Trên cơ sở các yếu tố cấu thành an ninh con người và nội hàm của khái
niệm này theo hai phương diện vật chất và tinh thần với những đòi hỏi đề cao hơn
nữa trách nhiệm của quốc gia cũng như ý thức của mỗi cá nhân con người về an
ninh cho chính mình và cho cộng đồng, rất cần có những qui định của luật pháp
quốc tế, các thiết chế quốc tế trong việc bảo đảm an ninh con người. Rõ ràng, luật
pháp quốc tế đã trù liệu những khuôn khổ pháp lý cho an ninh con người và nền hòa
bình, phát triển cho mỗi quốc gia nhưng những hiểm họa đe dọa sự ổn định của
quốc gia, cuộc sống bình thường của người dân lại luôn tiềm ẩn. Chương 2 của luận
án đã nhấn mạnh cơ sở pháp lý, thiết chế và cơ chế cho sự vận hành dựa trên những
nguyên tắc chung về an ninh con người.
196 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3062 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Vấn đề an ninh con người trong pháp luật quốc tế hiện đại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường cần làm rõ các quyền liên quan đến
việc làm như quyền tự do tìm kiếm việc làm, nghề nghiệp, nơi làm việc phù hợp với
nhu cầu, sở thích và khả năng. Hoàn thiện môi trường pháp lý về việc làm có ý
nghĩa quyết định cho việc bảo đảm an ninh con người, theo đó Luật Việc làm cần
phải xác định "tỷ lệ tăng trưởng việc làm" thay cho "chỉ tiêu tạo việc làm mới như
trước đây"; qui định cụ thể về quyền, nghĩa vụ của người lao động, người sử dụng
lao động về việc làm, thị trường lao động; cần có qui định cụ thể về chính sách việc
làm chung của Nhà nước, trong đó Nhà nước không chỉ có trách nhiệm tạo việc làm
mà phải có trách nhiệm định hướng phát triển việc làm hướng tới thúc đẩy và bảo
đảm việc làm bền vững cho người lao động; rà soát và qui định cụ thể các chính
sách hỗ trợ việc làm của Nhà nước; bổ sung các qui định để các địa phương phải có
trách nhiệm thành lập quĩ việc làm địa phương; bổ sung các qui định còn hạn chế
trong việc quản lý, sử dụng Quỹ quốc gia về việc làm, Quỹ hỗ trợ việc làm ngoài
nước; nghiên cứu, xem xét việc các doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài, người
nước ngoài hoạt động giới thiệu việc làm; qui định cụ thể về chính sách phát triển
thị trường lao động trong nước cũng như ngoài nước; bổ sung các qui định về lao
động Việt Nam ở nước ngoài sau khi về nước; qui định rõ về chính sách bảo hiểm
việc làm theo hướng không chỉ có chính sách hỗ trợ cho người lao động sau khi họ
bị thất nghiệp mà còn đảm bảo ổn định cho người lao động trong quá trình làm việc;
đặc biệt, cần phải có qui định riêng về chính sách việc làm cho các đối tượng đặc thù.
Đảm bảo việc làm và các quyền ở nơi làm việc đóng vai trò quyết định
trong việc đạt được an ninh con người ở Việt Nam trong bối cảnh là quốc gia đang
phát triển. Người lao động không có việc làm thì hoặc phụ thuộc vào trợ cấp xã
hội hoặc khó có tương lai. Điều này cũng đồng nghĩa với việc góp phần xóa giảm
172
đói nghèo. Đói nghèo là nguy cơ làm cho con người dễ bị loại trừ khỏi tiến trình
phát triển của xã hội, mất đi những cơ hội để duy trì và cải thiện điều kiện sống.
Đảm bảo việc làm với tư cách là một chuẩn mực của quyền con người đã vượt lên
trên ý nghĩa đảm bảo sự tồn tại, bởi lẽ thỏa mãn các nhu cầu cơ bản sẽ không thể
đủ để tăng cường an ninh con người. Do đó, Luật Việc làm và các chính sách gắn
liền với việc bảo đảm việc làm chính là khung pháp lý góp phần tăng cường an
ninh con người.
Đồng thời với việc bảo đảm việc làm, trong bối cảnh nước ta hiện nay việc
qui định mức lương tối thiểu hết sức quan trọng và cần thiết. Tiền công, tiền lương
là sự thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động. Tuy nhiên, với đặc
điểm chung là phần đông lao động phổ thông Việt Nam chưa qua đào tạo, trình độ
tay nghề chưa có hoặc ở mức thấp nên khả năng thương lượng với người sử dụng
lao động về lương theo qui định của Bộ luật Lao động là không thực tế. Hơn nữa,
khi các nhà đầu tư nước ngoài bắt tay nhau để dìm giá lao động bằng cách cùng
nhau trả lương thấp thì lao động Việt Nam sẽ khó có cơ hội lựa chọn việc làm.
Trong bối cảnh đó sự ra đời của Luật Tiền lương tối thiểu là cần thiết.
Nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung Luật Bảo vệ môi trường để từng bước hoàn
thiện pháp luật về môi trường nhằm giải quyết hài hòa, đồng bộ mối quan hệ giữa
phát triển kinh tế, hợp tác quốc tế và các vấn đề xã hội; phát huy sức mạnh của toàn
xã hội trong vấn đề bảo vệ môi trường; giải quyết mối quan hệ giữa Luật Bảo vệ
môi trường và các luật chuyên ngành trong điều chỉnh pháp luật về môi trường; phát
huy đồng bộ tác động của các biện pháp hành chính, hình sự, dân sự, kinh tế trong
việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về môi trường, đặc biệt là các biện pháp
kinh tế để đảm bảo sự hài hòa giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường.
Sửa đổi, bổ sung Luật Bảo vệ môi trường đồng thời với việc hoàn thiện các
văn bản qui phạm pháp luật theo hướng điều chỉnh một cách đồng bộ, thống nhất;
ban hành đầy đủ các qui định về qui chuẩn kỹ thuật môi trường, đánh giá tác động
môi trường, các qui định về quản lý chất thải nhất là chất thải ở các khu đô thị và
khu công nghiệp; tăng cường nguồn lực bảo vệ môi trường bằng thuế hoặc phí bảo
173
vệ môi trường. Qui định cụ thể về trách nhiệm, trong đó trách nhiệm bồi thường thiệt
hại, phục hồi môi trường trong trường hợp gây ô nhiễm, làm thiệt hại tới môi trường.
Hoàn thiện các qui định về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ môi
trường như: xử lý dân sự về việc xác định thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường
gây ra; các qui định về xử lý hành chính, đặc biệt là qui định xử lý hình sự đối với hành
vi vi phạm theo hướng tăng mức xử phạt đủ để răn đe, kiên quyết tạm thời đình chỉ
hoạt động, cấm hoạt động đối với các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng
và xử lý hình sự đối với các trường hợp có đủ các yếu tố cấu thành tội phạm.
* Về lĩnh vực xã hội
Các vấn đề xã hội luôn tiềm ẩn ở các quốc gia, nó là hệ quả phát sinh từ quá
trình phát triển và cũng tác động tiêu cực tới sự ổn định, phát triển. Vì vậy, giải
quyết các vấn đề xã hội thông qua pháp luật sẽ góp phần tích cực để tăng cường bảo
đảm an ninh con người.
Dân số là vấn đề nhạy cảm, liên quan đến việc bảo đảm an ninh con người
trong khi đó đối tượng thực hiện công tác dân số rất phức tạp vì mọi tổ chức, gia
đình, cá nhân vừa là đối tượng thi hành, vừa là chủ thể tham gia tổ chức thực hiện
chính sách dân số.
Việt Nam là quốc gia có mật độ dân số đông (đứng thứ 20 trên thế giới),
sức ép của gia tăng dân số quá nhanh làm ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã
hội như tăng chi phí và phúc lợi xã hội, tạo sức ép cạnh tranh về việc làm. Do tập
trung vào mục tiêu giảm nhanh mức sinh nên qui định của pháp luật chủ yếu giới
hạn trong việc điều chỉnh qui mô dân số thông qua kế hoạch hóa gia đình. Trong khi
đó cơ cấu dân số, chất lượng dân số và phân bố dân cư lại chưa được chú ý thích
đáng. Để qui mô, chất lượng và phân bố dân cư thực sự trở thành yếu tố quyết định
sự phát triển bền vững của đất nước đòi hỏi chính sách, pháp luật dân số phải đồng
bộ và có hiệu quả nên cần thiết ban hành Luật Dân số. Trong xu thế hội nhập các
qui định của pháp luật về dân số phải hài hòa với pháp luật trong khu vực và trên
thế giới tạo khuôn khổ pháp lý bình đẳng trong việc tăng cường hợp tác quốc tế về
dân số và phát triển.
174
Hiện nay, Luật An toàn thực phẩm đã có hiệu lực nhưng để tạo sự đồng bộ
cần thiết phải ban hành các đạo luật như Luật Thú y. Sở dĩ như vậy là vì: nước ta
xuất phát điểm là nền kinh tế nông nghiệp và hiện nay nông nghiệp vẫn chiếm tỷ
trọng lớn trong cơ cấu nền kinh tế với sự phát triển của ngành chăn nuôi; hơn nữa
hoạt động thương mại với việc xuất nhập khẩu động vật và sản phẩm động vật ngày
càng tăng đã làm lây lan dịch bệnh, kể cả bệnh chung giữa người và động vật như
cúm A/H5N1, A/H1N1… cùng các yếu tố khách quan chủ quan như biến đổi khí
hậu, ô nhiễm môi trường làm gia tăng dịch bệnh tác động tiêu cực tới sức khỏe
người dân. Các thực phẩm chủ yếu đang mất an toàn, gây tổn hại đến sức khỏe mà
chúng ta đang quan tâm là rau, thịt và thủy sản. Xuất phát điểm của việc kiểm soát
vệ sinh an toàn thực phẩm là sản xuất nông nghiệp, vì vậy cần có biện pháp để phân
công quản lý đảm bảo an toàn thực phẩm một cách hợp lý và có hiệu quả. Thịt và
thủy sản là những loại thực phẩm tiềm ẩn nguy cơ cao nên cần có qui trình giám sát
chặt chẽ từ chăn nuôi, nuôi trồng đến giết mổ, chế biến, bảo quản cũng như lưu
thông phân phối nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa. Hiện nay, các nước đang phụ
thuộc lẫn nhau và chỉ cần một hành động không đúng của một quốc gia có thể gây
nguy hiểm cho các nước khác. Sự tăng trưởng và phát triển của các quốc gia cũng
như việc ngăn ngừa và kiểm soát thảm họa sinh học phụ thuộc nhiều vào pháp luật,
các chính sách nông nghiệp cũng như bảo đảm an toàn thực phẩm với ý nghĩa là
tiêu chí cho việc đảm bảo an ninh con người. Do đó, Luật Thú y sẽ góp phần nâng
cao năng lực quản lý nhà nước về thú y như phòng chống dịch bệnh, hệ thống chẩn
đoán và xét nghiệm, kiểm dịch động vật, tăng cường vai trò của người chăn nuôi
nhỏ, kiểm soát hoạt động giết mổ tập trung, quản lý thuốc, hợp tác quốc tế…góp
phần tạo dựng thị trường lành mạnh về thực phẩm và tăng cường bảo vệ sức khỏe
người dân.
Cùng với Luật Thú y, để đồng bộ với Luật An toàn thực phẩm cần nâng
Pháp lệnh Bảo vệ và kiểm dịch thực vật thành Luật Bảo vệ, kiểm dịch thực vật. Bởi
vì, cần có các qui định chặt chẽ hơn về sản xuất kinh doanh thuốc bảo vệ thực vật vì
đây là những lĩnh vực cần hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện bởi trực
tiếp liên quan tới an toàn thực phẩm cung cấp hàng ngày cho người dân. Mặt khác,
175
các qui định trong Pháp lệnh Bảo vệ và kiểm dịch thực vật năm 2001 chưa phù hợp
cũng như chưa đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế qui định trong các điều ước quốc tế
mà Việt Nam tham gia như Hiệp định Vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch động
thực vật và Công ước quốc tế về bảo vệ thực vật như phân tích nguy cơ dịch hại,
vùng an toàn dịch hại…Các qui định về quản lý thuốc bảo vệ thực vật chưa cụ thể
và tuân thủ các qui định về quản lý thuốc theo chuẩn quốc tế như điều kiện đăng ký
thuốc bảo vệ thực vật; điều kiện đưa các loại thuốc bảo vệ thực vật đã được đăng ký
ra khỏi danh mục thuốc; điều kiện sử dụng thuốc bảo vệ thực vật.
Sức khỏe con người đóng vai trò quan trọng trong quá trình đổi mới và phát
triển đất nước. Hiện nay, hoạt động khám chữa bệnh để tăng cường an ninh con
người còn bộc lộ những hạn chế. Ở nước ta cũng như các nước khác, mô hình bệnh
tật bao gồm nhiều nhóm nhưng cao nhất là nhóm bệnh không nhiễm trùng. Tình
trạng ngộ độc thực phẩm, ô nhiễm môi trường…đòi hỏi được cung cấp các dịch vụ
khám chữa bệnh thuận lợi, đa dạng và hiệu quả hơn. Mặt khác, cơ sở vật chất và
trang thiết bị của các cơ sở khám chữa bệnh nhà nước chưa đáp ứng được tiêu
chuẩn. Vấn đề xử lý chất thải nhưng không có điều kiện cụ thể để cấp giấy phép
hoạt động trong khi các cơ sở tư nhân phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện mới được
cấp phép.
Việc cấp chứng chỉ hành nghề áp dụng đối với những người đứng đầu các
cơ sở hành nghề tư nhân thông qua việc xét hồ sơ nên chất lượng đội ngũ này chưa
đồng đều do Việt Nam chưa có hệ thống đăng ký, kiểm tra, cấp chứng chỉ hành
nghề và giám sát hoạt động của những người hành nghề. Do đó, cần phải có cơ chế
pháp lý để tất cả các cơ sở khám chữa bệnh dù là của Nhà nước hay tư nhân đều có
thể cung cấp các dịch vụ y tế một cách hiệu quả, đầy đủ.
Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân do ban hành đã lâu và mang tính nguyên tắc
nên hiệu lực pháp luật không cao. Một số qui định đã được cụ thể ở các luật khác
như Luật Người cao tuổi, Luật Người khuyết tật, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục
trẻ em..trong khi đó các qui định về điều kiện hành nghề khám chữa bệnh, qui định
về chuyên môn kỹ thuật y tế cần tiếp tục phải cụ thể hóa để đáp ứng yêu cầu xã hội
176
hóa lĩnh vực y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân. Hơn nữa, Việt Nam là thành viên
của Tổ chức Thương mại Thế giới nên phải tuân thủ các cam kết trong đó có dịch
vụ y tế. Đồng thời, Việt Nam cũng đã ký Hiệp định khung về điều kiện hành nghề
điều dưỡng giữa các nước ASEAN và Hiệp định khung về hành nghề bác sĩ và nha
sĩ. Vì vậy, cần phải nội luật hóa các qui định này để có cơ sở pháp lý thực hiện tại
Việt Nam. Đó là sự cần thiết để ban hành Luật Khám chữa bệnh.
Theo qui định của Luật An toàn thực phẩm năm 2010, trách nhiệm quản lý
nhà nước là Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn và Ủy ban nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong khi đó Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân
lại chỉ qui định trách nhiệm này thuộc Bộ Y tế và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành
phố. Rõ ràng, lương thực - thực phẩm là "đầu vào" cho việc duy trì sự sống và sức
khỏe của người dân, vì vậy để đảm bảo an ninh về sức khỏe phải có sự thống nhất
trong quản lý nhà nước. Cũng như vậy, cần bổ sung Luật Thanh tra, Luật Xử lý vi
phạm hành chính về chức năng, quyền hạn, thẩm quyền của Chánh Thanh tra,
Thanh tra viên Chi cục an toàn thực phẩm cho phù hợp với Luật An toàn thực phẩm.
* Về an toàn cá nhân, trật tự cộng đồng và xây dựng xã hội dân chủ
Cùng với quá trình đổi mới đất nước, vấn đề trật tự an toàn xã hội và tình
hình tội phạm có nhiều diễn biến phức tạp, riêng lĩnh vực đảm bảo trật tự an toàn
giao thông đã là vấn đề nhức nhối của xã hội. Theo thống kê của Ủy ban An toàn
giao thông quốc gia, trung bình một năm có khoảng trên 10.000 ngàn vụ tai nạn
giao thông, làm chết khoảng trên 10.000 ngàn người và bị thương khoảng gần
20.000 ngàn người; đồng thời, sự xuất hiện của nhiều phương thức, thủ đoạn phạm
tội tác động không nhỏ đến môi trường phát triển lành mạnh, bền vững của đất
nước. Vì vậy, công tác đảm bảo trật tự, an toàn xã hội đặt ra nhiều vấn đề hết sức
quan trọng, trong khi đó hệ thống văn bản pháp luật qui định về công tác đảm bảo
trật tự an toàn xã hội hiện đang trong quá trình hoàn thiện nên còn nhiều bất cập,
thiếu đồng bộ, các qui phạm pháp luật còn tản mạn trong nhiều văn bản khác nhau
hoặc không theo kịp thực tiễn. Nhiều vấn đề quan trọng mới chỉ được qui định bằng
văn bản dưới luật, làm hạn chế hiệu lực hiệu quả công tác đảm bảo trật tự, an toàn
177
xã hội. Do đó, để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong công tác đảm bảo trật
tự an toàn xã hội, tạo hành lang pháp lý đầy đủ, đồng bộ cho các cơ quan thực thi
pháp luật nói chung thực hiện có hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm,
giữ gìn trật tự xã hội, đảm bảo quyền tự do, dân chủ, tính mạng, sức khỏe của nhân
dân nên việc xây dựng và ban hành Luật Bảo đảm trật tự, an toàn xã hội là yêu cầu
khách quan và cần thiết. Luật Bảo đảm trật tự, an toàn xã hội qui định về chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức, công dân trong việc bảo đảm
trật tự an toàn xã hội, góp phần nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về bảo đảm trật
tự an toàn xã hội và đây là tiền đề cho việc bảo đảm, tăng cường an ninh con người.
Hiến pháp năm 1992 ghi nhận quyền được thông tin với tư cách là quyền
mới. Trên khía cạnh chính trị, quyền thông tin đòi hỏi công dân có quyền được biết
về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước một cách trung thực. Nhà nước
phải có trách nhiệm cung cấp thông tin kịp thời thông qua các phương tiện thông tin
đại chúng và qui định cụ thể người có trách nhiệm báo cáo hoạt động của Nhà nước
về kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại (trừ những vấn đề
thuộc bí mật quốc gia). Quyền thông tin cũng đòi hỏi Nhà nước bằng công cụ pháp
luật bảo đảm nhân dân nhận thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng phải
là những thông tin chân thực, thông tin đa chiều. Vì vậy, người cung cấp thông tin
không đúng phải bị xử lý theo qui định của pháp luật. Trong bối cảnh nước ta đang
hội nhập sâu rộng cùng cộng đồng quốc tế và sự bùng nổ của thông tin nên cần thiết
phải ban hành Luật Tiếp cận thông tin.
Trong xã hội dân chủ và văn minh, hiện tượng đình công, biểu tình là tất
yếu bởi nó phản ánh đúng thực trạng và xu thế phát triển của xã hội. Nhìn ở góc độ
tiêu cực, đó là những dấu hiệu báo hiệu sự bất ổn của xã hội nhưng nhìn ở khía cạnh
khác thì đình công, biểu tình lại là những tín hiệu để Nhà nước xem xét lại nội dung
của pháp luật và quá trình thực thi pháp luật. Vấn đề đặt ra là việc đình công, biểu
tình phải có sự giám sát của Nhà nước, cơ quan có thẩm quyền trên cơ sở pháp luật.
Mặc dù, Bộ luật Lao động và các văn bản pháp luật có liên quan đã phần nào giải
quyết được những bức xúc cho người lao động thông qua các cuộc đình công. Do
178
đó, cần hệ thống hóa các qui định của pháp luật hiện hành để sớm ban hành Luật
Đình công nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp và chính
đáng của người lao động.
Trong xã hội, khi quyền và các lợi ích hợp pháp của công dân bị xâm hại,
công dân có thể sử dụng quyền khiếu nại, tố cáo về quyết định, hành vi của cán bộ,
công chức nhà nước; đồng thời cũng có thể thực hiện bằng hình thức biểu tình
chống lại những quyết sách không phù hợp. Do đó, biểu tình là hiện tượng tất yếu
trong xã hội dân chủ. Ở Việt Nam, theo qui định của pháp luật hiện hành thì chưa
có những qui định và bảo đảm cho quyền tự do biểu tình. Vì vậy, chưa đủ căn cứ để
điều chỉnh các hoạt động biểu tình không theo trật tự, mang tính bột phát, bị kích
động và gây mất ổn định về chính trị. Vấn đề đặt ra là cần xây dựng pháp luật bảo
đảm quyền tự do biểu tình của công dân và hoạt động biểu tình phải tuân thủ các
qui định của pháp luật; theo đó, mọi hành vi lợi dụng biểu tình gây mất ổn định
chính trị phải bị xử lý theo qui định của pháp luật. Đây là đòi hỏi khách quan của
tiến trình xây dựng xã hội dân chủ và cần thiết xây dựng, ban hành Luật Biểu tình.
Việc xây dựng nhà nước pháp quyền được khẳng định trong Hiến pháp đòi
hỏi công dân phải làm chủ, thực sự tham gia quyết định trực tiếp các vấn đề quan
trọng của đất nước. Nhà nước với tư cách là cơ quan công quyền có trách nhiệm
tham khảo ý kiến nhân dân mà tiến tới với trình độ dân trí ngày càng cao, nhân dân
sẽ quyết định vận mệnh đất nước bằng dân chủ trực tiếp. Vì vậy, việc xây dựng và
ban hành Luật Trưng cầu dân ý theo qui định của Hiến pháp để nhân dân thực hiện
được quyền làm chủ của mình trong lĩnh vực này là rất cần thiết. Luật Trưng cầu
dân ý cần xác định những vấn đề để nhân dân quyết định trực tiếp mà không thông
qua cơ quan đại diện, cách thức tổ chức tiến hành việc trưng cầu ý kiến nhân dân.
Đó là những vấn đề quan trọng, quyết định đến vận mệnh quốc gia, dân tộc, ảnh
hưởng và tác động đến môi trường; đến chủ quyền biên giới, lãnh thổ quốc gia.
Ban hành Luật Trưng cầu dân ý đảm bảo cho người dân được trực tiếp quyết
định những vấn đề quan trọng của đất nước sẽ là một bước tiến để xây dựng xã hội
dân chủ. Điều này hoàn toàn phù hợp với quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong
179
Cương lĩnh xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã
hội (bổ sung 2011), đó là: "xây dựng xã hội dân chủ, công bằng và văn minh"; đồng
thời đó cũng là tiêu chí để đánh giá an ninh con người xét trên phương diện chính trị.
3.3.6. Tăng cường thi hành pháp luật và theo dõi thi hành pháp luật
Với trách nhiệm là thành viên của cộng đồng quốc tế, Việt Nam tuân thủ
các nghĩa vụ theo luật quốc tế trong đó có việc thực hiện các cam kết trong phạm vi
lãnh thổ quốc gia. Tuy nhiên, mức độ thực hiện các cam kết quốc tế được thể hiện
rõ qua thực tiễn thi hành pháp luật. Chuyển hóa (nội luật hóa) được coi là cơ sở để
thực hiện các nghĩa vụ quốc tế nhưng thực hiện như thế nào và hiệu quả ra sao lại
phụ thuộc nhiều vào thực tiễn thi hành pháp luật.
Như đã phân tích ở phần pháp luật Việt Nam về an ninh con người, những
chuẩn mực để đảm bảo tăng cường an ninh con người ở Việt Nam hoặc cần phải
được tiếp tục nội luật hóa thông qua việc ban hành, sửa đổi bổ sung các đạo luật,
nhưng quan trọng hơn cần tổ chức tốt hơn quá trình thi hành pháp luật trong đó có
việc theo dõi thi hành pháp luật.
Thực tiễn thi hành pháp luật trong các lĩnh vực của an ninh con người đặc
biệt là lĩnh vực bảo vệ môi trường và đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho thấy
giữa qui định của pháp luật và triển khai thực hiện trên thực tế còn có khoảng cách,
cụ thể là:
Về tổ chức thi hành pháp luật, theo qui định của Luật Ban hành văn bản qui
phạm pháp luật năm 2008 thì văn bản qui định chi tiết thi hành phải được soạn thảo
cùng với dự án luật, pháp lệnh để trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền kịp thời
ban hành khi luật, pháp lệnh có hiệu lực. Qui định như vậy để đảm bảo việc thi hành
của văn bản qui phạm pháp luật ngay khi có hiệu lực kể cả văn bản có giá trị cao là
Luật. Tuy nhiên, các qui định chi tiết và hướng dẫn thi hành pháp luật nói chung
còn ban hành chậm do đó không đảm bảo có hiệu lực đồng thời với hiệu lực của các
luật, pháp lệnh trong đó có pháp luật về an ninh con người mà điển hình là lĩnh vực
môi trường hoặc an toàn thực phẩm. Ví dụ: Bộ luật Hình sự 1999 có riêng một
chương với 10 điều, tương ứng với 10 tội danh qui định về các tội phạm môi trường
180
nhưng năm 2009 khi sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự thì các văn bản hướng dẫn
việc điều tra, truy tố, xét xử đối với các tội phạm về môi trường cũng vẫn chưa
được ban hành; cũng như vậy, Luật An toàn thực phẩm được thông qua tháng
06/2010 và có hiệu lực ngày 01/01/2011 nhưng đến tháng 04/2012 mới có Nghị
định 38/NĐ - CP hướng dẫn thi hành... Sự chậm trễ trong việc ban hành các văn bản
hướng dẫn thi hành luật làm giảm đi hiệu lực thực tế của pháp luật. Về phổ biến
giáo dục pháp luật, trên cơ sở Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền đã đưa việc phổ biến, giáo dục pháp luật vào chương trình
công tác. Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
còn những hạn chế như: với lĩnh vực bảo vệ môi trường mới tập trung ở các khu
vực nhất định theo trọng điểm, chưa chú trọng phổ biến pháp luật cho các doanh
nghiệp, khu công nghiệp, làng nghề; với an toàn thực phẩm nội dung tuyên truyền
còn chưa sâu rộng, chưa bao quát được hết các qui định của pháp luật an toàn thực
phẩm. Về tình hình chuẩn bị các điều kiện cho việc thi hành pháp luật như tổ chức
bộ máy, kinh phí và cơ chế tài chính, cơ sở vật chất và trang thiết bị còn chậm hoặc
thiếu. Tình hình tuân thủ pháp luật của các cơ quan, tổ chức, cá nhân thông qua
công tác kiểm tra, phát hiện và xử lý các vi phạm do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền thực hiện cho thấy tình hình vi phạm pháp luật về môi trường và an toàn thực
phẩm diễn ra tương đối phổ biến, trên nhiều lĩnh vực khác nhau, ảnh hưởng sâu sắc
đến sự phát triển kinh tế - xã hội, sức khỏe, quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân,
đe dọa tới an ninh con người. Xuất phát từ thực trạng thi hành pháp luật hiệu quả
chưa cao đòi hỏi phải tăng cường công tác theo dõi thi hành pháp luật góp phần bảo
đảm an ninh con người ở Việt Nam, cụ thể là:
Thứ nhất, nghiên cứu xây dựng và trình Quốc hội thông qua Luật về Kiểm
tra, theo dõi thi hành pháp luật, trong đó qui định cụ thể phạm vi, mục đích, nội
dung kiểm tra, theo dõi thi hành pháp luật; thẩm quyền kiến nghị, xử lý kết quả
kiểm tra, theo dõi thi hành pháp luật.
Thứ hai, sửa đổi bổ sung các qui định pháp luật bảo đảm có hiệu quả chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước về thi hành pháp luật. Ví dụ,
Bộ trưởng có quyền kiểm tra việc thi hành pháp luật đối với ngành, lĩnh vực được
181
phân công phụ trách đối với tất cả các ngành, địa phương thay vì chỉ được kiểm tra
các văn bản qui phạm pháp luật do mình ban hành như hiện nay.
Đó là cơ sở pháp lý cũng như tăng cường quản lý nhà nước về công tác theo
dõi thi hành pháp luật ở Việt Nam, sở dĩ như vậy là vì: Trước hết, với tư cách là cơ
quan quyền lực nhà nước cao nhất, Quốc hội căn cứ vào các qui định của Luật Hoạt
động giám sát của Quốc hội để thực hiện các hoạt động cụ thể liên quan đến giám
sát tối cao hoạt động của bộ máy nhà nước. Chính phủ với chức năng bảo đảm thi
hành Hiến pháp và pháp luật, tổ chức việc chỉ đạo thanh tra, kiểm tra việc thi hành
pháp luật, các luật chuyên ngành và các văn bản hướng dẫn các luật này hầu hết đều
có qui định về hoạt động kiểm tra, thanh tra nhưng mới chỉ dừng lại ở các qui định
chung mà chưa có một văn bản qui định và hướng dẫn cụ thể cho việc kiểm tra việc
thi hành pháp luật. Tiếp theo, Chính phủ được giao chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
trong việc đảm bảo thi hành Hiến pháp và pháp luật trong các cơ quan, tổ chức và
công dân, nhưng việc thi hành pháp luật của các tòa án, viện kiểm sát lại chịu sự
giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân. Để có thể thực hiện đầy đủ chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình liên quan đến quản lý thi hành pháp luật,
Chính phủ cần phối hợp với các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước. Khi Hiến
pháp 1992 được sửa đổi năm 2001, chức năng của Chính phủ trong việc bảo đảm thi
hành Hiến pháp và pháp luật được khẳng định rõ hơn khi chuyển chức năng kiểm
sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan Viện kiểm sát theo Điều 137 Hiến pháp
1992 (sửa đổi) sang Chính phủ đảm nhiệm. Do đó, việc quản lý thi hành pháp luật
cần có hướng phù hợp đảm bảo hiệu quả thi hành pháp luật. Hơn nữa, theo sự phân
công của Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên của Chính phủ có thẩm quyền
quản lý theo ngành, lĩnh vực và chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ và
Quốc hội về ngành, lĩnh vực được phân công trong đó có quyền kiểm tra việc thi
hành các văn bản do mình ban hành đối với tất cả các ngành, địa phương. Như vậy,
các bộ, cơ quan ngang bộ kiểm tra việc thi hành pháp luật trong phạm vi ngành, lĩnh
vực nhưng chưa có một cơ quan của Chính phủ thực hiện việc kiểm tra, theo dõi mà
các bộ đã thực hiện đến khi Chính phủ giao cho Bộ Tư pháp chức năng quản lý về
công tác thi hành pháp luật theo Nghị định 93/2008/NĐ-CP ngày 22/08/2008. Thực
182
tế những năm qua, thông qua việc quản lý công tác thi hành pháp luật theo đề án:
"Triển khai thực hiện công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật" theo Quyết
định số 1987/QĐ-TTg ngày 30/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ đã góp phần phát
hiện những vi phạm pháp luật, chỉ ra được những nguyên nhân tồn tại và đề xuất
các giải pháp phù hợp góp phần bảo đảm thực thi pháp luật có hiệu quả hơn. Ngoài
ra, tăng cường công tác theo dõi thi hành pháp luật đóng vai trò tích cực cho việc
bảo đảm thi hành Hiến pháp và pháp luật trong các cơ quan, tổ chức và công dân.
Không những vậy, thông qua việc theo dõi thi hành pháp luật của Chính phủ sẽ là
cơ sở để Quốc hội thực hiện tốt hơn chức năng giám sát tối cao hoạt động của bộ
máy nhà nước.
Thực hiện pháp luật quốc tế, chuyển hóa những quy định của pháp luật
quốc tế thành pháp luật quốc gia chính là trách nhiệm của quốc gia với tư cách chủ
thể luật quốc tế. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở việc ban hành, sửa đổi và bổ sung
pháp luật vẫn chưa đủ mà quan trọng là hiệu quả trên thực tế của pháp luật. Do đó,
mục đích và nội dung mà pháp luật Việt Nam về an ninh con người là tốt nhưng sẽ
tốt và hiệu quả hơn khi nó được đưa vào cuộc sống, phát huy giá trị đích thực để
góp phần tích cực tăng cường bảo đảm an ninh con người.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Việt Nam là một quốc gia độc lập có chủ quyền và là thành viên tích cực
của cộng đồng quốc tế. Trong quá trình hội nhập, Việt Nam có nhiều cơ hội và cũng
đứng trước những thách thức của thời đại mà chúng ta phải chung tay hợp tác. An
ninh con người là phổ biến nhưng bảo đảm an ninh con người lại do đặc thù lịch sử,
kinh tế, xã hội và bản chất giai cấp ở mỗi quốc gia. Độc lập cho dân tộc, no ấm, hạnh
phúc của người dân là thành quả của cả một quá trình lịch sử lâu dài nên chúng ta ý
thức rất rõ giá trị của an ninh con người. An ninh con người là an ninh của mỗi người
trên nền tảng của an ninh cộng đồng, dân tộc. Tận tâm thực hiện các cam kết quốc tế,
chuyển hóa pháp luật quốc tế thành chính sách, pháp luật quốc gia đặc biệt là nâng
cao hiệu quả thi hành pháp luật là cơ sở tăng cường an ninh con người trong một xã
hội an toàn góp phần cùng cộng đồng quốc tế giải quyết những vấn đề toàn cầu.
183
KẾT LUẬN
Từ những nghiên cứu ở giai đoạn thập kỷ 60 và 70 của thế kỷ XX và chính
thức xuất hiện năm 1994, khái niệm an ninh con người ngày càng thu hút sự quan
tâm trên phương diện học thuật cũng như thực tiễn quan hệ quốc tế của các quốc
gia. Về phương diện lý luận, an ninh con người còn có nhiều cách lý giải và tiếp cận
khác nhau về nội hàm cũng như việc sử dụng khái niệm. Về nội hàm có quan điểm
cho rằng an ninh con người có nội hàm quá rộng và như vậy khó có thể tìm được sự
đồng thuận của các quốc gia nhưng cũng có quan điểm coi an ninh con người trên
từng khía cạnh và lĩnh vực cụ thể. Về việc sử dụng khái niệm, có quốc gia sử dụng
trực tiếp và coi an ninh con người như là một công cụ trong chính sách đối ngoại
như các quốc gia phương Tây nhưng cũng có quốc gia dè dặt trong việc chấp nhận
khái niệm an ninh con người điển hình là một số quốc gia châu Á vì họ cho rằng an
ninh con người sẽ làm mờ nhạt đi an ninh quốc gia và thực chất là can thiệp vào
công việc nội bộ của quốc gia. Tôi cho rằng, mỗi học giả và từng quốc gia đều có
cơ sở cho quan điểm của mình nhưng một thực tế không ai có thể phủ nhận là hòa
bình và an ninh quốc tế được duy trì chỉ khi an toàn của mỗi cá nhân con người
trong cộng đồng nhân loại được bảo đảm. Nhà nước thông qua đối thoại và hợp tác
để chiến tranh không xảy ra nhưng ngày nay, những nguy cơ lan tỏa xuyên quốc gia
vẫn luôn hiện hữu đe dọa tới cuộc sống bình thường của mỗi người dân. Vì vậy, an
ninh con người đòi hỏi các nỗ lực hơn nữa của các quốc gia trong việc bảo vệ các
giá trị của con người bằng những nhu cầu thiết yếu cho cuộc sống. Vì lẽ đó, an ninh
con người có vai trò tích cực thể hiện: (1) Đó là sự bổ sung cho nội hàm của an ninh
quốc gia; (2) tạo cơ sở nền tảng cho việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người; (3)
tăng cường các nỗ lực hợp tác quốc tế; (4) đòi hỏi mỗi quốc gia, chính phủ phải
không ngừng hoàn thiện chính mình. Tất nhiên, những điều đó luôn phải được thực
hiện trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của mỗi quốc gia và tuân theo những
nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế. Đó là những nội dung đã được khẳng định
trong chương 1 của luận án.
184
Trên cơ sở các yếu tố cấu thành an ninh con người và nội hàm của khái
niệm này theo hai phương diện vật chất và tinh thần với những đòi hỏi đề cao hơn
nữa trách nhiệm của quốc gia cũng như ý thức của mỗi cá nhân con người về an
ninh cho chính mình và cho cộng đồng, rất cần có những qui định của luật pháp
quốc tế, các thiết chế quốc tế trong việc bảo đảm an ninh con người. Rõ ràng, luật
pháp quốc tế đã trù liệu những khuôn khổ pháp lý cho an ninh con người và nền hòa
bình, phát triển cho mỗi quốc gia nhưng những hiểm họa đe dọa sự ổn định của
quốc gia, cuộc sống bình thường của người dân lại luôn tiềm ẩn. Chương 2 của luận
án đã nhấn mạnh cơ sở pháp lý, thiết chế và cơ chế cho sự vận hành dựa trên những
nguyên tắc chung về an ninh con người. Nhưng sẽ không đạt được hiệu quả nếu như
thiếu đi sự nỗ lực hợp tác của các quốc gia mà mục đích cuối cùng là an ninh quốc
gia được bảo đảm, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ được duy trì và quan trọng là người
dân ở mỗi quốc gia được hưởng một cuộc sống bình thường trong điều kiện của
quốc gia và dân tộc mình. Từ đó, rất cần có kiến nghị những giải pháp để hoàn thiện
luật quốc tế và các thiết chế về an ninh con người trong thời gian tới.
Với đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ và hội nhập cùng cộng đồng quốc
tế, Việt Nam cũng đứng trước những nguy cơ toàn cầu và những vấn đề nội tại đe
dọa sự phát triển của đất nước cũng như an ninh con người và chúng ta cũng nhận
thức hậu quả của việc an ninh con người không được bảo đảm. Vì vậy, với quan
điểm coi con người là trung tâm và chủ thể của phát triển được khẳng định trong
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định nhận thức mới trong bối cảnh toàn cầu
hóa. Chính sách và pháp luật về bảo đảm an ninh con người của Việt Nam tương
đối hài hòa với các chuẩn mực quốc tế thậm chí có những chuẩn mực chúng ta đã
làm được trên cả những tiêu chí của luật pháp quốc tế mà nhiều quốc gia còn phải cố
gắng hơn nhiều mới đạt được ví dụ như việc tạo lập môi trường chính trị hòa bình
ổn định. Đây là điều không thể phủ nhận mà cộng đồng quốc tế phải thừa nhận.
Rất cần có nhận thức mới về con người khi coi con người là chủ thể của
phát triển. Nhận thức là như vậy nhưng chỉ có thể phát triển trên nền tảng của an
185
ninh, cho nên chúng ta cũng cần đối diện trực tiếp với khái niệm an ninh con người
mà không né tránh bởi cơ sở pháp lý là những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc
tế trên nền của chủ quyền quốc gia. Với ý nghĩa đó, chương 3 đã tập trung phân tích
những qui định của pháp luật Việt Nam về các khía cạnh của an ninh con người,
thực tiễn thực hiện và những nguyên nhân ảnh hưởng tới hiệu quả của pháp luật đặc
biệt là trong lĩnh vực kinh tế, xã hội. Từ đó, các giải pháp được đề xuất để thúc đẩy
an ninh con người ở Việt Nam bao gồm chính sách, chiến lược quốc gia, hình thành
các thiết chế và tham gia điều ước quốc tế, hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia.
Đó là những tín hiệu pháp lý tốt đẹp để Việt Nam cùng cộng đồng quốc tế hợp tác,
phát triển vì con người.
186
CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Chu Mạnh Hùng - Trịnh Xuân An (2007), "An ninh con người trong tiến trình
hình thành cộng đồng ASEAN", Luật học, (9), tr. 23-27.
2. Chu Mạnh Hùng (2011), "An ninh con người trong pháp luật quốc tế", Luật học,
(9), tr. 27-32.
3. Chu Mạnh Hùng (2011), "Mối quan hệ giữa an ninh con người và an ninh quốc gia
trong bối cảnh toàn cầu hóa", Nhà nước và pháp luật, 10(282), tr. 78-84.
187
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. "Bài phát biểu của Bộ trưởng Bộ Y tế tại lễ phát động tháng vệ sinh an toàn
thực phẩm" (2012), ngày 06/01.
2. Nguyễn Trần Bạt (2008), "Cảm giác bất an",
68e7777502be5ad0327967efd1b755c8f2a3d7763e811b66d7c3632.
3. Ngô Xuân Bình (Chủ biên) (2000), Chính sách đối ngoại của Nhật Bản thời kỳ
sau chiến tranh lạnh, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
4. Nguyễn Phương Bình (Chủ nhiệm đề tài) (2004), Các vấn đề an ninh phi
truyền thống ở Đông Nam Á: tác động đối với ASEAN và Việt Nam, Đề
tài nghiên cứu khoa học, Học viện Quan hệ Quốc tế, Hà Nội.
5. Nguyên Bình (2011), "An ninh môi trường đã đến lúc cần quan tâm sâu sắc",
à-cuoc-song/moi-
truong-cua-ban, ngày 25/01.
6. An Bình (2011), "Canada rút khỏi Nghị định thư Kyoto",
ngày 13/12.
7. Đỗ Hòa Bình (Chủ biên) - Phạm Thị Thu Hương - Lê Đức Hạnh (2010), Thuật ngữ
Pháp luật quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Nguyễn Trọng Bình và Vũ Hương Linh, "An toàn thực phẩm một vấn đề của an
ninh con người", Antoanthucpham.htm.
9. Lê Văn Bính (Chủ biên) (2010), Luật Điều ước quốc tế, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội, Hà Nội.
10. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2011), "Báo cáo Tổng kết thi hành pháp
luật và thực trạng quan hệ xã hội về việc làm",
tintuc/T%E1%BB%95ngk%E1%BA%BFtthih%C3%...
11. Bộ Ngoại giao (Vụ các Tổ chức Quốc tế) (1999), Các tổ chức quốc tế và Việt
Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Bộ Ngoại giao (2005), Thành tựu bảo vệ và phát triển quyền con người ở Việt
Nam, Hà Nội.
188
13. Bộ Tư pháp (2003), Cẩm nang các vấn đề đấu tranh về quyền con người, Hà Nội.
14. Bộ Tư Pháp (2011), Tài liệu Hội nghị Tổng kết thực hiện đề án "Triển khai
thực hiện công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật" của Thủ tướng
Chính phủ và sơ kết thực hiện thông tư hướng dẫn theo dõi thi hành pháp
luật của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Hà Nội.
15. "Các nước ASEAN 5 với vấn đề an ninh con người",
tapchicongsan.org.vn/print,
16. Nguyễn Mạnh Cầm (2009), Đổi mới về đối ngoại và hội nhập quốc tế, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Lê Chân, "An ninh lương thực: Vấn đề sống còn của châu Phi",
Print/10352/an-ninh-luong-thuc-van-de-song-con-cua-Chau-Phi-.html.
18. Lê Chân, "Xu thế tan băng đe dọa an ninh lương thực toàn cầu",
=104158&IDCode.
19. Vương Dật Châu (Chủ biên) (2004), An ninh quốc tế trong xu thế toàn cầu
hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. "Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP)" (2008), cpv/
Modules/News/NewsDetail.aspx?co_id=30690&cn_id=256586, ngày 10/11.
21. "Cộng đồng chung tay khắc phục hậu quả bommìn sau chiến tranh" (2012),
Bản tin Đài Truyền hình Việt Nam (VTV1), ngày 06/4.
22. Lê Văn Cương (2005), Quan điểm và giải pháp bảo vệ an ninh quốc gia trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
23. Lê Văn Cương (2008), Bước đầu nhận diện vấn đề an ninh con người, Hội thảo
An ninh con người ở Đông Nam Á, Thành phố Hồ Chí Minh.
24. Nguyễn Văn Dân (Chủ biên) (2003), Khủng bố và chống khủng bố quốc tế, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
25. "Dân số thế giới và áp lực đối với cộng đồng quốc tế" (2011), Bản tin truyền
hình Thông tấn xã Việt Nam, ngày 6/10.
26. Nguyễn Đăng Dung - Vũ Công Giao - Lã khánh Tùng (đồng Chủ biên) (2009),
Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
189
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (1992), Chỉ thị 12-CT/TW ngày 12/7 của Ban Bí thư
Trưng ương, Hà Nội.
28. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Các Cương lĩnh Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
33. Đinh Quý Độ (2007), Vấn đề cải tổ Liên hợp quốc trong bối cảnh quốc tế mới
hiện nay, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
34. H. Fredman (2004), Chiếc xe Luxus và cành Oliu, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
35. Văn Hào (2012), "Nhiều vi phạm về an toàn lao động trong khai thác khoáng
sản",
Nhieu-vi-pham-ve-aTL..., ngày 12/4.
36. Lê Hồng Hiệp (2010), "Từ dịch bệnh đến an ninh con người", http://
10nam.hsph.edu.vn/Th%C3%B4ngb%C3%A1otint%E1%BB%A9c/News
_Detail/ta, ngày 12/8.
37. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2002), Giáo trình lý luận về quyền
con người, Hà Nội.
38. Học viện Quan hệ Quốc tế (2007), Lý luận quan hệ quốc tế, Nhà in Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
39. Học viện Quan hệ Quốc tế (2007), Luật quốc tế, Hà Nội.
40. Hội bảo vệ quyền trẻ em Việt Nam (2010), "Chương trình quốc gia bảo vệ trẻ em
giai đoạn 2011-2015", ngày 11/10.
190
41. "Hội nghị trực tuyến về an toàn thực phẩm" (2012), Bản tin Đài Truyền hình
Việt Nam (VTV1), ngày 26/3.
42. Nguyễn Quốc Hùng - Nguyễn Hồng Quân (2008), Liên hợp quốc và lực lượng
gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
43. Nguyễn Hưng (2012), "Hình ảnh nạn nhân bom mìn khiến tôi không thể kìm
lòng", ngày 04/4.
44. Nguyễn Thái Yên Hương (Chủ biên), Nguyễn Quốc Lộc (2005), Can thiệp nhân
đạo trong chính sách đối ngoại của Mỹ, Nxb Thế giới, Hà Nội.
45. Trần Khánh (Chủ biên) (2006), Những vấn đề chính trị, kinh tế Đông Nam Á
thập niên đầu thế kỷ XXI, Hà Nội.
46. Trần Khánh (Chủ biên) (2002), Liên kết ASEAN trong bối cảnh toàn cầu hóa,
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
47. Trần Khánh (2008), "Các nước ASEAN 5 với vấn đề an ninh con người",
83&print=true.
48. Trần Khánh (Chủ nhiệm đề tài) (2008), Cộng đồng An ninh ASEAN (ASC) -
Nội dung, lộ trình, triển vọng và tác động, Đề tài nghiên cứu khoa học
cấp bộ, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam - Viện Nghiên cứu Đông Nam
Á, Hà Nội.
49. Trần Bá Khoa (2000), Tìm hiểu những thay đổi lớn trong chiến lược quân sự
của Mỹ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
50. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2010), Quyền con người - Tập tài liệu
chuyên đề của Liên hợp quốc, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
51. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Trung tâm nghiên cứu quyền con người
và quyền công dân (2011), Luật nhân quyền quốc tế và những vấn đề cơ
bản, Nxb Lao động Xã hội, Hà Nội.
52. "Khủng hoảng lương thực - Nguy cơ đe dọa an ninh toàn cầu" (2009),
www.cpv.org.vn, ngày 03/11.
53. Tường Duy Kiên (2006), Quốc hội Việt Nam với việc bảo đảm quyền con người,
Nxb Tư pháp, Hà Nội.
191
54. "Liên minh châu Phi" (2010),
NewsDetail.aspx?co_id=30690&cn_id=420214, ngày 07/9.
55. Phạm Bình Minh (Chủ biên) (2010), Cục diện thế giới đến năm 2020, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
56. Phạm Bình Minh (Chủ biên) (2011), Định hướng chiến lược đối ngoại Việt
Nam đến 2020, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
57. Nguyễn Thu Mỹ (Chủ biên) (2008), Một số vấn đề cơ bản về hợp tác ASEAN +3,
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
58. Nguyễn Thị Mỹ (Chủ nhiệm đề tài) (2008), Phản ứng chính sách của các
nước Đông Nam Á đối với tiến trình hình thành Cộng đồng ASEAN (AC),
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam -
Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, Hà Nội.
59. Lê Huy Nam (2007), "Hội nghị Cấp cao APEC lần thứ 15",
htx/Vietnammese/defaul.asp?Newid=10487, ngày 09/9.
60. Nguyễn Thị Kim Ngân - Chu Mạnh Hùng (Đồng Chủ biên) (2010), Giáo trình
Luật quốc tế, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
61. Nhà Pháp luật Việt - Pháp (2002), Những vấn đề cơ bản về Liên minh Châu Âu
và pháp luật cộng đồng Châu Âu, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
62. Vũ Dương Ninh (Chủ biên) (2004), Việt Nam - ASEAN quan hệ đa phương và
song phương, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
63. Nguyễn Đức Ninh (Chủ nhiệm đề tài) (2007), Cộng đồng văn hóa - xã hội
ASEAN, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Viện Khoa học Xã hội Việt
Nam - Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, Hà Nội.
64. Nguyễn Tiến Phồn (2001), Dân chủ và tập trung dân chủ - Lý luận và thực
tiễn, Nxb Khoa học và xã hội, Hà Nội.
65. Chu Công Phùng (2008), "An ninh con người - Những vấn đề lý luận và thực tiễn",
Hội thảo khoa học: An ninh con người ở Đông Nam Á, Thành phố Hồ Chí Minh.
66. Hồng Phượng, "Pháp luật về môi trường: Bất cập của Việt Nam và kinh
nghiệm từ Nhật Bản",
Bat-cap-cua-Viet-Nam-va-kinh-nghiem.
192
67. Nguyễn Trần Quế (1999), Những vấn đề toàn cầu ngày nay, Nxb Khoa học Xã
hội, Hà Nội.
68. Nguyễn Trần Quế (Chủ biên) (2003), 35 năm ASEAN hợp tác và phát triển,
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
69. Nguyễn Duy Quý (2004), Tiến tới một ASEAN hòa bình, ổn định và phát triển
bền vững, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
70. Ramesh Thakur, "Đưa con người vào đối thoại an ninh: Từ an ninh quốc gia đến an
ninh con người", Hội nghị quốc tế An ninh con người trong thế giới toàn cầu
hóa, Ulan Bato (Mông Cổ),
71. Phan Văn Rân - Nguyễn Hoàng Giáp (2010), Chủ quyền quốc gia dân tộc
trong xu thế toàn cầu hóa và vấn đề đặt ra đối với Việt Nam, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
72. Richard J.Ellings và Shedon W.Simon (2005), An ninh Đông Nam Á trong
Thiên niên kỷ mới, Viện nghiên cứu châu Mỹ và Viện Chiến lược và
Khoa học Công an, Hà Nội.
73. A.I. Romanovich (2003), "Vấn đề an ninh trong bối cảnh phát triển bền vững",
Tạp chí "Tri thức xã hội - nhân văn", (Nga), (4).
74. Samuel Hungtington (2003), Sự va chạm của các nền văn minh, Nxb Lao
động, Hà Nội.
75. Sở Tư pháp Thành phố Hồ Chí Minh (2011), "Đề cương giới thiệu Luật Khám
bệnh, chữa bệnh",
Lists/Post.aspx?List=ab554686%2D92c8%2D4b31%2D9cab%, 19/9.
76. Nguyễn Anh Thái (Chủ biên) (2000), Lịch sử thế giới hiện đại, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
77. Cao Đức Thái (Chủ biên) (2002), Tuyên ngôn thế giới và hai Công ước 1966 về
quyền con người, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
78. Nguyễn Hồng Thao (2008), Việt Nam và Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
79. Hồ Bá Thâm - Nguyễn Thị Tường Vân (Đồng chủ biên) (2010), Phản biện xã hội
và phát huy dân chủ pháp quyền, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
193
80. Nguyễn Xuân Thắng (Chủ biên) (2006), Chênh lệch phát triển kinh tế và an
ninh kinh tế ở ASEAN, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
81. Nguyễn Xuân Thắng (Chủ biên) (2007), Toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập
kinh tế quốc tế, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
82. Trần Văn Thắng - Lê Mai Anh (Đồng chủ biên) (2003), Luật Quốc tế - Lý luận
và thực tiễn, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
83. Thông tấn xã Việt Nam (2003), "ASEAN - Thách thức và cơ hội", Tài liệu
tham khảo đặc biệt, (9).
84. Thông tấn xã Việt Nam (2010), "Liên hợp quốc kêu gọi tăng an ninh con người",
ngày 21/5.
85. Thông tấn xã Việt Nam, "Số người thất nghiệp trên thế giới có nguy cơ tăng lên mức
kỷ lục", PrintView.aspx?ArticleID=285404.
86. Nguyễn Thị Thuận (2010), Luật Quốc tế - Những điều cần biết, Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội.
87. "Thực trạng và những thách thức đối với môi trường toàn cầu và Việt Nam",
88. Tổng cục Môi trường - Bộ Tài nguyên và Môi trường (2012)," Tình hình thi
hành pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ môi trường",
vn/truyenthong/tapchimt/nctd42009/Pages/T%C3%ACnh-h%C3%ACnh.
89. Nguyễn Phú Trọng (2011), Phát huy dân chủ, tiếp tục xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân vì nhân dân,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
90. Nguyễn Hữu Trung, "Nhiệt độ cao - Mối đe dọa của an ninh lương thực",
2011071110483735CA52/nhiet-do-cao-moi-de-doa-an-ninh-luong-thuc.
91. Trung tâm Nghiên cứu quyền con người - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh (1998), Các văn kiện quốc tế về quyền con người, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
92. Trung tâm Nghiên cứu Quyền con người - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh (2005), Luật Nhân đạo quốc tế - Những nội dung cơ bản, Nxb
Lý luận chính trị, Hà Nội.
194
93. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh
(2008), An ninh con người ở Đông Nam Á, Hội thảo khoa học, Bộ môn
Quan hệ quốc tế, Thành phố Hồ Chí Minh.
94. Trường Đại học Luật Hà Nội (2007), Giáo trình Luật Quốc tế, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội.
95. Võ Anh Tuấn (1999), Phong trào không liên kết, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
96. Tạ Minh Tuấn (Chủ nhiệm đề tài) (2004), Các thách thức an ninh phi truyền
thống ở Đông Nam Á: tác động đối với ASEAN và Việt Nam, Đề tài
nghiên cứu khoa học, Học viện Quan hệ Quốc tế, Hà Nội.
97. Tạ Minh Tuấn (2008), "An ninh con người và những mối đe dọa toàn cầu",
D=13540442, ngày 13/05.
98. Lục Trung Vĩ (2006), Bàn về an ninh phi truyền thống, Viện Chiến lược và
Khoa học Công an, Hà Nội.
99. Viện Khoa học Xã hội Việt Nam - Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, Phạm Thị
Vinh (Chủ biên) (2007), Một số vấn đề về xung đột sắc tộc và tôn giáo ở
Đông Nam Á, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
100. Viện Nghiên cứu phát triển thành phố Hồ Chí Minh (2007), "Việc làm - Thực
trạng và những vấn đề bất cập ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay",
Nghiên cứu kinh tế, (344).
101. Viện Thông tin Khoa học - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2003), "Một
số vấn đề về an ninh thế giới", Thông tin chuyên đề, (4).
102. Viện Thông tin Khoa học Xã hội (2003), An ninh trong quan niệm phát triển
con người, (Tài liệu dịch của Z.Z.Biktimirova), Hà Nội.
103. Việt Nam+ (2011), "Việt Nam tham dự hội thảo về an ninh con người",
ngày 23/02.
104. Võ Khánh Vinh (Chủ biên) (2009), Quyền con người - Tiếp cận đa ngành và liên
ngành khoa học xã hội, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
105. Võ Khánh Vinh (Chủ biên) (2009), Quyền con người tiếp cận đa ngành và liên
ngành khoa học xã hội, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
195
106. Phùng Xuân (2011), "Bảo đảm an toàn lao động trong lĩnh vực xây dựng",
=987:bo-m-an-toa..., ngày 27/4.
107. Nguyễn Như Ý (Chủ biên) (1998), Đại Từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa
Thông tin, Hà Nội.
108. William J. Clinton (1997), Chiến lược an ninh quốc gia sự cam kết và mở rộng
1995 - 1996, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
109. Wolfgang Benedek (Chủ biên) (2008), Tìm hiểu về quyền con người - Tài liệu
hướng dẫn về giáo dục quyền con người (Tài liệu dịch), Nxb Tư pháp,
Hà Nội.
TIẾNG ANH
110. Akaha, Tsuneo (2002), "Non- Traditional Security Issues in Northeast Asia and
Prospects for International Cooperation", UNU conference on "Thinking
outside the Security Box: Non- Traditional Security in Asia: Governance,
Globalization, and the Environment", UN,NY, March 15th 2002.
111. W.E. Blatz, Human Security (1996), Some reflections, University of Toronto Press.
112. Capie và Evans (2002), The Asia - Pacific Security Lexicon, Singapore: ISEAS.
113. "Commission on Human Security protecting and Empowering people" (2003),
114. David Baldwin (1985), Economic Statecraft, New York: Columbia University Press.
115. David Capie và Paul Evans (2003), Thuật ngữ an ninh Châu Á - Thái Bình
Dương, (Học viện Quan hệ Quốc tế), Hà Nội.
116. David Campell (1992), Writing Security, United States Forein Policy and the
Polities of Identity, Manchester University Press.
117. Donella H. Meadows, Dennis L.Meadows Jorgen Randers and William W
Behrens III, (1972): The Limits to Growth, New York, Uniserse Book
118. Janne Nolan (1994), Global Engagement: Coopperation an Security in the 21
Century, Washington D.C, The Brookings Institution.
119. "Final Report of the Commission on Human Security" (2003),
humansecurity-chs.org/Finalreport/ English/FinalReport.pdf.
196
120. Kanti Bajpai, Human Security: Concept and Measurement.
121. Ministry of Foreign Affairs of Japan, "Human Security",
mofa.go.jp/policy/oda/sector/security/action.html.
122. Ralf Emmer, Mely Caballero and Amitave Acharya (2006), Studying Non-traditional
Security in Asia: Trend an Issues, Marshall Cavendish Academic.
123. The Commission on Global Governance, Our Global Neighborhood (1995), New
York: Oxford University Press.
124. The Independent Commission on Disarmament and Security Issues (1982),
Common Security: A Blueprint for Survival (1982), New York: Simon
and Schuster.
125. The Independent Commission on the International Development Issues, (1980),
North - South: A Programme for survival, Cambrige, MA: The MIT Press
126. The Independent Commission on Disarmament and Security Issues, (1982),
Common Security: A Blueprint for Survival, New York: Simon and Schuster.
127. UNDP (1994), Human Development Report 1994, New York: United Nations.
128. William R. Slomanson, Fundamental Perspectives on International Law
(Fourth Edition), Thomson West.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_dua_len_mang_2231.pdf