Theo quy định hiện hành, để được thưởng về kim ngạch xuất khẩu đối 
với hàng thủ công mỹ nghệ, doanh nghiệp phải đạt mức kim ngạch 5 triệu 
USD/năm trở lên. Còn sau đó, nếu doanh nghiệp duy trì và phát triển tốt để 
được xét thưởng tiếp thì doanh nghiệp phải có tốc độ tăng trưởng kim ngạch 
xuất khẩu đạt mức quy định, mức hiện hành là 20% /năm đối với toàn bộ 
kim ngạch năm sau so với năm trước.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 95 trang
95 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4282 | Lượt tải: 3 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Vai trò và nội dung của hoạt động xuất khẩu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 động nhận 
thức đầy đủ hơn về sản phẩm mây tre xuất khẩu. Để họ không chỉ sản xuất 
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý 
Quúnh 
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 68 
mặt hàng mây tre đan vì mục đích duy nhất là kinh tế. Sản phẩm mây tre mỹ 
nghệ là sản phẩm vừa mang giá trị hàng hoá, đồng thời nó cũng mang đậm 
tính văn hoá dân tộc. Người sản xuất không chỉ làm ra giá trị sử dụng và 
chuyển giá trị sử dụng đó cho người nước ngoài mà phải chuyển tải cả giá trị 
văn hoá nữa. Có thể nhận thức được vấn đề này người sản xuất sẽ quan tâm 
hơn nữa đến chất lượng sản phẩm. 
◊Công ty cũng nên đầu tư vào thiết bị máy móc, công nghệ, các chất xử 
lý khác để nâng cao chất lượng xử lý nguyên liệu dẫn tới nâng cao chất 
lượng sản phẩm hàng hoá xuất khẩu. 
◊Mặc dù hàng mây tre mỹ nghệ là hàng khó chuẩn hoá về chất lượng. 
Song việc mua gom hàng hoá không thể tiến hành ồ ạt mà phải có chọn lựa, 
phải có những mặt hàng mẫu có tiêu chuẩn tốt là đối tượng để so sánh. Phải 
kiên quyết loại bỏ những mặt hàng không đủ tiêu chuẩn xuất khẩu, từ đó 
tăng ý thức trách nhiệm đối với người sản xuất. 
◊Công ty cũng nên quan tâm tới tiêu chuẩn ISO( hệ thống tiêu chuẩn 
quốc tế )trong đó bao gồm những quy định quốc tế đối với chất lượng hàng 
hoá xuất khẩu và hệ thống đảm bảo chất lượng nhằm tăng khả năng cạnh 
tranh của doanh nghiệp trên thương trường. Vì hiện nay không những công 
ty mua gom hàng từ các cơ sở làng nghề mà công ty còn có xưởng sản xuất 
hàng mây tre đan và xí nghiệp liên doanh với Trung Quốc sản xuất chiếu 
tre…Nếu tiến tới công ty có thể áp dụng thực hiện đạt được chứng nhận tiêu 
chuẩn ISO thì đó là một lợi thế rất lớn trong cạnh tranh, mở rộng hoạt động 
và nâng cao hiệu quả kinh doanh xã hội. 
1.3 Hoàn thiện chính sách phân phối 
Chính sách phân phối có vai trò vô cùng quan trọng trong hoạt động kinh 
doanh. Một chính sách phân phối hợp lý sẽ làm cho quá trình kinh doanh an 
toàn, tăng cương được khả năng liên kết trong kinh doanh, làm cho quá trình 
lưu thông nhanh và hiệu quả. Vì vậy, chính sách phân phối hợp lý sẽ giúp 
công ty chiếm lĩnh và mở rộng thị trường. Hiện tại kênh phân phối của công 
ty có dạng sau: 
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý 
Quúnh 
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 69 
CaCcC 
Hiện nay công ty không có mạng lưới phân phối trực tiếp đến tay người 
tiêu dùng mà thương bán cho các trung gian nước ngoài. Với kiểu kinh 
doanh này, chính sách phân phối của công ty có nhược điểm là: 
+ Hoạt động phân phối của công ty phụ thuộc nhiều vào các cơ sở sản 
xuất, chế biến ngoài công ty. Hiện tại các cơ sở này rất nhỏ bé, chưa có điều 
kiện tham gia hoạt động xuất khẩu, mặt khác hoạt động của họ còn bị hạn 
chế do công ty có những biện pháp kết dính các cơ sở này lớn mạnh lên hoặc 
liên kết với nhau tạo những điều kiện thuận lợi để tự thực hiện xuất khẩu thì 
công ty sẽ lâm vào tình trạng thiếu hàng để phân phối. 
Biện pháp cần thiết để đề phòng là trước mắt công ty phải phát huy thế 
mạnh của mình về vốn và thị trường xuất khẩu. Mặt khác Công ty phải tỏ rõ 
sự nổi trội của mình về sự hiểu biết thị trường trong các giao dịch, buôn bán 
với bạn hàng nước ngoài. 
+ Trong xuất khẩu hàng mây tre đan, Công ty hầu hết phải qua trung 
gian nước ngoài, do đó tính ổn định trong kinh doanh chưa cao, không có 
điều kiện tốt phát triển thị trường và lợi nhuận cũng chưa tương xứng với giá 
trị thực của sản phẩm. Với điều kiện hiện nay công ty chưa đủ khả năng lập 
chi nhánh tại nước ngoài nhưng công ty có thể hợp tác với các Công ty xuất 
khẩu hàng mây tre đan khác trong nước thành lập chi nhánh bán hàng mây 
tre đan của Việt Nam. Trong điều kiện sản phẩm mây tre đan chưa có chỗ 
đứng vững chắc trên thị trường thế giới thì việc liên kết này rất có lợi, tập 
trung được sức mạnh của nhiều công ty phục vụ cho mục đích hàng đầu là 
nâng cao vị thế của hàng mây tre đan Việt Nam trên thị trường thế giới, đạt 
được mục đích này đối với các công ty xuất khẩu trong đều có lợi ích lớn và 
lâu dài. Khi sản phẩm mây tre đan đã có chỗ đứng thì việc mở rộng thị 
trường sẽ không quá khó khăn. 
Các cơ 
sở chế 
biến 
UNIME
X H  
Tây 
Trung 
gian nước 
ngo i 
Người tiêu 
dùng cuối cùng 
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý 
Quúnh 
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 70 
Tuy nhiên đối với thị trường mới mà công ty chưa len vào được thì trung 
gian vẫn là biện pháp tốt nhất. 
Đối với những người môi giới đem lại nhiều khách hàng cho công ty thì 
công ty cũng cần có chế độ thưởng hoa hồng phù hợp, khuyến khích họ tiếp 
tục phát huy. Hiện nay công ty nên ưu tiên cho việc thu hút nhiều khách 
hàng hơn chỉ tìm những nguồn tiêu thụ lớn. 
Trong cd phân phối, công ty có thể lựa chọn các vị thế khác nhau tuỳ 
theo điều kiện cụ thể để xuất khẩu, bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng 
mà khồng cần người trung gian( đối với hàng mây tre đan nguyên liệu, hoặc 
những sản phẩm cao cấp phục vụ cho nhu cầu cá biệt của một số người ), 
bán hàng qua trung gian là các công ty nước ngoài( khi muốn thâm nhập vào 
thị trường mới như Mỹ, úc, Phi…)thông qua một vài kết hợp của các kênh 
trên nhằm múc đích vươn tới các thị trường khu vực khác nhau được phân 
hoá bởi quy mô doanh số. 
Việc hoàn thiện kênh phân phối được thể hiện như sau: 
1.4 Xác lập chính sách giá cả hớp lý 
Ngư
ời 
tiêu 
UNIME
X H  
Trung gian 
nước 
ngo i 
Chi nhánh, 
Đại diện 
thương 
mại ởnước 
Cơ sở 
sản 
xuất 
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý 
Quúnh 
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 71 
Giá cả của sản phẩm không chỉ là phương tiện tính toán mà còn là công 
cụ bán hàng. Chính vì lý do đó, giá cả là yếu tố quan trọng, ảnh hưởng trực 
tiếp đến lượng xuất khẩu hàng hoá ra các thị trường của công ty. 
Tuỳ theo sự biến động của các yếu tố mà mức giá luôn luôn được điều 
chỉnh từng thời điểm. Giá cả hàng mây tre đan xuất khẩu của công ty cũng 
như cá công ty xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ khác vào loại thấp trên thị 
trường. Giá sản phẩm cùng tên của Việt Nam chỉ bằng 1/5 đến 1/2 giá bán 
của các nước khác như Indonexia, Thái Lan, Hongkong…Nguyên nhân cơ 
bản là do chế độ đãi ngộ, sử dụng các nghệ nhân, hoạ sĩ, người lao động sản 
xuất chế biến mây tre đan chưa thoả đáng nên mẫu mã ít thay đổi, kém nghệ 
thuật và mang tính thương mại kiểu hàng chợ…dẫn đến sản phẩm kém chất 
lượng, chưa đáp ứng sở thích người tiêu dùng nên giá rẻ. Lý do quan trọng 
nữa là công ty và các doanh nghiệp khác đều rất yếu về khâu tiếp thị, mặt 
hàng mây tre đan xuất khẩu của công ty khó tìm được một phạm vị tiêu thụ 
lớn như các nước cùng xuất khẩu trong khu vực. Một nguyên nhân khác 
khiến hàng Việt Nam giá rẻ là do cạnh tranh không lành mạnh, làm thiệt hại 
cho đất nước và cho chính bản thân mỗi doanh nghiệp. Về điều này các 
doanh nghiệp mây tre Việt Nam nên học tập các doanh nghiệp Nhật“ biết 
đóng cửa bảo nhau ”cùng vì lợi ích quốc gia và lợi ích lâu dài của chính bản 
thân mình. 
Là một đơn vị có mặt hàng mây tre đan xuất khẩu nhưng sản phẩm này 
không phải chỉ do công ty sản xuất được mà còn thu gom sản phẩm xuất 
khẩu từ các đơn vị sản xuất, chế biến khác nên trong việc xác lập một chính 
sách giá cả hợp lý phải hoạch định giá mua và giá xuất khẩu. Cụ thể như 
sau: 
`◊Mức giá xuất khẩu cao hơn có thể áp dụng đối với một số thị trường 
nhất định, khi sản phẩm có vị trí vững chắc trên thị trường. Điều này có thể 
áp dụng đối với những sản phẩm như bàn ghế song mây, mành tre, mành 
mây, mành trúc…của công ty tại các thị trường Châu á và Tây Bắc Âu. 
◊Mức giá xuất khẩu thấp hơn được áp dụng khi sản phẩm đang ở vào 
giai đoạn suy thoái, khi công ty có ý định thâm nhập thị trường, theo đuổi 
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý 
Quúnh 
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 72 
mục tiêu doanh số. Công ty có thể áp dụng cách đặt giá này ở thị trường 
Đông Âu- SNG. 
 ◊Với những sản phẩm thô( hàng thông thường )Công ty nên thường 
xuyên xây dựng những phương án đối với những nhà cung ứng trên cơ sở 
tiến hành thương lượng, đàm phán, mặc cả để chọn được một giá thu mua rẻ 
nhất. 
◊Với sản phẩm kỹ thuật( có chất lượng cao )giá cả trên thị trường khá 
cao. Tuy nhiên, nguồn cung cấp những sản phẩm này trong nước lại khá hạn 
hẹp và giá thu mua cao. Công ty nên đầu tư cho những cơ sở mà công ty thu 
mua, mở rộng các cơ sở này để tạo nguồn sản phẩm kỹ thuật cho xuất khẩu. 
Một điều cần lưu ý là giá xuất khẩu phải tính đến yếu tố cạnh tranh. Đối 
với những thị trường có mức thu nhập cao như Mỹ, Nhật Bản, Tây Âu…thì 
việc đặt giá thấp hơn đối thủ cạnh tranh chưa hẳn đã thu hút được nhiều 
khách hàng hơn. Mặt khác, khi giá quá cao so với đối thủ cạnh tranh có thể 
gây phản ứng nghi ngờ của khách hàng về chất lượng sản phẩm của công ty. 
Do đó, phải phân tích lựa chọn thật kỹ càng khi đặt giá. 
1.5 Tăng cường các biện pháp hỗ trợ và xúc tiến bán hàng 
Một vấn đề mà các công ty Việt Nam luôn vấp phải khi xuất khẩu hàng 
hoá ra thị trường nước ngoài là sự khác biệt về trình độ tổ chức các hoạt 
động hỗ trợ và xúc tiến bán hàng giữa ta và các công ty nước ngoài cùng 
tham gia thị trường đó. 
Các công ty Việt Nam chưa có sự chú ý đến các hoạt động quảng cáo, 
chào hàng, giới thiệu sản phẩm, khuyếch trương sản phẩm, kích thích 
cầu…hoặc nếu có thì ở mức độ nhỏ và còn kém hiệu quả. 
Việc sử dụng các công cụ hỗ trợ, xúc tiến bán hàng của công ty còn 
mang tính thụ động, bột phát theo phong trào, chưa hình thành nên chương 
trình với những mục tiêu cụ thể, cách thức chiến lược cụ thể đem lại kết quả 
như ý muốn. Chính vì vậy, trong thời gian tới công ty nên nghiên cứu, lựa 
chọn và sử dụng tốt các công cụ chính sách marketing vào hoạt động xuất 
khẩu để mau chóng thích ứng với những đòi hỏi khắt khe của thị trường. 
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý 
Quúnh 
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 73 
Muốn vậy, công ty phải xác định rõ: Nội dung của từng công cụ, mục đích 
của việc áp dụng công cụ đó, lựa chọn công cụ phù hợp rồi sau đó sắp xếp 
thành hệ thống với trình tự áp dụng có tính logic. 
Về quảng cáo 
Do đặc điểm hàng mây tre đan của công ty phần lớn là xuất khẩu cho 
những công ty trung gian nước ngoài chứ không phải đến được tận tay người 
tiêu dùng, do không phải là sản phẩm gia dụng tối cần thiết nên phương 
pháp quảng cáo qua tivi, bằng phim quảng cáo, hay radio không thích hợp 
nắm. Những phương tiện này chỉ có tác dụng đặc biệt đối với người tiêu 
dùng cuối cùng. Mặt khác, sử dụng các phương tiện này ở nước ngoài rất tốn 
kém. Công ty không nên sử dụng vừa gây lãng phí, hiệu quả không cao. Vậy 
tốt nhất là công ty quảng cáo qua bưu điện, tức là gửi những tờ bướm mẫu 
hàng, gửi catalog của mình cho khách hàng qua bưu điện, phương pháp này 
giúp công ty tập trung quảng cáo, kết hợp chào hàng cho những công ty 
trung gian nước ngoài , chi phí lại không lớn lắm. Ngày nay, cùng với sự 
phát triển của thương mại điện tử đã tạo ra một thuận lợi lớn cho các doanh 
nghiệp trong việc quảng bá sản phẩm của mình với thế giới một cách nhanh 
nhất và không đắt lắm. Công ty nên xây dựng cho mình một trang web để 
giới thiệu công ty và sản phẩm của mình đối với các bạn hàng quốc tế. 
Phương pháp này vừa mang lại hiệu quả cao mà chi phí bỏ ra không lớn lắm. 
Ngoài ra, công ty có thể tham gia các hội chợ triển lãm trong nước và 
quốc tế hàng năm do hiệp hội các nhà xuất khẩu thủ công mỹ nghệ tổ chức. 
Đây vừa là cơ hội để công ty có thể ký kết các hợp đồng kinh tế, quảng bá 
cho công ty và sản phẩm của mình vừa có thể học hỏi kinh nghiệm cũng như 
các mẫu mã sản phẩm mới của các đối thủ cạnh tranh. 
Đối với sản phẩm là đồ đạc nội thất công ty có thể sử dụng báo chí để 
quảng cáo, gây tác động trực tiếp đến người tiêu dùng. 
Công ty nên tiến hành quảng cáo định kỳ và cho nhiều khách hàng. 
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý 
Quúnh 
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 74 
Tăng cường xây dựng các mối quan hệ quần chúng 
Đây là hoạt động phục vụ cho việc xúc tiến bán hàng nhằm tạo sự gần 
giũ trong quan hệ giữa công ty với bạn hàng, tạo lòng tin của họ đối với 
công ty, tranh thủ sự ủng hộ và tạo ra sự ràng buộc giữa họ và công ty. 
Ngoài khách hàng hoạt động này còn nhằm vào những người có liên quan 
tới công tác kinh doanh xuất khẩu của công ty như các cán bộ lãnh đạo, các 
cán bộ trực tiếp kinh doanh… 
Để tăng cường các mối quan hệ quần chúng, công ty có thể áp dụng các 
biện pháp sau: 
Với những bạn hàng lớn hoặc những người đi tìm hiểu có ý định mua 
hàng, công ty sẽ có một món quà là sản phẩm của công ty. 
Tổ chức hội nghị khách hàng: Công ty nên tổ chức mỗi năm một lần, để 
thu hút được nhiều khách hàng lứon và bạn hàng đến giao dịch, ký kết hợp 
đồng và đặt hàng. Hội nghi nên tổ chức dưới một hình thức thân mật như 
một buổi họp mặt giữa lãnh đạo, cán bộ thị trường của công ty với các đại 
diện kh. Trong hội nghi nên có nội dung gợi ý khách hàng nói về ưu, nhược 
điểm của sản phẩm, những vướng mắc trong mua bán, những thiếu sót trong 
quan hệ giao dịch… 
Tổ chức hội thảo. Hội thảo khác với hội nghị khách hàng, chỉ đề cập tới 
một hoặc một vài khía cạnh kinh doanh. Hội thảo được tổ chức nghiêm túc 
hơn và quy mô hơn hội nghị khách hàng. Thành viên tham gia không chỉ có 
khách hàng và bạn hàng lớn mà còn có chuyên gia, các cán bộ cao cấp. 
Trong hội thảo, ngoài mục đích thăm dò thái độ của khách hàng còn cần biết 
tranh thủ ý kiến của các chuyên gia. Do đó chi phí của các hội thảo là không 
nhỏ đối với khả năng tài chính của công ty nên không nhất thiết phải tổ chức 
mà tuỳ thời điểm nào thấy cần thiết và trong điều kiện cho phép. 
Tổ chức các hoạt động yểm trợ bán hàng 
 + Yểm trợ bán hàng là một hoạt động quan trọng của marketing. Hoạt 
động yểm trợ bán hàng được thông qua sử dụng hoạt động của các hiệp hội 
kinh doanh, cửa hàng giới thiệu sản phẩm, hội chợ triển lãm…để lôi kéo 
khách hàng về cho doanh nghiệp. 
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý 
Quúnh 
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 75 
Trong những năm vừa qua, công ty cũng có tham gia vào một số hội chợ 
triển lãm ở địa phương, quốc gia để giới thiệu các mặt hàng mà công ty đang 
xuất khẩu trong đó có hàng thủ công mỹ nghệ mây tre đan. Mặt hàng mây 
tre đan của công ty được nhiều người tiêu dùng ưa thích và kết quả là công 
ty đã bán được khá nhiều sản phẩm này và đã ký kết được nhiều hợp đồng 
mua bán. hội chợ là hình thức yểm trợ không cần tiến hành thường xuyên, 
lại rất có hiệu quả, nó là dịp cho công ty tăng cường cơ hội giao tiếp và nắm 
bắt, nhận biết chính xác nhu cầu của thị trường và ưu nhược điểm mặt hàng 
công ty xuất khẩu. Tham gia hội chợ quốc tế tuy hiệu quả cao nhưng chi phí 
rất lớn. Công ty nên đề xuất với cấp lãnh đạo tỉnh tạo điều kiện như là cấp 
kinh phí để cho các sản phẩm của công ty đi triển lãm, hội chợ lớn tổ chức 
trong nước và có thể tham gia quốc tế kết hợp với những sản phẩm truyền 
thống khác của địa phương như lụa Vạn Phúc… 
Tất cả các hoạt động trên phải được công ty tổ chức thật chu đáo để đạt 
được kết quả tốt. Việc hoàn thiện 5 chính sách thị trường, sản phẩm,giá cả, 
phân phối, giao tiếp và khuyếch trương đòi hỏi công ty phải đầu tư một số 
vốn rất lớn. 
1.6 Chiến lược nhân sự 
Con người là chủ thể của mọi hoạt động kinh tế. Tất cả các mục đích của 
mọi hoạt động sản xuất kinh doanh đều phục vụ cho con người và cũng do 
con người thực hiện. Chính vì vậy mà trong bất kỳ một chiến lược phát triển 
của bất kỳ một công ty nào cũng không thể thiếu chiến lược về nhân sự. 
Công ty xuât nhập khẩu Hà Tây có một đội ngũ quản lý đã hầu hết có 
trình độ về kinh tế và ngoại ngữ. Tuy nhiên thời gian va chạm trên thương 
trường chưa lâu, đặc biệt là trên trường quốc tế. Tuy đã tích luỹ được khá 
nhiều kinh nghiệm nhưng để đối phó được với các đối tác nhiều khi còn bị 
động lúng túng nên bị đối phương lấn áp chèn ép làm giảm hiệu quả của 
hoạt động kinh doanh, đặc biệt là khi quan hệ làm ăn với các nước sừng sỏ, 
nhiều kinh nghiệm đã trở thành lão làng trên trường quốc tế. 
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý 
Quúnh 
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 76 
Trong cơ chế thị trường như hiện nay, thành công chỉ đến khi thực sự có 
đầy đủ khả năng, kinh nghiệm, có trình độ nghiệp vụ và phải thực sự năng 
động. Cho nên để cải thiện tình hình của công ty thì phải quan tâm không 
ngừng tới việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý và đặc biệt là đội 
ngũ cán bộ trực tiếp làm nghiệp vụ xuất nhập khẩu. Muốn vậy công ty phải 
có kế hoạch đào tạo lại và đào tạo bổ sung cũng như bồi dưỡng lực lượng 
làm công tác nghiệp vụ này. Công việc đào tạo phải được tiến hành từng 
bước cho phù hợp với tình hình của công ty, việc này có thể được tiến hành 
theo các hướng sau: 
Công ty nên sắp xếp cho cán bộ trẻ mới ra trường xen kẽ bên cạnh các 
cán bộ có nhiều năm kinh nghiệm , thâm niên công tác lâu năm trong công 
ty để lớp cán bộ trẻ có điều kiện học hỏi nâng cao vốn hiểu biết thực tế. 
Khuyến khích các cán bộ theo học các khoá học ngắn hạn hoặc dài hạn 
về kinh tế và nghiệp vụ kinh doanh ngoại thương đặc biệt là những người 
chưa qua đại học hoặc đã học các chuyên ngành khác mà không phải là 
thương mại, tổ chức đào tạo trình độ ngoại ngữ cho mọi cán bộ công nhân 
viên trong công ty đặc biệt là đội ngũ trực tiếp tiến hành các nghiệp vụ ngoại 
thương. 
Tổ chức đào tạo về thị trường và maketing cho các cán bộ chưa có đủ 
năng lực làm về công tác thị trường và maketing sản phẩm . 
Trong điều kiện cho phép công ty có thể mời các chuyên gia kinh tế , các 
chuyên gia về kinh doanh quốc tế để mở các lớp học ngắn hạn hoặc nói 
chuyện trực tiếp tại công ty về nghiệp vụ ngoại thương, nghệ thuật đàm phán 
trong kinh doanh thương mại quốc tế, về tình hình và xu hướng biến động 
của thị trường thế giới … 
Đối với những cán bộ không có năng lực hoặc không thể làm việc trong 
kinh doanh xuất nhập khẩu công ty cần mạnh dạn chuyển họ sang lĩnh vực 
khác cho phù hợp với khả năng của họ hoặc sa thải để nâng cao hiệu quả làm 
việc trong công ty . 
Bên cạnh đó, công ty phải tạo được sự đoàn kết nhất trí trong cán bộ 
công nhân viên làm cho họ toàn tâm toàn lực đóng góp cho công việc chung 
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý 
Quúnh 
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 77 
bằng các biện pháp như : có chính sách khuyến khích cán bộ đi học thêm 
nhưng vẫn được hưởng lương, tạo điều kiện để họ có thể áp dụng ngay 
những điều đã học vào thực tế, khuyến khích các cán bộ sáng tạo trong lao 
động. Có chế độ thưởng thích hợp cho những ai có ý kiến đóng góp hiệu 
quả. Lồng các mục tiêu chung vào mục tiêu cá nhân để nâng cao ý thức 
trách nhiệm của mỗi cán bộ trong công ty. Tiến hành các hình thức biểu 
dương khen thưởng trước toàn công ty nhưng hiệu quả hơn vẫn là việc 
khuyến khích họ bằng hiện vật. Cần có chế độ ưu đãi đối với cán bộ công 
nhân viên lâu năm cũng như đặc biệt quan tâm tới thế hệ trẻ lực lượng kế 
nhiệm lãnh đạo và dẫn dắt công ty trong tương lai, cần tạo điều kiện cho 
toàn thể cán bộ trong công ty có cơ hội hiểu biết và giúp đỡ lẫn nhau. 
1.7 Các giải pháp khác 
Công ty cần kết hợp nhiều loại hình xuất khẩu khác nhau nhằm tạo thêm 
cho công ty nhiều bạn hàng mới. Việc thực hiện quá cứng nhắc nguyên tắc “ 
hàng ra tiền vào ”khi bán hàng đã làm giảm một lượng khách chưa có được 
khả năng thanh toán tức thời. Đa dạng hoá hình thức xuất khẩu sẽ tạo thêm 
nhiều bạn hàng mới và đặc biệt thích hợp khi công ty có chiến lược mở rộng 
thị trường. Công ty có thể áp dụng hình thức trao đổi đối lưu, đối với những 
khách hàng chưa thể thanh toán ngay hoặc bên đối tác muốn nhập khẩu theo 
điều kiện này thì công ty có thể chấp nhận hàng đổi hàng dựa trên khả năng 
thực tế của công ty. Hoặc công ty có thể áp dụng hình thức xuất khẩu trả 
chậm đối với khách hàng quen biết và có tín nhiệm. Mặc dù hình thức xuất 
khẩu này không thích hợp đối với một công ty có vốn ít nhưng để kinh 
doanh đạt hiệu quả thì ta vẫn cần phải tận dụng. 
Công ty cần sử dụng máy tính vào quản lý và truy cập thông tin phục vụ 
cho kinh doanh. Ngày nay, khi xã hội càng phát triển thì thương mại điện tử 
trở thành một phương tiện tiện lợi cho hoạt động kinh doanh, các công ty có 
thể liên hệ làm ăn với nhau qua mạng máy tính để tìm cái mình cần. Không 
những thế, công ty có thể truy cập thông tin về tình hình giá cả, thị trường 
cũng như những biến động của nó thông qua máy tính nối mạng… 
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý 
Quúnh 
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 78 
Công ty cũng cần tăng cường hơn mối quan hệ của công ty với các cơ 
quan, tổ chức có chức năng liên quan như Bộ thương mại, phòng thương mại 
và công nghiệp, các tổng công ty Trung ương … để nắm bắt kịp thời các 
thông tin và được sự chỉ đạo quan tâm của cấp trên. 
Đa dạng hoá các hình thức thanh toán đồng thời củng cố và hoàn thiện 
tốt hơn các khâu trong quy trình thanh toán nhằm đảm bảo tính hiệu quả và 
nhanh chóng. 
Đối với hàng ứ đọng thì có thể bán giảm giá nhằm thu hồi vốn và giảm 
bớt các chi phí có liên quan. 
2. Các giải pháp từ phía Nhà nước 
 Đối với đất nước ta, việc quản lý kinh tế được thực hiện bằng các chính 
sách kinh tế vĩ mô. Các biện pháp này có tác động rất lớn đến hoạt động sản 
xuất kinh doanh xuất khẩu của các doanh nghiệp . Bởi vì các công cụ, chính 
sách vĩ mô này tạo ra một môi trường pháp lý mà mọi hoạt động của các 
doanh nghiệp đều phải thực hiện phù hợp với môi trường này .Đối với hoạt 
động kinh doanh quốc tế nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng nếu 
như thực sự có một hệ thống các công cụ, chính sách điều tiết nền kinh tế 
đồng bộ, hoàn thiện hơn và thực sự thông thoáng sẽ là nhân tố thúc đẩy xuất 
khẩu rất mạnh mẽ . Các biện pháp, chính sách của Nhà nước thương dùng để 
thúc đẩy hoạt động xuầt khẩu là: thuế quan, tỷ giá hối đoái, các biện pháp 
phi thuế quan, các chính sách tài chính tín dụng hỗ trợ xuất khẩu…Dưới đây 
chúng ta sẽ xem xét một số chính sách thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của 
Nhà nước. 
2.1 Các biện pháp tài chính, tín dụng hỗ trợ xuất khẩu 
Các biện pháp tài chính tín dụng là một biện pháp có tác dụng rất lớn đối 
với việc thúc đẩy xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam và đặc biệt là 
nó rất có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ như công ty XNK Hà 
Tây. 
Các hình thức của biện pháp này bao gồm: 
Cấp tín dụng cho các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước. 
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý 
Quúnh 
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 79 
Vốn bỏ ra cho việc sản xuất và thực hiện các hoạt động xuất khẩu 
thường là rất lớn. Người xuất khẩu cần có một số vốn trước và sau khi giao 
hàng để thực hiện một hợp đồng xuất khẩu. Nhiều khi người xuất khẩu cũng 
cần có thêm vốn để kéo dài các khoản tín dụng ngắn hạn mà họ dành cho 
người mua nước ngoài. Đặc biệt, khi bán hàng theo phương thức bán chịu 
tiền hàng xuất khẩu thì việc cấp tín dụng xuất khẩu trước khi giao hàng là 
hết sức quan trọng. 
Công ty xuất nhập khẩu Hà Tây là một doanh nghiệp có vốn không lớn 
do vậy sẽ rất khó khăn cho doanh nghiệp nếu doanh nghiệp thực hiện hình 
thức bán chịu hàng xuất khẩu. Việc cấp tín dụng cho công ty sẽ là là một 
nguồn động viên, khuyến khích thực sự hữu hiệu giúp công ty mở rộng hoạt 
động xuất khẩu. Nhà nước cấp tín dụng cho công ty không chỉ đơn thuần là 
sự trợ giúp để thực hiện xuất khẩu mà còn giúp công ty giảm chi phí về vốn 
cho hàng xuất khẩu và giảm giá thành hàng xuất khẩu. Trợ cấp tín dụng 
đem lại hiệu quả cao cho hoạt động xuất khẩu vì công ty có thể thực hiện 
việc bán chịu mà giá bán chịu bao gồm giá bán trả ngay cộng với các phí 
tổn đảm bảo lợi tức, trong trường hợp này cần có sự trợ giúp của các ngân 
hàng trong giai đoạn trước và sau khi giao hàng. 
Nhà nước trực tiếp cho người nước ngoài vay tiền với lãi xuất ưu đãi để 
họ sử dụng số tiền đó mua hàng của nước ta. 
Nước ta hiện nay chưa có điều kiện cho nước ngoài vay để nhập khẩu, 
tuy nhiên trong các năm tới nếu có điều kiện Chính phủ không nên bỏ qua 
hình thức này để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá ở nước ta. Hình thức này có 
tác dụng: khi cho vay thường kem theo các điều kiện kinh tế có lợi cho nước 
cho vay, giúp cho các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu vì sẵn có thị 
trường, trên khía cạnh nào đó thì hình thức này giải quyết tình trạng dư thừa 
hàng hoá ở trong nước, giúp tăng cường quan hệ ngoại giao giữa các nước 
với nhau( chẳng hạn có thể áp dụng với Lào, Campuchia ). 
Nhà nước đảm bảo tín dụng cho xuất khẩu. 
 Để chiếm lĩnh thị trường, nhiều doanh nghiệp thực hiện bán chịu, trả 
chậm hoặc với hình thức tín dụng hàng hoá với lãi xuất ưu đãi đối với người 
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý 
Quúnh 
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 80 
mua hàng nước ngoài. Việc bán chịu như vậy thường có rủi ro là chậm thu 
hồi vốn và có thể mất vốn. Trong trường hợp này để khuyến khích xuất khẩu 
Nhà nước cần phát huy hiệu quả của các dịchvụ bảo hiểm xuất khẩu, đền bù 
mất vốn để các công ty xuất khẩu yên tâm xuất khẩu và tránh được rủi ro. Tỷ 
lệ đền bù có thể là 100% vốn bị mất, bình thường tỷ lệ này là 60-70% khoản 
tín dụng để các nhà xuất khẩu phải quan tâm tới việc kiểm tra khả năng 
thanh toán của các nhà nhập khẩu và quan tâm tới việc thu tiền hàng sau kh 
hết thời hạn tín dụng. 
2.2 Nhà nước thực hiện trợ cấp xuất khẩu 
Trợ cấp xuất khẩu là những ưu đãi tài chính mà Nhà nước dành cho 
người xuất khẩu khi họ bán được hàng hoá ra thị trường nước ngoài. Mục 
dích của trợ cấp xuất khẩu là giúp nhà xuất khẩu tăng thêm thu nhập, nâng 
cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu do đó đẩy mạnh được xuất 
khẩu. có hai loại trợ cấp xuất khẩu là trợ cấp trực tiếp và gián tiếp. 
Trợ cấp trực tiếp: 
Đó là việc áp dụng thuế suất ưu đãi đối với hàng xuất khẩu miễn hoặc 
giảm thuế đối với các nhà xuất khẩu khi nhập nguyên vật liệu cho sản xuất 
sản phẩm xuất khẩu cũng như khi xuất sản phẩm ra nước ngoài… cácnhà 
xuất khẩu được hưởng giá ưu đãi các đầu vào của quá trình sản xuất như 
điện, nước, thông tin liên lạc… 
Đối với công ty XNK Hà Tây và cụ thể là mặt hàng mây tre đan hiện 
đang được miễn thuế xuất khẩu. mặc dù vậy hình thức trợ cấp xuất khẩu trực 
tiếp cần được phát huy hơn nữa đặc biệt là việc hoàn thiện và giảm thuế 
nguyên vật liệu phục vụ cho quá trình sản xuất hàng xuất khẩu mây tre đan. 
Trợ cấp gián tiếp: 
Đây là hình thức Nhà nước thông qua việc dùng ngân sách của mình để 
giới thiệu, triển lãm, quảng cáo… tạo điều kiện thuận lợi cho các giao dịch 
xuất khẩu hoặc Nhà nước trợ giúp về kỹ thuật và đào tạo chuyên gia. 
Trong điều kiện cạnh tranh như hiện nay, công ty cần sự giúp đỡ của 
Nhà nước trong việc nghiên cứu thị trường, cung cấp thông tin về thị trường, 
giá cả, giới thiệu, triển lãm và quảng cáo sản phẩm mây tre mỹ nghệ truyền 
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý 
Quúnh 
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 81 
thống. Những vấn đề này bản thân doanh nghiệp gặp khó khăn khi thực hiện 
và thực hiện với hiệu quả không cao. 
Đối với việc trợ giúp kỹ thuật và chuyên gia thì cần thiết phải có sự giúp 
đỡ từ phía Nhà nước, để công ty có thể phát triển cả về kỹ thuật và nghiệp 
vụ kinh doanh ngoại thương cũng như trong sản xuất và nâng cao tay nghề. 
Trợ cấp gián tiếp cũng có thể là Nhà nước mở các lớp đào tạo nghiệp vụ 
ngắn hạn hoặc trung hạn để bồi dưỡng trình độ nghiệp vụ ngoại thương 
trong tình trạng khó khăn như hiện nay, đồng thời Nhà nước cũng có thể mở 
các trung tâm hướng dẫn, đào tạo tay nghề cho thợ thủ công sản xuất hàng 
mỹ nghệ xuất khẩu. 
2.3 Các biện pháp về thể chế và tổ chức 
Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu và từ đó các doanh 
nghiệp có thể thâm nhập thị trường nước ngoài. Nhà nước cần phải mở rộng 
hơn nữa vai trò của mình thúc đẩy xuất khẩu thông qua: 
+ Các quy định của pháp luật Việt Nam đối với hoạt động mua bán hàng 
hoá quốc tế( thuế, mặt hàng…)sớm thể bằng luật tự do kinh doanh của các 
doanh nghiệp, đảm bảo quyền bình đẳng trước pháp luật của các thành phần 
kinh tế trong cơ chế thị trường. 
+ Tham gia ký kết, công nhận hoặc thừa nhận các công ước quốc tế 
chung về thương mại và các hiệp định thương mại… 
+ Lập các viện nghiên cứu cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời chính xác 
cho nhà xuất khẩu. 
+ Đào tạo các cán bộ chuyên gia giúp nhà xuất khẩu. 
2.4 Hoàn thiện thủ tục xuất nhập khẩu và chính sách thuế 
Tuy cơ chế mới làm cho thủ tục xuất nhập khẩu đã thuận tiện và đơn 
giản hơn nhưng thủ tục xuất nhập khẩu của Việt Nam cũng còn nhiều vướng 
mắc gây rất nhiều khó khăn cho các công ty xuất nhập khẩu và khách hàng 
nước ngoài cũng còn e ngại khi quan hệ buôn bán đối với Việt Nam. Đó là 
vấn đề lớn mà Nhà nước cần sớm khắc phục và chấn chỉnh lại. 
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý 
Quúnh 
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 82 
Về hệ thống thuế, để đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trong 
đó có mặt hàng mây tre đan, Nhà nước đã miễn giảm thuế xuất khẩu cho mặt 
hàng này đó là tiến bộ lớn và nó cần phải được duy trì như thế trong dài hạn. 
Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần giảm và tiến tới miễn thuế đối với một 
số nguyên liệu nhập ngoại để phục vụ cho việc sản xuất hàng mây tre đan 
truyền thống này. 
Thúc đẩy và giúp đỡ các doanh nghiệp vươn lên trong môi trường cạnh 
tranh bình đẳng và trung thực, coi đó là phương thức bảo hộ tích cực nhất 
đối với sản xuất trong nước. Theo tinh thần đó cần phải xem xét lại chính 
sách bảo hộ bằng hàng rào thuế quan và phi thuế quan. Thực hiện chính sách 
bảo hộ có chọn lọc, có điều kiện và thời hạn, vừa giúp đỡ vừa tạo sức ép 
buộc các doanh nghiệp trong nước kể cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư 
nước ngoài phải đổi mới và vươn lên nâng cao sức cạnh tranh. Từ đó xác 
định một lộ trình giảm thuế nhập khẩu và bãi bỏ hàng rào phi thuế quan. Lộ 
trình này phải công bố rõ ràng để từng doanh nghiệp có kế hoạch phấn đấu 
làm cho sản phẩm do mình sản xuất và xuất khẩu có thể cạnh tranh với hàng 
nước ngoài. 
2.5 Thành lập hiệp hội các nhà sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công 
mỹ nghệ 
Nhà nước nên thành lập hiệp hội các nhà sản xuất và xuất khẩu hàng thủ 
công mỹ nghệ nói chung, hàng mây tre đan nói riêng, với nhiệm vụ theo dõi 
sản xuất, phát hiện kịp thời khó khăn, thuận lợi để giúp đỡ các doanh nghiệp 
sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ. Tập hợp nguyện vọng đề xuất 
của người sản xuất, xuất khẩu để Chính phủ điều chỉnh cơ chế, chính sách 
cho phù hợp. Hiệp hội chủ động cùng các doanh nghiệp nghiên cứu khai 
thác thị trường hiện có, mở rộng thị trường mới. Giúp các doanh nghiệp 
thống nhất về giá cả tránh tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các 
doanh nghiệp xuất khẩu dẫn đến giảm hiệu quả kinh tế xã hội của đất nước. 
2.6 Các vấn đề khác Nhà nước cần quan tâm 
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý 
Quúnh 
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 83 
Trên đây là một số biện pháp chính mà Nhà nước cần phải làm tốt để đẩy 
mạnh xuất khẩu hàng mây tre đan mỹ nghệ tuy nhiên Nhà nước còn cần phải 
làm những việc khác như: 
Đổi mới cơ chế tài chính theo hướng sớm tạo ra thị trường vốn để mở 
rộng giao lưu các nguồn vốn trên thị trường trong nước cũng như quốc tế để 
cho các doanh nghiệp dễ dàng huy động các nguồn vốn phục vụ cho hoạt 
động sản xuất và kinh doanh xuất khẩu. 
Xây dựng và phát triển mạng lưới ngân hàng trên nhiều lĩnh vực, nhiều 
địa bàn. Cần có sự phối hợp ăn ý giữa các ngân hàng thương mại và ngân 
hàng tư thương nhằm tổ chức tốt thị trường tiền tệ, cung ứng kịp thời cho 
doanh nghiệp mạnh dạn vay vốn để mở rộng hoạt động lưu thông. Tạo điều 
kiện cho đồng tiền Việt Nam sớm trở thành đồng tiền có thể tự do chuyển 
đổi, trước mắt là trở thành đông tiền thanh toán chính ở Việt Nam. 
Tỷ giá hối đoái phải được điều chỉnh từng bước hợp lý có lợi cho xuất 
khẩu. 
Tích cực và chủ động tham nhập thị trường thế giới. Xúc tiến khẩn 
trương việc chuẩn bị điều kiện gia nhập WTO. Đi đôi với việc duy trì và 
phát triển thị trường đã tạo lập với các nước trong khu vực và cộng đồng 
Châu Âu, cần mở nhanh thị trường Mỹ. Phát triển thương mại chính ngạch 
với Trung Quốc, tăng cường buôn bán hợp tác với ấn Độ, tìm thị trường mới 
ở Trung Cận Đông, Châu Phi và Mỹ La tinh. Chú trọng đa phương hoá quan 
hệ thương mại, giảm sự tập trung cao vào một đối tác, thu hẹp dựa vào thị 
trường trung gian. 
Tạo điều kiện và giúp đỡ các doanh nghiệp, hiệp hội tự lập cơ quan đại 
diện ở nước ngoài. Tăng cường vai trò của các cơ quan ngoại giao trong lĩnh 
vực kinh tế đối ngoại, đổi mới và tổ chức hoạt động của cơ quan thương vụ 
ở nước ngoài. Tổ chức các hiệp hội buôn bán với nước ngoài qua cửa khẩu, 
bảo đảm sự phối hợp thống nhất trên một cửa khẩu. 
Hình thành môi trường kinh doanh đồng bộ tạo điều kiện thuận lợi cho 
doanh nghiệp kinh doanh định hướng xã hội chủ nghĩa. Môi trường kinh 
doanh đồng bộ bao gồm môi trường kinh tế, chính trị, văn hoá- xã hội, khoa 
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý 
Quúnh 
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 84 
học công nghệ, luật pháp phải hoàn thiện là đòi hỏi bức xúc trong kinh 
doanh. 
* Một số kiến nghị đối với Nhà nước và Chính phủ nhằm thúc đẩy 
xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ nói chung và hàng mây tre đan nói 
riêng: 
1. Tăng đầu tư vào sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ 
 Với hệ thống chính sách ưu đãi hiện hành thì trong sản xuất kinh 
doanh các mặt hàng thủ công mỹ nghệ thuộc các nghành nghề truyền thống 
được hưởng mức ưu đãi cao hơn các mặt hàng khác. Những mức ưu đãi đó 
còn quá thấp chưa tạo được động lực cho ngành này phát triển. 
 Vì vậy đề nghị : Hàng thủ công mỹ nghệ thuộc các ngành nghề truyền 
thống như quy định thì được hưởng mức ưu đãi cao hơn liền kề, ví dụ: 
-Dự án sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ thuộc nghành 
nghề truyền thống, có sử dụng nhiều lao động được miễn thuế thu nhập 
doanh nghiệp hai năm và giảm 50% cho 4 năm tiếp theo. 
-Nếu dự án thực hiện xuất khẩu trên 30% thì được hưởng ưu đãi : 
miễn 3 năm thuế thu nhập doanh nghiệp và giảm 50% cho các năm tiếp theo. 
2. Xây dựng các chính sách ưu đãi về vay vốn và về đất đai cho các cơ sở 
sản xuất hàng thủ công xuất khẩu 
 Theo nghị định 43/1999NĐ-CP ngày 29/06/1999 của chính phủ về 
đầu tư tín dụng nhà nước, thì những dự án đầu tư tại các vùng khó khăn ( 
trong đó có các dự án sản xuất hàng xuất khẩu, đặc biệt là các dự án sử dụng 
nhiều lao động ) mới được vay từ quỹ hỗ trợ phát triển của nhà nước. 
 Vì vậy, đề nghị Chính phủ mở rộng thêm việc cho vay vốn từ quỹ này 
đối với các dự án đầu tư sản xuất kinh doanh thuộc các nghành nghề thủ 
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý 
Quúnh 
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 85 
công mỹ nghệ truyền thống đã được quy định, không kể là các dự án đầu tư 
tại vùng nào, đồng thời các dự án này cũng được hưởng chính sách “hỗ trợ 
lãi xuất sau đầu tư ” theo quy định tại Nghị định 43 nêu trên. 
 Trong trưởng hợp dự án đầu tư sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu 
có thể được quỹ hỗ trợ xuất khẩu quốc gia cấp tín dụng xuất khẩu ưu đãi và 
bảo lãnh tín dụng xuất khẩu. 
 Chính sách khuyến khích ưu đãi hiện có đối với các nghành nghề 
truyền thống ( theo luật khuyến khích đầu tư trong nước ) là áp dụng cho các 
dự án đầu tư thành lập mới hoặc mở rộng các cơ sở sản xuất kinh doanh 
hàng thủ công mỹ nghệ. 
 Thực trạng hiện nay là các đơn vị thực hiện sản xuất kinh doanh hàng 
thủ công mỹ nghệ đều thiếu vốn hoặc không đủ sức vay vốn với lãi xuất cao 
để tổ chức sản xuất kinh doanh ( mua nguyên vật liệu để sản xuất hoặc mua 
các sản phẩm để tiêu thụ trong nước và xuất khẩu ). 
 Vì vậy, để khuyến khích khai thác cơ sở sản xuất kinh doanh hiện có, 
tăng nguồn hành cho xuất khẩu, đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh có 
hợp đồng xuất khẩu đạt mức 50.000 USD trở lên, đề nghị chính phủ cho 
hưởng các mức ưu đãi về vốn kinh doanh. 
- Được ngân hàng ưu tiên cho vay đủ vốn sản xuất kinh doanh theo 
hợp đồng đã ký. 
-Sau khi thực hiện hợp đồng, được quỹ hỗ trợ phát triển của Nhà nước 
hoặc quỹ hỗ trợ xuất khẩu hỗ trợ lãi suất theo quy định tại Nghị định 
43/1999/NĐ-CP ngày 29/06/1999 tức là hỗ trợ 50% lãi suất trên số vốn thực 
tế đã vay tại ngân hàng. 
3. Chính sách đối với nghệ nhân. 
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý 
Quúnh 
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 86 
- Nghệ nhân, thợ cả có vai trò quan trọng đối với nghề và làng thủ 
công truyền thống. Có thể nói không có nghệ nhân thì không có làng nghề 
hoặc ít nhất cũng không thể có làng nghề phát triển, làng nghề lừng danh. 
Nghệ nhân, thợ giỏi có vai trò tích cực trong bảo tồn và phát triển làng nghề 
cùng như nghành nghề. 
-Vì vậy, muốn duy trì và phát triển nghành nghề thủ công mỹ nghệ 
truyền thống nhà nược cần có chính sách đối với nghệ nhân, giúp đỡ hỗ trợ 
tài chính, khuyến khích phát huy tài năng, phát triển sản xuất phục vụ cho 
nhu cầu trong nước và xuất khẩu, tạo điều kiện thuận lợi để truyền dậy nghề 
cho con cháu, đào tạo nghề cho lao động sản xuất. 
- Chính sách đối xử với nghệ nhân được thực hiện tốt là một đảm bảo 
để duy trì và phát triển đội ngũ thợ lành nghề trong các làng nghề trong các 
làng nghề thủ công mỹ nghề truyền thốn, góp phần bảo tồn và phát triển một 
trong những di sản văn hoá qúy của dân tộc. 
4. Chính sách đối với làng nghề truyền thống 
 Nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống của Việt Nam được duy trì và 
phát triển chủ yếu ở các làng nghề. Hiện nay, cả nước có đến hàng nghìn 
làng nghề, có những làng nghề tồn tại và phát triển hàng trăm năm, thâm chí 
hàng nghìn năm nay ( nghề gốm Bát Tràng có từ 500 năm, nghề tơ lụa Hà 
Đông có từ 1700 năm). 
 Theo một số tài liệu nghiên cứu thì ở Việt Nam có đến 52 nhóm nghề 
thủ công mỹ nghệ truyền thống. Trong quá trình phát triển, nhất là trong 
những năm gần đây hoạt động theo cơ chế thì trường, các làng nghề đã phân 
hoá rõ rệt, một số làng nghề phát triển mạnh và có sự lan toả sang các vùng 
xung quanh ( như nghề gốm, chạm khảm, chế biến gỗ mây tre ), một số làng 
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý 
Quúnh 
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 87 
nghề phát triển cầm chừng không ổn định ( đúc đồng …..), có những làng 
nghề gặp nhiều khó khăn, ít có cơ hội phát triển ( nghề giấy gió, gò đồng, dệt 
thổ cẩm Chăm…) đồng thời có những làng nghề đang trong quá trình suy 
vong và có khả năng mất đi ( như nghề giấy sắc, tranh dân gian Đông Hồ, 
nón quai thao …). 
 Trong quá trình phát triển, những làng nghề có điều kiện và có cơ hội 
phát triển nhanh đều gặp khó khăn như thiếu vốn hoạt động, cơ sở hạ tầng 
yếu kém, ô nhiễm môi trường và hiện nay có nơi vấn đề môi trường đặt ra 
rất gay gắt, bức súc như làng gốm Bát Tràng, làng giấy, làng sắt ở Bắc 
Ninh… 
 Để các nghành nghề thủ công truyền thống, các làng nghề duy trì và 
phát triển các hoạt động sản xuất kinh doanh, nhà nước cần có những chính 
sách hỗ trợ làng nghề. Ví dụ như : 
 + Phổ biến, hướng dẫn cho các nhà sản xuất kinh doanh trong làng 
nghề đăng ký hoạt động theo đúng pháp luâtj, hiểu biết các chính sách và 
các thủ tục đã quy định để được hưởng các chính sách khuyến khích, ưu đãi 
hiện có hoặc sẽ được nhà nước ban hành. 
 + Mặt khác, làng nghề với tư cách là một đơn vị hành chính, một đơn 
vị tổ chức làm ăn có tính phường hội cũng cần được có sự hỗ trợ của nhà 
nước để xử lý một số vấn đề như : Cơ sở hạ tầng, môi trường.. đối với toàn 
bộ làng nghề. 
 Từ đó đề nghị Chính phủ cho thực hiện chính sách hỗ trợ tài chính, 
thực hiện các dự án xây dựng xây dưng cơ sở hạ tầng ( đường giao thông, 
bến bãi ), dự án xử lý các vấn đề về môi trường tại khu vực làng nghề. Cụ 
thể là nhà nước đầu tư riêng qua ngân sách tỉnh, thành phố trực thuộc Trung 
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý 
Quúnh 
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 88 
ương để thực hiện các dự án đầu tư cho làng nghề được duyệt hàng năm với 
mức không thấp hơn 50% tổng số thu vào ngân sách từ làng nghề trong năm 
trước. 
5. Chính sách đào tạo làng nghề thủ công truyền thống 
-Thợ thủ công trong các làng nghề thủ công truyền thống thường 
không học nghề trong các trường lớp như các nghành nghề khác mà chủ yếu 
do các nghệ nhân giỏi truyền dậy nghề theo “ kiểu cha truyền con nối ” các 
làng nghề, trong đó có những thủ pháp kỹ thuật, bí quyết nhà nghề của các 
nghệ nhân chỉ truyền cho con cháu từ đời này sang đời khác, không dễ gì lọt 
ra ngoài, họ giữ gìn các bí quyết đó một cách cẩn trọng. 
-Trong các lĩnh vực khác thường được nhà nước đầu tư xây dựng các 
trường dậy nghề, vì vậy Nhà nước cũng cần có chính sách hỗ trợ đào tạo 
nghề thủ công trong các nghành nghề phù hơpj với các đặc điểm nêu trên. 
Để thực hiện yêu cầu này có thể áp dụng một số biện pháp chính sách sau: 
+Mở một số trường mỹ thuật thực hành ở một số nơi có yêu cầu hoặc 
mỏ thêm các khoa mỹ thuật thực hành trong các trường cao đẳng mỹ thuật 
hiện có để đào tạo các nhà thiết kế mẫu mã sản phẩm cho các cơ sở sản xuất, 
mở lớp đào tạo các lao động phổ thông theo phương thức vừa học vừa lao 
động sản xuất tại các làng nghề, cơ sở sản xuất là những cơ sở có nhiều hàng 
xuất khẩu. Nhà nước, hỗ trợ một phần chi phí và những cơ sở sản xuất vừa 
học vừa làm đóng góp một phần. Chi phí nhà nước hỗ trợ chủ yếu sử dụng 
để trang trải các chi phí về giảng dậy như mời nghệ nhân về giảng dậy, 
hướng dẫn thực hành( nếu có ). 
 Nếu không mở trường lớp như trên thì Nhà nước phải hỗ trợ một phần 
chi phí từ quỹ hỗ trợ việc làm để các cơ sở sản xuất nhất là các cơ sở sản 
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý 
Quúnh 
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 89 
xuất hàng xuất khẩu tự tổ chức việc đào tạo nghề, kinh phí hỗ trợ được thực 
hiện theo dự án đào tạo hoặc theo kết quả đào tạo nghề do Uỷ ban nhân dân 
tỉnh, thành phố xét duyệt. 
6. Xây dựng chính sách xúc tiến thương mại, mở rộng thì trường xuất 
khẩu hàng thủ công mỹ nghệ 
 Do đặc điểm khó khăn trong sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ 
nghệ, các làng nghề thường có quy mô nhỏ phân tán nên gần như không thực 
hiện được công tác xúc tiến quảng cáo. Nên đề nghị Nhà nước có chính sách 
hỗ trợ một phần chi phí xúc tiến thương mại, tiếp thị mở rộng thị trường xuất 
khẩu. Trong các lĩnh vực xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, đề nghị nhà 
nước hỗ trợ với các hình thức sau: 
*Hỗ trợ 50% chi phí thuê gian hàng cho cơ sở sản xuất kinh doanh 
hàng thủ công mỹ nghệ tham gia hội chợ triển lãm nước ngoài. 50% chi phí 
còn lại được hỗ trợ hết nếu trong quá trình hội chợ triển lãm đơn vị ký được 
hợp đồng xuất khẩu với giá trị trên 20.000USD. 
*Việc hỗ trợ này có thể thực hiện trực tiếp đối với các doanh nghiệp 
từ một trung tâm xúc tiến thương mại hoặc thông qua các công ty quốc 
doanh được giao nhiệm vụ tổ chức tham gia hội chợ triển lãm quốc tế 
*Đề nghị cho thành lập một số trung tâm xúc tiến thương mại( chủ 
yếu là khuyếch trương xuất khẩu )tại một số nơi ở nước ngoài. Các trung 
tâm này có gian hàng cho các doanh nghiệp trong nước thuê để trưng bầy 
chào hàng xuất khẩu với giá khuyến khích, riêng hàng thủ công mỹ nghệ thì 
được miễn phí. 
*Phục vụ lễ hội của các nước trên thế giới là một hướng quan trọng 
thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, trên thế giới hàng năm có rất 
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý 
Quúnh 
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 90 
nhiều lễ hội của các dân tộc, nếu biết nắm bắt nhu cầu, thiết kế mẫu mã hàng 
hoá phù hợp với nhu cầu của từng lễ hội về ăn mặc, trò chơi giải trí, vật lưu 
niệm … thì có thể có nhiều hàng để bán, nhất là hàng thủ công mỹ nghệ. 
Để có thể triển khai việc xuất khẩu phục vụ cho các nhu cầu lễ hội 
của các nước trên thế giới như là một trong những mũi nhọn khuyếch trương 
hàng thủ công mỹ nghệ trong những năm tới, đề nghị : 
*Ở nhưng nơi Việt Nam có đại diện thương mại thì giao nhiệm vụ cho 
họ tìm hiểu khảo sát nhu cầu phục vụ lễ hội tại địa bàn, khi phát hiện nhu 
cầu và đối tác thì cử ngay nhóm công tác đến tận nơi khảo sát, thiết kế mẫu 
mã chào bán và ký hợp đồng cho các cơ sở sản xuất trong nước sản xuất và 
giao hàng. Chi phí cho nhóm công tác trong một vài năm đầu do Nhà nước 
hỗ trợ 100%. Nếu ký được hợp đồng thì được hưởng thêm. 
*Ở những nước ta chưa có đại diện thương mại thường trú thì giao 
cho ban xúc tiến thương mại cùng công ty hội chợ triển lãm của Bộ chủ quản 
nghiên cứu, có kế hoặch gửi nhóm công tác bao gồm : hoạ sĩ nghệ nhân, cán 
bộ kinh doanh nghành hàng thủ công mỹ nghệ đến tìm hiểu, khảo sát, thiết 
kế mẫu mã chào bán theo cơ chế chính sách đã nêu. 
*Cho phép các tổ chức, các nhân được nhận tiền thù lao hoặc tiền hoa 
hồng môi giới và cho phép các công ty xuất khẩu được các khoản này theo 
mức thoả thuận khi ký hợp đồng và thực hiện hợp đồng xuất khẩu. 
*Ngoài ra theo viên nghiên cứu thuộc liên minh các hợp tác xã Việt 
Nam cho biết, hiệp hội hàng thủ công mỹ nghệ quôcs tế thường có mời các 
nghệ nhân nghành nghề thủ công của các nước tham gia hội thảo, biểu diễn 
thao tác nghề nghiệp. Hội bảo trợ thủ công ở Mỹ có chương trình hỗ trợ 
10.000 làng nghề của thế giới và thường có mời nghệ nhân của các nước 
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý 
Quúnh 
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 91 
sang Mỹ biểu diễn thao tác nghề nghiệp. Tại Achentina vào tháng 4 hàng 
năm có tổ chức hội chợ hàng thủ công mỹ nghệ, có trưng bầy gian hàng 
miễn phí cho các nghệ nhân. Việt Nam nên có chính sách khai thác các hoạt 
động quốc tế này. 
7. Xây dựng vùng nguyên liệu cho sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ 
 Để tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ sở sản xuất kinh doanh hàng thủ 
công mỹ nghệ khắc phục một số khó khăn hiện nay trong việc tiếp cận 
nguồn nguyên liệu khai thác ở trong nước, nhất là một số nguyên liệu như 
gỗ, song, mây … đề nghị Nhà nước cho áp dụng một số biện pháp sau: 
-Đối với gỗ nguyên liệu khai thác từ rừng tự nhiên được các bộ 
nghành, uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giao hạn 
mức cho các doanh nghiệp, đơn vị trực tiếp sản xuất kinh doanh sản phẩm 
gỗ mỹ nghệ thuộc nghành địa phương quản lý trên cơ sở hạn mức chung do 
Chính phủ phê duyệt. Đề nghị ưu tiên giao cho các đơn vị có hợp đồng xuất 
khẩu sản phẩm gỗ mỹ nghệ. Các đơn vị này phải quyết toán việc sử dụng gỗ 
nguyên liệu cho các hợp đồng đó để được giao hạn mức gỗ nguyên liệu cho 
năm sau và được nhận gỗ trực tiếp từ các đơn vị khai thác gỗ, tránh việc giao 
nhận lòng vòng đẩy giá thành lên cao, khó cạnh tranh tiêu thụ sản phẩm. 
-Đối với các loại nguyên liệu khác như song mây, tre lá… các đơn vị 
khai thác phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu đề nghị Nhà nước có chính 
sách hỗ trợ các dự án đầu tư xây dựng vùng trồng nguyên liệu phục vụ cho 
sản xuất ( giao đất, giảm tiền thuê đất hoặc thuế sử dụng đất). 
8. Hỗ trợ tiền cước vận chuyển và giảm các lệ phí khác tại các cảng, cửa 
khẩu đối với mặt hàng thủ công mỹ nghệ 
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý 
Quúnh 
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 92 
 Hàng thủ công mỹ nghệ thường là những mặt hàng cồng kềnh, gias trị 
không cao( hàng mây tre đan, nhiều loại gốm mỹ nghệ, xuất khẩu 1 
container 40feet chỉ được khoảng 7000-8000USD theo giá FOB ), do đó cần 
có chính sách hỗ trợ ưu đãi, cụ thể như sau : 
-Hàng thủ công mỹ nghệ vận chuyển từ nơi sản xuất đến cảng, cửa 
khẩu để giao hàng xuất khẩu, trên tất cả các loại phương tiện vận chuyển đều 
được giảm 30 đến 50 % cước vận chuyển theo biểu giá cước hiện hành. Chủ 
phương tiện được phép tăng giá cước các loại hàng hoá khác để bù lại hoặc 
được nhà nước hỗ trợ thông qua việc công nhận giảm thu trong hạch toán 
thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp hàng năm. 
-Giảm 50% ( theo biểu giá hiện hành ) tất cả các chi phí hoặc lệ phí 
thu tại các cảng, cửa khẩu có liên quan đến việc giao hàng thủ công mỹ nghệ 
xuất khẩu ( hàng lưu kho, bãi gửi hàng, lệ phí xuất khẩu, thủ tục phí…) 
-Giảm 50% ( theo biểu giá hiện hành ) tiền cước phí, bưu phí gửi 
hàng, mẫu hàng là hàng thủ công mỹ nghệ cho khách nước ngoài hoặc gửi 
hàng mẫu tham dự các hội nghị triển lãm ở nước ngoài. 
9. Thưởng xuất khẩu đối với kinh doanh xuất khẩu hàng thủ công mỹ 
nghệ 
 Theo quy định hiện hành, để được thưởng về kim ngạch xuất khẩu đối 
với hàng thủ công mỹ nghệ, doanh nghiệp phải đạt mức kim ngạch 5 triệu 
USD/năm trở lên. Còn sau đó, nếu doanh nghiệp duy trì và phát triển tốt để 
được xét thưởng tiếp thì doanh nghiệp phải có tốc độ tăng trưởng kim ngạch 
xuất khẩu đạt mức quy định, mức hiện hành là 20% /năm đối với toàn bộ 
kim ngạch năm sau so với năm trước. Thực tế tốc độ tăng trưởng này quá 
cao, hiếm có doanh nghiệp nào đạt được. Vì vậy, đề nghị nhà nược nên có 
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý 
Quúnh 
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 93 
chính sách mới là chỉ cần đạt được tốc độ tăng trưởng là 10% /năm cũng 
được thưởng xuất khẩu. 
10. Một số vấn đề quản lý nhà nước đối với lĩnh vực sản xuất kinh 
doanh hàng thủ công mỹ nghệ. 
 Trước đây còn liên hiệp hợp tác xã thủ công mỹ nghệ Trung ương 
được nhà nước uỷ quyên thực hiện một số chức năng của cơ quan quản lý 
nhà nước đối với hoạt động sản xuất kinh doanh trong các nghành nghề 
truyền thốngkhi tổ chức này bị giải thể, các chức năng trên được chuyển 
sang cơ quan nhà nước khác nên các nghành nghề này ít được quan taam. Đề 
nghị Chính phủ chính thức giao nhận chức năng, nhiệm vụ quản lý và chỉ 
đạo phát triển các nghành nghề này Bộ Nông Nghiệp và phát triển nông thôn 
và có thể uỷ quyền liên minh hợp tác xã Việt Nam thực hiện một số chức 
năng nào đó cho phù hợp. 
 Đề nghị nghiên cứu thành lập một số tổ chức thích hợp cho việc hỗ trợ 
và quản lý của Nhà nước nhằm phát triển các nghành nghề này theo các chủ 
trương chính sách Nhà nước, tổ chức đó có thể là “ Trung tâm hỗ trợ phát 
triển nghành nghề truyền thống ”trực thuộc bộ nông nghiệp và phát triển 
nông thôn, hoặc một trung tâm hoạt động độc lập theo sự chỉ đạo trực tiếp 
của Chính Phủ. 
 Để có thể theo dõi sát tình hình thực hiện các chính sách của nhà nước 
và trên cơ sở đó có những sửa đổi bổ sung cần thiết trong việc đẩy mạnh 
xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, đề nghị Chính phủ giao Tổng cục hải 
quan tổ chức lại việc thống kê xuất khẩu tương đối chi tiết các loại hàng hoá 
thuốc nhóm hàng thủ công mỹ nghệ. Bộ Thương Mại sẽ phối hợp cùng Tổng 
Khoa th¬ng m¹i Vò thÞ thuý 
Quúnh 
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp 94 
cục hải quan để hướng dẫn các doanh nghiệp thực hiện quyết định của Chính 
phủ trong việc khải báo hải quan khi xuất khẩu loại hàng này. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 Đề tài  VAI TRÒ VÀ NỘI DUNG CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU.pdf Đề tài  VAI TRÒ VÀ NỘI DUNG CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU.pdf