là giao chỉ tiêu thực hiện mà còn là điều phối sự thực hiện theo dự án. - Tạo môi trường thuận lợi cho nền sản xuất nhiều hàng hoá nhiều thành phần phát triển: Nhà nước tạo điều kiện cho quá trình tự do hoá giá cả, thương mại hoá nền kinh tế; quy định và bảo đảm các quyền của người chủ sở hữu về tư liệu sản xuất; đa dạng hoá chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất; xây dựng hệ thống pháp luật của nền kinh tế thị trường; ổn định về chính trị và xã hội. - Phân phối thu nhập quốc dân một cách công bằng- hiệu quả tạo ra động lực sản xuất: trong nền kinh tế thị trường thị trường càng mở rộng càng dẫn đến sự phân hoá thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, rất dễ xảy ra tình trạng bất bình đẳng gây ra sự mâu thuẫn giữa các giai cấp tạo ra môi trường không lành mạnh cho các doanh nghiệp làm ăn nên nhà nước cần phân phối thu nhập của các tầng lớp dân cư sao cho thoả mãn yêu cầu công bằng và hiệu quả. Mặt khác trong nền kinh tế thị trường sự khác nhau về sở hữu của cải, về năng lực sở trường, trình độ tay nghề và may mắn dẫn tới sự khác nhau trong thu nhập. Nhà nước cần phải biết lựa chọn phương pháp phân phối lại sao cho các hoạt động kinh tế có hiệu quả trong sự bất bình đẳng cho phép. Cần chú ý rằng phân phối lại thu nhập, hình thành các quỹ trợ cấp là một trong những công cụ có hiệu lực nhất để định hướng XHCN. Thể hiện tính cộng đồng dân tộc trong các chương trình phát triển kinh tế xã hội. - Can thiệp vào quá trình kinh tế khi cần thiết. Định hướng, tạo môi trường, phân phối thu nhập là những công việc cần thiết thể hiện vai trò của nhà nước trong một chiến lược dài hạn. Trong quá trình thực hiện các chiến lược đó, dưới ảnh hưởng của cơ chế cung cầu giá cả trong thị trường nội địa, đồng thời dưới ảnh hưởng của quan hệ quốc tế, làm mục tiêu định hướng của các chương trình dài hạn những “ cú sốc “ làm chệch mục tiêu là điều không thể tránh khỏi. Trong trường hợp đó nhà nước cần phải sử dụng những công cụ như lãi suất, thuế, khối lượng tiền tệ và chi tiêu ngân sách để làm giảm những chấn động do cú sốc gây ra đưa nền kinh tế theo định hướng chủ nghĩa xã hội. - Quản lý tài sản quốc gia, phân bổ các nguồn tài sản một cách hợp lý: trong nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta nhà nước điều khiển sự vận động của nền kinh tế bằng cách hoạch định các chiến lược phát triển kinh tế xã hội dài hạn và ngắn hạn, quyết định các phương án phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân sao cho bình đẳng công bằng, hiệu quả tạo môi trường thuận lợi, hướng dẫn các doanh nghiệp can thiệp vào nền kinh tế. Mặt khác nhà nước còn đóng vai trò người quản lý tài sản quốc gia, phân bố các nguồn lực của sản xuất một cách hợp lý. Về mặt đối ngoại nhà nước có trách nhiệm bảo vệ và phát triển các nguồn lực, ngăn chặn mọi âm mưu từ bên ngoài; về mặt đối nội nhà nước là người chủ sở hữu các nguồn lực nên phân bố sử dụng giữa các thành phần kinh tế sao cho hợp lý. Với tư cách là chủ sở hữu của doanh nghiệp nhà nước, nhà nước quản lý và đóng vai trò độc quyền ở các thị trường quan trọng, quyết định sự tồn tại của thể chế. Với tư cách là người chủ quản lý đất nước, là người trọng tài, là chủ thể của quá trình phân công lại vai trò giữa các thành phần kinh tế không làm triệt tiêu lợi ích chung của toàn xã hội. 4.2.Các công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước XHCN ở Việt Nam: - Hệ thống pháp luật: Hệ thống pháp luật đặc biệt là luật kinh tế là công cụ quan trọng thông qua đó nhà nước tạo lập hành lang pháp lí để duy trì kỉ cương trật tự, hướng dẫn các doanh nghiệp hoạt động theo pháp luật chống mọi hiện tượng làm ăn phi pháp. Chính vì vậy nhà nước phải tạo môi trường pháp lí thuậ lợi cho các cá nhân, doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế hoạt động.Hiện nay ở nước ta đã ban hành các luật về các quyền như: sở hữu, chiếm hữu, thừu kế, chuyển nhượng,...; các luật hợp đồng; luật thương mại;.... - Kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân: Nhà nước soạn thảo kế hoạch, quy hoạch, các chương trình phát triển kinh tế xã hội và ban hành các chính sách để hướng các chủ thể thị trường thực hiện thông qua các chính sách tài chính, tiền tệ, sử dụng các đòn bẩy kinh tế như: ưu đãi về thuế, về lãi suất cho vay cho những ai đầu tư vào lĩnh vực mà nhà nước khuyến khích. Đây là công cụ quan trọng của nhà nước để hoạch định các chương trình, định hướng mục tiêu trong từng thời kì đó là loại hạt tự giác của nhà nước để quản lí toàn bộ nền kinh tế theo mục tiêu thống nhất đã định trước trên cơ sở nhận thức và vận dụng các quy luật kinh tế khách quan nhằm xác định tốc độ, quan hệ tỷ lệ cơ cấu kinh tế hợp lí để không ngừng mở rộng sản xuất với hiệu quả kinh tế xã hội ngày càng cao; nên có thể nói quá trình kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân chính là quá trình cụ thể hoá đường lối chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước thành những chỉ tiêu cụ thể để dẫn dắt nỗ lực của toàn xã hội thực hiện thành công đường lối chủ chương chính sách của Đảng à nhà nước đề ra bởi vậy, có thể coi kế hoạch là cương lĩnh thứ hai của Đảng. - Hệ thống các chính sách kinh tế xã hội: Các chính sách kinh tế – xã hội bao gồm các chính sách về tài chính tiền tệ, chính sách thuế, chính sách thu nhập,...Đây là công cụ góp phần tạo ra môi trương kinh tế xã hội ổn định và có lợi cho sự tăng trưởng phát triển kinh tế xã hội, thực hiện mục tiêu gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng tiến bộ xã hội. - Sức mạnh vật chất của kinh tế nhà nước: Nhà nước sử dụng thực lực kinh tế vật chất của mình như: tiềm lực kinh tế của các doanh nghiệp nhà nước, ngân sách nhà nước, dự trữ quốc gia,.. để tác động vào nền kinh tế thị trường nhằm đảm bảo cân đối vĩ mô, đieeuf tiết thị trường ngăn ngừa những đột biến xấu của thị trường để đảm bảo những điều kiện có lợi cho sự phát triển kinh tế xã hội. Thông qua việc sử dụng hiệu quả hệ thống các công cụ nói trên nhà nước thực hiẹn được vai trò chức năng kinh tế của mình nhằm mục đích cuối cùng là quản lí, phân bổ, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực của đất nước, tạo điều kiện cần thiết để thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững kết hợp với công bằng tiến bộ xã hội, đưa nên kinh tê phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. II.THỰC TRẠNG VAI TRÒ KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA: 1.Những thành tựu đạt được: Nhờ những chính sách, quyết định đúng đắn về kinh tế xã hội của Nhà nước mà đã tác động thúc đẩy kinh tế nước ta tiến lên một bước, làm cho nền kinh tế thị trường hoạt động hiệu quả, đạt được nhiều thành tựu : Tốc độ tăng trưởng của tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2004 – năm thứ tư của kế hoạch 5 năm (2001-2005) đạt 7,7% xếp thứ 2 thế giới về tóc độ tăng trưởng sau Trung Quốc, tốc độ này là rất đáng tự hào trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động những năm vừa qua.Trong đó khu vực nông- lâm- ngư nghiệp tăng 3,5%, đóng góp 0,7% vào tốc độ tăng trưởng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 10,2%, đóng góp 3,9%, khu vực dịch vụ tăng 7,5% đóng góp 3%. Đây là mức tăng trưởng cao nhất trong 8 năm qua và cũng là sự tăng trưởng liên tục trong nhiều năm. Kim ngạch xuất khẩu đạt 26 tỷ USD, tăng 30% và là tốc độ tăng cao nhất từ năm 1997 đến nay. Năm 2004 cũng là năm đầu tiên kim ngạch xuất khẩu đạt được bình quân trên 2 tỷ USD/tháng Thu ngân sách nhà nước vượt xấp xỉ 12% dự đoán cả năm, bằng 23,5% GDP và tăng 17,4% so với năm 2003. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá, các ngành sản xuất dịch vụ đã có sự chuyển dichjtheo hướng tích cực và hiệu quả, góp phần tăng trưởng kinh tế. Tỉ trọng ngành công nghiệp và xây dựng tiếp tục tăng từ 40% năm 2003 lên 41,1% năm 2004; tỉ trọng thành phần nông- lâm- ngư nghiệp giảm từ 21,8% năm 2003 xuống còn 20,4% năm 2004. Cơ cấu nội bộ ngành,cơ cấu các thành phần cơ cấu sản phẩm cũng đã có sự chuyển dịch đáng kể làm cho các thành phần kinh tế được phát huy. Tình hình tài chính quốc gia và tài chính công có nhiều cải thiện: tỉ lệ huy động vào ngân sách nhà nước bình quân năm đạt xấp xỉ trên 21% GDP; khối lượng huy động vốn đầu tư đưa vào thực hiện tăng khá; tỉ lệ huy động vốn đầu tư trong GDP tăng từ 31% năm 2001 lên khoảng37% năm 2005; tổng vốn đầu tư đưa vào nền kinh tế 5 năm qua vượt 13-15,8% kế hoạch đề ra; nguồn vốn trong nước đã được khai thác khá hơn và chiếm trên 70% tổng số vốn đầu tư (khoảng 24-25% GDP) Kinh tế đối ngoại có bước phát triển.Quan hệ kinh tế quốc tế được mở rộng.Thực hiện cam kết trong ASEAN, tiếp tục đàm phán gia nhập WTO, thúc đẩy sự thực hiện các cam kết quốc tế đa phương và song phương. Việc thu hút nguồn vốn hỗ trợ phát triển chinh thức (ODA) đã đạt được những kết quả đáng kể; ước giải ngân nguồn vốn ODA đạt khoảng 8,2 tỷ USD. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài tuy có gặp khó khăn nhưng do môi trường thuận lợi nên cũng duy trì được khả năng thu hút vốn.Trong % năm, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cấp mới và bổ sung đạt từ 15-16 tỷ USSD; ước tổng số vốn thực hiện của khu vực đầu tư nước ngoài khoảng 13 tỷ USD, vượt 21% kế hoạch. Thông qua chính sách tiền tệ đã kiềm chế được lạm phát tỉ lệ lam phát năm 2004 xấp xỉ 9%, tạo ra công ăn việc làm cho nhiều người trung bình khoảng hơn 7 triệu người/năm Mặt khác Nhà nước ta cũng đảm bảo thực hiện công bằng xã hội thông qua các chính sách xã hội, bảo hiểm, phúc lợi xã hôi,...Tỉ lệ hộ nghèo giảm dần từ 13,33% (1999) xuống còn 9,96 %(2001) và 9% (2003),mỗi năm trung bình có khoảng 300 nghìn hộ thoát khỏi cảnh nghèo; các chương trình về phát triển các mặt chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, dân số- kế hoạch hóa gia đình và các hoạt động văn hoá xã hội được triển khai và thu được nhiều kết quả đáng khích lệ. Nhà nước đã cung cấp một phương pháp lý đầy đủ, tương đối đồng bộ, minh bạch và vững chắc, không chỉ là hệ thống luật lệ và quy định, mà còn bao hàm các định chế cần thiết để thực hiện và cưỡng chế việc thi hành luật và giải quyết tranh chấp - bao gồm tòa án và các cơ quan cường chế thi hành pháp luật. Trong các nền kinh tế thị trường, phần lớn các giao dịch dựa trên hợp đồng. Do đó mà khi những luật lệ quy định quyền sở hữu được rõ ràng và cơ chế cưỡng bức thi hành luật tốt thì chi phí hoạt động kinh doanh tốt hơn và thị trường vận hành hiệu quả hơn, trong thời kỳ kế hoạch hóa tập trung, Nhà nước quản lý kinh tế chủ yếu bằng công cụ kế hoạch. Khi chuyển sang quản lý nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, việc ban hành khuôn khổ pháp luật cho sự hoạt động của nền kinh tế chuyển đổi này trở thành một đòi hỏi rất cấp bách trước mắt, vừa rất cơ bản lâu dài, trong đó có những thứ có thể sửa đổi, bổ sung từ hệ thống pháp luật đã có mặc dù rất ít. (Như hiến pháp) nhưng chiếm đại bộ phận là hoàn toàn mới, phải làm từ đầu (như luật đầu tư nước ngoài). Như ta đã biết, nền kinh tế nước ta trước đây là nền kinh tế đóng do đó mà hoàn toàn không quan hệ gì với các nước trên thế giới ngoại trừ các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa. Từ khi chuyển đổi, hệ thống pháp luật được hoàn chỉnh nước ta thực hiện cơ chế mở. Tạo nhiều điều kiện, ban hành luật, chính sách để thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài như. Luật đầu tư, chính sách ưu đãi đầu tư… tạo động lực thúc đẩy đầu tư trong nước, tăng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Đồng thời ta còn tranh thủ học hỏi những tiến bộ khoa học kỹ thuật, những dây chuyền công nghệ tiên tiến hiện đại của các nước bạn ứng dụng vào nền sản xuất trong nước. Đẩy mạnh tăng năng suất tăng khối lượng hàng hóa và dịch vụ. Giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất xã hội đã bị kìm nén bấy lâu nay, nổi bật là sự phát triển đa dạng hóa các loại hình doanh nghiệp. Nhờ đó, đưa nước ta từ một nước nhập khẩu lương thực trở thành nước xuất khẩu lớn của thế giới về lương thực, cà phê, hạt tiêu. Từ chỗ đầu tư để phát triển đất nước, chủ yếu (hay về cơ bản) là từ nguồn ngân sách Nhà nước đến chỗ thu hút được nhiều chủ đầu tư ngoài khu vực Nhà nước, làm cho tổng đầu tư toàn xã hội tăng nhanh. Đồng thời, đảm bảo cho cả thời kỳ đổi mới, kinh tế nước ta có tốc độ tăng trưởng vào loại cao so với các nước trong khu vực và thế giới. Từng bước tạo điều kiện hình thành và thúc đẩy các yếu tố thị trường bộ phận để phát triển hệ thống thị trường cơ bản, như: thị trường hàng hóa dịch vụ thị trường tài chính, thị trường bất động sản, thị trường lao động, thị trường khoa học và công nghệ. Do các loại thị trường cơ bản được hình thành và phát triển làm cho nền kinh tế hoạt động ngày càng có hiệu quả hơn, sôi động hơn. 2. Những mặt hạn chế trong vai trò kinh tế của Nhà nước ta: Tuy đã đạt được những thành tựu đáng kể nhưng trong quá trình quản lí và điều tiết nền kinh tế Nhà nước ta không thể không tránh khỏi những khiếm khuyết và hạn chế nhất định.Điều đó được thể hiện rõ ở những điểm sau: - Sản xuất hàng hóa trong các lĩnh vực, tiểu thủ công nghiệp còn ở trình độ thấp, công nghệ sản xuất còn lạc hậu, chất lượng sản phẩm làm ra còn xấu. Vì thế thị trường tiêu thụ hết sức hạn chế. Nếu có thị trường thì sức cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường kém. - Tuy sản xuất nông lâm nghư nghiệp là ngành sản xuất chiếm tỷ trọng lớn nhất, chiếm nhiều lao động xã hội trong cơ cấu kinh tế nhưng quá trình thương phẩm hóa sản phẩm nông lâm nghư chỉ diễn ra ở một số nơi có cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải thuận lợi. Gần thị trường lớn và có bình quân ruộng đất trên đầu người tương đối cao. Chỉ có ở những nơi này là sản xuất được hàng hóa, và cũng mới có một số sản phẩm nông nghiệp hàng hóa, với khối lượng tương đối lớn và tỷ suất hàng hóa tương đối cao, phần còn lại vẫn trong tình trạng sản xuất tự cung, tự cấp. - Các hoạt động dịch vụ đã phát triển mạnh mẽ, nhưng chỉ mới tập trung vào một số ngành như ăn uống, buôn bán nhỏ các hàng công nghiệp tiêu dùng v.v. các ngành như du lịch, bảo hiểm, cung ứng kỹ thuật và công nghệ chưa tương xứng, chất lượng các hàng hóa dịch vụ nhìn chung còn thấp. - Nhiều điều kiện cần thiết cho sự ra đời của sản xuất hàng hóa như thị trường đất đai, thị trường sức lao động thị trường tiền tệ chưa được thiết lập một cách hoàn chỉnh, công khai. Một số các yếu tố cấu thành đầu vào của sản phẩm chưa phải là hàng hóa, hoặc đang trong trạng thái độc quyền. Chính vì nền kinh tế còn đang trong bước quá độ của sự chuyển đổi như vậy nên Nhà nước cũng chưa kiên quyết từ bỏ ngay cách quản lý trực tiếp đối với nền kinh tế để chuyển hẳn sang cách quản lý gián tiếp được mà phải tiến hành đan xen cả hai phương thức, điều này thể hiện rõ trên các mặt sau đây: - Trong nền kinh tế thị trường, các cơ sở sản xuất là những đơn vị kinh tế độc lập, tự chủ, họ tự lo lấy vốn, vật tư kỹ thuật để phục vụ sản xuất, tự chịu trách nhiệm về kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh. Họ sản xuất cái gì, sản xuất bao n hiêu và bán cho ai là do họ định đoạt, Nhà nước không can thiệp trực tiếp vào như trước nữa. Tuy nhiên, trong thực tế nhiều cơ quan Nhà nước nhiều cấp chính quyền vẫn không muốn từ bỏ sự can thiệp này. Một số địa phương vẫn còn giao kế hoạch sản xuất, kế hoạch giao nộp và đóng góp cho các hợp tác xã và nông dân hay can thiệp vào công tác tổ chức và nhân sự của các doanh nghiệp đóng trên địa bàn của địa phương mình .v.v. Trong sản xuất công nghiệp chế độ bao cấp vẫn còn trên thực tế. - Để cho sản xuất hàng hóa và phát triển nhanh, phát triển đúng qui luật, Nhà nước phải là người tạo ra môi trường kinh tế thuận lợi cho nó. Bằng chủ trương xóa bỏ ngăn sông cấm chợ, xóa bỏ chế độ nhiều giá chúng ta đã khuyến khích sự ra đời nhanh của thị trường hàng hóa. thị trường vật tư kỹ thuật thông suốt và thống nhất trong cả nước. Đây là điều tốt song những thị trường khác rất cần thiết đối với sự hình thành và phát triển của sản xuất hàng hóa như thị trường sức lao động, thị trường đất đai, thị trường tiền tệ thị trường chất xám v.v. thì Nhà nước vẫn chưa có giải pháp rõ ràng dứt khoát và có hiệu lực để hình thành nó. Đây chính là một trong những trở ngại đối với sự phát triển sản xuất hàng hóa ở nước ta hiện nay. Trong nền kinh tế thị trường công cụ chủ yếu Nhà nước sử dụng để quản lý nền kinh tế là hệ thống pháp luật. Hệ thống pháp luật càng đầy đủ, đồng bộ bao nhiêu, việc quản lý của Nhà nước càng chặt chẽ, thuận lợi bấy nhiêu. Mấy năm qua Nhà nước ta cũng đã cố gắng giải quyết vấn đề này. Song phải nói rằng luật kinh tế chưa làm được bao nhiêu, nên kinh tế đã chuyển sang nền kinh tế sản xuất hàng hóa, song những luật rất cơ bản như luật lao động, luật thuê mướn nhân công, luật phá sản, luật doanh nghiệp Nhà nước, luật cạnh tranh và chống độc quyền… vẫn chưa có. Vì không có luật nên trong cách giải quyết công việc hàng ngày các cơ quan có trách nhiệm của Nhà nước còn rất lúng túng trong quản lý cả tầm vi mô lẫn vĩ mô. Cũng do chưa có luật nên một số cơ quan Nhà nước có trách nhiệm lại buông lỏng quản lý để mặc cho các hoạt động sản xuất kinh doanh phi pháp hoạt động gây thiệt hại nghiêm trọng cho nền kinh tế quốc dân. - Trong nền kinh tế thị trường bộ máy Nhà nước phải được tổ chức gọn nhẹ, nhưng chất lượng phải tốt. Hiệu lực chỉ đạo mạnh, nhất là bộ máy công an, thuế vụ - hải quan - tòa án, nhưng công cụ thi hành luật pháp chủ yếu của Nhà nước. Tuy nhiên trong thực tiễn công việc này tiến hành chậm, còn nhiều lúng túng và vướng mắc cụ thể là: + Bộ máy Nhà nước trung ương vẫn chưa hợp lý, nhiều cơ quan chưa rõ chức năng, nhiệm vụ có người mới đẻ ra việc, nhiều người đứng đầu các cơ quan Nhà nước vẫn chưa phải là những người tiêu biểu, đại diện cho trí tuệ của cơ quan, của ngành đó. + Chức năng, nhiệm vụ và cách tổ chức bộ máy chính quyền ở các cấp vẫn chưa được phân định rõ ràng, còn gây nhiều nỗi băn khoăn trong cán bộ và nhân dân. + Luật viên chức Nhà nước vẫn chưa có. Các chức danh trong bộ máy quản lý chưa rõ, chính vì vậy việc bố trí người còn rất tùy tiện, người được đào tạo, người có tài năng không được quan tâm trọng dụng. + Việc đãi ngộ cho đội ngũ viên chức Nhà nước chưa xứng đáng, lương Nhà nước không nuôi sống nổi bản thân và gia định họ, tệ tham những hối lộ tràn làn, trở thành quốc nạn. Những thiếu sót trên đây đã làm cho công việc quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế kém hiệu lực và hiệu quả thấp. Trong nền kinh tế thị trường, việc quản lý của Nhà nước được tiến hành thông qua các chính sách của Nhà nước như thuế, giá cả, tiền tệ và tín dụng lãi suất, tỷ giá hối đoái. .v.v Trong những năm qua Nhà nước ta cũng đã đề ra được nhiều chính sách nhằm khuyến khích sản xuất hàng hóa phát triển. Tuy nhiên, chúng ta còn thiếu một lộ trình tổng quát để chỉ đạo quá trình tổng quát để chỉ đạo quá trình đổi mới bộ máy Nhà nước, đổi mới phương thức sử dụng các công cụ quản lý kinh tế cho phù hợp với cơ chế mới. Chính vì vậy để thúc đẩy nhanh việc cơ cấu lại nền kinh tế theo mô hình kinh tế thị trường, Nhà nước cần phải xác định lại vai trò của mình, đối với và hoàn thiện hệ thống công cụ quản lý kinh tế. Đó chí là một trong những nội dung cơ bản đảm bảo cho sự thành công của đổi mới. Nhìn chung nhà nước ta bằng các công cụ quản lí vĩ mô của mình đã thực hiên nhiều chủ trương chính sách hợp lí, đúng thời cơ để đất nước ta đạt được nhiều thành tựu to lớn trong thời gian qua đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hôi chủ nghĩa của nước ta. III.MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG VAI TRÒ NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA: 1.Xác định mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế phù hợp với dặc điểm kinh tế nước ta hiện nay và bối cảnh Quốc tế: Bối cảnh kinh tế hiện nay đang đứng trước những diễn biến mới.Xu thế thương mại hoá toàn cầu cùng với xu thế hoà bình, ổn định, cải cách và chuyển dịch cơ cấu để phát triển... đang là sự lựa chọn của các quốc gia để tồn tại và phát triển. Cạnh tranh kinh tế quốc tế ngày càng ác liệt, toàn diện để tìm kiếm thị trường, nguồn nguyên liệu vốn đầu tư, khoa học công nghệ chất xám... Quá trình cạnh tranh trên thị trường quốc tế đang làm nảy sinh những yêu cầu mới về hợp tác đồng thời cũng gây ra những xung đột vì lợi ích dân tộc và khu vực trên thế giới. Bối cảnh đó tác động sâu sắc đến mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội nước ta tạo ra những cơ hội và những thách thức mới. Xuất phát từ tình hình thực hiện công cuộc đổi mới trong những năm qua, cũng như những cơ hội và thách thức trong giai đoạn mới để thực hiện được những mục tiêu chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội trong những năm tới ta cần phải: Phát huy những thành tựu đã đạt được, ra sức phấn đấu tranh thủ thời cơ, đầy lùi nguy cơ, đưa đất nước vào thời kì phát triển mới- thời kì công nghiệp hoá hiện đại hoá, tạo ra những cơ sở vật chất và nguồn lực cho bước phát triển nhanh và bền vững về kinh tế, chặn đứng, tiến tới đẩy lùi tiêu cực, bất công xã hội, xoá đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, củng cố quốc phòng an ninh, giữ vững ổn định kinh tế xã hội.Phấn đấu thực hiện vượt mức các mụ tiêu đã xác định đưa đất nước cơ bản thoát khỏi tình trạng nghèo và lạc hậu, tạo đà mạnh mẽ để phát triển nhanh và bền vững trong những năm tới đây. Để có cơ sở đề ra các chính sách đúng và chỉ đạo có hiệu quả cần tiếp tục cụ thể hoá mô hình phát triển kinh tế thị trường có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm thực hiện mục đích tăng trưởng cao và bền vững trên một số lĩnh vực: + Một là, quan hệ giữa các định hướng phát triển dựa vào việc xuất khẩu tài nguyên thô sơ hoặc sơ chế, dựa vào các nguồn lực bên trong, tự lực cánh sinh và thay thế nhập khẩu... với các yêu tố bên ngoài. + Hai là, quan hệ giữa tập trung vào những ngành và vùng trọng điểm đồng thời phát triển các vùng trong cả nước, trong giai đoạn phát triển trước mắt, cần ưu tiên ngành và vùng trọng điểm nhằm đạt hiệu quả đầu tư cao và thu hồi vốn nhanh. + Ba là, quan hệ giữa xây dựng các công trình quy mô lớn, quy mô vừa và nhỏ trong điều kiện tổng số vốn có hạn. + Bốn là, quan hệ giữa phát triển công nghệ tiên tiến và công nghệ trung gian, xử lí thoả đáng những vấn đề sở hữu trí tuệ, vai trò thông tin, quản li và chất xám trong nền kinh tế hiện đại. + Năm là, trong chiến lược phát triển ngành cần tập trung chú ý đến nông nghiệp trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá đất nước vì nó có vị trí rất quan trọng trong việc ổn định đời sông nhân dân. + Sáu là, đi đôi với việc xác định chiến lược lâu dài, Nhà nước cần phải xây dựng các chương trình kế hoạch cho từng thời kì. Nội dung kế hoạch và phương thức kế hoạch hoá của nhà nước trong mô hình kinh tế mới được tổ chức theo hướng: Kế hoạch hoá mang tính định hướng. Kế hoạch hoá không phải lá giao chỉ tiêu thực hiện mà còn là điều phối sự thực hiện theo dự án. Trên cơ sở một định hướng đúng đắn, Nhà nước điều tiết, thay đổi cơ cấu kinh tế cho phù hợp với thị trường thế giới. 2.Tăng trưởng kinh tế và điều kiện đảm bảo tăng trưởng cao bền vững: Trên cơ sở những mục tiêu chiến lược tổng quát trên, trong những năm trước mắt vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu để chống tụt hậu xa là đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định. Tăng trưởng kinh tế là việc tăng GDP bình quân theo đầu người. Hiện nay, ở nước ta, GDP bình quân đầu người so với các nước trong khu vực và trên thế giới rất thấp. Phải có một chiến lược tăng trưởng đúng đắn, đảm bảo tăng trưởng cao và ổn định trong một thời gian dài. Hiện nay bình quân GDP đầu người ở Việt Nam là khoảng 490 USD – Theo số liệu Liên Hợp Quốc thì Việt Nam vẫn là một trong những nước nghèo nhất thế giới. Vì vậy trong bước đầu tiên của quá trình tăng trưởng và phát triển phải đưa đất nước thoát ra khỏi đói nghèo. Để đạt được tốc độ cao trong thời gian dài ( 10% một nămg trong khoảng 15 – 20 năm ) như vậy là sẽ hết sức khó khăn. Song đó là con đường duy nhất để đưa đất nước tiến kịp các nước trong khu vực. Để thực hiện được nhiệm vụ này, trước hết Việt Nam phải có một chiến lược tăng trưởng năng động sáng tạo, hợp với điều kiện Việt Nam trong điều kiện phát triển sôi động của thế giới hiện nay. Vấn đề có ý nghĩa quyết định để có thể tăng trưởng kinh tế cao và ổn định là phải đảm bảo các điều kiện về giải quyết các mối liên hệ trong quá trình tăng trưởng. Là: - Về vốn muốn có tốc độ tăng trưởng cao trong điều kiện nước ta đòi hỏi phải có một nguồn vốn lớn. Để có nguồn vốn đó, dựa vào hai nguồn vốn trong nước và nước ngoài. Với vốn đầu tư trong nước, trước hết việc huy động vốn đầu tư phải gắn liền với chính sách thực hành tiết kiệm và sử dụng tiền tiết kiệm của dân cư và doanh nghiệp vào đầu tư. Chính sách tiết kiệm phải đảm bảo: Thứ nhất, huy động được lượng tiền tiết kiệm của dân cư đưa vào ngân hàng đầu tư phát triển. Muốn vậy phải phát triển thị trường vốn đa dạng. Hiện nay thị trường vốn nước ta còn rất yếu và thiếu, chưa đủ sức huy động vốn cho nền kinh tế, chưa sử dụng được nguồn vốn huy động được vào đầu tư. Để có thể huy động và sử dụng nguồn vốn vào đầu tư cần phải: đảm bảo lãi suất tiền gửi phải cao hơn tỷ lệ lạm phát; phát hành công trái phải huy động vốn; phát triển công ty cổ phần và thị trường chứng khoán. Thứ hai, tạo môi trường đầu tư thuận lợi để thu hút vốn đầu tư trong nước. Đặc biệt quan trọng là phải tạo được tâm lý tin tưởng đầu tư của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh trên vì thực tế số vốn đầu tư của tư nhân trong nước vào nền kinh tế còn quá thấp so với thực lực của họ; hơn nữa số vốn đầu tư đó lại chủ yếu đầu tư vào thương mại, còn vào lĩnh vực sản xuất trực tiếp rất ít. Thứ ba, tăng cường các biện pháp kinh tế vĩ mô để kiềm chế lạm phát, đảm bảo thu hút được tiền tiết kiệm gắn hạn và dài hạn. Vấn đề kiềm chế lạm phát để thu hút nguồn vốn tiết kiết vào ngân hàng do đó là vấn đề phải được thường xuyên quan tâm. Thứ tư, thực hiện việc thương mại hoá mọi nguồn vốn từ xây dựng nhà ở cho cán bộ, công nhân viên chức đến vốn cấp phát và đầu tư xây dựng cơ bản, thống nhất lãi suất đối với các loại vốn cho vay. Với vốn vay của nước ngoài để khuyến khích đầu tư vào Việt Nam cần: Thứ nhất, kết hợp chặt chẽ các hình thức đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp khi xây dựng các dự án để thu hút vốn nước ngoài. Thứ hai, đối với vốn đầu tư trực tiếp FDI cần hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách và cải tiến quản lý nhà nước để thu hút vốn FDI nhưu có luật thương mại, kinh doanh bất động sản, khai khoáng, ... Thứ ba, cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài cho phù hợp với thông lệ quốc tế đồng thời đảm bảo thủ tục gọn nhẹ Thứ tư, tăng cường xây dựng các cồng trình kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội nhằm tăng sức hấp dẫn và tạo môi trường đầu tư thuận lợi. Thứ năm, cần phải có một cơ quan nhà nước về quản lý nợ nước ngoài để tư vấn cho việc huy động, quản lý, sử dụng và trả nợ nước ngoài để tránh tình trạng nợ nần chồng chất. - Về công nghệ: Công nghệ đóng góp một phần quan trọng trong tăng trưởng kinh tế. Công nghệ ở nước ta hiện còn rất lạc hậu, việc đổi mới thiết bị chiếm tỷ trọng thấp, không đồng bộ, hiệu suất sử dụng thấp. Do đó việc đổi mới công nghệ đang là vấn đề cấp bách đặt ra ở nước ta. Là một nước đi sau, chúng ta có thuận lợi là có thể sử dụng công nghệ nước ngoài. Tuy nhiên để có chính sách đúng đắn trong chuyển giao công nghệ, chúng ta cần quán triệt các nguyên tắc sau: Một là, phải đảm bảo nâng cao hiệu quả kinh tế, nâng cao trình độ kỹ thuật và công nghệ của đất nước, rút ngắn khoảng cách lạc hậu giữa nước ta với các nước. Phải gắn chặt quá trình chuyển giao công nghệ, quá trình phát triển khoa học kỹ thuật với sản xuất, kinh doanh. Hai là, thực hiện chuyển giao công nghệ đối với mọi thảnh phần kinh tế, đảm bảo có được những công nghệ vừa tiên tiến lại phù hợp với yêu cầu trình độ phát triển của các doanh nghiệp trong nền kinh tế quốc dân. Ba là, chuyển giao công nghệ phải gắn với bảo vệ môi trường, tránh nhập những công nghệ lạc hậu, vừa gây ô nhiễm môi trường sinh thái, vừa gây tổn thất cho ngân sách nhà nước. Bốn là, quá trình chuyển giao công nghệ phải được Nhà nước quản lý chặt chẽ. - Về lao động: Trong mọi kiểu tăng trưởng, lao động luôn là nhân tố quyết định. Chính lao động tạo ra công nghệ và tạo ra vốn. Vì vậy, cần phải quan tâm phát triển nguồn nhân lực. - Ở nước ta, nguồn nhân lực rất dồi dào. Hiện nay cả nước có 32.718.000 lao động, tuy nhiên trình độ của lao động còn thấp đặc biệt đội ngũ công nhân kỹ thuật còn chiếm tỷ lệ thấp. Vì vậy về mặt này để đảm bảo tăng trưởng nhanh, ổn định cần phải: Một là, đảm bảo cho lao động có việc làm. Vấn đề này đang gây sức ép rất lớn cho nền kinh tế của nước ta. Đòi hỏi Nhà nước phải đẩy mạnh chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, tạo môi trường để mọi thành phần kinh tế yên tâm đầu tư, tạo ra chỗ làm việc, thu hút lao động nhàn rỗi trong xã hội để tăng trưởng. Hai là, tăng cường đầu tư cho giáo dục, đào tạo đặc biệt là đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Ba là, cần phải nâng cao kỷ luật lao động trong công nhân; truyền thống và tinh thần quyết tâm lao động sản xuất để đưa đất nước thoát khỏi nghèo phải được thấm sâu vào từng người dân, từng người lao động. + Giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát: Giữa tăng trưởng và lạm phát, thất nghiệp có mối quan hệ nhất định.Nếu xử lí mối quan hệ này thiếu khoa học sẽ dẫn đến rối loạn kinh tế xã hội, quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát rất phức tạp, hữu cơ gắn bó. Đối với nước ta, nếu muốn đạt tốc độ tăng trưởng 10%/năm thì tốc độ lạm phát là bao nhiêu là vấn đề đang được tranh luận.Và ý kiên đáng chú ý nhất hiện nay là để có thể cất cánh được nên kinh tế Việt Nam trong những năm tới có thể cho phép duy trì tốc độ lạm pháp cao hơn tăng trưởng khoảng 1,2- 1,5 lần, sau đó khi nền kinh tế dần đi vào ổn định vận hành theo quy luật thì giảm tốc độ lam phát xuống tương ứng với mức độ tăng trưởng kinh tế. + Giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng và dân số: Vấn đề giảm tốc độ tăng dân số là nhân tố để giảm bình quân đầu người là vấn đề trọng tâm của toàn xã hội, cần có chính sách giải quyết kiên quyết.Liên quan đến giải pháp này có cả giải pháp giáo dục và giải pháp kinh tế. Cần đặc biệt tăng cường vai trò nhà nước trong việc sử dụng các chính sách thu nhập, bảo hiểm và các chính sách xã hội khác. + Giải quyết vấn đề tăng trưởng và vấn đề môi trường: Kinh nghiệm các nước trên thế giới và tronh khu vực chỉ rõ nếu không giải quyết tốt mối quan hệ này thì sẽ có nguy cơ đối với tăng trưởng kinh tế. Nước ta trong những năm gần đây tình trạng ô nhiễm môi trường đang là vấn đề đáng lo ngại.Điều đó là do, mật độ dân số tăng nhanh, mặt khác sự phát triển của các ngành kinh tế công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, giao thông vận tải, dịch vụ du lịch,... đã làm cho môi trường sinh thái nhất là khu vực công nghiệp và các đô thị lớn đang bị ô nhiệm. Tình trạng tàn phá rừng đầu nguồn, ô nhiễm nguồn nước, xối mòn đất, vẩn đục bầu không khí đang là mối lo ngại đối với nền kinh tế.Vì vậy trong quá trình tăng trưởng kinh tế cần thiết phải có những giải pháp bảo vệ môi trường. Điều này đòi hỏi Nhà nước phải có một quy hoạch một kế hoạch tổng thể để quản lí tài nguyên, môi trường, phải có trương trình giáo dục phổ cập về tài nguyên môi trường và phát tiển. + Giải quyết quan hệ tăng trưởng và phân phối thu nhập: Tăng trưởng tạo nguồn vật chất cho phân phối thu nhập. Song chính phân phối thu nhập công bằng lại tạo ra động lực thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường sự khác nhau về sở hữu của cải, về năng lực sở trường, trình độ tay nghề và sự may mắn dân tới sự khác nhau thu nhập là tất yếu. Nhà nước cần phải lựa chọn phương án phân phối như thế nào để cho các hoạt động kinh tế vừa có hiệu quả vừa hạn chế được sự bất bình đẳng. Muốn vậy nhà nước không chỉ cần phải phân bố nguồn lực đầu vào mà cần phải có một chính sách phân phối thu nhập đúng đắn, cần phỉa chú ý tới chương trình việc làm, thuế thu nhập, hệ thống bảo hiểm và bảo trợ xã hội. Phân phối thu nhập ở nước ta được tiến hành theo quan điểm: thực hiện nhiều hình thức phân phối trong đó phân phối theo lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp của các nguồn lực khác vào kết quả sản xuất kinh doanh, phân phối thông qua phúc lợi xã hội đi đôi với chính sách điều tiết hợp lí và bảo vệ nguồn lợi của người lao động. - Giải quyết hiện tăng trưởng và thị trường: Tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện vật chất để mở rộng thị trường. Ngược lại sự phát triển thị trừơng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Vấn đề đặt ra là phải phát triển đồng bộ và hoàn chỉnh bao gồm cả thị rường tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng, thị trường sức lao động,đất đai, thị trường vốn, thị trường trong nước và thị trường nước ngoài, thị trường ở khu vực đô thị, khu công nghiệp và thị trường nông thôn, vùng biên giới hải đảo, vùng sâu vùng xa. đồng thời giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc quyền với cạnh tranh, tự do kinh tế và bảo hộ mậu dịch. 3. Đổi mới cơ chế quản lí và sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước: - Để đạt được tốc độ tăng trưởng cao và lâu bền trong điều kiện kinh tế tư nhân ở nước ta còn rất nhỏ bé, biện pháp quan trọng của nhà nước là phải đổi mới mạnh mẽ cơ chế quản lí và sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước. Kinh tế quốc doanh có vị trí quan trọng trong nền kinh tế với hai tư cách: Một là, cung cấp cơ sở hạ tầng, giao thông, thông tin liên lạc và các dịch vụ công cộng khác. Hai là, đảm nhận vai trò mở đường bằng việc thành lập các doanh nghiệp thuộc các ngành mũi nhọn mà vì nhiều lí do tư nhân chưa sẵn sàng đầu tư. - Việc tổ chức lại doanh nghiệp nhà nước, trước hết cần dựa trên hai tiêu thức cơ bản là: tính chiến lược và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Trên cơ sở đó xác định hiệu quả sản xuất các ngành, các lĩnh vực doanh nghiệp nhà nước cần tập trung vốn đầu tư phát triển, tiến hành cơ cấu lại và cổ phần hoá với các mức độ và phương thức khác nhau. Tiến hành giải thể các doanh nghiệp nhà nước làm ăn kém hiệu quả, thua lỗ đi đôi với thực hiện cổ phần hoá một số doanh nghiệp nhà nước hoạt động có hiệu quả để giảm chi và tăng thu cho ngân sách nhà nước. Nhà nước cần tập trung nguồn lực phát triển những ngành, những lĩnh vực trọng yếu như kết cấu hạ tầng, hệ thống tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, những cơ sở sản xuất và thương mại dịch vụ có quan hệ đến quốc phòng, an ninh có quy mô nói chung thuộc loại vừa và lớn, công nghệ tiên tiến, kinh doanh có hiệu quả. - Về cơ chế quản lí và chính sách trước hết xác định cá c quyền đại diện sở hữu hợp pháp và địa vị pháp lí của doanh nghiệp nhà nước, la, rõ quan hệ giữa doanh nghiệp với nhà nước, giữa doanh nghiệp và các đối tác kinh doanh.Nhà nước thực hiện trao quyền tự chủ rộng rãi cho cá doanh nghiệp nhà nước, đồng thời hạn chế tối đa tình trạng độc quyền. Nhà nước thực hiện tốt các chức năng quản lí ví mô đối với doanh nghiệp, bằng cách:Tạo môi trường và điều kiện cho hoạt động sản xuất kinh doanh; hướng dẫn và hỗ trợ doanh nghiệp phát triển thông qua kế hoạch và chính sách kinh tế; hoạch định và thực hiện các chính sách xã hội, bảo đảm sự thống nhất giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội; quản lí và kiểm soát việc sử dụng tài sản quóc gia nhằm bảo tồn và phát triển các tài sản đó. - Tổ chức lại cơ cấu quản lí nội bộ doanh nghiệp nhà nước. Cải cách doanh nghiệp là một quá trình, phải thực hiện từng bước, bước trước chuẩn bị cho bước sau và được tiến hành đồng bộ với việc giải quyết với các vấn đề xã hội tạo môi trường cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong quá trình đổi mới doanh nghiệp nhà nước cần tránh hai khuyng hương sau: + Quan niệm vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nớc một cách máy móc, muốn duy trì và phát triển doanh mghiệp nhà nước một cách tràn lan không tính đến hiệu quả. + Coi hình thức sở hữu là nhân tố chủ yếu hoặc duy nhất quyết định hiệu quả của mọi loạ kinh doanh; cho kinh tế tư nhân mới có hiệu quả nên cần tư nhân hoá nhanh các doanh nghiệp nhà nước. 4. Xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh đồng bộ: Tiếp tục rà soát, sửa đổi bổ sung và xây dựng mới các văn bản pháp luật cho phu hợp với thực tế, đáp ứng yêu cầu công cuộc đổi mới. Phấn đấu trong vài năm tới có đủ các đạo luật để điều chỉnh các hoạt động kinh tế và quản lí kinh tế, vè quản lí hành chính nhà nước. Yêu cầu quan trọng đầu tiên của văn bản pháp luật là phải thể chế hoá đúng theo đừơng lối quan điểm của Đảng, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa.Các chế định pháp luật phải phù hợp yêu cầu thực tế của cuộc sống, phải dựa trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm thực tiễn Việt Nam. Hệ thống pháp luật cần được bổ sung và hoàn thiện trên các lĩnh vực sau: Trong việc sử dụng, chuyển nhượng, cho thuê đất, thị trường bất động sản, thị trương vốn, thị trường chứng khoán,; mua bán các giấy tờ có giá ; công ty tài chính, chế độ kế toán, kiểm toán và báo cáo tài chính công khai bắt buộc Bổ sung điều chỉnh bộ luật thuế tránh chồng chéo, phân tán theo hướng mở rộng diện thu thué nhưng giảm mức thu nhằm khuyến khích tính tichs cực, tự giác đóng của người sản suất kinh doanh. Khuyến khích đầu tư trong nước nhất là khu vực sản xuất nhỏ rộng lớn; sửa đổi bổ sung luật công ty và luật doanh nghiệp tư nhân, luật kiểm soát độc quyền và cạnh tranh. Xây dựng bộ luật thương mại, luật ngân sách, luật hành chính nhà nước, các hiệp định đa phương và song phương, bảo vệ lựi ích của đất nước và doanh nhân Việt Nam trong quan hệ hợp tác quốc tế. Nâng cao hiệu lực thi hành pháp luật, hoàn thiện hệ thống các cơ quan thi hành pháp luật, xây dựng nhà nước pháp quyền và quản lí kinh tế bằng pháp luật. Xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm cá nhân, nhất là những người lãnh đạo chủ chốt trong mỗi cơ quan tổ chức đối với việc thực hiện pháp luật trong phạm vi cơ quan tổ chức của mình. 5. Cải cách hành chính gắn liền với đổi mới kinh tế: Đây là nhân tố quyết định đảm bảo kinh té tăng trưởng nhanh ổn định và bền vững ở nước ta. Nhà nước muốn phát huy thành công vai trò của mình trong phát triển kinh tế cần có những điều kiện nhất định, trong đó then chốt là phải có hệ thống hành chính hành động có hiệu quả, có đủ năng lực để chế định và thực hiện chính sách trên cơ sở những chính sách khoa học. Cải cách hành chính nhằm tổ chức lại cơ bản nền hành chính nhà nước phù hợp cới nền kinh tế thị trường và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đòi hổi phải tiến hành đồng bộ trên các mặt: cải cách thể chế hành chính, tổ chức bộ máy , xây dựng đào tạo đội ngũ công chức hành chính, cải cách thủ tục hành chính. Cải cách hành chính phải kết hợp chặt chẽ với quá trình đổi mới hoạt động lập pháp, cải cách tư pháp và có quan hệ mật thiết với đổi mới hoạt động của hệ thống chính trị hoàn thiên cơ chế: Đảng lãnh đạo- Nhân dân làm chủ- Nhà nước quản lí. Cải cách thể chế hành chính: tập trung vào việc rà soát, xây dựng hoàn thiện thể chế để quản lí xã hội theo pháp luật phục vụ lợi ích của nhân dân, đề cao nghĩa vụ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời đảm bảo cho thể chế quản lí phù hợp với sự chuyển đổi của nền kinh tế theo cơ chế thị trường, tạo sự thích ứng rong quan hệ đối ngoại, phù hợp với luật pháp, tập quán và thông lệ quóc tế. Về tổ chức bộ máy: chấn chỉnh cơ cấu tổ chức, quy chế hoạt động, vận hành bộ máy hành chính các cấp. Định rõ thứ bậc và mối quan hệ thứ bậc trong bộ máy hành chnhs. vận dụng đúng nguyên tắc tập trung dân chủ phù hợp với đặc điểm hệ thống hành chính, gắn với nguyên tắc kết hợp quản kí theo ngành và theo lãnh thổ nhằm đảm bảo sự điều hành tập trung thống nhất kỉ luật cao từ Chính phủ đến chính quyền địa phương, cơ cở; đồng thời phát huy tính chủ động, năng động của địa phương cơ sở. - Về đội ngũ công chức hành chính: sớm xây dựng chế độ công vụ nhằm quản lí và phát triển nguồn nhân lực thuộc bộ máy nhà nước. Chế độ công vụ mới phải bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân để mọi người dân có đủ điều kiên, cơ hội được tuyển vao làm việc trong cơ quan nhà nước; quy định trách nhiệm quyền hạn nghĩa vụ và quyền lợi của công chức; xây dựng và từng bước thực hiện tiêu chuẩn hoá công chức, nhằm phát triển và sử dụng nhân tài vào khu vực nhà nước.Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ năng lực, phẩm chất và tận tuỵ đáp ứng nhu cầu nhiệm vụ đặt ra, đồng thời trả lương tương xứng cho công chức. Tóm lại, chiến lược cải cách hành chính phải lấy sự phát triển liên tục tốc độ cao của kinh tế làm định hương chiến lược và mục tiêu. Việc thực hiện cải cách hành chính nâng cao hiệu lực, hiệu quả nền hành chính quốc gia phải được xem là nhân tố quyết định cho sự tăng trưởng kinh tế. C. KẾT LUẬN CHUNG: Trong thời đại ngày nay, Nhà nước nào cũng đều có vai trò nhất định trong sự phát triển của đất nước nối chung và phát triển kinh tế nối riêng. Vai trò kinh tế của Nhà nước được thể hiện ở việc nhà nước sử dụng các công cụ kinh tế vĩ mô để điều tiết nền kinh tế. Sau những năm thực hiện đường lối đổi mới, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tê- xã hội. Tuy nhiên nền kinh tế vẫn còn nhiều khó khăn, yếu kém, đặc biệt là nước ta chưa thoát khỏi một nước nghèo. Để vượt qua được bước đường đó, trước mắt chúng ta có không ít những thách thức lớn, trong đó nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực là thách thức to lớn và gay gắt. Đồng thời chúng ta cũng có những cơ hội mới để phát triển. Vấn đề đặt ra là phải chủ động nắm thời cơ kiên quyết đẩy lùi và khắc phục các nguy cơ nhằm vươn lên phát triển nhanh, vững chắc và đúng hướng. Điều đó đòi hỏi phải nâng cao vai trò quản lí kinh tế của nhà nước nhằm thực hiện tốt hơn nữa chức năng định hướng và chỉ đạo sự phát triển, dẫn dắt nỗ lực phát triển, tao khuôn khổ pháp luật thống nhất, môi trường ổn định, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường...đáp ứng yêu cầu tăng trưởng nhanh, ổn định vững chắc và cân bằng xã hội. Đặc biệt là phải định hướng nền kinh tế thị trường theo con đường xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy nhà nước ta có vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội, đưa nền kinh tế đất nước hoà nhập thế giới ma không chệch hướng luôn vững bước trên con đường xã hội chủ nghĩa. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Cơ chế thị trường và vai trò Nhà nước trong nền kinh tế Việt Nam - NXB thống kê Hà Nội 1994 2. Vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường - NXB chính trị Quốc Gia - 1996 3. Văn kiện Đại hội Đảng IX 4. Giáo trình kinh tế chính trị Mác - Lênin 5. Kinh tế học đại cương 6. Kinh tế học của P. Samuellson - tập 1 7. Tạp chí kinh tế phát triển 8. Kinh tế xã hội chủ ngiã Việt Nam - thực trạng xu thế và giải pháp 9. Kinh tế Việt Nam đổi mới những phân tích và đánh giá quan trọng 10. Một số vấn đề kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docVai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.DOC