MỤC LỤC
Lời mở đầu 3
Chương I: Cơ sở lý luận về quản lý ngoại hối 4
I. Khái niệm về quản lý ngoại hối 4
II. Mục đích của việc quản lý ngoại hối 5
1. Điều tiết tỷ giá thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia 5
2. Bảo tồn quỹ dự trữ ngoại hối Nhà nước 5
3. Cải thiện cán cân thanh toán 6
III. Cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái 6
1. Khái niệm tỷ giá 6
2.Các loại chế độ tỷ giá hối đoái 7
2.1 Chế độ tỷ giá cố định 7
2.2 Chế độ tỷ giá thả nổi 7
2.3 Chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý 8
3.Quá trình phát triển của hệ thốngtỷ giá hối đoái quốc tế 9
Chương II: Thực trạng quản lý ngoại hối ở Việt Nam 11
I.Các công cụ điều hành tỷ giá 11
1.Mục đích và khả năng can thiệp của NHNN 12
2.Hệ thống các công cụ can thiệp trong quản lý ngoại hối 12
II.Thực trạng quản lý ngoại hối ở Việt Nam 15
1.Sự phát triển của hệ thống tỷ giá ở Việt Nam 15
2.Thời kỳ thả nổi tỷ giá (1989 - 1992) 17
3.Chính sách điều hành tỷ giá hối đoái tự chủ theo cơ chế thị trường 18
4.Cơ chế điều hành tỷ giá trong giai đoạn hội nhập quốc tế hiện nay 19
III.Sự phá giá đồng VND nên hay không nên? 19
1.Phá giá tiền tệ và những tác động của nó 19
2.Tỷ giá của đồng VND hiện nay 20
3 Phá giá hay không phá giá VND? 22
Chương III: Giải pháp cho vấn đề quản lý ngoại hối ở Việt Nam 23
I.Mục tiêu của chính sách tỷ giá ở Việt Nam 23
1.Các mục tiêu của chính sách tỷ giá trong giai đoạn tới 23
2.Định hướng xây dựng chính sách tỷ giá trong giai đoạn tới 24
II.Giải pháp đổi mới cơ chế quản lý ngoại hối 25
III.Hoàn thiện cơ chế điều hành tỷ giá 26
32 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 7889 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Vai trò quản lý ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
TRANG
Mục lục 1
Lời mở đầu 3
ChươngI: Cơ sở lý luận về quản lý ngoại hối 4
I.Khái niệm về quản lý ngoại hối. 4
II.Mục đích của việc quản lý ngoại hối. 5
1.Điều tiết tỷ giá thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. 5
2.Bảo tồn quỹ dự trữ ngoại hối Nhà nước. 5
3.Cải thiện cán cân thanh toán . 6
III.Cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái. 6
1.Khái niệm tỷ giá. 6
2.Các loại chế độ tỷ giá hối đoái. 7
2.1 Chế độ tỷ giá cố định. 7
2.2 Chế độ tỷ giá thả nổi. 7
2.3 Chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý. 8
3.Quá trình phát triển của hệ thốngtỷ giá hối đoái quốc tế. 9
Chương II: Thực trạng quản lý ngoại hối ở Việt Nam. 11
I.Các công cụ điều hành tỷ giá. 11
1.Mục đích và khả năng can thiệp của NHNN 12
2.Hệ thống các công cụ can thiệp trong quản lý ngoại hối. 12
II.Thực trạng quản lý ngoại hối ở Việt Nam. 15
1.Sự phát triển của hệ thống tỷ giá ở Việt Nam. 15
2.Thời kỳ thả nổi tỷ giá (1989 - 1992) 17
3.Chính sách điều hành tỷ giá hối đoái tự chủ theo cơ chế thị trường. 18
4.Cơ chế điều hành tỷ giá trong giai đoạn hội nhập quốc tế hiện nay. 19
III.Sự phá giá đồng VND nên hay không nên? 19
1.Phá giá tiền tệ và những tác động của nó. 19
2.Tỷ giá của đồng VND hiện nay. 20
3. Phá giá hay không phá giá VND? 22
Chương III: Giải pháp cho vấn đề quản lý ngoại hối ở Việt Nam. 23
I.Mục tiêu của chính sách tỷ giá ở Việt Nam. 23
1.Các mục tiêu của chính sách tỷ giá trong giai đoạn tới. 23
2.Định hướng xây dựng chính sách tỷ giá trong giai đoạn tới. 24
II.Giải pháp đổi mới cơ chế quản lý ngoại hối. 25
III.Hoàn thiện cơ chế điều hành tỷ giá. 26
LỜI MỞ ĐẦU
Kể từ sau đại hội Đảng lần thứ VI, nền kinh tế nước ta có những chuyển biến quan trọng. Nền kinh tế thoát khỏi tình trạng khủng hoảng trầm trọng, tỷ lệ tăng trưởng đạt nhanh và ổn định. Lạm phát được khống chế ở mức độ vừa phải, cơ cấu kinh tế có những thay đổi đáng kể. Nền kinh tế Việt Nam đang dần hoàn thiện đặc điểm của một nền kinh tế tiền. Sau hơn 15 năm của thời kỳ đổi mới chuyển sang kinh tế thị trường, quản lý hối đoái và tỷ giá là hai vấn đề kinh tế thu hút sự quan tâm lớn của dư luận, các doanh nghiệp, người dân, cả các nhà khoa học, cơ quan xây dựng chính sách.
Chính sách quản lý ngoại hối thuộc hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước, nhằm thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với ngoại tệ lưu thông, sử dụng trên quốc gia mình cũng như trong quan hệ đối ngoại, theo định hướng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong những năm qua với chức năng tham mưu cho Chính phủ và thực thi chính sách quản lý ngoại hối, điều hành tỷ giá, Ngân hàng Nhà nước không ngừng đổi mới và hoàn thiện công tác này, phù hợp với tiến trình vận động của nền kinh tế, sự phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam hướng tới sự phù hợp với thông lệ quốc tế và nguyên lý của kinh tế thị trường theo định hướng chiến lược chung.
Chính vì vậy mà em đã chọn đề tài :“ Vai trò quản lý ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước” cho tiểu luận môn học của mình. Với khuôn khổ kiến thức cũng như tài liệu có hạn, em xin trình bày về một số vấn đề như: Cơ sở lý luận về tỷ giá và quản lý ngoại hối, cơ chế điều hành quản lý ngoại hối ở nước ta hiện nay, và cuối cùng là một số giải pháp cho vấn đề quản lý ngoại hối ở nước ta.
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NGOẠI HỐI
I. KHÁI NIỆM VỀ QUẢN LÝ NGOẠI HỐI.
Ngoại hối là phương tiện thiết yếu trong quan hệ kinh tế, văn hoá... giữa các quốc gia. Ngoại hối là tiền nước ngoài, vàng tiêu chuẩn quốc tế, các giấy tờ có giá và các công cụ thanh toán bằng tiền nước ngoài.
Ngoại hối trong đó đặc biệt là ngoại tệ có vai trò quan trọng, nó là phương tiện dự trữ của cải, phương tiện để mua, phương tiện thanh toán và hạch toán quốc tế, được các nước chấp nhận là đồng tiền quốc tế, bao gồm ngoại tệ mạnh và kim loại quý, dự trữ tại quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF), quyền rút vốn đặc biệt, SDR và các tài sản có tính linh hoạt cao.
Nền kinh tế ngày càng phát triển, quan hệ quốc tế ngày càng mở rộng thì không thể có một quốc gia nào phát triển một cách đơn độc, khép kín, mà còn đòi hỏi phải mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài. Vì vậy dự trữ ngoại hối là một trong những mục tiêu kinh tế có ý nghĩa quan trọng, có dự trữ ngoại hối cần thiết có nghĩa là Nhà nước đã nắm trong tay một công cụ quan trọng để phục vụ cho việc quản lý mục tiêu kinh tế vĩ mô. Dự trữ ngoại hối để đảm bảo khả năng thanh toán quốc tế, thoả mãn nhu cầu nhập khẩu phục vụ phát triển kinh tế và đời sống trong nước, mở rộng đầu tư, hợp tác kinh tế nước ngoài phục vụ mục tiêu chính sách kinh tế mở. Dự trữ ngoại hối là một cơ sở cho việc phát hành tiền đảm bảo cho mối tương quan giữa tiền-hàng trong nước. Nhà nước có thể chủ động sử dụng ngoại hối như là một lực lượng để can thiệp, điều tiết thị trường tiền tệ theo những mục tiêu theo kế hoạch.
Đối với những nước mà đồng tiền được tự do chuyển đổi, dự trữ ngoại hối là công cụ để can thiệp, điều chỉnh nhằm thiết lập thế cân bằng giữa các đồng tiền trong trật tự tiền tệ quốc tế, phục vụ chính sách kinh tế - xã hội.
Với tư cách là cơ quan duy nhất có nhiệm vụ phát hành tiền, xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ, lập và theo dõi cán cân thanh toán quốc tế Ngân hàng Trung ương (NHTW) đã được giao nhiệm vụ quản lý Nhà nước và kiểm soát ngoại hối trên thị trường là phù hợp. Ngân hàng Anh quốc cũng được chính phủ Anh giao nhiệm vụ thay mặt bộ tài chính quản lý dự trữ ngoại hối quốc gia. Gồm các nguồn dự trữ vàng chính thức của Anh, ngoại hối và quyền rút vốn đặc biệt tại quỹ tiền tệ quốc tế từ đó Ngân hàng Anh can thiệp vào thị trường hối đoái nhằm ngăn chặn sự dao động quá mức giá trị của Bảng Anh với các loại ngoại tệ khác. Tại Việt Nam vấn đề này được đề cập trong pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước (NHNN) năm 1990, Luật NHNN năm 1997 quy định: Nhà nước giao cho NHNN Việt Nam quản lý ngoại hối.
Quản lý ngoại hối là việc Nhà nước áp dụng các chính sách, biện pháp tác động vào quá trình nhập, xuất ngoại hối (đặc biệt là ngoại tệ) và việc sử dụng ngoại hối theo những mục tiêu nhất định.
II.MỤC ĐÍCH CỦA VIỆC QUẢN LÝ NGOẠI HỐI.
1.Điều tiết tỷ giá thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
NHTW thực hiện các biện pháp nhằm thúc đẩy tập trung các nguồn ngoại hối (đặc biệt là ngoại tệ) vào tay mình, để thông qua đó Nhà nước sử dụng một cách hợp lý, có hiệu quả cho các nhu cầu phát triển kinh tế và hoạt động đối ngoại. Đồng thời sử dụng chính sách ngoại hối như một công cụ có hiệu lực để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, thông qua mua bán ngoại hối trên thị trường để can thiệp tỷ giá khi cần thiết nhằm ổn định giá trị đối ngoại của đồng tiền, tác động vào lượng tiền cung ứng.
2.Bảo tồn quỹ dự trữ ngoại hối Nhà nước.
Là cơ quan quản lý tài sản quốc gia, NHTW phải quản lý quỹ dự trữ ngoại hối Nhà nước nhưng không chỉ bảo quản và cất giữ mà còn biết sử dụng để phục vụ cho đầu tư phát triển kinh tế, luôn đảm bảo an toàn không bị ảnh hưởng rủi ro về tỷ giá ngoại tệ trên thị trường quốc tế. Vì thế NHTW cần phải mua bán chuyển đổi để phát triển chống thất thoát, sói mòn quỹ dự trữ ngoại hối của Nhà nước, bảo vệ độc lập chủ quyền về tiền tệ.
3.Cải thiện cán cân thanh toán.
Cán cân thanh toán quốc tế thể hiện quan hệ thu chi quốc tế của một nước với nước ngoài. Cán cân thanh toán phải phản ánh đầy đủ những xu hướng cung cầu về ngoại tệ trong các giao dịch quốc tế nên nó tác động lớn đến tỷ giá hối đoái của đồng tiền.
Khi cán cân thanh toán quốc tế bội thu, lượng ngoại tệ chảy vào trong nước dẫn đến khả năng cung về ngoại tệ cao hơn nhu cầu, trường hợp này tỷ giá vận động theo xu hướng giảm. Ngược lại khi cán cân thanh toán quốc tế bội chi, tăng lượng ngoại tệ chạy ra nước ngoài dẫn đến nhu cầu về ngoại tệ cao hơn khả năng cung ứng, trường hợp này tỷ giá vận động theo xu hướng tăng lên.Như vậy trong cả hai trường hợp nếu không có sự can thiệp của NHTW, tỷ giá sẽ tăng hoặc giảm theo cung cầu ngoại hối trên thị trường. Tuy nhiên ở nhiều nước NHTW đóng vai trò điều tiết tỷ giá để thực hiện mực tiêu của chính sách kinh tế. Nếu NHTW muốn xác lập một tỷ giá ổn định nghĩa là giữ cho tỷ giá không tăng, không giảm, thì NHTW hoặc mua vào số ngoại tệ từ nước ngoài chuyển vào trong nước làm cho quỹ dự trữ ngoại hối tăng lên tương ứng, hoặc NHTW sẽ bán ngoại tệ ra để đáp ứng nhu cầu của thị trường khi có luồng ngoại tệ chảy ra nước ngoài, quỹ dự trữ ngoại hối giảm đi tương ứng.
III.CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
1.Khái niệm tỷ giá.
Người ta có thể định nghĩa về tỷ giá theo các cách sau đây:
- Tỷ giá là tỷ lệ về giá trị giữa 2 đồng tiền với nhau.
- Tỷ giá là giá cả đơn vị tiền tệ của một nước được biểu hiện bằng giá tiền tệ của một nước khác.
- Tỷ giá là tỷ lệ chuyển đổi của một đồng tiền sang một đồng tiền khác.
Xét về mặt giá trị, tỷ giá hối đoái là giá đơn vị tiền tệ được biểu hiện bằng tiền tệ của nước ngoài, là hệ số quy đổi của một đồng tiền sang một đồng tiền khác được hình thành theo quan hệ cung cầu trên thị trường.
2. Các loại chế độ tỷ giá hối đoái.
2.1 Chế độ tỷ giá cố định
Chế độ tỷ giá cố định là việc một quốc gia thực hiện việc điều hành tỷ giá theo cơ chế sau: Nhà nước cam kết đảm bảo duy trì tỷ giá tại một mức xác định được công bố trước hoặc là Nhà nước đảm bảo sự dao động của tỷ giá trong một biên độ nhất định nào đó nếu như tỷ giá có những biến động.
Việc điều hành tỷ giá trong chế độ tỷ giá cố định rất đơn giản và trong chế độ này thì tỷ giá khá ổn định tuy nhiên bù lại trong thời kỳ khủng hoảng cán cân thanh toán bị thâm hụt nghiêm trọng thì sức ép về tỷ giá lên NHNN lại tăng lên gấp bội so với các chế độ tỷ giá khác và nếu NHNN không thể chống đỡ được thì nó buộc phải tuyên bố phá giá tiền tệ thả nổi tỷ giá để cho tỷ giá được xác lập theo các quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối và mọi cam kết của nó trước đây đều không có hiệu lực.
2.2 Chế độ tỷ giá thả nổi
Chế độ tỷ giá thả nổi là chế độ tỷ giá hối đoái do quan hệ cung cầu của các đồng tiền xác định. Trong chế độ này thì tỷ giá được xác định hoàn toàn dựa trên các yếu tố thị trường và đặc biệt trong trường hợp thả nổi hoàn toàn thì NHNN hoàn toàn không tham gia vào việc can thiệp tỷ giá ngay cả với tư cách là một nhân vật tham gia vào thị trưòng một cách vô tư nhất.
Tuy nhiên trong chế độ tỷ giá thả nổi trên thị trường hối đoái các nước còn phân biệt tỷ giá thị trường và tỷ giá chính thức. Tỷ giá thị trường là tỷ giá mua bán ngoại tệ của các Ngân hàng thương mại (NHTM) các sở giao dịch chứng khoán. Tỷ giá thị trường lên xuống xung quanh tỷ giá chính thức theo qui luật cung cầu, các loại hình giao dịch, phương thức giao dịch, các phương tiện giao dịch và thanh toán.Tỷ giá chính thức là tỷ giá do NHTW công bố, gần sát với tỷ giá thị trường nhưng thay đổi chậm hơn tỷ giá thị trường. Tỷ giá chính thức được dùng trong các nghiệp vụ giao dịch giữa các Chính phủ các cơ quan Nhà nước... Đối với chế độ tỷ giá thả nổi chúng ta thấy được một số ưu điểm là chế độ tỷ giá thả nổi tạo ra mức độ độc lập tiền tệ cao hơn, tạo ra cơ chế điều chỉnh tự động đối với các cú sốc thương mại và tránh được sự tấn công mang tính chất đầu cơ, tỷ giá trong chế độ này phản ánh đúng các tín hiệu của thị trường thương mại quốc tế cũng như phản ánh sát tương quan về giá trị đồng tiền của quốc gia. Tuy nhiên nó có một số nhược điểm như tỷ giá liên tục biến đổi và rất khó có thể kiểm soát được, rủi ro trong kinh doanh về tỷ giá tăng, mức độ ổn định của giá trị đồng tiền không cao khiến cho các hoạt động đầu tư không phát triển việc thực hiện các chính sách điều hành nền kinh tế có liên quan tới tỷ giá gặp nhiều khó khăn.
2.3.Chế độ thả nổi có quản lý
Hiện nay, hầu hết các nước trên thế giới đều thực hiện chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý trừ Mỹ, Nhật, Canada. Các nước trong khối cộng đồng chung Châu Âu (EEC) còn thực hiện chế độ thả nổi tập thể các đồng tiền của họ (thời kì đồng EUR chưa lưu hành chính thức) đối với các đồng tiền ngoài khối như USD, JPY, nhưng vẫn duy trì tỷ giá cố định đối với các đồng tiền trong khối. Chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý tuy vẫn do cung cầu quyết định, nhưng khi nội tệ bị lên giá hay hạ giá quá mạnh thì Chính phủ sẽ can thiệp để nội tệ không bị hạ giá quá thấp hay lên giá quá cao. Đây thực chất là hình thức kết hợp của chế độ cố định và chế độ thả nổi hoàn toàn hoặc có thể gọi đây là một chế độ điều hành tỷ giá trung gian. Nó vẫn duy trì vai trò của NHNN trong điều hành tỷ giá nhưng chỉ ở một mức độ vừa phải chứ không qúa nhiều như trong chế độ cố định, NHNN chỉ thực hiện can thiệp vào tỷ giá khi mà nó cảm thấy cần thiết chứ nó không bị rằng buộc trách nhiệm neo giữ tỷ giá trong giới hạn biên độ như trong chế độ cố định. Cũng tương tự chế độ này không như chế độ thả nổi hoàn toàn mà vai trò của Nhà nước ở đây giúp cho tỷ giá không quá biến động tạo ra sự ổn định ở một mức độ nào đó trong quan hệ với việc không can thiệp quá nhiều vào vấn đề tỷ giá. Trong chế độ này thì NHNN can thiệp vào tỷ giá bằng cách tham gia thị trường như một nhân vật của thị trường, tuy nhiên cũng tuỳ mức độ của vấn đề tỷ giá mà NHNN có thể có những mệnh lệnh chính sách áp đặt để thực hiện các quyết định điều hành của mình.
Chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý đem lại khá nhiều lợi ích nó cho phép khắc phục các nhược điểm của hai chính sách trên tuy nhiên việc áp dụng chính sách này rất dễ dẫn đến việc thiên về chính sách tỷ giá cố định bởi vì các quyết định điều hành về tỷ giá thường xuyên bị áp lực từ các quyết định của các chính sách khác vì thế cho nên rất dễ xảy ra việc quá lạm dụng vai trò của Nhà nước trong khi thực hiện chính sách này. Cơ chế can thiệp của NHNN trong trường hợp cần thiết cũng giống như trong chế độ tỷ giá cố định tuy nhiên khi xảy ra khủng hoảng thì áp lực lên NHNN trong điều hành tỷ giá không lớn như trong chế độ tỷ giá cố định bởi vì khi đó tỷ giá sẽ được NHNN để cho các yếu tố thị trường tự điều chỉnh và tác hại trong việc này là rất nhỏ so với trường hợp neo tỷ giá cố định.
Như vậy ta thấy trong chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý thì việc điều hành tỷ giá trở nên có hiệu quả hơn đồng thời nó vẫn đảm bảo được tính linh hoạt cũng như tính bám sát tín hiệu thị trường của tỷ giá ở một mức độ nhất định và có thể chấp nhận được.
3.Quá trình phát triển của hệ thống tỷ giá hối đoái quốc tế
Tỷ giá hối đoái là một nhân tố ảnh hưởng tới ảnh hưởng lớn đến tài khoản vãng lai trên cán cân thanh toán quốc tế và những biến số kinh tế vĩ mô khác cho nên nó là một trong những loại giá quan trọng nhất trong một nền kinh tế mở cửa. Ngày nay các nước công nghiệp hoá đang hoạt động trong một cơ chế các tỷ giá hối đoái được thả nổi và được điều tiết. Tuy nhiên hoàn toàn không phải ngay từ đầu cơ chế điều hành tỷ giá này đã được xác định trong lịch sử cũng ghi lại những vết son khá đậm về sự thay đổi trong cơ chế điều hành tỷ giá. Từ sau chiến tranh thứ II đến năm 1973, nền kinh tế thế giới đã hoạt động trong một hệ thống tỷ giá hối đoái cố định theo USD. Hệ thống này cho phép hiệp định Bretton Woods lập nên đòi hỏi các nước thành viên phải cố định tỷ giá của đồng tiền nước mình so với đồng USD và một giá vàng tính bằng USD không biến đổi là 35 USD một ounce vàng. Các nước thành viên duy trì dự trữ quốc tế chính thức của họ một cách rộng rãi dưới dạng các tài sản bằng USD như tín phiếu kho bạc Mỹ và các khoản tiền gửi ngắn hạn bằng USD có trả lãi và có thể chuyển thành tiền mặt với chi phí tương đối thấp. Mặt khác phải nhấn mạnh rằng các nước đều có thể bán USD cho cục dự trữ liên bang Mỹ lấy vàng. Dưới chế độ này mọi NHTW đều cố định tỷ giá hối đoái giữa đồng tiền nước mình (nội tệ) và USD thông qua việc mua bán đồng nội tệ lấy các tài sản bằng USD trên thị trường ngoại hối. Còn nước phát hành đồng tiền được các nước khác giữ làm dự trữ chiếm một vị trí đặc biệt vì nó không bao giờ phải can thiệp vào thị trường ngoại hối và không hề phải gánh vác việc tài trợ cho cán cân thanh toán của mình. Năm 1965, bắt đầu giai đoạn Mỹ tăng cưòng chiến tranh quân sự ở Việt Nam, đây cũng chính là điểm xoá tan sự bình yên của hệ thống tiền tệ thế giới, chính sách kinh tế vĩ mô của Mỹ giai đoạn này là sai lầm chính làm cho hệ thống tỷ giá cố định tan rã. Chi phí quân sự ngày càng tăng lên, sự thâm thủng trong ngân sách của Mỹ đã đưa cục dự trữ liên bang Mỹ đến chỗ phải chọn một chính sách tiền tệ mở rộng hơn nữa vào năm 1967 và 1968. Tình trạng lạm phát ở Mỹ đã đẩy nhanh hiện tượng đầu cơ trên thị trường, giá vàng giao động mạnh và ngày càng có xu hướng tăng lên, đây là nguyên nhân chính mà NHTW các nước đòi Mỹ đổi số Đôla tài sản họ đang nắm giữ thành vàng. Điều này đã khiến Mỹ lo âu và là một trong nhiều nguyên nhân dẫn đến quyết định phá giá đồng Đôla sau này. Mặt khác lạm phát ở Mỹ gia tăng thì hậu quả chính là sự tăng lên tự động trong tốc độ tăng tiền và lạm phát ở nước ngoài khi NHTW các nước mua đồng tiền dự trữ nhằm giữ vững tỷ giá hối đoái, đồng thời mở rộng mức cung tiền của họ trong quá trình này. Sự tăng trưởng tiền tệ của Mỹ càng cao thì càng kích thích lạm phát trong và ngoài nước, làm cho các Chính phủ nước ngoài ngày càng phải miễn cưỡng nhập khẩu lạm phát của Mỹ thông qua các tỷ giá hối đoái cố định.
Các kiến trúc sư của hệ thống Bretton Woods từng hy vọng vào Mỹ, cho rằng thành viên hùng mạnh nhất của nó có thể có tầm nhìn rộng hơn, xa hơn mục tiêu cục bộ nước mình và chấp nhận những chính sách hướng về sự phồn thịnh chung của nền kinh tế thế giới. Song trên thực tế, mục tiêu tổng thể đó chưa hẳn được Mỹ quan tâm, từ nửa sau những năm 1960 Mỹ đã bắt đầu trút bỏ trách nhiệm được giao phó này, cũng bắt đầu từ đó hệ thống tỷ giá cố định bị rạn nứt. Một loạt các cuộc khủng hoảng kinh tế bắt đầu vào mùa xuân năm 1971 đã từng bước dẫn đến việc từ bỏ các mối quan hệ giữa USD với vàng lẫn tỷ giá hối đoái đô la cố định. Đến năm 1973 hệ thống hối đoái cố định sụp đổ. Lạm phát toàn cầu và chế độ tỷ giá thả nổi chính thức được thiết lập.
Từ 1973 đến 1980 là giai đoạn tỷ giá được thả nổi hoàn toàn. Trong giai đoạn này các tỷ giá thả nổi dường như hoạt động trôi chảy, cán cân thanh toán quốc tế giao động trở lại cân bằng một cách tự nhiên theo quan hệ cung cầu. Phải thừa nhận rằng sự thả nổi đã tạo cho các NHTW khả năng kiểm soát các mức cung tiền của họ và lựa chọn tỷ lệ lạm phát mà mình mong muốn. Tuy nhiên trên thực tế tỷ giá thả nổi chính thức không có khả năng cách ly hoàn toàn các nước khỏi những cú sốc do chính sách của nước ngoài dội vào và đồng tiền các nước dường như biến động thất thường theo sự lên xuống của đồng tiền trụ cột USD. Chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi bị hoài nghi, NHTW các nước không thể thờ ơ trước giá trị đồng tiền của nước mình trên thị trường ngoại hối và họ đã liên tiếp can thiệp vào thị trường ngoại hối để thay đổi giá trị đồng tiền của mình, họ bắt đầu áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý của Nhà nước. Loại hình này tỷ giá này hiện đang được áp dụng ở hầu hết các nước tuy nhiên mức độ điều tiết của mỗi nước mỗi khác. Song sự can thiệp không phải lúc nào cũng đồng nghĩa với tích cực mà nó có những mặt trái nhất định của nó. Kinh nghiệm của một số nước công nghiệp cho thấy rằng cố định quá mức hoặc thả lỏng quá mức đều mang lại những hậu quả nặng nề. Như vậy cần phải có sự can thiệp vừa phải đúng mức, để cái giá phải trả thấp hơn so với mục tiêu đạt được. Điều này phụ thuộc vào sự khôn ngoan và tài năng của một NHTW.
**************************************
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NGOẠI HỐI Ở VIỆT NAM
I. CÁC CÔNG CỤ ĐIỀU HÀNH TỶ GIÁ
Như ta đã nghiên cứu về các chế độ tỷ giá thì thế giới hiện nay đang tồn tại nhiều loại chế độ tỷ giá biến tướng từ hai hình thức cơ bản là thả nổi và cố định. Tức là một một chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý nhưng sự nhấn mạnh vào 2 thái cực thả nổi và quản lý thì ở các mức độ rất khác nhau. Tuy nhiên điểm chung của các chế độ tỷ giá này là luôn có vai trò của NHNN trong can thiệp điều hành tỷ giá vì vậy trước khi nghiên cứu về các công cụ điều hành tỷ giá ở Việt Nam hiện nay chúng ta sẽ nghiên cứu về mục đích và khả năng can thiệp của NHNN vào thị trường ngoại tệ để điều hành tỷ giá hối đoái.
1. Mục đích và khả năng can thiệp của NHNN
Mục đích can thiệp của NHNN là không hoàn toàn giống nhau điều này phụ thuộc vào tình hình ý đồ chiến lược mục tiêu phát triển của mỗi nước, ngay ở mỗi quốc gia mục đích can thiệp cũng tuỳ thuộc vào từng thời kỳ. Điều này cũng không có gì là khó hiểu bởi vì sự phát triển của mỗi quốc gia là khác nhau cũng như trong một quốc gia thì các thời kỳ khác nhau người ta thường đặt ra các mục tiêu rất khác nhau.
Ở Việt Nam can thiệp vào tỷ giá thời gian gần đây NHNN của NHNN là nhằm vào mục đích “ điều hành tỷ giá theo hướng hình thành mức tỷ giá phản ánh sát hơn quan hệ cung cầu trên thị trường, khuyến khích xuất khẩu để đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế giữ cho tỷ giá vận động theo tín hiệu của thị trường nhưng không để xảy ra những biến động lớn vượt quá tầm kiểm soát của chính sách điều hành tiền tệ quốc gia.
Về khả năng can thiệp của NHNN, sự thành công trong can thiệp của NHNN phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhưng nổi bật lên là các yếu tố sau đây:
· Phạm vi hoạt động mua và bán ngoại tệ
· Mức độ tác động của các dự tính về sự biến động của tỷ giá trong tương lai.
·Bên cạnh mức độ can thiệp thì vấn đề có tính quyết định trong thành công là việc sử dụng công cụ nào của chính sách tiền tệ.
2.Hệ thống các công cụ can thiệp trong quản lý ngoại hối
Phương án can thiệp phụ thuộc vào nhiều yếu tố (mục đích, thực trạng thị trường) song trước hết phụ thuộc phần lớn vào chế độ tỷ giá hiện hành đang được áp dụng. Mỗi chế độ quản lý ngoại hối đều có phương án can thiệp điều chỉnh thích hợp. Để thực hiện điều chỉnh tỷ giá hiện nay đã và đang tồn tại nhiều phương pháp khác nhau. Những phương pháp đó là: chính sách chiết khấu, các nghiệp vụ thị trường hối đoái, quỹ bình ổn hối đoái , giảm giá hay tăng giá sức mua đối nội hay sức mua đối ngoại của đồng tiền quốc gia.
· Đối với công cụ lãi suất chiết khấu :Đây là phương pháp thường được sử dụng để điều chỉnh tỷ giá trên thị trường. Với phương pháp này, khi tỷ giá hối đoái trên thị trường đạt tới mức cần điều chỉnh thì NHNN nâng cao lãi suất chiết khấu, đều này làm cho lãi suất cho vay trên thị trường cũng tăng lên. Kết quả là vốn vay ngắn hạn trên thị trường thế giới sẽ dồn vào để thu lãi cao hơn nhờ thế mà sự căng thẳng về nhu cầu ngoại tệ bớt đi làm tỷ giá không có cơ hội để tăng lên nữa. Mặc dù là công cụ được sử dụng thường xuyên ở các quốc gia trên thế giới thế nhưng chính sách lãi suất chiết khấu vẫn có những hạn chế nhất định bởi vì quan hệ giữa tỷ giá và lãi suất chỉ là quan hệ gián tiếp, tác động qua lại chứ không phải là tác động trực tiếp nhân quả.
Đối với Việt Nam những dòng vốn vào ra nền kinh tế chủ yếu là vốn đầu tư nước ngoài, đầu tư gián tiếp và những dòng vốn ngắn hạn những năm qua chiếm tỷ trọng quá thấp , tình hình này chắc chắn sẽ còn kéo dài trong một thời gian tới và nó làm giảm tính cơ động, làm cho chính sách lãi suất chiết khấu chưa thể trở thành công cụ có sức mạnh trong việc thay đổi các dòng tiền tệ nói chung và ngoại tệ nói riêng sự tác động của lãi suất chiết khấu trong thời gian qua nếu có cũng chỉ là ở mức làm thay đổi những dòng tiền tệ trong thị trường nội địa từ nội tệ sang ngoại tệ và ngược lại mà thôi.
· Đối với công cụ nghiệp vụ thị trường mở: Nghiệp vụ thị trường mở được hiểu nghiệp vụ mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối của NHNN để điều chỉnh tỷ giá hối đoái, đây là một trong những biện pháp quan trọng của Nhà nước để giữ vững sự ổn định sức mua của đồng tiền quốc gia. Đây cũng là một biện pháp trực tiếp tác động vào tỷ giá hối đoái. Thông qua nghiệp vụ này NHNN có thể can thiệp một cách rất linh hoạt, nhanh chóng và có hiệu qủa vào tỷ giá. Tuỳ theo điều kiện của mỗi nước mà việc tổ chức thực hiện các nghiệp vụ này có sự khác nhau về phạm vi qui mô cũng như trang thiết bị cơ sở vật chất. Ở những nước có nền kinh tế phát triển cao nghiệp vụ thị trường hối đoái được thực hiện trên trên qui mô rộng lớn, đôi khi mở ra trên phạm vi của cả một khu vực thậm chí cả thế giới. Việt Nam cũng đã rất chú trọng vào việc phát triển công cụ này điều này được thể hiện trong hàng loạt các qui định mới đây về việc đưa các nghiệp vụ thị trường mở chính thức được phép thực hiện giao dịch trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng cũng như trên thị trường tự do giữa các NHTM với dân chúng, không những thế công cụ nghiệp vụ thị trường mở ngày càng khẳng định sự cần thiết của nó trong việc điều hành tỷ giá hối đoái của NHNN Việt Nam trong việc thực hiện các mục tiêu của chính sách tỷ giá.
· Đối với quỹ bình ổn hối đoái: Trong điều kiện giá cả thị trường luôn luôn không ổn định thậm chí hay xảy ra những biến động lớn, các nước thường sử dụng quỹ bình ổn hối đoái như là một trong những công cụ để điều chỉnh tỷ giá điều hành. Nguồn vốn để hình thành nên quỹ bình ổn hối đoái có thể là:
+ Phát hành trái khoán kho bạc bằng tiền quốc gia.
+ Sử dụng vàng để lập quỹ bình ổn hối đoái.
· Đối với công cụ phá giá đồng tiền: Phá giá đồng tiền là việc nâng cao hay giảm thấp sức mua của đồng tiền đó so với các đồng tiền khác . Kết quả của phá giá đồng tiền sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự tăng hay giảm của tỷ giá hối đoái. Phá giá đồng tiền là một biện pháp mạnh và cực đoan, nó chỉ được sử dụng ở các nền kinh tế dồi dào nhưng phải đối đầu với suy thoái kinh tế đi đôi với lạm phát ngày càng trầm trọng hoặc cán cân thanh toán bị mất cân đối nghiêm trọng. Tuy nhiên ngay cả trong những trường hợp như trên thì phá giá đồng tiền cũng chỉ được áp dụng khi mà các biệp pháp khác đã được áp dụng nhưng không đem lại hiệu quả. Ở Việt Nam chúng ta mới chỉ thực hiện phá giá tiền tệ ở một mức độ thấp chúng ta vẫn đang cố gắng sử dụng tất cả các biện pháp khác có thể để điều hành tỷ giá trước khi phải dùng đến công cụ phá giá. Thời gian gần đây đồng VND chịu nhiều sức ép phải giảm giá và nhiều nhà kinh tế đã có ý kiến sử dụng công cụ này ở nền kinh tế Việt Nam hiện nay.
· Đối với công cụ dự trữ bắt buộc: Dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ là việc NHNN buộc các NHTM phải giữ lại một phần nhất định trên tổng số ngoại tệ mà các NHTM có được từ việc thu hút ngoại tệ trong nền kinh tế phần giữ lại này do NHNN quản lý và nó có ý nghĩa đảm bảo cho khả năng thanh toán của các NHTM, hơn thế nữa nó còn là công cụ đắc lực để NHNN mở rộng hoặc thu hẹp hoạt động kinh doanh ngoại hối của NHTM trên thị trường ngoại hối từ đó NHNN có thể có những tác động đến mức tỷ giá trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Đây là công cụ được sử dụng thưòng xuyên tại Việt Nam trong việc điều hành tỷ giá ví dụ như trong thời gian gần đây để đối phó với những bất lợi do tỷ giá mang lại cho đồng VND cũng như việc thực hiện chủ trưong đổi mới điều hành chính sách tỷ giá NHNN đã liên tục tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 8% lên 12% rồi lên đến 15% đồng thời thực hiện tự do hoá lãi suất ngoại tệ, điều này nhằm hạn chế sự mất giá gần đây của USD ổn định tỷ giá để tạo điều kiện cho cạnh tranh của hàng Việt Nam trên thị trường quốc tế hiện nay.
· Đối với các công cụ quản lý có tính chất hành chính: Việc đưa tỷ giá tới gần sự chi phối của các qui luật thị trường hơn, từng bước tiến tới một đồng tiền có khả năng chuyển đổi đồng nghĩa với việc quốc gia đó phải dỡ bỏ dần các biện pháp hành chính trong quản lý tỷ giá. Tuy nhiên việc dỡ bỏ tức thời các biện pháp hành chính không phải là một biện pháp đúng mà chỉ nên nới lỏng một cách từ từ tương ứng với việc gia tăng sức mạnh can thiệp của các công cụ mang tính kinh tế do đó tuỳ theo diễn biến của nền kinh tế mà nới lỏng hay thay thế các biện pháp hành chính được tiến hành nhanh hay chậm. ở Việt Nam chúng ta vẫn còn sử dụng khá nhiều các biện pháp hành chính trong điều hành quản lý tỷ giá tuy nhiên điều này là phù hợp với nền kinh tế còn kém phát triển trình độ quản lý chưa cao của chúng ta. Trong thời gian gần đây do yêu cầu của quá trình đổi mới hội nhập kinh tế thế giới chúng ta đã có những nới lỏng nhất định trong các qui định về quản lý ngoại hối, điều hành tỷ giá như quy định về việc giảm tỷ lệ kết hối từ 100% xuống còn 40%, thông tư 02/2000/TT-NHNN7 ngày 24/02/2000 của thống đốc NHNN Việt Nam về các chính sách đối với nguồn kiều hối.
II. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NGOẠI HỐI Ở VIỆT NAM
1.Sự phát triển của hệ thống tỷ giá ở Việt Nam
Trong giai đoạn từ năm 1955-1989, mặc dù nhiều nước trên thế giới đang áp dụng cơ chế tỷ giá thả nổi và thả nổi có quản lý, nhưng các nước trong hệ thống XHCN, với cơ chế kế hoạch hoá tập trung, Nhà nước luôn can thiệp mạnh vào mọi mặt hoạt động kinh tế, thì quả thực cơ chế hối đoái thả nổi không thể tồn tại và phát huy tác dụng, thay vào đó là chế độ tỷ cố định. Việt Nam cũng không nằm ngoài khuôn khổ ấy. Tỷ giá chính thức của Việt Nam lần đầu tiên được công bố vào ngày 25/11/1955 là tỷ giá giữa đồng Việt Nam và đồng nhân dân tệ Trung Quốc: 1VND =1470 NDT. Tỷ giá này được xác định bằng cách so sánh giá bán lẻ 34 mặt hàng tiêu dùng tại thủ đô và một số tỉnh biên giới giữa 2 nước nhằm giải quyết nhu cầu thanh toán giữa 2 nước trong những năm kháng chiến chống Pháp. Sau đó các tỷ giá giữa Việt Nam và các đồng tiền khác được thiết lập. Bên cạnh tỷ giá chính thức (tỷ giá mậu dịch), Nhà nước còn đưa ra 2 loại tỷ giá khác là tỷ giá phi mậu dịch và tỷ giá kết toán nội bộ. Như vậy tỷ giá ở Việt Nam trong giai đoạn này là chế độ đa tỷ giá. Hệ thống tỷ giá này đã gây không ít khó khăn cho việc quản lý điều hành của Nhà nước trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, kinh tế đối ngoại, đồng thời để lại hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế. Chính vì vậy, nhu cầu đổi mới cơ chế tỷ giá nói riêng, đổi mới lĩnh vực tài chính tiền tệ nói riêng trở thành vấn đề cấp bách.
Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Nhà nước bắt đầu thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế, từng bước xoá bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung chuyển dần sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Đây là thời kỳ có sự chuyển biến mạnh mẽ trong tư duy quản lý và điều hành kinh tế của Nhà nước, nhất là trong lĩnh vực tài chính tiền tệ. Tỷ giá hối đoái, khâu đột phá có vai trò cực kỳ quan trọng đối với quá trình cải cách được đặc biệt quan tâm. Tháng 3/1989 Nhà nước chính thức công bố xoá bỏ tỷ giá kết toán nội bộ, xoá bỏ mọi chế độ trợ giá cho các hoạt động trợ giá cho các hoạt động ngoại thương. Tỷ giá chính thức được NHNN công bố căn cứ vào chỉ số lạm phát, lãi suất, cán cân thanh toán, tham khảo diễn biến tỷ giá trên thị trường tự do và giá vàng trên thị trường quốc tế và trong nước. Trên cở sở này các NHTM xây dựng một tỷ giá riêng cho mình trong giao dịch hàng ngày với biên độ giao động cho phép. Nhìn chung những giải pháp trên đã góp phần cải tạo tình hình thị trường ngoại hối, xoá bỏ tình trạng bất hợp lý trong mua bán, thanh toán, đặc biệt là trong lĩnh vực xuất nhập khẩu.
2.Thời kỳ thả nổi tỷ giá (1989-1992)
Trong giai đoạn 1989-1992 ,tỷ giá điều hành VND/USD biến động mạnh hiện nay theo xu hướng giá trị đồng USD tăng liên tục kèm theo các “cơn sốt”, các đột biến với biên độ rất lớn. Sự biến động mạnh mẽ của tỷ giá VND/USD từ cuối năm 1990 trở đi đỉnh cao của mức tăng giá trị USD là cuối năm 1991 ngày 4/12/1991, giá USD tại thị trường tư nhân tại Hà Nội và TP.HCM là 14450VND/USD và 14580 VND/USD mặc dù giai đoạn 1989-1992 chính sách quản lý ngoại tệ của Nhà nước đã có nhiều thay đổi như chuyển từ hình thức tỷ giá kế toán nội bộ bình quân cho tất cả các nhóm hàng sang tỷ giá theo hàng hoá và duy trì tương đối ổn định các tỷ giá này, hoặc nếu có thay đổi thì cũng ở mức độ nhỏ, nên tỷ giá công bố vẫn ở mức cách xa tỷ giá hình thành trên thị trường. Hơn nữa phần ngoại thương ngoài kế hoạch ngày càng lớn khiến cho thị trường ngoại tệ ngầm ngày càng phát triển và có xu hướng phản ánh tương quan giá trị thực giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ. Sự phát triển của thị trường ngầm làm cho mọi cố gắng quản lý ngoại tệ của Chính phủ ít đem lại hiệu quả thậm chí những quyết định của Chính phủ về quản lý ngoại tệ dễ bị mất hiệu lực ngay khi vừa mới công bố. Như vậy trên danh nghĩa Nhà nước quản lý chặt chẽ đối với lưu thông ngoại tệ nói chung tỷ giá hối đoái nói riêng nhưng trên thực tế tỷ giá hối đoái đã bị thả nổi do cơ chế quản lý ngoại tệ chậm được đổi mới theo từng bước chuyển đổi của nền kinh tế theo hướng thị trường. Trước tình hình đó Chính phủ đã chọn con đường thay đổi cách quản lý ngoại tệ và đổi mới cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái với những nội dung chính như sau:
+ Thay thế biện pháp hành chính, bắt buộc các đơn vị kinh tế quốc doanh có ngoại tệ phải bán cho ngân hàng theo tỷ giá ấn định bằng biện pháp kinh tế: mở trung tâm giao dịch ngoại tệ để các doanh nghiệp và ngân hàng trao đổi và mua bán ngoại tệ với nhau theo giá thoả thuận.
+ Bãi bỏ hình thức qui định tỷ giá nhóm hàng trong thanh toán ngoại thương giữa Ngân sách với các tổ chức kinh tế tham gia xuất nhập khẩu thay vào đó trên cở sở tỷ giá tại các phiên giao dịch ngoại tệ NHNN sẽ công bố tỷ giá chính thức.
3. Chính sách tỷ giá hối đoái tự chủ theo cơ chế thị trường (1992-1998)
Vào thời điểm cuối năm 1992 do kết quả của sự can thiệp của NHNN vào thị trường ngoại tệ tỷ giá VND/USD dần ổn định khiến cho lượng ngoại tệ của các doanh nghiệp được giải toả khỏi các yếu tố đầu cơ, hưóng mạnh vào kinh doanh xuất nhập khẩu đồng thời với các chính sách về khuyến khích nguồn kiều hối chúng ta đã thu được một lượng ngoại tệ đáng kể cho tình hình cung cầu ngoại tệ cũng vì thế mà được cải thiện đáng kể thậm chí trong giai đoạn 1992-1993 tình trạng USD mất giá nhanh đã ảnh hưởng đến xuất khẩu và kích thích nhập khẩu qua mức cuối năm 1994 USD mất giá liên tục so với các đồng tiền chủ chốt mặc dù thế trên thị trường Việt Nam cả hai thời kỳ trên tỷ giá vẫn khá ổn định. Năm 1997 do khủng khoảng tiền tệ ở các nước Đông Nam Á đã làm cho các đồng tiền của các nước trong khu vực bị mất giá mạnh so với USD nhưng đồng VND đã thể hiện sự ổn định của nó và sự ổn định đó có được do chính sách về điều hành tỷ giá theo hướng tiếp cận sát với thị trường cộng với việc nền kinh tế chưa tham gia đầy đủ vào nền kinh tế thế giới nên những ảnh hưởng của khủng hoảng là không lớn. Trong giai đoạn này cơ chế điều hành tỷ giá còn có những thay đổi đáng kể như việc xác định biên độ dao động của tỷ giá xung quanh tỷ giá chính thức được công bố bởi NHNN (mức dao động là ±10%) các công cụ điều hành tỷ giá được mở rộng như việc ban hành “ qui chế hoạt động giao dịch hối đoái “ của quyết định số 17/QD-NHNN7 theo đó các giao dịch thuộc nghiệp vụ thị trường mở được mở rộng như việc đưa thêm vào các công cụ mới như giao dịch hối đoái có kỳ hạn (Forward) giao dịch hối đoái hoán đổi (Swap) điều này đã là tăng lên rất nhiều hiệu quả của việc điều hành tỷ giá của chúng ta trong giai đoạn vừa qua.
4. Cơ chế điều hành tỷ giá trong giai đoạn hội nhập quốc tế hiện nay
Từ tháng 2/1999 bằng hai quyết định 64/1999/QĐ-NHNN7 và 65/1999/QĐ- NHNN7 ngày 25/2/1999 NHNN đã chính thức bãi bỏ việc công bố tỷ giá chính thức nói trên mà thay vào đó là công bố tỷ giá giao dịch ngoại tệ bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Các NHTM được phép xác định tỷ giá mua và tỷ giá bán đối với USD nhưng không vượt quá biên độ 0,1%với tỷ giá giao dịch thực tế bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng do NHNN công bố hàng ngày. Có thể nói đây là một bước đổi mới rất quan trọng không những trong quan niệm tư duy mà cả trong thực tiễn quản lý, với cơ chế này làm cho tỷ giá trên thị trường vận động một cách khách quan phản ánh đúng các quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường đồng thời cũng phù hợp với cơ chế điều hành tỷ giá của nhiều nước trên thế giới.
III. SỰ PHÁ GIÁ CỦA ĐỒNG VND NÊN HAY KHÔNG NÊN?
Thời gian gần đây bắt đầu từ cuối tháng 5/2001 diễn biến tỷ giá USD/VND theo hướng USD liên tục tăng giá so với VND đây là một hiên tượng không bình thường vì nó lại không diễn ra trong bối cảnh lạm phát cao mà lại diễn ra trong bối cảnh giảm phát. Điều này đặt ra một yêu cầu phải nghiên cứu kỹ diễn biến này để chọn ra giải pháp hợp lý và chủ yếu để giải quyết cho những tâm lý ủng hộ việc phá giá đồngVND vào thời điểm hiện nay.
1. Phá giá tiền tệ và những tác động của nó
Như ta đã biết phá giá tiền tệ là một trong những công cụ điều chỉnh tỷ giá hối đoái. Phá giá tiền tệ là việc Nhà nước chính thức hạ thấp giá trị của đồng nội tệ so với ngoại tệ để thiết lập một mặt bằng tỷ giá mới giữa nội tệ và ngoại tệ vời kỳ vọng sẽ khôi phục được sức mua của đồng nội tệ .
Khi đồng nội tệ bị đánh giá quá cao so với đồng ngoại tệ thì thường tạo ra các xu hướng sau:
+ Không khuyến khích xuất khẩu, giảm đầu tư cho sản xuất hàng xuất khẩu gây khó khăn cho việc dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất phục vụ xuất khẩu.
+ Nhập khẩu có cơ hội mở rộng, dễ gây ra nhập khẩu tràn lan, dễ gây tình trạng nhập siêu xu hướng sản xuất hướng vào thị trường nội địa được chú trọng hơn.
+ Các khoản vay nợ nước ngoài sẽ không được chú trọng sử dụng có hiệu quả do không tính đúng giá trị thực của các khoản vay(tính giảm giá trị cả các khoản vay).
Khi đồng nội tệ bị đánh giá thấp so với đồng ngoại tệ thì thường tạo ra các xu hướng sau:
+ Hoạt động xuất khẩu sẽ phát triển thuận lợi hơn do sự rẻ đi tương đối của hàng hoá nước đó.
+ Hạn chế nhập khẩu do hoạt động này trở nên đắt đỏ hơn trước.Hàng hoá sản xuất trong nước ít bị lấn át bởi hàng ngoại.
+ Các khoản vay nước ngoài lúc này sẽ được tính toán sử dụng có hiệu quả hơn trước do việc đánh giá tăng giá trị của các khoản vay.
2. Tỷ giá của đồngVND hiện nay
Hiện nay để định mức tỷ giá tương đối hợp lý đối với VND chúng ta sử dụng phương pháp đồng giá sức mua để tính toán mặc dù đây không phải là phương pháp định luợng chính xác song nó có các yếu tố định tính đáng tin cậy.
Tỷ giá danh nghĩa hiện nay và tỷ giá tính theo phương pháp đồng giá sức mua có mức chênh lệch không nhiều (khoảng 3,5%) các năm có mức chênh lệch lớn là 1995, 1996, 1997. Đến năm 1998 nhờ có sự điều chỉnh tỷ giá 5,6% đã làm giảm bớt mức chênh lệch giữa hai loại tỷ giá và mức chênh lệch này liên tục giảm vào các năm 1999, 2000.
Mức độ chênh lệch cao hay thấp của VND còn có thể đánh giá bằng cách so sánh diễn biến tỷ giá hối đoái thực tại một số nước trong khu vực Đông Nam Á vào khoảng giữa cuối năm 1997. Từ cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á cho đến cuối tháng 2/1998 VND đã lên giá 15% tính theo tỷ giá hối đoái thực, trong khi các đồng tiền của các nước láng giềng lại giảm giá khoảng 25-30%, nhiều đồng tiền trong khu vực bị mất giá mạnh so với USD vì thế vô hình chung lên giá so với các đồng tiền khác trong khu vực. Tóm lại, ta thấy VND hiện nay được đánh giá cao hơn giá trị thực của nó đặc biệt là đối với các đồng tiền trong khu vực điều này thực tế đã gây cho chúng ta nhiều khó khăn trong xuất khẩu thời gian gần đây khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu của Việt Nam giảm so với các nước trong khu vực vì vậy cần có chính sách điều chỉnh tỷ giá cho phù hợp với giá trị thực tế để khuyến khích xuất khẩu hạn chế nhập khẩu tràn lan kích thích sản xuất theo hướng sản xuất phục vụ xuất khẩu. Bảng A: Thay đối tỷ giá hối đoái trong cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á đến tháng 1/2001
Tên nước
So sánh với USD
(% thay đổi giá trị )
So sánh với VND
(% thay đổi giá trị )
12/6è1/01
7/97è1/01
12/6è1/01
7/97è1/01
Việt Nam
-24
-20
0
0
Phillipine
-48
-48
-31
-35
Singapore
-40
-41
-22
-27
Thailand
-19
-17
+6
+3
Hongkong
-1
-1
+30
+24
Malaysia
-33
-34
-13
-17
Indonesia
-75
-74
-67
-68
China
0
0
+32
+25
Korea
-33
-30
-12
-13
Japan
+1
-1
+32
+23
3. Phá giá hay không phá giá VND?
Ở trên đã trình bày thực trạng VND đang bị đánh giá cao so với các đồng tiền khác trong khu vực từ đó có trể thấy rằng cần thiết phải định giá lại VND để góp phần nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường quốc tế . Tuy nhiên điều này nên hiểu là một động tác trong việc thực hiện chính sách điều hành tỷ giá của NHNN nhằm làm cho tỷ giá trở nên phù hợp với tình hình hiện tại chứ không hiểu đây là hành động phá giá của NHNN. Trong giai đoạn hiện nay việc định giá lại VND ( cụ thể là đánh giá thấp giá trị VND so với USD) sẽ có những mặt lợi sau đây:
Thứ nhất, tạo điều kiện cho xuất khẩu với một mức tỷ giá đủ cao thì sẽ khuyến khích các doanh nghiệp mạnh dạn chuyển sang sản xuất hàng xuất khẩu.
Thứ hai, hạn chế được nhập khẩu tràn lan giảm thâm hụt cán cân thương mại, tránh cho hàng nội khỏi sự cạnh tranh của hàng ngoại trên thị trường nội địa mà không phải sử dụng đến các rào cản thương mại đồng thời khuyến khích sử dụng có hiệu quả các nguốn lực trong nước.
Thứ ba, nâng cao trách chiệm và hiệu quả ngoại tệ của các nhà nhập khẩu hàng hoá vì họ phải tính toán sử dụng ngoại tệ một cách tối ưu, có hiệu quả hơn khi mà ngoại tệ trở nên đắt đỏ hơn.
Hơn nữa tính đến cuối năm 2000 nợ nước ngoài của chúng ta là gần 9 tỷ USD (bằng 30%GDP vá 65% giá trị xuất khẩu ) đây là mức độ nợ trung bình và nằm trong phạm vi cho phép cộng với việc kiểm soát lạm phát ở mức thấp nên việc đánh giá thấp VND không ảnh hưởng nhiều đến nghĩa vụ trả nợ của nền kinh tế. Cùng với chủ trương kích cầu đầu tư thì việc đánh giá thấp VND vào thời điểm hiện nay bằng việc dùng VND mua USD sẽ đưa được một lượng lớn tiền đồng vào lưu thông tạo điều kiện cho thị trường hoạt động sôi nổi hơn chặn được giảm phất đồng thời tăng được dự trữ ngoại tệ cho NHNN.
Như vậy trong vấn đề phá giá hay không phá giá của VND ta thấy được vai rò cần thiết quan trọng của việc điều hành tỷ giá, sự tăng hay giảm của tỷ giá đều dẫn tới những tác động vào xuất khẩu, nhập khẩu đến khả năng cạnh tranh của một quốc gia trên thị trường quốc tế. Vấn đề phá giá đồng tiền là một vấn đề rất nhạy cảm vì thế nó chỉ được chọn là “phương thuốc” cuối cùng cho những “căn bệnh hiểm nghèo nhất” của tỷ giá phá giá đồng tiền khác với quyết định điều hành tỷ giá bằng cách đánh giá giảm hay tăng giá trị của đồng tiền quốc gia vì vậy mà không nên nhầm lẫn giữa một quyết định điều hành đánh giá giảm giá trị đồng tiền với việc phá giá đồng tiền.
**************************************
CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP CHO VẤN ĐỀ QUẢN LÝ NGOAI HỐI Ở VIỆT NAM
I. MỤC TIÊU CỦA CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ Ở VIỆT NAM
1. Các mục tiêu của chính sách tỷ giá trong giai đoạn tới
· Mục tiêu chiến lược: Thường xuyên xác lập và duy trì tỷ giá cân bằng, ổn định dựa trên sức mua thực tế của VND và của các đồng tiền khác, tương quan cung cầu trên thị trường. Không ngừng nâng cao uy tín của VND trên cơ sở ổn định vững chắc giá trị của nó, sự tương đồng hợp lý giữa giá trị đội nội và đối ngoại. Vấn đề uy tín của VND được nhấn mạnh bởi nó có ý nghĩa hết sức to lớn trên phương diện kinh tế, chính trị, đối nội, đối ngoại, đồng thời gắn với hàng loạt vấn đề mang tầm chiến lược. Một đồng tiền mất uy tín sẽ là tổn thương đến tích luỹ, đầu tư nội địa tăng nguy cơ lạm phát, chi phí lãi suất huy động cao, thậm chí có thể bị loại ra khỏi hệ thống thanh toán ngay tại quốc gia đó.
· Phối hợp với chính sách quản lý ngoại hối đẩy lùi căn bản hội chứng Đôla hoá nền kinh tế trên cơ sở tạo ra đầy đủ các tiền đề kinh tế, pháp chế để VND thực hiện trọn vẹn vai trò của mình và tăng cường vai trò trong nền kinh tế trong nước cũng như quốc tế, nhất là trong lưu thông thanh toán và với tư cách là phương tiện tích luỹ tài sản, phấn đấu thực hiện đầy đủ chủ quyền tiền tệ quốc gia.
· Tạo ra các tiền đề cần và đủ để mở rộng hình thức nội dung phạm vi chuyển đổi của VND. Với thực lực đồng VND hiện nay thì trong tương lai gần vấn đề chuyển đổi hoàn toàn chỉ đặt ra trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam.
· Tăng dự trữ ngoại tệ lên mức thích hợp với cơ cấu dự trữ ngoại tệ hợp lý đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế .Việt Nam là một quốc gia có số lượng nợ đến hạn ngày càng cao, nhu cầu ngoại tệ của nền kinh tế gia tăng nhanh, vì thế chính sách tỷ giá cần phải hướng vào mục tiêu này.
2.Định hưóng xây dựng chính sách tỷ giá
· Chính sách tỷ giá phải hướng vào xử lý và điều hành tỷ giá theo cơ chế thị truờng: Đây là yêu cầu đầu tiên và trước hết của chính sách tỷ giá bởi vì chỉ có điều chỉnh tỷ giá theo cơ chế thị trường thì mới đảm bảo việc điều chỉnh có tác dụng và chính xác, đảm bảo cho tỷ giá giữ được tính linh hoạt của nó, việc điều hành theo cơ chế thị trường còn là cách can thiệp vào tỷ giá vô tư nhất của NHNN ngoài ra nó còn tạo thêm cho Việt Nam những kinh nghiệm trong việc sử dụng các công cụ điều hành mang tính chất thị trường để tiến tới thay thế các công cụ mang tính chất hành chính.
·Chính sách tỷ giá phải hỗ trợ tốt nhất cho chính sách khuyến khích xuất khẩu: Hiện nay chúng ta đang thực hiện chuyển dịch nền kinh tế theo hướng xuất khẩu vì thế việc thực hiện chính sách tỷ giá theo hướng này là cần thiết, hơn nữa để phù hợp với mục tiêu tăng dự trữ ngoại tệ quốc gia thì chúng ta cần phải có thêm rất nhiều nguồn thu ngoại tệ mà trong đó xuất khẩu là một nguồn thu chính nếu không muốn nói là rất quan trọng.
·Chính sách tỷ giá không tách rời quản lý của Nhà nước: thực hiện định hướng này là phù hợp với mục tiêu nâng cao uy tín của VND cũng như việc loại bỏ tình trạng Đôla hoá trong nền kinh tế Việt Nam. Trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam còn nhiều yếu kém cả về tiềm năng cũng như kinh nghiệm quản lý thì chính sách tỷ giá lại càng không thể được tách rời sự quản lý của Nhà nước
II. GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI CƠ CHẾ QUẢN LÝ NGOẠI HỐI
· Lựa chọn chế độ tỷ giá thả nổi có sự quản lý điều tiết của Nhà nước
Việc tiếp tục duy trì chế độ tỷ giá VND/USD “ thả nổi có quản lý ” như hiện nay để có thể điều hành linh hoạt hơn thông qua biện pháp nới lỏng dần từng bước biên độ dao động xung quanh tỷ giá VND/USD mà không gây tác động phá giá đột biến. Lựa chọn chế độ tỷ giá này sẽ giúp cho Việt Nam chủ động hơn trong quá trình tham gia vào các quan hệ thương mại quốc tế, đảm bảo sự ổn định và độc lập nhất định của đồng VND đồng thời nó phù hợp cho việc điều hành tỷ giá phục vụ cho mục tiêu hướng sản xuất vào phục vụ xuất khẩu.
· Đổi mới cơ chế điều hành tỷ giá theo hướng tự do hoá dần:
Giải pháp này tạo điều kiện choViệt Nam trong việc hội nhập vào nền kinh tế thế giới việc tự do hoá dần nhằm hướng tới mục tiêu chuyển đổi đồng VND.
· Thực hiện chính sách quản lý ngoại hối nghiêm ngặt:
Như ta đã nghiên cứu thì chúng ta cần phải quản lý thật chặt các nguồn ngoại hối nhằm kiểm soát được các luồng ngoại tệ di chuyển vào ra đất nước để nâng cao hiệu quả của các chính sách điều hành tỷ giá của NHNN đồng thời khắc phục hiện tượng Đôla hoá trong nền kinh tế, tạo ra uy tín cho đồng VND. Quản lý chặt ngoại hối còn cho phép chúng ta có thể có những quyết định về điều hành tỷ giá chính xác hơn.
· Tạo thêm phương tiện truyền tải giá trị:
Việc làm này nhằm đa dạng hoá các phương tiện thanh toán cũng như các phương tiện cất trữ giá trị, nó làm cho người dân cũng như Chính phủ có thể có được nhiều sự lựa chọn hơn trong việc thanh toán, và cất trữ giá trị tránh được sự phụ thuộc quá nhiều vào một loại ngoại tệ nào đó đồng thời tạo điều kiện để quá trình lưu thông hàng hoá trở nên dễ dàng hơn. Về khía cạnh điều hành tỷ giá thì giải pháp sẽ cho phép NHNN có nhiều công cụ để điều hành tỷ giá hơn.
· Giảm chênh lệch lãi suất cho vay bằng nội tệ và lãi suất cho vay ngoại tệ:Việc giảm lãi suất như trên sẽ làm cho người dân tin tưởng vào đồng VND hơn từ đó có thể nâng cao uy tín vị thế của đồng VND, tạo điều kiện cho VND thành đồng tiền chuyển đổi trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Đồng thời việc làm này cũng góp phần làm giảm bớt tình trạng Đôla hoá trong nền kinh tế.
III. HOÀN THIỆN CƠ CHẾ QUẢN LÝ NGOẠI HỐI
· Củng cố phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng:
Cải cách hoạt động của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng theo hướng giảm độc quyền nâng cao chất lượng các nghiệp vụ kinh doanh và bảo hiểm tỷ giá. Đặc biệt là các nghiệp vụ hoán đổi tiền tệ (Swap), đồng thời từng bước cho phép thực hiện các nghiệp vụ tương lai (Future) và quyền chọn(Option) nhằm cung cấp cho các doanh nghiệp các nhà đầu tư những công cụ phòng ngừa rủi ro ngoại hối hữu hiệu: giảm thiểu được những tác động tiêu cực đối với sản xuất và kinh doanh do những biến động khó lường của tỷ giá gây nên.
· Nâng cao va đa dạng hoá dữ trữ ngoại tệ Nhà nước:Nâng cao và đa dạng hoá dự trữ ngoại tệ Nhà nước bằng nhiều cách khác nhau như trích từ nguồn thu xuất khẩu, ký các hiệp định hoán đổi tiền tệ quốc tế. Dự trữ ngoại tệ là công cụ đắc lực cho phép NHNN điều tiết thị trường ngoại hối nhằm tránh những dao động đột biến của tỷ giá những không cản trở xu hướng phát triển chung của thị trường.
· Xác đinh cấu trúc dự trữ ngoại tệ hợp lý: Một cơ cấu dự trữ ngoại tệ hợp lý sẽ giúp cho việc quản lý tỷ giá được linh hoạt hơn, tránh để dự trữ phụ thuộc vào một số ít các ngoại tệ, giải pháp này nhằm cải thiện tính linh hoạt của công cụ dự trữ cũng như để đảm bảo an toàn cho nó.
· Chuẩn hoá các chỉ số kinh tế vĩ mô:
Đây là giải pháp chung không chỉ riêng cho vấn đề tỷ giá, việc chuẩn hoá này sẽ cho phép đo lường các đại lượng kinh tế một cách thống nhất và chính xác nhất để từ đó có thể hoạch định chính xác các chính sách mà trong đó các đại lượng kinh tế có liên quan đến nhau.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình thị trường ngoại hối - HVNH
Giáo trình môn nghiệp vụ NHTW và chính sách tiền tệ - HVNH
Tạp chí Ngân Hàng.
Tạp chí tài chính tiền tệ.
Lý thuyết tiền tệ của Mishkin.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Vai trò quản lý ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước.doc