LỜI NÓI ĐẦU
Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) thành lập ngày 4-4-1949 là một tổ chức tập đoàn quân sự liên hợp các quốc gia phương Tây , ra đời sau Chiến tranh thế giới thứ hai nhằm mục đích giúp Mỹ ngăn chặn Liên Xô ,bảo vệ địa vị chủ đạo của mình ở các nước Châu Âu.Cùng với những biến động đột ngột ở Châu Âu ,sự biến mất của khối Vacsava, sự giải thể của Liên Xô và sự kết thúc của chiến tranh lạnh ,khối NATO không những không bị giải thể như khối Vacsava mà ngược lại, nó càng phát triển mạnh mẽ,số lượng các nước thành viên được tăng thêm,phạm vi thế lực được bành trướng một cách rõ rệt.Đúng như một học giả nổi tiếng người Đức về các vấn đề quốc tế Các Caixơ đã chỉ ra:”Trong tất cả,những sắp xếp quốc tế chủ yếu của thời kì chiến tranh lạnh không có sự biến đổi nào lại sâu sắc và mạnh mẽ như Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương”.NATO trong thời đại hậu chiến tranh lạnh đã bước vào một thời kỳ diễn biến và bành trướng mới.
Trong bài thuyết trình của mình nhóm chúng tôi xin được chú trọng đi sâu vào các vấn đề: Cơ sở hình thành của NATO dựa trên quan điểm của thuyết hiện thực , những nguyên tắc hoạt động của NATO cũng như vai trò và tác động của liên minh này đối với tiến trình hòa bình và ổn định khu vực .
20 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 7070 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vai trò và tác động của Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) đối với tiến trình hòa bình và ổn định khu vực, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) thành lập ngày 4-4-1949 là một tổ chức tập đoàn quân sự liên hợp các quốc gia phương Tây , ra đời sau Chiến tranh thế giới thứ hai nhằm mục đích giúp Mỹ ngăn chặn Liên Xô ,bảo vệ địa vị chủ đạo của mình ở các nước Châu Âu.Cùng với những biến động đột ngột ở Châu Âu ,sự biến mất của khối Vacsava, sự giải thể của Liên Xô và sự kết thúc của chiến tranh lạnh ,khối NATO không những không bị giải thể như khối Vacsava mà ngược lại, nó càng phát triển mạnh mẽ,số lượng các nước thành viên được tăng thêm,phạm vi thế lực được bành trướng một cách rõ rệt.Đúng như một học giả nổi tiếng người Đức về các vấn đề quốc tế Các Caixơ đã chỉ ra:”Trong tất cả,những sắp xếp quốc tế chủ yếu của thời kì chiến tranh lạnh không có sự biến đổi nào lại sâu sắc và mạnh mẽ như Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương”.NATO trong thời đại hậu chiến tranh lạnh đã bước vào một thời kỳ diễn biến và bành trướng mới.
Trong bài thuyết trình của mình nhóm chúng tôi xin được chú trọng đi sâu vào các vấn đề: Cơ sở hình thành của NATO dựa trên quan điểm của thuyết hiện thực , những nguyên tắc hoạt động của NATO cũng như vai trò và tác động của liên minh này đối với tiến trình hòa bình và ổn định khu vực .
NỘI DUNG CHÍNH
I.CƠ SỞ RA ĐỜI CỦA NATO:
1.Một số luận điểm chính của chủ nghĩa hiện thực:
Chủ nghĩa hiện thực là một trường phái lí thuyết được vận dụng khá nhiều để giải thích các hiện tượng khác nhau trong quan hệ quốc tế. Đặc điểm nổi bật của trường phái này là coi chủ thể trong quan hệ quốc tế là các quốc gia có chủ quyền, coi yếu tố tồn tại của đất nước là yếu tố sống còn, biện pháp tự cứu để bảo vệ an ninh quốc gia, cân bằng quyền lực trong quan hệ quốc tế là vô cùng quan trọng
Bên cạnh đó,hợp tác là sự tương tác liên kết giữa các quốc gia không có yếu tố bạo lực trên cơ sở song trùng lợi ích quốc gia.
Hợp tác theo chủ nghĩa hiện thực là sự tương tác giữa các quốc gia trên cơ sở không xâm phạm chủ quyền và an ninh các quốc gia. Lí do của hợp tác là giải quyết tình trạng vô chính phủ và khi nảy sinh xung đột giữa các quốc gia. Mục tiêu của hợp tác là: lợi ích an ninh. Đặc điểm của hợp tác mang tính bất bình đẳng và mang tính tạm thời
Chủ nghĩa hiện thực giải thích những sự việc trong quan hệ quốc tế dưới hai khái niệm chính là các mối đe dọa và lợi ích.
Về mối đe dọa: Đây là đặc điểm nổi bật của chủ nghĩa hiện thực. Chủ nghĩa hiện thực coi tình trạng vô chính phủ, tình thế “ lưỡng nan về an ninh” là không tránh khỏi. Trong quan hệ quốc tế thiếu vắng một chính quyền tối cao có độc quyền về cưỡng chế hợp pháp nên “ tự cứu lấy mình” là nguyên tắc hành xử căn bản của quốc gia trên trường quốc tế.
Thứ hai, sức mạnh( chủ yếu là quân sự) và cân bằng sức mạnh là phương tiện quyết định thực hiện mục tiêu
Về lợi ích: Mục tiêu của quốc gia trong chính trị quốc tế là bảo vệ lợi ích quốc gia được xác định bằng thuật ngữ quyền lực, trong đó đảm bảo an ninh tối đa là mục tiêu hàng đầu
Trên cơ sở đó, nhóm báo cáo sẽ chỉ tập trung giải thích sự ra đời của NATO trên lí thuyết hiện thực dưới hai góc độ chính là mối đe dọa và lợi ích
Sự ra đời của NATO:
Xuất phát từ các mối đe dọa
Mối đe dọa từ chủ nghĩa cộng sản :
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, tương quan lực lượng trên thế giới thay đổi. Trong số các nước tư bản hùng mạnh trước chiến tranh thì Đức , Ý , Nhật đã bị đáng bại , Pháp kiệt quệ và Anh bị tàn phá nặng nề. Nhìn chung do hậu quả của chiến tranh , các nước đế quốc châu Âu bị suy yếu nghiêm trọng, trong khi đó qua cuộc chiến tranh này Mỹ đã giàu mạnh lên một cách nhanh chóng, chiếm ưu thế tuyệt đối trong thế giới tư bản về mọi mặt kinh tế, quân sự, chính trị…Nắm độc quyền vũ khí hạt nhân và trở thành đế quốc đầu sỏ .
Cùng với sự nổi trội của Mỹ lúc này là sự lớn mạnh của Liên Xô. Đây là nước XHCN đầu tiên trên thế giới và ngay từ khi mới ra đời đã có một vị trí đặc biệt quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế. Giữ vai trò quan trọng trong việc đánh bại chủ nghĩ phát xít, Liên Xô đã phải gánh chịu những tổn thất hết sức nặng nề do chiến tranh gây ra. Nhưng với sức mạnh quân sự và chính trị, cộng với một tiềm năng to lớn về con người và tài nguyên cùng một đường lối chính sách đúng đắn chỉ sau một thời gian ngắn Liên Xô đã nhanh chóng phục hồi được nền kinh tế của mình và trở thành một nước phát triển mạnh nhất châu Âu , một siêu cường đối trọng với Mỹ sau chiến tranh lạnh.
Dựa vào tiềm lực mạnh của mình, cả Liên Xô và Mỹ đều muốn duy tri sức mạnh được đồng thời phát huy ảnh hưởng rộng rãi trên toàn thế giới. Mỹ muốn sức mạnh tuyệt đối của mình để khống chế cả thế giới tư bản còn lại giành lấy những khu vực nằm trong vòng ảnh hưởng của các nước này, thực hiện chiến lược toàn cầu phục vụ mưu đồ làm bá chủ thế giới đã được nuôi dưỡng từ lâu trong giới lãnh đạo Mỹ. Về phía Liên Xô, từ trong chiến trnh đã giữ vai trò trụ cột của phong trào cách mạng thế giới cũng như các lực lượng đấu tranh vì hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội, phát huy ảnh hưởng của các nước dân tộc chủ nghĩa ,
Sự đụng chạm về ý đồ chiến lược đã đưa đến tình trạng không thể hợp tác giữa hai siêu cường. Thêm vào đó sự tồn tại xảy những mâu thuẫn cơ bản lâu dài và sâu sắc giữa chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa xã hội mà Mỹ và Liên Xô là hai đại diện tiêu biểu đã làm cho quan hệ giữa hai nước ngày càng căng thẳng . Do những tương đồng về thế và lực như vật nên một cuộc chiến tranh là khó có thể xảy ra. Thay vào đó là một cuộc chạy đua vũ trang ráo riết nhằm nhằm tập hợp lực lượng của mỗi bên .
Năm 1949, hiện tượng các quốc gia lần lượt thực hiện xong cách mạng dân tộc dân chủ, lực lượng cộng sản đánh đuổi hết phi cộng sản làm cho uy tín của các Đảng cộng sản ngày một tăng lên.
Nhận thức được mối đe dọa lớn từ Liên Xô và chủ nghĩa cộng sản, việc thành lập NATO thực chất là âm mưu của Mỹ, nhằm đối phó lại với ảnh hưởng của Liên Xô và chủ nghĩa cộng sản đang lớn mạnh, tạo thế đối trọng về quyền lực
b. Mối đe dạo từ bản thân các nước NATO :
Ngày 17/3/ 1948 theo đề nghị của Anh các nước Anh, Bỉ, Hà Lan và Lucxambua và Pháp đã kí hiệp ước Brucxen về hợp tác kinh tế, xã hội, văn hóa và phòng thủ tập thể, sẵn sàng thi hành những biện pháp tập thể nếu như Đức lại tiến hành xâm lược.
Tuy nhiên, một mặt Mỹ rất hoan nghênh việc thành lập liên minh quân sự ở Tâu Âu nhưng lại không muốn Anh sử dụng nó để làm suy yếu ảnh hưởng và Mỹ muốn biến nó thành công cụ phục vụ cho chính sách mưu đồ làm bá chủ thế giới của họ. Nước Anh đòi quyền tự trị mới, trong khi Mỹ phản đối, cố vận động và gây sức ép để tất cả các nước nhận viện trợ theo kế hoạch Marsall đều tham gia để dễ bề thao túng .
Một câu hỏi đặt ra là, tại sao các nước lại cho Tây Đức vào hợp tác. Phải chăng là lo ngại một đế quốc hung hãn sừng sỏ, hiếu chiến ? Việc chấp nhận để Đức tham gia vào tổ chức là hình thức ràng buộc Đức trong những hiệp ước quân sự
Rõ ràng ở đây yếu tố cân bằng quyền lực đóng vai trò rất quan trọng. Mỹ muốn thành lập ra một liên minh mới nhằm tăng cường ảnh hưởng của mình, ko chiu để Anh thao túng toàn quyền
Ở đây, bản thân các nước NATO đã nhận thức mối đe dọa từ nhau, chính vì vậy mà đưa ra những chính sách riêng để kìm chân nhau.
Xét trên góc độ lợi ích:
Trong tình thế lưỡng nan về an ninh “ Lợi ích quốc gia là hành động căn bản thúc đẩy và là tác nhân kích thích chủ yếu chính sách của các quốc gia
Tính chất vô chính phủ chứa đầy những nguy hiểm và thách thức đối với lợi ích các quốc gia. Bản thân các quốc gia không bao giờ thấy mình được đảm bảo an ninh và thường xuyên mong muốn tăng cường nguồn lực riêng của mình. Mỗi nước đều có những tính toán riêng tuy nhiên bản thân Anh, Pháp, Ý, Tây Đức đều có một nhu cầu chung là phục hồi nền kinh tế kiệt quệ sau chiến tranh ( theo kế hoach Mác-sa Mỹ cam kết giúp các quốc gia này phục hồi). Tham gia vào liên minh các quốc gia sẽ một phần nào đó được đảm bảo về an ninh, kinh tế, quân sự
Còn Mỹ lại lợi dụng ưu thế kinh tế và quân sự để vũ trang cho các nước thành viên và buộc các nước này phải phục tùng lợi ích của giới tư bản độc quyền Mỹ. Núp dưới chiêu bài vì hòa bình và an ninh tập thể của các nước Tây, bảo vệ chế độ tư bản bằng hành động tập thể, tìm mọi cách xác lập vai trò chi phối và và quyết định những vấn đề an ninh ở châu Âu, chống lại ảnh hưởng của Liên Xô
NATO ra đời là tính toán riêng về lợi ích trong lòng mỗi quốc gia, nhằm mục tiêu tối đa hóa lợi ích.
Dựa trên những cơ sở trên, ngày 4/4/1949 tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương( North Atlantic Treaty Organisation, gọi tắt là NATO ) đã được thành lập tại Wasington với sự có mặt của nước Anh, Pháp, Ý, Canada, Aixolen, Nauy, Đan Mạch, Hà Lan, Bỉ , Lucxambua, Bồ Đào Nha và Mỹ. Cùng với thời gian và sự mở rộng, hiên nay NATO có 26 thành viên.
II. NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG, QUÁ TRÌNH HÌNH THÀN VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NATO TRONG CHIẾN TRANH LẠNH
Nguyên tắc hoạt động của NATO được nêu trong Hiến chương NATO ngày 4/4/1949 tại Washington, Mỹ.
Những nguyên tắc hoạt động chính của NATO là:
Các quốc gia thành viên giải quyết các xung đột quốc tế mà một trong số các nước có thể liên quan bằng các biện pháp hòa bình nhằm duy trì hòa bình, an ninh quốc tế. Các quốc gia tránh sử dụng vũ lực hay đe dọa sử dụng vũ lực.
Các quốc gia sẽ tham vấn lẫn nhau bất kể khi nào sự toàn vẹn lãnh thổ, độc lập chính trị hoặc an ninh của bất cứ thành viên nào bị đe dọa.
Các quốc gia đồng ý cho rằng bất kì một cuộc tấn công nào chống lại một quốc gia thành viên đều được coi là chống lại toàn bộ khối NATO. Do đó, các quốc gia thành viên sẽ hỗ trợ quốc gia hoặc các quốc gia thành viên bị tấn công một cách độc lập hoặc hợp tác với các quốc gia khác bằng các biện pháp bao gồm cả quân sự nếu cần thiết để tái lập và duy trì an ninh của khu vực Bắc Đại Tây Dương.
Các quốc gia thành viên sẽ không tham gia lực lượng hoặc tổ chức quốc tế nào mà có quy định mâu thuẫn với bản Hiệp ước này.
Các quốc gia thành viên sẽ tìm cách loại bỏ xung đột trong các chính sách kinh tế quốc tế của nhau và khuyến khích sự hợp tác kinh tế trong khối.
Để đạt được các mục tiêu nêu ra trong bản Hiệp ước này, các quốc gia thành viên sẽ độc lập hoặc hợp tác với nhau trong việc tự nỗ lực hoặc hỗ trợ lẫn nhau nhằm duy trì và phát triển khả năng của từng nước và của khối nhằm chống lại tấn công quân sự.
III. VAI TRÒ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NATO VỚI AN NINH CHÂU ÂU TRONG VÀ SAU CHIẾN TRANH LẠNH
Đặt trong quan hệ với khối đối trọng Warsaw, cả hai bên đều theo đuổi chính sách ngăn chặn sự bá quyền của đối phương, nhưng kết quả đã rất khác với các kiểu cân bằng quyền lực trước đó (đều sụp đổ và dẫn tới chiến tranh thế giới, như Hiệp ước Utretch và Đại hội Vienna). Không giống như cân bằng quyền lực thế kỉ 19 trong đó có 5 cường quốc chuyển hóa Liên minh qua lại với nhau, cân bằng quyền lực giữa khối Warsaw và NATO trong Chiến tranh lạnh được điều chỉnh rất rõ ràng giữa hai quốc gia siêu cường là Mỹ và Liên Xô. Sự ra đời của khối Hiệp ước Warsaw đánh dấu chính thức sự xuất hiện của thế hai cực trong Chiến tranh Lạnh, trong đó Mỹ và Liên Xô là trung tâm. Tuy nhiên, hệ thống hai cực lại thiếu tính linh hoạt đồng thời làm nghiêm trọng hơn hệ quả của những xung đột ngoại vi (như Chiến tranh Việt Nam trong Chiến tranh Lạnh). Việc thành lập khối Warsaw năm 1955 (đồng nghĩa với việc xuất hiện thế hai cực ở châu Âu) không mang lại cho các nước Đông Âu an ninh (theo như lập luận ở Liên Xô cho rằng có thể thoát khỏi thế lưỡng nan về an ninh thông qua việc liên minh lại với nhau để có an ninh chung). Trên thực tế thì việc khối Warsaw ra đời lại chính là hành động khiến cả hai khối đều mất an ninh, nghĩa là rơi vào thế lưỡng nan an ninh cổ điển. Đối đầu trực tiếp giữa hai khối không diễn ra ở châu Âu có lẽ xuất phát từ nỗi lo sợ vũ khí hạt nhân và hậu quả của việc sử dụng nó chứ không phải cân bằng quyền lực mà khối Warsaw mang lại.
Chạy đua vũ trang giữa hai khối
Bảng thống kê số lượng vũ khí hai bên có trong chiến tranh lạnh
(Theo tập san quốc phòng toàn dân số tháng 3 năm 1991, trang 89)
1. Vũ khí thông thường
Vacxava
NATO
Quân số
5.373.100
3.660.200
Xe tăng
59.470
30.690
Pháo các loại
71.876
57.660
Máy bay chiến đấu
7.876
7.130
Tàu ngầm
228
200
Tàu chiến
102
499
2. Vũ khí chiến lược
Vacxava
NATO
Tên lửa chiến lược ICBM (đặt trên bệ phóng dưới đất)
1.398
1.018
Tên lửa chiến lược SLBM (đặt trên tàu ngầm)
922
672
Máy bay chiến lược
160
518
Tàu ngầm chiến lược
62
36
Nato đóng vai trò rất quan trọng với tình hình an ninh của Châu Âu cũng như toàn thế giới, sự ra đời của khối liên minh đã mang lại rất nhiều thành công song cũng có không ít mặt hạn chế
1.Thành công:
Nếu như NATO trong chiến tranh lạnh là một tổ chức có mục tiêu và nhiệm vụ rõ ràng thì khi Chiến tranh lạnh kết thúc, NATO đi vào cải tổ gần như toàn diện. Một NATO mới không hoàn toàn mất đi những tiêu chí sống còn trong hoạt động của mình, song có thêm những nhiệm vụ mới, vai trò mới và những mục tiêu mới.
Với Mỹ và các nước Tây Âu, NATO tiếp tục làm nhiệm vụ giữ gìn an ninh cho Châu Âu trước những nguy cơ đe dọa đến khu vực này. Chiến tranh lạnh kết thúc, Châu Âu đứng trước một hàng loạt những nguy cơ mới này sinh – những nguy cơ phi truyền thống mà người Châu Âu chưa từng phải đối mặt trong thời kỳ chiến tranh lạnh, như: nguy cơ về khủng bố, phổ biến vũ khí hủy diệt, an sinh xã hội và môi trường… NATO có nhiệm vụ phối hợp hoạt động của các quốc gia trong khu vực, lập nên những cơ chế mới để cùng giải quyết những rắc rối nảy sinh đó.
Một NATO được củng cố và mở rộng còn có vai trò thắt chặt hơn nữa sợi dây hợp tác giữa Châu Âu và Mỹ, tăng cường sự hợp tác giữa Châu Âu và Mỹ trong việc giải quyết các vấn đề ở Châu Âu. Sự tăng cường hợp tác này sẽ giúp Châu Âu yên tâm hơn để phục hồi nền kinh tế của mình bởi vốn dĩ, sau chiến tranh lạnh, Châu Âu phải đối mặt với vô vàn những vấn đề ngoài khả năng có thể giải quyết của mình.
Đối với các nước Trung và Đông Âu, NATO là một cơ hội để các quốc gia này có thể củng cố và duy trì an ninh của mình trong một môi trường vô cùng phức tạp sau chiến tranh lạnh. Sự chia rẽ sâu sắc của các quốc gia Châu Âu – hậu quả của chiến tranh lạnh khiến các nước Trung và Đông Âu thấy lo ngại cho vận mệnh quốc gia mình trước một môi trường bị chia rẽ và phức tạp sau sự sụp đổ của Liên Xô và hàng loạt các quốc gia Xã hội chủ nghĩa Trung – Đông khác. NATO được coi như “vị cứu tinh”, dang rộng cánh tay đón lấy các quốc gia này và mở rộng dân chủ hơn nữa tới tất cả các quốc gia trong khu vực.
Sự sụp đổ của Liên Xô khiến Châu Âu yên tâm hơn về an ninh của mình. Song, thực tế, một nước Nga sau Liên Xô cũng vẫn khiến Châu Âu phải dè chừng. Mở rộng NATO về phía Đông và tăng cường hơn nữa vai trò của NATO trong việc đảm bảo an ninh khu vực và giữ gìn hòa bình thế giới sẽ giúp cho Châu Âu yên tâm phần nào trước một nước Nga đang phục hồi nhanh chóng và từng bước xây dựng lại vị thế cường quốc của mình. Mặc dù, mục đích của Mỹ và các nước Tây Âu tuyên bố cho việc mở rộng liên minh là không nhằm vào Nga, tuy nhiên, nước Nga thì nhìn nhận đây như một mối đe dọa tới an ninh của nước này và phản đối mạnh mẽ mọi quyết định của NATO mở rộng về phía Đông, thu hẹp vùng đệm an ninh của Nga.
Ở châu Âu, hai phe Đông-Tây, NATO-Vácxava mặc dù đối đầu hết sức căng thẳng nhưng vẫn cố gắng tránh khỏi mối nguy cơ xảy ra xung đột trực tiếp.
Ngoài ra, các nguy cơ từ mâu thuẫn sắc tộc, tôn giáo, thù hằn lịch sử đều chìm đi vì tất cả các nước đều bị nỗi lo của cuộc xung đột ám ảnh. Châu Âu không xảy ra xung đột vũ trang, chiến tranh dường như không còn là phương tiện để giải quyết mâu thuẫn. Trong khối NATO, các nước Tây Âu đã có điều kiện để tập trung phục hồi và phát triển kinh tế. Mâu thuẫn giữa các cường quốc, nhất là Pháp-Đức đã hòa dịu đáng kể.
Tuy mục tiêu chủ yếu của NATO là phục vụ những tính toán chiến lược của các nước TBCN, nhìn từ góc độ nào đó thì sự xuất hiện của NATO đã đóng góp một phần không nhỏ vào việc đưa tới sự hình thành thế chiến lược, cân bằng về sức mạnh quân sự giữa các nước XHCN và TBCN, tạo ra sự ổn định tương đối của châu Âu
Trong thập niên 90, NATO đóng vai trò mới bằng cách đem lại sự ổn định cho khu vực Ban-Căng bất ổn và khắc nghiệt.Những năm đầu của thập niên tiếp đó tình hình ngày càng cho thấy rõ cần có một hình thức nào đó của một hiệp ước ổn đinh cho khu vực Cap-ca-đơ theo hình mẫu của hiệp ước ổn định cho khu vực Ban- Căng cùng với khả năng có sự đồng tinh của Nga ,do Nga có lợi ích nhiều hơn trong việc thích ứng với liên minh do Mỹ lãnh đạo và cũng do sự tăng cường quan hệ kinh tế và chính trị giữa Nga và Thổ Nhĩ Kì nên việc ổn định hóa khu vực Cáp-ca-dơ cũng có thể ngày càng trở thành một trách nhiệm của Nato vì nó cần phải như thế.
Do sự kết thúc chiến tranh lạnh , NATO bắt đầu thay đổi cơ cấu lực lượng của mình.Thay vào các sư đoàn trang bị xe bọc sắt và cơ giới hóa nặng nề các nước thành viên NATO đang thành lập lực lượng can thiệp với khả năng lưu động cao phù hợp với quy định của NATO về việc xây dựng một quân đoàn phản ứng nhanh của đồng minh để phục vụ những mục tiêu “ngoài khu vực”. Neorealism, Neoliberlism instituationlism and the future of Nato tr 22
Về quan hệ với các nước đối địch thời chiến tranh lạnh trước đây , hội đồng hợp tác Bắc Đại Tây Dương được thành lập năm 1991 ,gắn kết 16 đồng minh với Đông Âu và những quốc gia thừa kế Liên Xô, 2 năm sau đó những nước này đã tham gia “ Quan hệ đối tác vì hòa bình” thành lập mối quan hệ thể chế hòa giữa cơ cấu tư lệnh quân sự liên kết của NATO với quân đội các nước Đông Âu và Nga.Những thảo luận hiện nay tập trung xoay quanh về vấn đề làm thế nào để các nước Trung Âu như Balan, Hungari,và cộng hòa Séc có thể gia nhập liên minh NATO mà không đối đầu với Nga và không phương hại đến những mối lo ngại an ninh chính đáng của Nga.
Liên Minh NATO bắt đầu đóng vai trò hỗ trợ trong các sứ mệnh quốc tế giữ gìn hòa bình và thực thi hòa bình do liên hợp quốc bảo trợ ví dụ như Nam Tư cũ.Điều đáng chú ý trong bối cảnh này là sự xung đột lợi ích sâu sắc giữa các cường quốc phương Tây đối với chiến tranh ở Bosnia-Herzegovnia không hề tác động gì đến NATO
2.Hạn chế:
Tuy nhiên, xét trên 1 khía cạnh khác NATO đã tạo ra một tình trạng đối đầu căng thẳng, một cuộc chạy đua vũ trang có thể đe dọa đến an ninh của toàn châu Âu. Trong thế giới 2 cực, NATO là một nhân tố của quá trình tập hợp lực lượng giữa Xô-Mỹ. Sự ra đời của NATO 4/1949 dẫn tới sự thành lập của khối Vácxava 5/1955 để lập lại cân bằng ở châu Âu. NATO cũng chính là nhân tố của quá trình căng thẳng, chạy đua vũ trang gay gắt giữa 2 phe, làm cho bầu không khí của quan hệ quốc tế ở châu Âu luôn trong tình trạng “chiến tranh lạnh”, chứ không phải hòa bình thực sự. Các chính sách ngăn chặn CNXH, tăng cường chạy đua vũ trang của Mỹ và đồng minh trong NATO đã đặt cả châu Âu vào thế luôn phải đối mặt với hiểm họa chiến tranh có thể xảy ra như trong các sự kiện tái vũ trang Tây Đức, khủng hoảng tên lửa tầm trung ở châu Âu.
NATO cũng tạo ra một khuôn khổ thể chế duy nhất cho châu Âu để tác động vào chính sách của Mỹ .Các nền dân chủ tự do có ảnh hưởng với nhau trong khuôn khổ các thiểt chế quốc tế bằng cách sử dụng những quy chuẩn trong thủ tục ra quy định chung, cũng như nền chính trị xuyên quốc gia.Thông qua hành xử theo các quy tắc của các thiết chế đó họ không chỉ tự kiềm chế quyền tự do hành động của bản thân mình họ cũng được tham gia vào tiến trình ra quy định của các đối tác của mình.Việc một đối tác cắt giảm các mối quan hệ về thể chế có thể tạo ra ảo tưởng về sự độc lập nhưng thực tế nó làm giảm ảnh hưởng của đối tác đó.
KẾT LUẬN
Liên minh Bắc Đại Tây Dương là một cộng động an ninh đa nguyên được thể chế hóa, gồm các nền dân chủ tự do, các nền dân chủ không chỉ không gây chiến với nhau họ còn có khả năng phát triển một bản sắc chung tạo ra thuận lợi cho sự hình thành các thiết chế hợp tác nhằm những mục đích nhất định.Những thiết chế đó bao gồm các quy chuẩn dân chủ và quy tắc ra quy định mà các quốc gia tự do có xu hướng thể hiện khi quan hệ với nhau.Việc ban hành những quy chuẩn và quy tắc đó củng cố tinh thân cộng đồng và bản sắc chung của các chủ thể.Những đặc điểm trong nước của nền dân chủ tự do có ý nghĩa trước tiên l và tạo thuận lợi cho cộng đồng nhưng việc thể chế hóa cộng đồng gây ra những tác động độc lập đối với các tương tác, suy cho cùng các cơ cấu dân chủ trong nước, các thiết chế quốc tế và bản sắc chung của các quốc gia chủ thể cùng phối hợp với nhau.
Sau hơn 60 năm tồn tại, Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây dương (NATO) không tránh được một thực tế là đã trở nên lạc hậu và không còn phù hợp với một trật tự thế giới mới có trọng tâm đang dịch chuyển từ Đại Tây Dương sang châu Á. Hơn nữa, "bão" tài chính đã khiến nhiều thành viên châu Âu không còn mặn mà với những khoản đóng góp cho NATO. Vì thế NATO phải cố gắng thích ứng với tình hình thế giới đang thay đổi nhanh chóng.Trong thế giới đang biến đổi với nhiều mối đe dọa mới, từ khủng bố, tên lửa đạn đạo đến tấn công mạng, NATO đang tìm cách xác định lại vai trò và lý do cho sự tồn tại của tổ chức này. Thế nhưng, những mục tiêu mà NATO đặt ra dường như quá tham vọng bởi khả năng hiện thực hóa vẫn chưa thực sự rõ ràng.
PHỤ LỤC
NGUYÊN VĂN HIỆP ƯỚC NATO 4/4/1949 TẠI WASHINGTON, MỸ
(Bản Tiếng Anh)
Washington DC, 4th April 1949
The Parties to this Treaty reaffirm their faith in the purposes and principles of the Charter of the United Nations and their desire to live in peace with all peoples and all governments.
They are determined to safeguard the freedom, common heritage and civilisation of their peoples, founded on the principles of democracy, individual liberty and the rule of law.
They seek to promote stability and well-being in the North Atlantic area.
They are resolved to unite their efforts for collective defence and for the preservation of peace and security.
They therefore agree to this North Atlantic Treaty:
ARTICLE 1
The Parties undertake, as set forth in the Charter of the United Nations, to settle any international dispute in which they may be involved by peaceful means in such a manner that international peace and security and justice are not endangered, and to refrain in their international relations from the threat or use of force in any manner inconsistent with the purposes of the United Nations.
ARTICLE 2
The Parties will contribute toward the further development of peaceful and friendly international relations by strengthening their free institutions, by bringing about a better understanding of the principles upon which these institutions are founded, and by promoting conditions of stability and well-being. They will seek to eliminate conflict in their international economic policies and will encourage economic collaboration between any or all of them.
ARTICLE 3
In order more effectively to achieve the objectives of this Treaty, the Parties, separately and jointly, by means of continuous and effective self-help and mutual aid, will maintain and develop their individual and collective capacity to resist armed attack.
ARTICLE 4
The Parties will consult together whenever, in the opinion of any of them, the territorial integrity, political independence or security of any of the Parties is threatened.
ARTICLE 5
The Parties agree that an armed attack against one or more of them in Europe or North America shall be considered an attack against them all, and consequently they agree that, if such an armed attack occurs, each of them, in exercise of the right of individual or collective selfdefence recognised by Article 51 of the Charter of the United Nations, will assist the Party or Parties so attacked by taking forthwith, individually, and in concert with the other Parties, such action as it deems necessary, including the use of armed force, to restore and maintain the security of the North Atlantic area.
Any such armed attack and all measures taken as a result thereof shall immediately be reported to the Security Council. Such measures shall be terminated when the Security Council has taken the measures necessary to restore and maintain international peace and security.
ARTICLE 6
For the purpose of Article 5, an armed attack on one or more of the Parties is deemed to include an armed attack:
- on the territory of any of the Parties in Europe or North America, on the Algerian Departments of France, on the territory of Turkey or on the islands under the jurisdiction of any of the Parties in the North Atlantic area north of the Tropic of Cancer;
- on the forces, vessels, or aircraft of any of the Parties, when in or over these territories or any area in Europe in which occupation forces of any of the Parties were stationed on the date when the Treaty entered into force or the Mediterranean Sea or the North Atlantic area north of the Tropic of Cancer.
ARTICLE 7
The Treaty does not effect, and shall not be interpreted as affecting, in any way the rights and obligations under the Charter of the Parties which are members of the United Nations, or the primary responsibility of the Security Council for the maintenance of international peace and security.
ARTICLE 8
Each Party declares that none of the international engagements now in force between it and any other of the Parties or any third State is in conflict with the provisions of this Treaty, and undertakes not to enter into any international engagement in conflict with this Treaty.
ARTICLE 9
The Parties hereby establish a Council, on which each of them shall be represented to consider matters concerning the implementation of this Treaty. The Council shall be so organised as to be able to meet promptly at any time. The Council shall set up such subsidiary bodies as may be necessary; in particular it shall establish immediately a defence committee which shall recommend measures for the implementation of Articles 3 and 5.
ARTICLE 10
The Parties may, by unanimous agreement, invite any other European State in a position to further the principles of this Treaty and to contribute to the security of the North Atlantic area to accede to this Treaty. Any State so invited may become a party to the Treaty by depositing its instrument of accession with the Government of the United States of America. The Government of the United States of America will inform each of the Parties of the deposit of each such instrument of accession.
ARTICLE 11
This Treaty shall be ratified and its provisions carried out by the Parties in accordance with their respective constitutional processes. The instruments of ratification shall be deposited as soon as possible with the Government of the United States of America, which will notify all the other signatories of each deposit. The Treaty shall enter into force between the States which have ratified it as soon as the ratification of the majority of the signatories, including the ratifications of Belgium, Canada, France, Luxembourg, the Netherlands, the United Kingdom and the United States, have been deposited and shall come into effect with respect to other States on the date of the deposit of their ratifications.
ARTICLE 12
After the Treaty has been in force for ten years, or at any time thereafter, the Parties shall, if any of them so requests, consult together for the purpose of reviewing the Treaty, having regard for the factors then affecting peace and security in the North Atlantic area including the development of universal as well as regional arrangements under the Charter of the United Nations for the maintenance of international peace and security.
ARTICLE 13
After the Treaty has been in force for twenty years, any Party may cease to be a Party one year after its notice of denunciation has been given to the Government of the United States of America, which will inform the Governments of the other Parties of the deposit of each notice of denunciation.
ARTICLE 14
This Treaty, of which the English and French texts are equally authentic, shall be deposited in the archives of the Government of the United States of America. Duly certified copies will be transmitted by that government to the governments of the other signatories.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
John Mearsheimer, “Lời hứa hão của thể chế quốc tế,” trong Học viện QHQT, Lý luận Quan hệ Quốc tế, Quyển 1, Hà nội, 2007, trang 339-58.
Vương Dật Châu (chủ biên), An ninh quốc tế trong thời đại toàn cầu hoá, Sách tham khảo, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà nội, 2004, trang 681-733.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Vai trò và tác động của Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) đối với tiến trình hòa bình và ổn định khu vực.doc