Luật biển quốc tế là một nghành luật của Luật quốc tế, Luật biển hình thành và phát triển dựa trên các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế: bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia; cấm sử dụng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực; giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình; không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; tôn trọng quyền dân tộc tự quyết. Tuy nhiên, biển có những đặc thù rất riêng vì thế Luật biển cũng có những nguyên tắc riêng của nó: nguyên tắc tự do biển cả; nguyên tắc đất thống trị biển; nguyên tắc công bằng; nguyên tắc di sản chung của loài người. Mỗi nguyên tắc có một vai trò quan trọng nhất định Trong giới hạn nội dung của đề tài này, chúng tôi chỉ đi sâu phân tích vai trò của hai nguyên tắc cơ bản và quan trọng của Luật biển quốc tế đó là: nguyên tắc tự do biển cả và nguyên tắc đất thống trị biển.Bởi việc thiết lập hai nguyên tắc này đã mở ra một thời đại mới trong mối quan hệ quốc tế: ngoài việc giúp cho sự thông thương giữa các quốc gia, việc khai thác, nghiên cứu, sử dụng những nguồn lợi tài nguyên vô giá của biển được thực hiện một cách dễ dàng thuận tiện, hai nguyên tắc này còn góp phần gắn chặt mối quan hệ giữa các nước thông qua nguyên tắc “tự do biển cả” và mở rộng chủ quyền quốc gia ra hướng biển, đem lại những sức mạnh to lớn về nhiều mặt cho các quốc gia thông qua nguyên tắc “đất thống trị biển”.Chính những điều đó đã góp phần không nhỏ trong sự phát triển loài người.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
¯
1. Giáo trình Luật Quốc tế của Trường Đại học Luật Hà Nội
2. Một số vấn đề lí luận cơ bản về Luật quốc tế cùa Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật-NXB Chính trị quốc gia Hà Nội năm 1994
3. Công ước của Liên Hiệp Quốc về luật biển năm 1982
4. Tạp chí khoa học Đại Học Quốc Gia Hà Nội ,Luật học 25(2009).tr 33-40.
5. T.S Trần Văn Thắng, Th.S Lê Mai Anh; Luật Quốc tế - Lý luận và thực tiễn; NXB GD
6. Bài viết về Vị trí chiến lược, vấn đề biển và Luật biển ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương
7. Bài viết của Lê Hùng Phong
50 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 9951 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Vai trò nguyên tắc tự do biển cả và đất thống trị biển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o đặt dây cáp và ống dẫn ngầm
Các quốc gia được quyền tự do đặt dây cáp, ống dẫn ngầm trong vùng biển cả. Quyền này được hiểu rộng hơn, là bao gồm cả việc bảo vệ và nghiêm cấm phá hoại dây cáp và ống dẫn ngầm được đặt dưới biển.Quốc gia đặt dây cáp và ống dẫn ngầm có nghĩa vụ phải đặc biệt quan tâm đến tình trạng của chúng đã được xây dựng ở dưới đáy biển, không được gây cản trở cho quá trình sửa chữa các dây cáp và ống dẫn ngầm hiện có.
*Tự do đánh bắt hải sản
Quyền tự do đánh bắt hải sản được quy định tại điều 116 Công ước Luật Biển 1982
“Tất cả các quốc gia đều có quyền cho công dân của mình đánh bắt ở biển cả” và với những điều kiện nhất định được nêu trong Công ước như: Tuân theo các nghĩa vụ ghi trong công ước; Tôn trọng các quyền và nghĩa vụ cũng như các lợi ích của các quốc gia ven biển như đã được trù định, đặc biệt là trong Điều 63, khoản 2 và trong các Điều từ 64 đến 67…
Như vậy các quốc gia đều được tự do đánh bắt cá trên biển cả nhưng có nghĩa vụ tôn trọng các quyền và nghĩa vụ cũng như lợi ích của các quốc gia ven biển; áp dụng các biện pháp để bảo tồn tài nguyên sinh vật của biển cả; hợp tác quốc tế trong việc bảo tồn và quản lý tài nguyên sinh vật.
* Tự do xây dựng các đảo nhân tạo và các thiết bị khác và quyền tự do nghiên cứu khoa học.
Theo quy định của nguyên tắc luật biển 1982, các quốc gia có biển cũng như không có biển đều có quyền tự do nghiên cứu khoa học, tự do xây dựng các đảo nhân tạo và các thiết bị khác được luật quốc tế cho phép. Tuy nhiên, do việc vùng đặc quyền kinh tế được thành lập với chiều rộng 200 hải lý tình từ đường cơ sở và quyền của quốc gia ven biển trong thềm lục địa có chiều rộng tối thiểu là 200 hải lí và tối đa là 350 hải lí hoặc 100 hải lí tình từ đường đẳng sâu 2500m, theo đó tồn tại chế độ cho phép quốc gia ven biển có quyền chủ quyền trong việc xây dựng thiết bị, đảo nhân tạo và nghiên cứu khoa học nên đã hạn chế phần lớn phạm vi không gian của hai quyền tự do bổ sung này.
¯ Vùng
Theo Điều 1 Công ước 1982 “vùng” (zone) là đáy biển và lòng đất dưới đáy biển nằm ngoài giới hạn thẩm quyền tài phán quốc gia”.Như vậy có thể hiểu vùng là toàn bộ đáy biển và lòng đất dưới đáy biển nằm bên ngoài ranh giới phía ngoài thềm lục địa của tất cả các quốc gia.
Vùng và tài nguyên của nó là di sản chung của nhân loại (Điều 136 Công ước)
Nguyên tắc tự do biển cả một mặt đặt cơ sở để thiết lập trên Vùng quyền sở hữu quốc tế và loại bỏ sự chiếm hữu bất hợp pháp của một quốc gia đối với biển cả, mặt khác, xác định cơ chế kiểm soát quốc tế đối với việc khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên trên biển cả và vùng, nhằm hạn chế tình trạng sử dụng bừa bãi nguồn tài nguyên, ảnh hưởng tới môi trường biển.
Vùng không thuộc sự chiếm hữu của bất kỳ quốc gia nào; tất cả các quốc gia được phép sử dụng vùng vì mục đích hoà bình; tất cả các quốc gia được quyền sử dụng,quản lý, khai thác một cách công bằng trên vùng. Quản lý vùng có Cơ quan quyền lực đáy đại dương có trụ sở tại Jamaica, tổ chức điều hành của cơ quan gồm Hội nghị các nước thành viên và Hội đồng gồm 36 thành viên, trong đó 18 thành viên được phân bổ theo tiêu chuẩn địa lý (như hội đồng bảo an) và 18 thành viên được phân chia gồm 4 nước xuất khẩu nhiều nhất về quặng được khai thác; 4 nước sản xuất nhiều nhất; 4 nước nhập khẩu nhiều nhất; 6 nước còn lại đại diện cho các quyền lợi khác (Điều 161 Công ước).Dưới cơ quan quyền lực đáy đại dương có các xí nghiệp.
Đối với các vùng biển đặc thù:
¯Vùng nước quần đảo.
Vùng nước quần đảo là khái niệm gắn liền với quốc gia quần đảo. Quốc gia quẩn đảo là một quốc gia hoàn toàn được cấu thành bởi một hay nhiều đảo hoặc có khi bởi một số hòn đảo khác. Quần đảo được hiểu là một tổng thể các đảo, bao gồm cả các bộ phận của các đảo, các vùng nước tiếp liền và các thành phần tự nhiên khác có mối liên quan gắn bó chặt chẽ với nhau đến mức tạo thành một thể thống nhất về địa lý, chính trị, kinh tế hay được coi như vậy về mặt lịch sử. ( Điều 46- Công ước).
Vùng nước quần đảo là vùng biển nằm bên trong của đường cơ sở quần đảo, dùng để tính chiều rộng lãnh hải và do quốc gia quần đảo ấn định. Muốn xác định được vùng nước quần đảo cần phải vạch được đường cơ sở quần đảo. Các điều kiện để vạch được đường cơ sở quần đảo quy định tại điều 47 – Công ước.
Vai trò của nguyên tắc tự do biển cả ảnh hưởng đối với vùng này được thể hiện qua các quy chế phá lý như:
- Các quốc gia láng giềng có quyền đánh bắt hải sản truyền thống cũng như các hoạt động chính đáng trong một số khu vực thuộc vùng nước quần đảo của quốc gia quần đảo, quốc gia quần đảo có nghĩa vụ tôn trọng các điều ước quốc tế hiện hành đã được kí kết với các quốc gia khác và thừa nhận (Xem điều 51 Công ước)
-Các quốc gia khác có quyền đặt các dây cáp ngầm và đi qua các vùng nước quần đảo của quốc gia quần đảo mà không đụng chạm đến bờ biển của quốc gia quần đảo ( xem Điều 51 Công ước)
-Tàu thuyền của quốc gia khác đều được hưởng quyền đi qua vô hại vùng nước quần đảo, cũng như quyền quá cảnh theo hành lang hàng hải tại vùng nước này.( xem Điều 52 Công ước)
Theo điều 53 Công ước 1982, quốc gia quần đảo phải xác định các hành lang hàng hải đảm bảo việc đi qua của tàu thuyền nước ngoài một cách liên tục và nhanh chóng, không gặp trở ngại gì trong vùng nước quần đảo của mình. Nếu quốc gia quần đảo không xác lập các hành lang như vậy thì tàu thuyền có thể đi qua vùng nước quần đảo theo các lộ trình hàng hải đã được sử dụng thường xuyên trong lưu thông hàng hải quốc tế. Quyền quá cảnh có nội dung rộng hơn so với quyền đi qua vô hại, cụ thể quyền quá cảnh không thể bị đình chỉ, tàu ngầm quân sự có thể đi qua ở tư thế chìm và phương tiện bay quan sự cũng như dân sự đều có thể sử dụng quyền này, có quyền bay qua vùng trời trên vùng nước quần đảo.
¯Eo biển quốc tế
Eo biển theo nghĩa thông thường là đường nối các vùng biển rộng lớn với nhau và có tính chất tự nhiên, không do con người tạo ra và có đặc điểm chung là tương đối hẹp. Eo biển dùng cho hàng hải quốc tế được hiểu là eo biển nằm giữa một bộ phận của biển cả hoặc một vùng đặc quyền kinh tế và một bộ phận khác của biển cả hoặc một vùng đặc quyền kinh tế ( Điều 37 Công ước).
Nguyên tắc tự do biển cả có tác động và ảnh hưởng đến quy chế pháp lý của các eo biển, đặc biệt là các eo biển nối liền biển cả hoặc vùng đặc quyền kinh tế với nhau và được sử dụng cho hàng hải quốc tế, ví dụ như eo biển Gibralta, các eo biển Đan Mạch, eo biển Thổ Nhĩ Kỳ,..
Tại các eo biển này áp dụng nguyên tắc quyền quá cảnh. Tàu thuyền và phương tiện bay của các quốc gia được hưởng quyền tự do hàng hải và tự do hàng không với điều kiện đi qua phải liên tục, nhanh chóng qua eo biển. Yêu cầu quá cảnh liên tục và nhanh chóng không ngăn cản việc đi qua eo biển để đến lãnh thổ của một quốc gia ven biển hoặc để rời khỏi lãnh thổ đó, theo các điều kiện cho phép của quốc gia này.
Quyền quá cảnh này được áp dụng cho cả tàu thuyền và phương tiện bay.
Các phương tiện bay được hưởng quyền tự do bay cao hơn so với quyền tự do hàng hải của tàu thuyền, cụ thể các phương tiện bay thực hiện quyền tự do bay không phải theo các hành lang bay quy định như trong trường hợp của tàu thuyền phải tôn trọng các tuyến đường hàng hải và hệ thống phân chia luồng giao thông do các quốc gia ven eo biển xác lập phù hợp với các quy định quốc tế đã đươc công nhận chung.
Đánh giá vai trò cùa nguyên tắc tự do biển cả:
Nguyên tắc tự do biển cả là nguyên tắc pháp lý của Luật biển quốc tế, có giá trị chi phối nhiều quy phạm của luật này Nói cách khác nguyên tắc này là cơ sở pháp lý để thiết lập chế độ pháp lý các vùng của các vùng biển và duy trì trên đó họat động của các đối tượng tham gia sử dụng biển. Điều này có nghĩa rằng, tự do biển cả với những nội dung nêu trên không chỉ tồn tại duy nhất ở vùng biển cả, mà nó còn có vai trò ảnh hưởng đối với những vùng biển thuộc chủ quyền và các vùng thuộc quyền chủ quyền quốc gia. Tự do biển cả không có nghĩa là tự do một cách tuyệt đối, mà tự do phải phù hợp với định chế của Công ước Liên hợp quốc (LHQ) về Luật biển năm 1982 (sau đây gọi là Công ước năm 1982) và các quy phạm khác của Luật quốc tế.
Tự do hợp tác trong khai thác và sử dụng biển cả một cách hợp lý, vì mỗi quốc gia là một thành viên của cộng đồng quốc tế nên quyền tự do biển cả cần tính đến sự hài hoà về lợi ích giữa các quốc gia. Nguyên tắc tự do biển cả (Điều 87) là quy phạm có tính chất mệnh lệnh của Luật biển quốc tế nên các quốc gia không thể tự thoả thuận với nhau để thay đổi nó.Đây là nguyên tắc vô cùng quan trọng, trực tiếp giải quyết một vấn đề có tính toàn cầu đó là nhân loại cùng nghiên cứu và sử dụng đại dương phục vụ lợi ích cộng đồng.
Vấn đề này xuất phát từ lý luận truyền thống: Biền là không gian mở đối với các quốc gia, theo đó, việc thiết lập các vùng biển có quy chế pháp lý khác nhau không có nghĩa là tạo ra sự chia cắt hoàn toàn độc lập giữa những khoảng không gian này với nhau, dự a theo các nhóm lợi ích đối lập.Vì vậy, vận dụng nguyên tắc tự do biển cả để thiết lập trật tự pháp lý trên biển phải đảm bảo đựơc hai vấn đề:
- Thứ nhất là đảm bảo duy trì quyền tự do cơ bản và truyền thống của cộng đồng quốc tế trong sử dụng biển;
- Thứ hai là đảm bảo sự bình đẳng giữa các quốc gia trong hưởng lợi ích và sử dụng biển vì mục đích hòa bình.
Nguyên tắc tự do biển cả một mặt hạn chế xu thế mở rộng thái quá chủ quyền của các nước ven biển lấn át biển công, mặt khác, duy trì quyền lợi vốn có của các quốc gia, không chỉ biển cả mà còn trên cả các vùng biển mà về pháp lý thuộc chủ quyền và quyền tài phán của mỗi quốc gia.
Nguyên tắc tự do biển cả luôn được coi là nền tảng mang tính xuất phát điểm cho sự hình thành và phát triển các quy phạm của Luật biển quốc tế.
Nguyên tắc đất thống trị biển:
2.1. Vai trò của nguyên tắc đất thống trị biển:
Nguyên tắc đất thống trị biển thể hiện trong quy chế pháp lý của các vùng biển. Trong các vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia, các vùng biển thuộc quyền chủ quyền của quốc gia, mức độ ảnh hưởng của nguyên tắc đất thống trị biển đối với việc hình thành quy chế pháp lý là khác nhau.
4a. Đối với các vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia:. 5
¯Nội thủy
Ảnh hưởng của nguyên tắc đất thống trị biển đối với quy chế pháp lý vùng nội thủy:
Thứ nhất: quốc gia ven biển chủ quyền toàn vẹn, đầy đủ và tuyệt đối
Vùng nội thủy về mặt pháp lý đã nhất thể hóa với lãnh thổ đất liền nên có chế độ pháp lý đất liền, nghĩa là đặt dưới chủ quyền toàn vẹn, đầy đủ và tuyệt đối của quốc gia ven biển. Tàu thuyền nước ngoài muốn vào ra nội thủy phải xin phép nước ven biển và phải tuân theo luật lệ của nước đó. Nước ven biển có quyền không cho phép. Trong trường hợp xét thấy cần thiết cho lợi ích an ninh của mình, quốc gia ven biển có quyền tuyên bố đóng một vài cảng hoặc tất cả các cảng đã mở cho tàu bè nước ngoài trong một thời gian, tuyên bố vùng nội thủy bất kỳ là vùng cấm đối với tàu thuyền nước ngoài.
Theo Công ước về luật biển năm 1982, tàu thuyền nước ngoài có thể vào vùng nội thủy của quốc gia ven biển mà không cần xin phép trong các trường hợp bị thiên tai hoặc tai nạn gây nguy hiểm cho phương tiện và tính mạng con người trên tàu. Điều này không vi phạm nguyên tắc đất thống trị biển, dựa trên cơ sở nguyên tắc có đi có lại, đáp dứng lợi ích phát triển hợp tác quốc tế và phù hợp chuẩn mực nhân đạo quốc tế.
Thứ hai: quốc gia ven biển thực hiện quyền tài phán
Đối với tàu quân sự và tàu nhà nước phi thương mại: quốc gia ven biển không có quyền tài phán về dân sự, hình sự, hành chính. Song, quốc gia ven biển có quyền yêu cầu tàu thuyền đó phải rời khỏi vùng nội thủy của mình và quốc gia mà tàu thuyền đó mang quốc tịch phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho quốc gia ven biển mà tàu thuyền họ đã gây ra ở vùng nội thủy ( nếu có ).
Đối với tàu dân sự và tàu thương mại: quốc gia ven biển có toàn quyền tài phán về dân sự, hình sự, hành chính
¯. 6¯ Lãnh hải
Ảnh hưởng của nguyên tắc đất thống trị biển đối với quy chế pháp lý vùng lãnh hải:
Thứ nhất: quốc gia ven biển cũng có chủ quyền hoàn toàn, đầy đủ trong vùng lãnh hải, song không tuyệt đối như nội thủy
Ở vùng lãnh hải chủ quyền quốc gia hạn chế hơn so với các vùng lãnh thổ khác của quốc gia đó trên cơ sở tự nguyện. Quốc gia ven biển thực hiện chủ quyền của mình trên vùng lãnh hải với điều kiện thừa nhận sự qua lại vô hại của tàu thuyền nước ngoài. Các tàu thuyền nước ngoài có “quyền đi qua không gây hại (right of innocent passage), cụ thể là nước khác có quyền đi qua vùng lãnh hải của nước ven biển mà không phải xin phép trước nếu họ không tiến hành bất kỳ hoạt động gây hại nào như sau đây:
- Đe dọa hoặc dùng vũ lực chống lại chủ quyền, độc lập, toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia ven biển.
- Luyện tập, diễn tập với bất kỳ loại vũ khí nào.
- Thu thập tin tức tình báo gây thiệt hại cho nước ven biển.
- Tuyên truyền nhằm làm hại đến nước ven biển.
- Phóng đi, tiếp nhận hay xếp lên tàu các phương tiện bay, phương tiện quân sự.- Xếp dỡ hàng hóa, tiền bạc, đưa người lên xuống tàu trái quy định của nước ven biển.- Cố ý gây ô nhiễm nghiêm trọng.
- Đánh bắt hải sản.
- Nghiên cứu, đo đạc.
- Làm rối loạn hoạt động giao thông liên lạc.
- Mọi hoạt động khác không trực tiếp liên quan đến việc đi qua.
(theo Điều 19 Công ước về Luật biển 1982).
Điều này không hề vi phạm nguyên tắc chủ quyền của quốc gia đối với lãnh thổ, đáp ứng lợi ích của sự hợp tác quốc tế nói chung và thương mại hàng hải nói riêng.Quyền của quốc gia ven biển trong vùng lãnh hải được công nhận như ở lãnh thổ của mình (về lập pháp, hành pháp và tư pháp), trên các lĩnh vực phòng thủ quốc gia, cảnh sát, thuế quan, đánh cá, khai thác tài nguyên, đấu tranh chống ô nhiễm, nghiên cứu khoa học…
Thứ hai: quyền tài phán
Theo Công ước năm 1982, quốc gia ven biển không thực hiện quyền tài phán của mình đối với tàu thuyền nước ngoài tại vùng lãnh hải. Tuy nhiên, Công ước năm 1982 cũng có quy định một số ngoại lệ như: Quốc gia ven biển có thể thực hiện quyền tài phán dân sự đối với những vụ việc dân sự mà tàu thuyền đó liên quan tới trong thời gian đi qua vùng lãnh hải ( ví dụ: trong thời gian đi qua lãnh hải, tàu thuyền đó làm hư hỏng các thiết bị chỉ dẫn, các đường ống ngầm,… ) ; Quốc gia ven biển thực hiện quyền tài phán hình sự đối với các tội phạm mà hậu quả của nó làm thiệt hại cho quốc gia đó ( ví dụ: tội buôn lậu ma túy, tội phạm gây rối loạn trật tự trong vùng lãnh hải,… ) , đối với các tội phạm xảy ra trên tàu nếu có yêu cầu từ thuyền trưởng, hoặc đại diện ngoại giao, lãnh sựcủa quốc gia mà tàu đó mang quốc tịch. 5
b. Đối với các vùng biển mà quốc gia có quyền chủ quyền. 8
¯Vùng tiếp giáp lãnh hải
Ảnh hưởng của nguyên tắc đất thống trị biển đối với quy chế pháp lý vùng tiếp giáp lãnh hải:
Vì vùng này đã nằm ngoài vùng biển thuộc chủ quyền của quốc gia ven biển, nên quốc gia ven biển chỉ được thực hiện thẩm quyền hạn chế trong một số lĩnh vực nhất định đối với các tàu thuyền nước ngoài mà thôi. Công ước của Liên Hiệp Quốc về Luật biển năm 1982 (Điều 33) quy định trong vùng tiếp giáp, quốc gia ven biển có thể tiến hành các hoạt động kiểm soát cần thiết nhằm để ngăn ngừa những vi phạm đối với luật lệ về hải quan, thuế khóa, y tế hay nhập cư, bảo vệ môi trường và ngăn ngừa tội phạm khác;
Theo luật quốc tế hiện hành, quốc gia ven biển thực hiện quyền tài phán của mình ở vùng tiếp giáp lãnh hải nhằm: (1) Ngăn ngừa những vụ vi phạm các quy định về hải quan, thuế vụ, y tế và di cư – nhập cư trên lãnh thổ hoặc trong lãnh hải của quốc gia ven biển. (2) Truy bắt và trừng trị các vi phạm đã xảy ra trên lãnh thổ hoặc trong lãnh hải của mình. Riêng đối với các hiện vật có tính lịch sử và khảo cổ, Điều 303 Công ước về Luật biển 1982 quy định mọi sự trục vớt các hiện vật này từ đáy biển thuộc vùng tiếp giáp lãnh hải mà không được phép của quốc gia ven biển thì đều bị coi là vi phạm xảy ra trên lãnh thổ hoặc trong lãnh hải của quốc gia đó và quốc gia đó có quyền trừng trị.
¯Vùng đặc quyền kinh tế
Vùng đặc quyền kinh tế có chế độ pháp lý riêng do Công ước về Luật biển 1982 quy định về các quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển cũng như quyền tự do của các quốc gia khác.
Ảnh hưởng của nguyên tắc đất thống trị biển đối với quy chế pháp lý vùng đặc quyền kinh tế:
Đối với các quốc gia ven biển:
Thứ nhất: quốc gia ven biển có các quyền chủ quyền :
Quốc gia ven biển có các quyền chủ quyền về việc thăm dò, bảo tồn và quản lý các tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên sinh vật hoặc không sinh vật của vùng nước đáy biển, của đáy biển và vùng đất dưới đáy biển cũng như những hoạt động khác nhằm thăm dò, khai thác vùng này vì mục đích kinh tế.
Đối với các tài nguyên không sinh vật, quốc gia ven biển tự khai thác hoặc cho phép quốc gia khác khai thác cho mình và đặt dưới quyền kiểm soát của mình. Đối với các tài nguyên sinh vật, quốc gia ven biển tự định tổng khối lượng có thể đánh bắt, khả năng thực tế của mình và số dư có thể cho phép các quốc gia khác đánh bắt.
Thứ hai: quốc gia ven biển có quyền tài phán :
Quốc gia ven biển có quyền tài phán về việc lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình nghiên cứu khoa học về biển, bảo vệ và giữ gìn môi trường biển (quyền tài phán quốc gia là quyền của các cơ quan hành chính và tư pháp của quốc gia thực hiện và giải quyết các vụ việc theo thẩm quyền của họ).Quốc gia ven biển có quyền thi hành mọi biện pháp cần thiết, kể cả việc khám xét, kiểm tra, bắt giữ và khởi tố tư pháp để bảo đảm việc tôn trọng các quy định luật pháp của mình.
Các quốc gia ven biển có nghĩa vụ thi hành các biện pháp thích hợp để bảo tồn và quản lý nhằm làm cho việc duy trì các nguồn lợi sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế của mình khỏi bị khai thác quá mức.
- Đối với các quốc gia khác:
Được hưởng quyền tự do hàng hải, hàng không.
Được tự do đặt dây cáp và ống dẫn ngầm. Khi đặt đường ống phải thông báo và thỏa thuận với quốc gia ven biển.
Được tự do sử dụng biển vào các mục đích khác hợp pháp về mặt quốc tế.
Việc điều hành các tàu thuyền, phương tiện bay ở vùng đặc quyền kinh tế nằm dưới quyền tài phán của quốc gia mà tàu đó mang quốc tịch chứ không phải quốc gia ven biển.. 8
¯Thềm lục địa
Ảnh hưởng của nguyên tắc đất thống trị biển đối với quy chế pháp lý thềm lục địa:
Đối với các quốc gia ven biển:
Thứ nhất: Quốc gia ven biển thực hiện các quyền chủ quyền đối với thềm lục địa
Quốc gia ven biển thực hiện các quyền chủ quyền đối với thềm lục địa về mặt thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên (khoáng sản, tài nguyên không sinh vật như dầu khí, các tài nguyên sinh vật như cá, tôm…) của mình. Vì đây là đặc quyền của quốc gia ven biển nên không ai có quyền tiến hành các hoạt động như vậy nếu không có sự thỏa thuận của quốc gia đó. Nghĩa là chỉ quốc gia ven biển mới có quyền cho phép và quy định việc khoan ở thềm lục địa bất kỳ vào mục đích gì. Tuy nhiên, quốc gia ven biển khi thực hiện quyền đối với thềm lục địa không được đụng chạm đến chế độ pháp lý của vùng nước phía trên, không được gây thiệt hại đến hàng hải hay các quyền tự do của các quốc gia khác.Khi tiến hành khai thác thềm lục địa ngoài 200 hải lý kể từ đường cơ sở, quốc gia ven biển phải nộp một khoản đóng góp tiền hay hiện vật theo quy định của công ước.
Thứ hai: Quốc gia ven biển có quyền tài phán về nghiên cứu khoa học
Mọi nghiên cứu khoa học biển trên thềm lục địa phải có sự đồng ý của quốc gia ven biển.
- Đối với quốc gia khác:
Tất cả quốc gia khác đều có quyền lắp đặt các dây cáp và ống dẫn ngầm ở thềm lục địa. Quốc gia đặt cáp hoặc ống dẫn ngầm phải thỏa thuận với quốc gia ven biển về tuyến đường đi của ống dẫn hoặc đường cáp đó.
Đánh giá vai trò của nguyên tắc đất thống trị biển:
Nguyên tắc đất thống trị biển là nguyên tắc quan trọng của Luật biển quốc tế. Nguyên tắc này là cơ sở pháp lý để thiết lập chế độ pháp lý các vùng biển, chủ quyền và quyền chủ quyền của quốc gia ven biển. Sự kết hợp hài hòa giữa nguyên tắc đất thống trị biển và nguyên tắc tự do biển tạo cơ sở để các quốc gia ven biển bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của quốc gia mình khi có bất kỳ sự xâm phạm nào từ bên ngoài.
Mối quan hệ giữa hai nguyên tắc:
Luật biển hiện đại phản ánh cuộc đấu tranh và điều hoà giữa hai nguyên tắc lớn là tự do biển cả và đất thống trị biển (xác định chủ quyền và quyền chủ quyền của quốc gia trên biển).
Công ước luật biển, đặc biệt là công ước luật biển 1982, phản ánh mối quan hệ và sự phát triển tiến bộ của các nguyên tắc luật pháp quốc tế về biển, đặc biệt là giữa hai học thuyết trái ngược nhau về bản chất pháp lý của luật biển: res nullius (có nghĩa biển cả là vô chủ, cho phép quốc gia ven biển được toàn quyền hành động thiết lập chủ quyền quốc gia) và nguyên tắc còn lại ngụ ý biển cả là của chung, các quốc gia bình đẳng trong việc sử dụng biển.
Luật biển cần thể hiện được tự do biển cả và chủ quyền quốc gia trên biển
Giữa hai học thuyết này tuy có nhiều khía cạnh đối kháng nhau nhưng vẫn có những khoảng chung song song tồn tại trong luật biển.
THỰC TIỄN CỦA VIỆC ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC TỰ DO BIỂN CẢ VÀ NGUYÊN TẮC ĐẤT THỐNG TRỊ BIỂN:
Thực tiễn áp dụng nguyên tắc tự do biển cả:
Như đã trình bày ở trên thì bản chất pháp lý của biển cả được thể hiện và đảm bảo bằng nội dung của nguyên tắc tự do biển cả: Biển cả được để ngỏ cho tất cả các quốc gia, dù là quốc gia có biển hay không có biển. Nguyên tắc tự do biển cả không cho phép bất cứ quốc gia nào có thể áp đặt một cách hợp pháp một bộ phận nào đó của biển cả thuộc chủ quyền của mình. Điều đó có nghĩa là trong biển cả tất cả các quốc gia đều được hưởng các quyền tự do được quy định trong luật quốc tế. Song, mỗi quốc gia khi thực hiện các quyền tự do của mình phải tôn trọng quyền lợi của các quốc gia khác.
Nhưng trên thực tế một số quốc gia đã vi phạm nguyên tắc tự do biển cả với lợi ích cá nhân.Chúng ta có thể thấy rõ được điều này qua sự việc tranh chấp Biển Đông,một sự kiện nóng bỏng không chỉ trên khu vực Châu Á- Thái Bình Dương mà còn là vấn đề mang tầm quốc tế. Và những tranh chấp này tuy không trực tiếp liên quan đến chủ quyền lãnh thổ, ranh giới trên biển mà liên quan đến quyền tự do hàng hải, đi lại trên biển, trong vùng biển cả, gắn với rất nhiều quốc gia.
Biển Đông là một khu vực biển có liên quan trực tiếp đến các quyền và lợi ích của hầu hết các nước ASEAN.Tuy nhiên Trung Quốc đã đưa ra đường ranh giới trên biển bao trọn 80% diện tích Biển Đông rõ ràng đã đụng chạm đến chủ quyền, quyền chủ quyền của các nước ven Biển Đông, đụng chạm đến quyền tự do hàng hải, hàng không trong vùng biển cả.
Biển Đông (tên quốc tế là biển Nam Trung Hoa) là một biển nửa kín được bao bọc bởi chín quốc gia và một vùng lãnh thổ là Việt Nam, Trung Quốc, Philíppin, Malaixia, Brunây, Inđônêxia, Thái Lan, Cămpuchia, Xingapo và Đài Loan). Biển Đông rộng khoảng 3,5 triệu km2, trải rộng từ vĩ độ 30 lên đến vĩ độ 260 Bắc và từ kinh độ 1000 đến 1210 Đông, Đường trục dài nhất của biển Đông kéo dài theo hướng Đông Bắc – Tây Nam, tính từ đường ranh giới phía Bắc (Phúc Kiến – Bắc Đài Loan) đến đường ranh giới phía Nam (Sumatra – Banka – Biliton – Borneo) dài khoảng 3.520 km. Nơi rộng nhất của biển Đông không quá 600 hải lý (khoảng gần 1.200 km). Đây là biển duy nhất trên thế giới có hai quốc gia quần đảo lớn nhất thế giới là Inđônêxia và Philíppin. Ngoài ra biển Đông có hai quần đảo lớn nằm giữa biển là Hoàng Sa và Trường Sa và hai vịnh lớn ăn sâu vào đất liền là vịnh Bắc Bộ và vịnh Thái Lan. Đây là cái nôi của nền văn minh nông nghiệp, lúa nước.
Chính vì vậy mà Biển Đông là một khu vực biển có liên quan trực tiếp đến các quyền và lợi ích của hầu hết các nước ASEAN. Tuy nhiên Trung Quốc đã đưa ra đường ranh giới trên biển bao trọn 80% diện tích Biển Đông qua sự kiện ngày 7/5/2009 Trung Quốc chính thức yêu cầu lưu truyền trong cộng đồng các nước thành viên Liên Hợp quốc bản đồ thể hiện đường đứt khúc 9 đoạn (hay còn gọi là đường chữ U, đường lưỡi bò) trên Biển Đông, yêu sách không chỉ các đảo, đá mà toàn bộ vùng biển trong đó. Rõ ràng như thế đã đụng chạm đến chủ quyền, quyền chủ quyền của các nước ven Biển Đông, đụng chạm đến quyền tự do hàng hải, hàng không trong vùng biển cả. Tức là các nước sẽ không còn có quyền tự do đi lại không gây hại ở Biển Đông khi mà vùng Biển Đông trở thành “ cái ao nhà” của Trung Quốc.
Điều này đã vi phạm nội dung của nguyên tắc tự do biển khi áp dụng một cách hợp pháp một bộ phận nào đó của biển cả thuộc chủ quyền của mình, ảnh hưởng đến quyền tự do hàng hải, hàng không của các quốc gia trên biển cả.
Ngoài hành động yêu sách về đường ranh giới trên biển nói trên Trung Quốc còn có hành động vi phạm nội dung nguyên tắc tự do biển như:
Hải quân Trung quốc chặn bắt tàu của ngư dân Việt Nam trên biển Đông
Trung Quốc đơn phương tuyên bố cấm đánh cá tại Biển Đông từ vĩ độ 12 trở lên phía Bắc, với cớ bảo quản nguồn lợi thuỷ sản ở Biển Đông. Vùng cấm bao gồm cả vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam,vùng đặc quyền kinh tế của Philippines và vùng biển quốc tế giữa Biển Đông.
Nếu lý do cho hành động này thật sự là bảo quản nguồn lợi thuỷ sản ở Biển Đông thì Trung Quốc đã phải phối hợp với Việt Nam, Philippines và các nước khác trong việc cấm đánh cá, vì vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam và của Philippines thuộc quyền chủ quyền của Việt Nam và Philippines, và tất cả các nước trên thế giới có quyền đánh cá trong vùng biển quốc tế giữa Biển Đông.
Đây rõ ràng là hành vi vi phạm đến quyền tự do đánh bắt hải sản trên vùng biển quốc tế giữa Biển Đông mà nó cón vi phạm đến quyền chủ quyền của vùng đặc quyền kinh tế.Trung Quốc không có quyền như thế trong vùng biển quốc tế và càng không có quyền như thế trong vùng đặc quyền kinh tế của nước khác. Bằng việc hành động một cách đơn phương như thế, Trung Quốc đã cố ý vi phạm quyền chủ quyền của Việt Nam và Philippines đối với vùng đặc quyền kinh tế của hai nước này, và vi phạm quyền đánh cá mà UNCLOS ban cho tất cả các nước trên thế giới trong vùng biển quốc tế giữa Biển Đông.
Phải chăng mục đích của Trung Quốc khi hành động đơn phương không phải là bảo quản nguồn lợi thuỷ sản mà là tỏ với thế giới rằng Trung Quốc làm cái mà nước này gọi là “thực thi chủ quyền một cách hoà bình” ở Biển Đông. Đây là những bước trong chiến lược “tằm ăn dâu” của Trung Quốc để biến 80% diện tích trên Biển Đông thành “cái ao nhà” của họ.
Với vị trí địa chính trị, cấu tạo tự nhiên và hoạt động kinh tế-xã hội liên kết giữa các quốc gia, Biển Đông là ngôi nhà chung của các nước trong khu vực và chứa đựng nhiều quan tâm chung của các nước trong và ngoài khu vực. Biển Đông không thuộc hoàn toàn riêng về một nước, không thuộc Trung Quốc, Việt Nam, Malaysia, Philippin hay Brunei. Các vấn đề của Biển Đông cần được các nước trong khu vực, trên tinh thần cầu thị, tôn trọng chủ quyền và lợi ích của nhau, tuân thủ pháp luật quốc tế, cùng nhau tìm một giải pháp công bằng, mà các bên có thể chấp nhận.
Qua hai ví dụ trên ta có thể thấy rõ vai trò Nguyên tắc tự do biển cả không những một mặt hạn chế xu thế mở rộng thái quá chủ quyền của các nước ven biển lấn át biển, mặt khác, duy trì quyền lợi vốn có của các quốc gia.
Thực tiễn áp dụng nguyên tắc đất thống trị biển:
Trong thời gian gần đây vùng biển có rất nhiều sự thay đổi về chất đối với phạm vi và chế độ pháp lý của các vùng biển thuộc một nước ven biển. Tuy nhiên, biển vẫn còn tồn tại một nguyên tắc cơ bản của luật biển là có đất (bờ biển) mới có biển. Có thể thấy các thay đổi và phát triển của luật biển diễn ra theo một tiến trình ba bước cơ bản sau:
- Từ xa xưa cho đến tận giữa thế kỷ XX, các nước ven biển chỉ có vùng biển hẹp (lãnh hải) thuộc chủ quyền rộng ba hải lý. Phía ngoài ranh giới lãnh hải ba hải lý đều là biển công, ở đó mọi cá nhân, tổ chức tàu thuyền của mỗi nước được hưởng quyền tự do biển cả. Hầu như không ai chia biển với ai cả, đường biên giới biển trong lãnh hải giữa các nước thường được hình thành và tôn trọng theo tập quán.
- Từ năm 1958 đến năm 1994, các nước ven biển lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải rộng, không quá 12 hải lý, có vùng thềm lục địa trải dài dưới biển ra không quá độ sâu 200m nước.Các nước láng giềng, kế cận hay đối diện nhau, căn cứ vào luật, tự mình quy định phạm vi hoặc ranh giới vùng biển quốc gia, dẫn đến hậu quả có sự chồng lấn và tranh chấp về biển. Luật biển quốc tế lúc đó quy định các nước có vùng chồng lấn phải cùng nhau giải quyết vạch đường biên giới biển trong vùng chồng lấn. Nguyên tắc hoạch định biên giới biển lúc đó là qua thương lượng trên cơ sở pháp luật quốc tế và thường áp dụng nguyên tắc đường trung tuyến.
- Từ năm 1994 đến nay, Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển mới được các nước ký kết vào năm 1982 và bắt đầu có hiệu lực pháp luật quốc tế từ ngày 16/11/1994.Theo công ước, một nước ven biển có năm vùng biển, nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, vùng thềm lục địa. Với sự ra đời của Công ước 1982 và đặc biệt là sự ghi nhận nguyên tắc đất thống trị biển, trên thế giới, các nước sẽ phải cùng nhau vạch khoảng 412 đường ranh giới mới trên biển nhằm xác định chù quyền và quyền chủ quyền của mình trên biển..
¯Thực tiễn áp dụng nguyên tắc đất thống trị biển tại Việt Nam:
Ø Nguyên tắc đất thống trị biển tạo điều kiện thuận lợi để Việt Nam xác lập chủ quyền và quyền chủ quyền của quốc gia mình trên biển:
Do hoàn cảnh chiến tranh, Việt Nam chỉ thực sự có điều kiện ban hành quy định pháp luật về biển kể từ năm 1977. Với tuyên bố ngày 12/5/1977, Việt Nam trở thành nước đầu tiên trong khu vực thiết lập vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý. Việt Nam cũng là một trong những nước đầu tiên ở Đông Nam Á phê chuẩn công ước 1982 (ngày 23/6/1994) trước khi Công ước có hiệu lực (16/11/1994)
Trong tuyên bố ngày 12/5/1977 về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, Chính phủ nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã nêu rõ lãnh hải của nước CHXHCNVN rộng 12 hải lý, ở phía ngoài đường cơ sở nối liền các điểm nhô ra nhất của bờ biển và các điểm ngoài cùng của các đảo ven bờ của Việt Nam tính từ ngấn nước thủy triều thấp nhất trở ra.
Vùng biển ở phía trong đường cơ sở và giáp với bờ biển là nội thủy của nước CHXHCNVN. Nước CHXHCNVN thực hiện chủ quyền đầy đủ và toàn vẹn đối với lãnh hải của mình cũng như đối với vùng trời, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của lãnh hải.
Vùng tiếp giáp lãnh hải của nước CHXHCNVN là vùng biển tiếp liền phía ngoài lãnh hải Việt Nam có chiều rộng là 12 hải lý hợp với lãnh hải Việt Nam thành một vùng biển rộng 24 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của Việt Nam.
Chính phủ nước CHXHCNVN thực hiện sự kiểm soát cần thiết trong vùng tiếp giáp lãnh hải của mình, nhằm bảo vệ an ninh, bảo vệ các quyền lợi về hải quan, thuế khoá, đảm bảo sự tôn trọng các quy định về y tế, về di cư, nhập cư trên lãnh thổ hoặc trong lãnh hải Việt Nam.
Vùng đặc quyền kinh tế của nước CHXHCNVN tiếp liền lãnh hải Việt Nam và hợp với lãnh hải Việt Nam thành một vùng biển rộng 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam.
Nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có chủ quyền hoàn toàn về việc thăm dò, khai thác, bảo vệ và quản lý tất cả các tài nguyên thiên nhiên, sinh vật và không sinh vật ở vùng nước, ở đáy biển và trong lòng đất dưới đáy biển của vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam; Có quyền và thẩm quyền riêng biệt về các hoạt động khác phục vụ cho việc thăm dò và khai thác vùng đặc quyền kinh tế nhằm mục đích kinh tế; Có thẩm quyền riêng biệt về nghiên cứu khoa học trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Nước CHXHCNVN có thẩm quyền bảo vệ môi trường, chống ô nhiễm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Thềm lục địa của nước CHXHCNVN bao gồm đáy biển và lòng đất dưới đáy biển thuộc phần kéo dài tự nhiên của lục địa Việt Nam mở rộng ra ngoài lãnh hải Việt Nam cho đến bờ ngoài của rìa lục địa, nơi nào bờ ngoài của rìa lục địa cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam không đến 200 hải lý thì thềm lục địa nơi ấy mở rộng ra 200 hải lý kể từ đường cơ sở đó.
Như vậy, phạm vi vùng biển của nước ta được mở rộng ra một cách đáng kể, từ vài chục nghìn km2 lên đến khoảng một triệu km2 với năm vùng biển có phạm vi và chế độ pháp lý khác nhau. Nước Việt Nam không còn thuần tuý có dạng hình chữ S nữa mà mở rộng hướng ra biển, không chỉ có biên giới biển chung với Trung Quốc, Campuchia mà cả hầu hết các nước trong khu vực như Philippines, Malaysia, Indonesia, Thái Lan, v.v…
Thời gian qua, chúng ta đã và đang tiến hành nhiều hoạt động nghiên cứu, thăm dò, khai thác và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên thềm lục địa Việt Nam như nghiên cứu khoa học, thăm dò và khai thác dầu khí, các loại khoáng sản khác, thành lập các cụm khoa học, kinh tế và dịch vụ trên thềm lục địa Việt Nam, đặt dây cáp và ống dẫn ngầm, trong đó có nhiều hoạt động được tiến hành với sự hợp tác và giúp đỡ của nước ngoài.
Trong thời gian tới, các hoạt động kinh tế, khoa học trên thềm lục địa Việt Nam sẽ diễn ra ngày càng sôi động và phong phú.
Đến nay, nước ta thông qua đàm phán giải quyết được vấn đề hoạch định ranh giới thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế với Thái Lan (ký hiệp định năm 1997), phân định Vịnh Bắc Bộ với Trung Quốc (ký Hiệp định năm 2000), hoạch định ranh giới thềm lục địa với Indonesia (ký Hiệp định năm 2003).Việt Nam nộp báo cáo quốc gia thực hiện các quy định của Công ước 1982. Việt Nam tích cực tham gia hội nghị lần thứ 3 của Liên Hợp quốc về Luật biển và là một trong những nước đầu tiên ký Công ước 1982.
Ngày 23/6/1994, Quốc hội nước ta thông qua Nghị quyết phê chuẩn Công ước và Việt Nam chính thức trở thành thành viên Công ước này trước mốc 13/5/1999. Từ đó đến nay, Việt Nam tuân thủ các cam kết nêu trong Công ước, và đang tích cực hoàn thiện các quy định của pháp luật của mình để Việt Nam thực hiện một cách đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của một quốc gia thành viên.
Nước ta, trước sau như một, kiên trì chủ trương giải quyết các tranh chấp, kể cả các tranh chấp liên quan đến biển bằng biện pháp hoà bình. Đến nay, Việt Nam từng bước hoàn thành việc phân định ranh giới biển với một số nước láng giềng như ranh giới vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa với Thái Lan, ranh giới lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa ở Vịnh Bắc Bộ với Trung Quốc và ranh giới thềm lục địa với Indonesia.
Việt Nam cũng đã tích cực tham gia các hội nghị của Liên Hợp quốc liên quan các vấn đề Luật biển, hội nghị các quốc gia thành viên Công ước 1982, hội nghị của cơ quan quyền lực quốc tế về đáy đại dương.
Sau khi nước ta phê chuẩn Công ước 1982, các cơ quan hữu quan đã khẩn trương triển khai nghiên cứu, khảo sát toàn diện về tình hình địa chất, địa mạo của thềm lục địa Việt Nam.
Đồng thời, Việt Nam đã tích cực học hỏi kinh nghiệm của các nước có quá trình chuẩn bị lâu dài về vấn đề xác định ranh giới thềm lục địa. Trên cơ sở nghiên cứu, khảo sát và phù hợp với các quy định của Công ước và Bản hướng dẫn về khoa học, kỹ thuật của Uỷ ban Ranh giới Thềm Lục địa, nước ta đã xây dựng báo cáo quốc gia về khu vực thềm lục địa phía bắc và phối hợp với Malaysia xây dựng báo cáo chung về khu vực phía nam Biển Đông với đầy đủ cơ sở pháp lý quốc tế và khoa học, kỹ thuật.
Ngày 6/5/2009 đại diện thường trực nước ta và đại diện thường trực Malaysia tại Liên Hợp quốc đã thay mặt hai nhà nước trình Uỷ ban Ranh giới Thềm Lục địa của Liên Hợp quốc báo cáo chung của Việt Nam và Malaysia về ranh giới ngoài thềm lục địa khu vực phía bắc Biển Đông.
Việc nước ta trình Uỷ ban Ranh giới Thềm Lục địa các báo cáo nói trên là một hoạt động bình thường như nhiều quốc gia khác trên thế giới đã làm để đảm bảo thực hiện đúng nguyên tắc đất thống trị biển đồng thời thực hiện quyền và nghĩa vụ của một quốc gia thành viên Công ước Luật biển năm 1982.
Ø Việc áp dụng nguyên tắc đất thống trị biển luôn gặp nhiều khó khăn do sự mâu thuẫn của nguyên tắc này với nguyên tắc tự do biển cả trong việc phân định biên giới quốc gia trên vùng biển giũa các quốc gia.Điển hình là việc phân định thềm lục địa biên giới giữa Việt Nam và Indonexia
¯Hiệp định phân định thềm lục địa biên giới Việt Nam-Indonexia:
- Bối cảnh chung và quá trình đàm phán giải quyết
+ Bối cảnh chung
Sau 25 năm đàm phán, trải qua hai vòng đàm phán cấp chính phủ, 10 vòng cấp chuyên viên chính thức, 12 vòng tham khảo cấp chuyên viên, bốn cuộc họp hẹp, một vòng kỹ thuật, Việt Nam và Inđônêxia đã đi đến một giải pháp cuối cùng về phân định ranh giới vùng thềm lục địa giữa hai nước. Giải pháp đó là kết quả của một quá trình đàm phán lâu dài, thể hiện nỗ lực, thiện chí và sự nhân nhượng từ cả hai bên. Tuy vậy, đàm phán về ranh giới biển giữa hai nước chưa kết thúc vì vùng đặc quyền kinh tế chồng lấn vẫn chưa được phân định.
Khu vực thềm lục địa phải phân định giữa hai nước nằm ở phía Đông Nam nước ta và Tây Bắc đảo lớn Borneo của Inđônêxia. Trong khu vực phân định này, đảo xa bờ nhất của Việt Nam là Côn Đảo, nằm cách bờ biển của ta khoảng 90 km. Inđônêxia là quốc gia quần đảo với hơn 17.000 hòn đảo lớn, nhỏ nằm rải rác trên một vùng biển rộng lớn. Đảo xa bờ nhất của Inđônêxia giáp vùng này là đảo Natuna Bắc, cách đảo lớn Borneo của Inđônêxia khoảng 320 km về hướng Tây Bắc.
Theo các nhà địa chất, thềm lục địa tại khu vực này là thuộc thềm Xunđa. Tại vùng thềm lục địa này, có một số cấu tạo địa chất có thể có tiềm năng dầu khí, đặc biệt là khu vực phía Đông. Tuy nhiên về tài nguyên nghề cá ở vùng này không nhiều, ít có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của ngư dân Việt Nam.
Năm 1969, Inđônêxia ra tuyên bố về giới hạn thềm lục địa của mình, dựa trên nguyên tắc không vượt quá đường trung tuyến cách đều đường cơ sở quần đảo của Inđônêxia và đường cơ sở của các quốc gia hữu quan.
Năm 1971, chính quyền Sài Gòn đã vạch ranh giới đặc nhượng dầu khí trên thềm lục địa Việt Nam. Tại khu vực đối diện với Inđônêxia, đường ranh giới được chính quyền Sài Gòn ấn định theo đường trung tuyến cách đều bờ biển Việt Nam với bờ biển đảo Borneo của Inđônêxia.
Năm 1977, theo xu thế phát triển chung của Luật biển quốc tế thể hiện tại diễn đàn Hội nghị của Liên Hợp quốc lần thứ ba về Luật biển, Việt Nam đã ra Tuyên bố Chính phủ, theo đó thềm lục địa của Việt Nam được xác định nằm trên phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ lục địa Việt Nam ra đến bờ ngoài của rìa lục địa, hoặc đến 200 hải lý tính từ đường cơ sở. Tiếp theo đó, năm 1982, Chính phủ Việt Nam lại ban hành Tuyên bố xác định hệ thống đường cơ sở của phần lãnh thổ lục địa Việt Nam. Theo Tuyên bố này, đảo Côn Đảo được sử dụng làm một điểm cơ sở để vạch hệ thống đường cơ sở thẳng của Việt Nam.
Trong quá trình thương lượng tại Hội nghị Luật biển lần thứ ba của Liên Hợp quốc, Inđônêxia, xuất phát từ lợi ích của mình, đã tích cực đấu tranh để pháp điển hoá quy chế quốc gia quần đảo. Từ năm 1994, khi Công ước Luật biển 1982 có hiệu lực, quy chế quốc gia quần đảo trở thành một chế định có giá trị pháp lý đối với các quốc gia thành viên Công ước.
Inđônêxia là quốc gia thành viên của cả Công ước Giơnevơ 1958 về thềm lục địa và Công ước Luật biển của Liên Hợp quốc năm 1982. Trong khi đó, Việt Nam chỉ bị ràng buộc bởi Công ước Luật biển năm 1982. Việt Nam không phải là thành viên của Công ước Giơnevơ 1958 về thềm lục địa.
Việt Nam và Inđônêxia là hai nước có mối quan hệ hữu nghị truyền thống, tồn tại qua nhiều thập kỷ đấu tranh giành và gìn giữ độc lập dân tộc, phát triển kinh tế. Trên cơ sở đó, hai nước luôn quan tâm giải quyết mọi vấn đề song phương, trong đó có vấn đề phân định ranh giới trên biển một cách hoà bình, hữu nghị, phù hợp với luật pháp và thực tiễn quốc tế. Quyết tâm chính trị của hai nước giải quyết vấn đề phân định thềm lục địa được thể hiện trong mọi cuộc gặp gỡ giữa lãnh đạo hai nước. Đặc biệt là trong chuyến thăm chính thức Inđônêxia của Chủ tịch nước Trần Đức Lương tháng 11/2001, hai bên đã thoả thuận thúc đẩy đàm phán nhằm sớm đạt được giải pháp cuối cùng hai bên có thể chấp nhận được. Tuyên bố báo chí chung nêu rõ: "Hai bên nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phân định thềm lục địa giữa hai nước và ghi nhận những tiến bộ đáng kể đạt được tại các kỳ họp cấp kỹ thuật gần đây, qua đó tạo đà cho việc tăng cường hơn nữa quan hệ hợp tác và hữu nghị giữa hai nước. Hai bên nhất trí sẽ sớm giải quyết xong vấn đề này".
+. Khái quát quá trình đàm phán phân định thềm lục địa từ năm 1978 - 1998Năm 1972, Chính quyền Sài Gòn và Inđônêxia đã tiến hành đàm phán nhằm phân định thềm lục địa giữa hai nước. Phía Inđônêxia đưa ra yêu sách đường trung tuyến giữa hai đường cơ sở, mà với Inđônêxia đó là đường cơ sở quốc gia quần đảo; thực chất đó là khoảng cách giữa đảo Natuna Bắc của Inđônêxia và Côn Đảo của Việt Nam (gọi là trung tuyến đảo - đảo). Chính quyền Sài Gòn đề nghị phân định theo đường trung tuyến.
Sau ngày đất nước ta thống nhất, tháng 6/1978 ta bắt đầu đàm phán về phân định thềm lục địa với Inđônêxia. Đến nay, sau hơn 24 năm đàm phán hai bên đã tiến hành 22 vòng họp cấp chuyên viên (10 vòng chính thức và 12 vòng không chính thức), hai vòng chính thức cấp Chính phủ và bốn cuộc họp hẹp giữa hai Trưởng đoàn đàm phán cấp chuyên viên. Vòng họp gần đây nhất là cuộc họp chính thức cấp Chính phủ lần hai vào tháng 6/2003.
Khi bước vào đàm phán tại vòng I chính thức cấp chuyên viên tại Hà Nội (từ ngày 5 - 9/6/1978), phía Việt Nam đưa ra một đường ranh giới tự nhiên, dựa vào một rãnh sâu trên thềm lục địa gần sát đảo Natuna Bắc của Inđônêxia; Inđônêxia vẫn đưa ra trung tuyến đảo - đảo, tạo thành vùng tranh chấp ban đầu rộng khoảng 98.000 km2. Tại các vòng đàm phán từ năm 1978 đến giữa năm 1991, hai bên đã có những bước nhân nhượng, thu hẹp vùng chồng lấn từ 98.000 km2 xuống còn khoảng 40.000 km2. Nhân dịp Thủ tướng Võ Văn Kiệt thăm Inđônêxia (tháng 10/1991), hai bên đã thoả thuận chính trị chia 50/50 "vùng còn lại".
Tại vòng I đàm phán chính thức cấp Chính phủ (Hà Nội, tháng 12/1991), hai bên thảo luận việc thực hiện thoả thuận chính trị nêu trên, nhưng do hai bên hiểu khác nhau về "vùng còn lại" nên đàm phán không đạt được giải pháp.Từ năm 1994 đến năm 1998, hai bên nối lại thương thuyết. Do Công ước Luật biển 1982 đã có hiệu lực, Inđônêxia dựa vào quy chế quốc gia quần đảo đã được ghi nhận trong Công ước để tăng sức ép nhằm giành một giải pháp phân định có lợi hơn. Trong đàm phán, về phân định thềm lục địa, Inđônêxia quay lại lập trường ban đầu đòi theo trung tuyến đảo - đảo. Đồng thời, Inđônêxia cũng đề nghị thảo luận riêng việc phân định vùng đặc quyền kinh tế theo đó nguyên tắc phân định thường căn cứ vào khoảng cách tính từ đường cơ sở lãnh hải của mỗi bên.Trong quá trình đàm phán, tuy hai bên đều nhất trí vận dụng các nguyên tắc của luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển 1982, cũng như các tập quán quốc tế được công nhận rộng rãi; đồng thời có tính đến các hoàn cảnh có liên quan như chiều dài bờ biển, sự hiện diện của các đảo và bảo đảm sự công bằng, nhân nhượng lẫn nhau để tìm ra giải pháp chấp nhận được đối với cả hai bên. Tuy nhiên, mỗi nước đều vận dụng luật biển và hoàn cảnh cụ thể của khu vực phân định để xây dựng và bảo vệ lập trường pháp lý có lợi nhất cho mình.Về phía Việt Nam
Việt Nam vận dụng khái niệm thềm lục địa là sự kéo dài tự nhiên của lãnh thổ lục địa ra đến bờ ngoài của rìa lục địa và thực tế trên đáy biển có một rãnh sâu để đưa ra đòi hỏi ban đầu dựa trên một đường ranh giới tự nhiên. Sự vận dụng này dựa trên cơ sở Việt Nam nằm trên khối lục địa châu Á. Tuy nhiên, do thực tế là đường rãnh sâu này không đáp ứng tiêu chuẩn là một sự gián đoạn về địa chất của thềm lục địa, nên lập luận này cũng có hạn chế. Mặc dù vậy, điều này tạo cơ sở cho Việt Nam hình thành được một lập trường pháp lý ban đầu đối trọng với lập trường của Inđônêxia. Trên cơ sở phân tích lập luận pháp lý và thực tế địa hình tự nhiên của khu vực phân định, tại vòng đàm phán thứ hai, Việt Nam đã đưa ra đề nghị cũ đường "dung hoà", giảm diện tích của khu vực chồng lấn xuống còn khoảng 40.000 km2.
Việt Nam cũng vận dụng các phán quyết của Toà án quốc tế, Toà Trọng tài quốc tế trong các án lệ về phân định ranh giới thềm lục địa để lập luận rằng, đòi hỏi của Inđônêxia về trung tuyến đảo - đảo không thể là một giải pháp công bằng, bởi vì đường trung tuyến đó phân chia cách đều máy móc về khoảng cách giữa hai đường cơ sở, trong khi thềm lục địa bắt nguồn từ lãnh thổ lục địa, chứ không phải từ đường cơ sở. Hơn nữa sự phân chia máy móc theo khoảng cách đó không tính đến tỷ lệ giữa chiều dài bờ biển phía Đông Nam Việt Nam với chiều dài bờ biển đảo nhỏ Natuna. Đây là một lập luận hợp lý, khiến cho Inđônêxia không thể cứ khăng khăng bám giữ lập trường ban đầu của họ, mà phải chấp nhận cùng nhân nhượng lẫn nhau trong đàm phán.
Về phía Inđônêxia
Inđônêxia có thế mạnh là quy chế "quốc gia quần đảo" đã được ghi nhận trong Công ước Luật biển 1982 và có hiệu lực cùng với Công ước. Trong thực tiễn phân định thềm lục địa trên thế giới, cũng như giữa Inđônêxia với một số nước láng giềng, phương pháp đường trung tuyến cách đều các đường cơ sở để đo chiều rộng lãnh hải của hai bên phân định đã được thừa nhận và sử dụng tương đối phổ biến.Lập trường của Inđônêxia là thừa nhận dành hiệu lực toàn phần cho Côn Đảo của Việt Nam, nhưng Inđônêxia áp dụng triệt để "quy chế quốc gia quần đảo", sử dụng phương pháp đường trung tuyến như là một nguyên tắc, do đó không đưa lại một giải pháp công bằng.
Như vậy, xuất phát điểm của hai bên rất khác nhau: Inđônêxia dựa vào quy chế "quốc gia quần đảo" để đưa ra đường trung tuyến 20 - A - B. Phía Việt Nam đề nghị chia dung hoà K - E - F trên cơ sở định nghĩa thêm lục địa là sự kéo dài tự nhiên của lục địa và nguyên tắc "đất thống trị biển". Quan điểm của hai bên có các điểm mạnh và yếu nhất định đòi hỏi hai bên phải tiếp tục đàm phán để thu hẹp khoảng cách, tiến tới một giải pháp công bằng cho cả hai bên trên cơ sở Công ước Luật biển năm 1982 và điều kiện địa lý tự nhiên của khu vực phân định.
. Nguyên tắc áp dụng trong đàm phán từ năm 1998 đến nay
Qua gần 20 năm đàm phán, khác biệt trong việc giải thích và vận dụng các nguyên tắc nói trên của Luật pháp quốc tế về biển của hai bên đã đưa thảo luận đi vào bế tắc. Điều đó buộc hai bên phải có cách tiếp cận mới để thúc đẩy đàm phán. Từ vòng VI không chính thức cấp chuyên viên vào tháng 2/1998 tại Surabaya (Inđônêxia) đến vòng VIII không chính thức cấp chuyên viên vào tháng 7/1999 tại Hà Nội (Việt Nam) và ba cuộc họp hẹp của hai Trưởng đoàn cấp chuyên viên, hai bên không đạt được kết quả cụ thể nào nhưng đã đạt được một số nguyên tắc rất quan trọng để có thể thúc đẩy đàm phán đi vào thực chất, cụ thể là:- Nhất trí tiếp tục đàm phán trên cơ sở các kết quả đàm phán mà hai bên đã đạt được;- Hai bên thoả thuận không tiếp tục tranh cãi về lý luận mà sẽ thảo luận về những đường phân định cụ thể mà hai bên nêu ra; và
- Nhất trí hai bên cùng tiến nhích lại gần nhau nhằm đi đến một giải pháp cuối cùng mà hai bên có thể chấp nhận được.
Việc đạt được thoả thuận về các nguyên tắc đàm phán nói trên cùng với thiện chí muốn thúc đẩy đàm phán từ hai bên là một đột phá rất quan trọng trong đàm phán, mở đường cho những bước tiến tiếp theo để có thể đi đến giải pháp cuối cùng. Với thoả thuận trên, hai bên đã có những bước thoả hiệp trên thực tế, tiếp tục đàm phán trên cơ sở những kết quả mà hai bên đã đạt được; đồng thời từng bước nhích đường phân chia lại gần nhau hơn.
- Kết quả đàm phán
Ngày 26/6/2003, Hiệp định giữa nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hoà Inđônêxia về phân định thềm lục địa giữa hai nước đã được ký chính thức nhân dịp Tổng thống Inđônêxia Megawati sang thăm Việt Nam. Việc ký Hiệp định này xuất phát từ mong muốn củng cố và phát triển hơn nữa quan hệ hữu nghị sẵn có giữa hai nước và nhằm thiết lập đường ranh giới thềm lục địa giữa hai nước tại khu vực thềm lục địa chống lấn được tạo bởi yêu sách trên biển của hai nước.
KẾT LUẬN:
Trong bối cảnh toàn cầu hoá các quan hệ quốc tế và về nền kinh tế tri thức, an ninh cộng đồng quốc tế cũng phải đối mặt với những mạo hiểm mới, những thách thức mới và những hiểm hoạ mới. Các vấn đề đó có thể là: các xung đột trong phạm vi của quốc gia hoặc trong nội khối của các tổ chức quốc tế; khủng bố quốc tế; các hoạt động tội phạm có tổ chức; nguy cơ phổ biến vũ khí giết người hàng loạt; khủng hoảng kinh tế-tài chính toàn cầu; hiểm hoạ môi trường; buôn bán ma tuý; và dịch tả trên quy mô lớn. Tất cả các sự kiện nói trên, trong một chừng mực nào đó có liên quan đến biển cả và Luật biển quốc tế.
Việc ghi nhận hai nguyên tắc tự do biển cả và đất thống trị biển trong Công ước quốc tế về Luật biển năm 1982 đã góp phần quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề mang tính cấp thiết kể trên.Đặc biệt sự đấu tranh và điều hòa giữa hai nguyên tắc này đã tạo ra những điều kiện thuận lợi cũng như là những khó khăn trong việc xác định chủ quyền và quyền chủ quyền trên biển của các quốc gia.Khó đánh giá hết được tầm quan trọng của hai nguyên tắc này và vai trò của nó đối với đời sống con người.Bởi thế giới ngày càng đa cực nhưng không vì thế mà hòa bình và an ninh quốc tế được trường tồn,do đó các vấn đề về biển cả, tự do biển cả, chủ quyền quốc gia đối với biển cả luôn được cộng đồng đặc biệt quan tâm. Việc xác lập hai nguyên tắc này có ý nghĩa rất quan trọng cả về mặt pháp lý lẫn thưc tiễn góp phần không nhỏ vào sự phát triền của loài người và hòa bình thế giới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
¯
Giáo trình Luật Quốc tế của Trường Đại học Luật Hà Nội
Một số vấn đề lí luận cơ bản về Luật quốc tế cùa Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật-NXB Chính trị quốc gia Hà Nội năm 1994
Công ước của Liên Hiệp Quốc về luật biển năm 1982
Tạp chí khoa học Đại Học Quốc Gia Hà Nội ,Luật học 25(2009).tr 33-40.
T.S Trần Văn Thắng, Th.S Lê Mai Anh; Luật Quốc tế - Lý luận và thực tiễn; NXB GD
Bài viết về Vị trí chiến lược, vấn đề biển và Luật biển ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương
Bài viết của Lê Hùng Phong
Tham khảo tài liệu trên các trang web:
luatbien.com
¯
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Vai trò nguyên tắc tự do biển cả và đất thống trị biển.doc