Phần Mở Đầu
1.Lý do chọn đề tài
Trong những năm qua,cùng với sự phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội ,vai trò và địa vị của người phụ nữ ngày càng được nâng cao.Vấn đề bình đẳng giới ngày càng được xã hội quan tâm nhiều hơn.Hội nghị các quốc gia tại NewYork(Mỹ) năm 2000 đã xác định: bình đẳng giớ là một trong tám mục tiêu của thiên niên kỷ.Ở Việt Nam, nhà nước cũng đã ban hành nhiều
chủ trương,chính sách thúc đẩy bình đẳng nam nữ nhằm đảm bảo quyền lợi và phát huy vai trò của phụ nữ.Tiêu biểu như luật chống bạo hành phụ nữ,đặc biệt là luật bình đẳng giới đuợc thông qua trong kì họp thứ 10,quốc hội khóa 11(21/11/2006).Đuợc sự quan tâm của Đảng,nhà nước,sự nỗ lực của các ban ngành trung ương, địa phương và người dân ,Việt Nam đã trở thành một trong những nước tiến bộ hàng đầu về bình đẳng giới,đuợcu xếp thứ 80/136 quốc gia về chỉ tiêu phát triển giới.
Thế nhưng ,trên thưc tế,vấn đề bình đẳng giới ở Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập.Sự giải phóng phụ nữ dường như chỉ dừng lại ở cái mà cơ chế xã hội mới mang lại ,chưa vào sâu đuợc đời sống gia đình.Trong các gia đình ít nhiều vẫn tồn tại các hiện tượng bất bình đẳng giói như chưa ghi nhận đúng vai trò của nữ giới,sự phân công lao động trong gia đình chưa hợp lý,còn sự phân biệt đối xử nam nữ,bạo hành phụ nữ vv
Do đó em muốn đi sâu tìm hiểu vấn đề giói trong phạm vi gia đình,một lĩnh vực còn thiếu sự quan tâm đúng mức.
Mặt khác,địa bàn thực tế là thị trấn Tứ Hạ,huyện Hương Trà,Thừa Thiên Huế,là vùng đất cố đô,chỉ cách kinh thành huế có 16 km,nhiều dấu tích của chế độ phong kiến còn tồn tại trong cuộc sống của người dân nơi đây.Đặc biệt tàn dư của nó là tư tuởng trọng nam khinh nữ vẫn còn ăn sâu trong tiềm thức của một bộ phận dân chúng.Vì vậy em muốn tìm hiểu xem ở vùng đất còn đậm dấu ấn phong kiến này,vấn đề bình đẳng giói,đặc biệt là bình đẳng giói trong gia đình được nhìn nhận và thực hiện như thế nào.
Hơn nữa,vì thời gian hạn chế,chỉ có 10 ngày để thực hiện đề tài mà vấn đề bình đẳng giói thì quá rộng.Việc đi sâu nghiên cứu một vấn đề như bình đẳng giói trong gia đình sẽ có kết quả tốt hơn .
Vì những lý do trên ,em đã quyết định lựa chọn đề tài nghiên cứu trong chuyến thực tế này là: “Vấn đề bình đẳng giói trong gia đình: thực trạng,nguyên nhân và giải pháp(trường hợp nghiên cứu ở thị trấn Tứ Hạ,huyện Hương Trà,Thừa Thiên Huế).
2.Ý nghĩa lý luận và thực tiễn2.1 Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần làm sáng tỏ một số lý thuyết xã hội học: lý thuyết hành vi ,lý thuyết bất bình đẳng xã hội,lý thuyết về giới,bất bình đẳng giới
2.2Ý nghĩa thực tiễnĐối với chính quyền địa phương:
Giúp cán bộ thị trấn và các ban ngành chuyên môn đánh giá,nhìn nhận lại thực trạng bình đẳng giói trong gia đình tại địa phương.Những thông tin thu đuợc qua quá trình nghiên cứu sẽ tạo cơ sở cho chính quyền địa phương có những bổ sung,điều chỉnh về chính sách ,chủ trương nhằm thực hiện bình đẳng giói có hiệu quả,tạo động lực cho sự phát triển chung của địa phương.
Đối với người dân:
Giúp người dân có cơ hội nhìn nhận đúng hơn vai trò của người phụ nữ và thực trạng bình đẳng giói trong gia đình ở địa phương mình.Từ đó giúp người dân thay đổi lối tư duy cũ,góp phần thực hiện có hiệu quả bình đẳng giói trong gia đình nói riêng và bình đẳng nam nữ nói chung.
Đối với bản thân :
Qua đợt thực tế này,mà cụ thể là việc đi sâu tìm hiểu vấn đề bình đẳng giói trong gia đình ở một cộng đồng dân cư, là cơ hội tốt để em có thể áp dụng những phương pháp và lý thuyết đã học(phương pháp thực hành công tác xã hội,các lý thuyết về xã hội hoc,các kiến thức về gia đình học ) vào thực tiễn cuộc sống.Đồng thời qua quá trình thực hiện đề tài,em tiếp thu được nhiều kiến thức về vấn đề giới và hiểu thêm về một cộng đồng dân cư với những bản sắc riêng.Từ đó giúp em được kiểm nghiệm thực tế,rút ra được những kinh nghiệm quý báu cho công việc sau nay.
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1 Mục tiêu tổng quát
Đề tài này được thực hiện với một nhận thức rõ ràng rằng bình đẳng giới vấn đề bình đẳng giói đang rất được quan tâm ở Việt Nam hiện nay.Vì vậy trên cơ sở xem xét bình đẳng giới trong lĩnh vực gia đình,đề tài mong muốn đưa đến một cách nhìn mới về vai trò của người phụ nữ và thực trạng bình đẳng giới trong gia đình hiện nay.Từ đó hướng tới các giải pháp nâng cao năng lực cho nữ giới và thực hiện bình đẳng giới có hiệu quả.
3.2 Mục tiêu cụ thể
1.Tìm hiểu thực trạng bình đẳng giới trong gia đình ở Tứ Hạ:những thành tựu đạt được và những hiện tượng bất bình đẳng giới trong gia đình còn tồn tại.
2.Tìm hiểu cách nhìn nhận,đánh giá về vấn đề bình đẳng giới trong gia đình ở địa phương .
3.Tìm hiểu nguyên nhân và kiến nghị các giải pháp nhằm thực hiện bình đẳng giới trong gia đình có hiệu quả.
4.Nâng cao nhận thức cho cán bộ và người dân địa phương, làm thay đổi lối tư duy cũ ,lạc hậu,giúp họ có cách nhìn nhận đúng đắn về vấn đề bình đẳng giới.
IV. ĐÔI TƯỢNG,KHÁCH THỂ VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU4.1.Đối tuợng nghiên cứu
Tình hình bình đẳng giới trong gia đình ở Tứ Hạ:những thành công và những hiện tượng bất bình đẳng còn tồn tại,nguyên nhân và giải pháp.
4.2 Khách thể nghiên cứu
Phụ nữ và nam giới trong các gia đình trên địa bàn, cán bộ phụ nữ, đại diện chính quyền địa phương, trưởng các khu vực dân cư.
4.3 Phạm vi nghiên cưú
Không gian: nghiên cứu trên địa bàn thị trấn Tứ Hạ,cụ thể:UBND thị trấn, 4 khu vực dân cư:KV3,KV4, KV6,KV8.Thời gian: từ 14 đến 24/4/2008.
31 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 40345 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Vấn đề bình đẳng giới trong gia đình, thực trạng, nguyên nhân và giải pháp tại thị trấn Tứ Hạ, huyện Hương Trà, Thừa Thiên - Huế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phương.
Phương pháp quan sát: trong 10 ngày thực tế ở Tứ Hạ,sống với dân,tôi có cơ hội quan sát những hoạt động trong cuộc sống sinh hgoạt gia đình,trong lao đông sản xuất và 1 số hoạt động xã hội của chị em phụ nữ địa phương.
Lập phiếu điều tra: tiến hành phát phiếu điều tra cho 60 đối tương ở 3 khu vực(mỗi khu vực 20 phiếu).
Lập bảng hỏi.
6.2.2 Phương pháp xử lý dữ liệu
Phân tích thông tin, tài liệu: Đọc và phân tích những tài liệu về chính sách,chủ trương phát triển giới,thực hiện bình đẳng giói ;những
Báo cáo có liên quan đến sự phát triển của nữ giói và vấn đề bình đẳng gioi ở địa phương;một số bài báo,tạp chí có liên quan đến vấn đề bình đẳng giói.
Kiểm tra thông tin bằng phương pháp so sánh,đối chất các thông tin ,các nguồn tư liệu.
Tổng hợp,đánh giá các dữ liệu
VII.Giả THUYẾT NGHIÊN CỨU
Bình đẳng giói trong gia đình đang bị coi nhẹ, các hiện tượng bất bình đẳng trong gia đình vẫn đang diễn ra hàng ngày.
Người dân đang thiếu những thông tin ,kiến thức về giới và luật bình đẳng giói.
Người dân và một số cán bộ địa phương chưa nhận thức đúng về bình đẳng gioi trong gia đình.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SƠ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
I.TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Trong những năm gần đây,những chương trình,dự án nâng cao năng lực cho nữ giới và thực hiện bình đẳng giới được đảng và nhà nước quan tâm đầu tư rất lớn.Nhiều lớp tập huấn về giới đã được mở ra ở hầu hết các địa phương trong cả nước.Đi cùng với nó,những nghiên cứu về giói và bình đẳng giới được các nhà nghiên cứu hết sức quan tâm. Đặc biệt, một số nhà xã hội học đã đưa vấn đề giới vào nghiên cứu trong gia đình như: “ khác biệt nam nữ trong gia đình nông thôn đồng bằng bắc bộ” của Vũ Mạnh Lợi; “vai trò và vị trí của phụ nữ nông thôn trong gia đình” môt nghiên cứu công đồng của Đặng Nguyên Anh. Do vâỵ,đề tài nghiên cứu “ vấn đề bình đẳng giói ở Tứ Hạ : thực trạng,nguyên nhân và giả pháp” không phải là một chủ đề hoàn toàn mới lạ.Nhưng cái mới của đè tài này là ở chỗ cùng một lúc góp phần lam rõ hai vấn đề là thực trạng nhận thức và thực trạng thực hành bình đẳng giói trong gia đình ở nhiều khía cạnh.Đồng thời nghiên cưú này cũng lý giải nguyên nhân và đưa ra giải pháp giải quyết thực trạng đó.
II. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CÔNG CỤ
2.1 Giới:
Là một thuật ngữ xã hội học bắt nguồn từ bộ môn nhân loại học nói đến vai trò,trách nhiệm,quyền lợi mà xã hội quy định cho nam và nữ,bao gồm việc phân chia lao đông,các kiểu phân chia các nguồn và lợi ích.
2.2 Vai trò giới:
Là những kiểu hành vi và hoạt động mà xã hội mong đợi phụ nữ và nam giói cần thực hiện.Vai trò giói bao gồm vai trò sản xuất,tái sản xuất và vai trò cộng đồng.Vai trò giới được xác định theo văn hoá không theo khía cạnh sinh vật học và có thể thay đổi theo thời gian,theo xã hội và các vùng địa lý khác nhau.
2.3 Bình đẳng giới:
Có nghĩa là nam giới và nữ giới có vai trò và vị trí ngang nhau trong xã hội,được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng,gia đình và thừa hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó.
2.4 Bất bình đẳng giới
Là sự khác biệt giói và khoảng cách giói gây thiệt hại hay cản trở sự tiến bộ của nữ và nam.
Định kiến giới:
Là những nhận thức,thái độ và đánh giá thiên lệch,tiêu cực về đặc điểm,vị trí,vai trò và năng lực của nam hoặc nữ.Ví dụ:nộin trợ không phải là việc c ủa nam giới.
Phân biệt đối xử về giới:
Là việc hạn chế,bài trừ,không công nhận hoặc không coi trọng vai trò,vị trí của nam và nữ,gây bất bình đẳng giữa nam và nữ trong các lĩnh vực của đời sống gia đình và xã hội.
Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới:
Là biện pháp nhằm bảo đảm bình đẳng giới thực chất,do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành trong trường hợp có sự chênh lệch lớn giữa nam và nữ về vị trí, vai trò, điều kiện, cơ hội phát huy năng lực và thụ hưởng thành quả của sự phát triển mà việc áp dụng các quyền như nhau giữa nam và nữ không làm giảm được sự chênh lệch này.
CHƯƠNG 2. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
TỔNG QUAN VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
Khái quát đặc điểm, tình hình KT-CT-XH ở thị trấn Tứ Hạ
Thị trấn Tứ Hạ nằm ở tryng tâm của huyện Hương Trà, với vị trí địa lý thuận lợi: phía đông giáp sông Bồ và huyện Quảng Điền, phía tây giáp xả Hương Vân, phía nam giáp xa Hương Văn, phía bắc giáp huyện Phong Điền.Với vị trí này, thị trấn Tứ Hạ la địa bàn trung tâm KT-CT-XH của huỵen Hương Trà có trên 70 cơ quan xí nghiệp của trung ương. tỉnh, huyện đong trên địa bàn nên hành ngày lưu lượng người dân làm ăn sinh sống ,tạm trú rất đông.
Là đơn vị nhỏ hẹp vời tổng diện tích tự nhiên là 845.4ha, dân số có 1921hộ với 85511 khẩu. Hộ theo đạo phật và thioên chúa giáo có 102 hộ với 386 khẩu. Là địa bàn được huyện xác định là trọng điểm về ANCT-TTANHXH.
Thị trân Tứ Hạ được phân làm 10 khu vực để quản lý và điều hành, 10/10 khu vực dân cư đều được công nhận là khu vực văn hoá.
Cơ cấu kinh tế của thị trấn được xác định là dịch vụ-thương mại-tiểu thủ công nghiệp và nông nghiệp để phù hợp với yêu cầu phát triển đô thị. Trong những năm qua tình hình kinh tế của thị trấn tiếp tục phát triển, cơ sở hạ tầng được đầu tư xây dựng tạo điều kiện cho việc phát triển kinh doanh, dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp giải quyết việc làm cho nhiều lao động, nhất là lao động nữ . Đời sống nhân dân ngày càng được nâng lên.
Cụm công nghiêp Hương Trà đã được hình thành, các nhà đầu tư từng bước vào đầu tư xây dựng các nhà máy trên địa bàn tạo điều kiện phát triển các ngành nghề dịch vụ, thủ công nghiệp , các doanh nghiệp tư nhân ngày càng phát triển đa dạng. Trong sản xuất nông nghiệp đã từng bước chuyển đổi cây trồng vật nuôi có hiệu quả tăng năng suất.
Cơ cấu lao động trong các ngành nghề hiện nay: dịch vụ và tiểu thủ công nghiêp chiêm 45%. Lao động thuần nông giảm còn 20%, các lao động khác chiếm 30%. Tổng giá trị dịch vụ va tiểu thủ công nghiệp hàng năm tăng từ 15-20%, nông lâm nghiệp tăng từ 7-10%. Bình quân thu nhập đầu người từ khoảng 4triệu/người/năm đến nay tăng lên 8triệu/người/năm.
Tình hình ANCT-TTATXH và kinh tế ổn định là cơ sở tạo điều kiện phát triển nhanh trên các lỉnh vực: kinh doanh trong nhiều năm qua co những khó khăn tiêm ẩn chưa lường hết, kể cả khách quan lẩn chủ quan.
Nhờ sự phát triển kinh tế nhiều thành phần kết hợp với sự linh hoạt nhiều hình thức của nhân dân nên đời sống và công việc làm ăn của nhân dân được đảm bảo. Từ đó mà hộ giàu, khá tăng lên, hộ nghèo giảm xuống.
Tình hình giới:
Tổng số nam giới từ 18 tuổi trở lên trên địa bàn khoảng 2500 người, tổng số nử trên 18 tuổi là 2679 người, trong đó làm ăn xa co 243 chị, là cán bộ công nhân viên chức có 547 chị, hội viên tham gia phụ nữ là 955, số còn lại là người cao tuổi.
Vai trò của hội phụ nữ
Hội phụ nữ gồm 18 chi hội với 48 tổ hội.Trong thời gian qua hoạt động của hội đạt nhiều hiệu quả: hội đã phát triển phong trào thi đua “phụ nữ tích cực thi đua học tập lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc” hội phụ nữ đã tăng cường khai thác nguồn vốn vay hổ trợ chị em đầu tư sản xuát: giải ngân số tiền là 563triệu cho 94 chị. Hội đã phối hợp với trạm y tế khám phụ khoa cho 878 chị; phối hợp vơi UBDS huyện nói chuyện chuyên đề về sức khoẻ sinh sản của phụ nữ. Hội đã thực hiện vai trò đại diện quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ. Hội đã nổ lực quan tâm sâu sát các hội viên, tạo điều kiện cho chị em phát huy năng lực, nâng cao vai trò của mình, thực hiện bình đẳng giới có hiệu quả.
TỔNG QUAN CHUNG VỀ THỰC TRẠNG BÌNH ĐĂNG GIỚI
Thực trạng bình đăng giới ở Việt Nam
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế và tiến bộ xã hội, vai tro và địa vị của người phụ nữ Việt Nam ngày càng được nâng cao. Những nỗ lực nhằm thu hẹp khoảng cách giới của nhà nước đã có kết quả.
“Việt Nam là một trong những nước dẫn đầu thế giới về tỷ lệ phụ nữ tham gia các hoạt động kinh tế , là một trong những nước tiến bộ hàng đầu về bình đẳng giới. Là quốc gia đạt được sự thay đổi nhanh chóng nhất về xoá bỏ khoảng cách giới trong 20 năm qua ở khu vực Đông Nam A”, báo cáo đánh giá tình hình giới ở Việt Nam (tháng 12/2006) của ngân hàng thế giới (WP) , ngân hàng phát triển Châu Á (ADB), vụ phát triển quốc tế Anh (DFID) , và cơ quan phát triển quốc tế Canađa (CIDA). Với hơn 50% dân số và gần 50% lực lượng lao động xã hội, ngày càng có nhiều phụ nữ tham gia vào hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội và giữ những chức vụ quan trọng trong bộ máy nhà nước. Ta có thẻ điểm qua vài con số sau:
2.1.1 Chủ hộ gia đình
Theo kết quả điều tra năm 2002 tỷ lệ gia đình có chủ hộ là nữ chỉ xấp xỉ 24% trong cả nước. Tỷ lệ này ở thành thị là 36,18% và nông thôn là 20,22%
,
Tình hình bình đăng giới ở Thừa Thiên Huế
Thực hiện các chủ trương , chính sách của nhà nước về bình đẳng giới, lãnh đạo tỉnh Thừa Thiên Huế đã chỉ đạo các cơ quan ban nghành, đặc biệt hội liên hiệp phụ nữ tỉnh tạo mọi điều kiện đẩy mạnh sự phát triển của phụ nữ nhằm nâng cao vị trí chính trị xã hội của nữ giới, thực hiện bình đẳng giới. Các lớp tập huấn nâng cao năng lực cho phụ nữ được tăng cường. Công tác chăm lo và bảo vệ quyền , lợi ích hợp pháp cho nữ giới được các cơ quan ban nghành quan tâm. Tỷ lệ nữ tham gia các hoạt động chính trị xã hội gia tăng. Toàn tỉnh có 1105 đảng viên nữ (chiêm tỷ lệ 40,6%) , có 53 chị là tiến sỹ , thạc sỹ la 532 chị. Các chị có trình độ đại học và cao đẳng là 9687 chị. Các cơ quan ban ngành trong tỉnh nêu cao khẩu hiệu vì sự tiền bộ phụ nữ và bình đẳng giới. Do đó, nữ giới có nhiều cơ hội phát huy vai trò, năng lực của mình hơn.
Tuy nhiên, sự giải phóng phụ nữ Việt Nam nói chung và phụ nữ Huế nói riêng mới chỉ dừng lại ở những cái mà cơ chế chính sách mang lại, chưa vào sâu được đời sống gia đình. Trong đời sống gia đình, bất bình đẳng giới vẫn đang tồn tại. Đặc biệt trong các gia đình ở Huế, nơi còn mang nặng những tư tưởng của chế độ phong kiến, các hiện tượng bất bình đẳng giới vẫn diễn ra hàng ngày. Thế nhưng điều này lại được ít người thừa nhận. Dương như sự bình đẳng giới trong gia đình rất ít được chú ý, cuộc sống giữa hai giới trong gia đình từ bao đời nay vẫn vậy, ít có sự thay đổi.
THỰC TRẠNG BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG GIA ĐÌNH Ở TỨ HẠ.
Trong buổi làm việc đầu tiên với đại diện chính quyền địa phương, khi được hỏi “ở Tứ Hạ còn tồn tại hiện tượng bất bình đẳng giới trong gia đình không?”. Câu trả lời “không, hiện nay nam nữ bình quyền”. Cô Lê Thị Thừa, chủ tịch hội phụ nữ thi trấn cho biết: “ở Tứ Hạ vấn đề bình đẳng giới thực hiện khá tốt, trong gia đình vợ chồng có vai trò và địa vị ngang nhau”. Nhưng đi sâu nghiên cứu ở các khu vực dân cư tôi thu được một số kết quả đáng để chúng ta chú ý:
Tình hình bình đẳng giới trong gia đình ở Tứ Hạ trước đây:
trước đây vai trò của người phụ nữ được quy định bởi “tam tòng” (tại gia tòng phụ,xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử) và “tứ đức” (công, dung, ngôn, hạnh). Người phụ nữ hoàn toàn phụ thuộc vào chồng và không thể độc lập đưa ra quyết định gì, đặc biệt hạn chế tham gia các hoạt động xã hội. Vấn đề bình đẳng giới trong gia đình ít được nhắc tới, người vợ vẫn giũ thói quen “phục tùng” chồng.
Các giải pháp đã thực hiện
Từ khi luật hôn nhân và gia đình ra đời, vai trò của người phụ nữ được nâng lên, đặc biệt trong thời gian gần đây nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách phát triển vì sự tiến bộ và bình đăng giới, nhất là từ khi luật bình đẳng giới ra đời (2006). Hưởng ứng chủ trương của nhà nước, lãnh đạo thị trấn cũng đã đưa ra nhiều giải pháp nhằm thực hiện bình đẳng giới:
Mở các lớp tập huấn về bình đẳng giới.
Lồng ghép vấn đề bình đẳng giới vào các chương trình hành động của địa phương như chương trình dân số và sức khoẻ sinh sản…
Tổ chức tuyên truyền, phổ biến kiến thức về luật bình đẳng giới.
Hội phụ nữ thường xuyên quan tâm, theo dỏi sự phát triển của chị em.
Kết quả đạt được:
Nữ giới có cơ hội phát huy năng lực, nâng cao vai trò.
10/10 chi hội thường tổ chức sinh hoạt lồng ghép toạ đàm, sinh hoạt câu lạc bộ với nhiều nôij dung chuyên đề như chăm sóc sức khoẻ sinh sản cho phụ nữ, cách chăm sóc nuôi dạy trẻ, cách làm ăn…Qua đó nâng cao năng lực và vai trò của phụ nữ. Họ có nhiều cơ hội tham gia phát triển sản xuất và hoạt động xã hội.
Trong lao động sản suất tạo thu nhập cho gia đình:
Chị em được tạo cơ hội vay vốn ưu đãi, hướng dẫn cách làm ăn.Thông qua các nguồn vốn vay (vốn 120 kho bạc Hương Trà,vốn xoá đói giàm nghèo),các chị có thêm vốn để đầu tư cho chăn nuôi sản xuất,mở mang ngành nghề kinh doanh dịch vụ buôn bán.Chị em phụ nữ được tham gia các lớp tập huấn hướng dẫn cách làm ăn, áp dụng khoa học kĩ thuật vào trồng trọt,chăn nuôi,tham gia các lớp chăn nuôi lợn nạc,thâm canh đồng ruộng IBM ……Từ kiến thức thu được các chị đã đưa vào sản xuất chăn nuôi,gieo trồng.Nhiều chị đã áp dụng sử dụng thức ăn công nghiệp vào chăn nuôi giống lợn siêu nạc để rút ngắn khoảng cách,nuôi được nhiều lứa mang lại hiệu quả kinh tế cao.Một số chị có vốn,kiến thức,kỹ năng đã xây dựng quy mô chăn nuôi lớn từ 40-50 lợn thịt,lợn nái từ 5-7 con,như chị Hoàng Thị Aí ở KV3,Trịnh Thị Hồng Ly ở KV10……Trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi điển hình có Dì Bùi Thị Duyên(70 tuổi ở KV4 ,mới lên làm bí thư chi bộ thôn)đã chuyển đổi thành công giống lúa L14-L18 đạt năng suất cao.Ở KV8-KV buôn bán dịch vụ,nhiều chị đã sử dụng vốn vay đầu tư vào sạp hàng,hoặc mở các cơ sở sản xuất nhỏ như chị Trịnh Cẩm Tú mở cơ sở sản xuất bún gạo,tạo việc làm cho tất cả các thành viên trong gia đình.Các chị còn được tập huấn cách hoạch toán kinh doanh,chi tiêu trong gia đình…Nhờ vậy mà chị em đã sử dụng và quản lý vốn vay có hiệu quả.Với nỗ lực của mình các chị đã đóng góp công sức tạo thêm nguồn thu nhập lớn cho gia đình,nhiều chị đã thoát nghèo,nhiều chị vươn lên làm giàu,mua sắm các trang thiết bị trong gia đình,xây dựng và sửa chữa nhà cửa như chị Nguyễn Thị Gái ở KV4……Đặc biệt một số chị tích luỹ được vố lớn,có kiến thức đã mạnh dạn mở rộng các cơ sở sản xuất,thành lập các doanh nghiệp tư nhân như chị Nguyễn Thị Hồng Thuỷ (41 tuổi) đã mở doanh nghiệp tuyển mộ nhiều chị em vào làm.
Có thu nhập tương đối ổn định,chị em không còn bị phụ thuộc kinh tế vào người chồng nữa.Do đó quyền và vai trò của họ trong gia đình phần nào được củng cố.
Phụ nữ Tứ Hạ không chỉ được nâng cao năng lực trong lao động sản xuất mà còn được tăng năng lực cho vai trò người nội trợ.Qua các buổi sinh hoạt với nội dung chăm sóc nuôi dạy trẻ,phòng chống các tệ nạn xã hội….Các chị có thêm kiến thức cho việc chăm sóc gia đình, nuôi dạy con cái.Nhờ vậy mà các chị đã làm tốt thiên chức người mẹ,người vợ trong gia đình, xây dựng gia đình hạnh phúc ấm no.
Các chị còn được chồng con tạo điều kiện tham gia môt số hoạt động xã hội:
Tham gia vào bộ máy chính quyền: hiện nay có 2/13 nữ tham gia ban chấp hành đảng bộ thị trấn(chiếm 15,38%),5/26 nữ tham gia đại biểu HĐND thị trấn(chiếm tỷ lệ 19,23%).Đội ngũ cán bộ tham gia cấp uỷ,ban quản lý các khu v ực là 9 chị.
Tham gia vào một số hoạt động xã hội như tham gia sinh hoạt trong các câu lạc bộ,các hội thi,tham gia hiến máu tình nguyện. Đóng góp các loại quỹ do hội phụ nữ phát động như quỹ khuyến học,đền ơn đáp nghĩa…
Tích cực tham gia các dự án phát triển cộng đồng như dự án chăm sóc sức khoẻ phụ nữ,dự án của Phần Lan hỗ trợ kinh tế hộ cho các hộ nghèo trên địa bàn.
Rõ ràng vai trò của người phụ nữ Tứ Hạ hôm nay đã được nâng cao.Họ vừa tham gia sản xuất, vừa chăm sóc gia đình và tham gia các hoạt động xã hội.Vị trí của họ trong gia đình và cộng đồng đã phần nào được ghi nhận:
“Chị em phụ nữ đã thể hiện được vai trò của mình trên tất cả các lĩnh vực.Các chị không chỉ làm tốt công việc gia đình mà còn đóng góp công sức vào sự phát triển của địa phương” (Hoàng Tấn Son,bí thư đoàn thanh niên thị trấn).
“Phụ nữ giữ vai trò rất quan trọng trong gia đình,là người động viên lớn nhất,là điểm tựa cho người đàn ông”(Hoàng Tấn Tô,KV6).
Người vợ được tăng quyền trong gia đình
Trước đây quyền sở hữu tài sản trong gia đình thường thuộc về người đàn ông.Từ các tài sản lớn như đất đai,nhà cửa..đến các trang thiết bị trong nhà đều do người chồng sở hữu,kể cả các khoản thu nhập trong gia đình. Điều này sẽ gây thiệt thòi cho phụ nữ khi ly hôn. Hiện nay,trong nhiều gia đình,vợ chồng đã cùng nhau đứng tên sở hữu tài sản chung.Các khoản thu nhập được sử dụng có sự bàn bạc giữa hai vợ chồng. Nhìn chung quyền lợi của người phụ nữ trong gia đình phần nào được đảm bảo hơn.
Nữ giới đã có quyền tham gia vào các quyết định trong gia đình.
Trước đây quyền quyết định mọi vấn đề trong gia đình đều do nam giới đưa ra,người vợ chỉ làm theo,phục tùng mọi quyết định của chồng từ những quyết định lớn tới những quyết định nhỏ như chi tiêu sinh hoạt trong gia đình. Hiện nay khi mà phụ nữ không còn phụ thuộc hoàn toàn về kinh tế với các ông chồng, địa vị của họ đã được nâng lên nên phụ nữ khá bình đẳng với nam giới trong các quyết định của gia đình. Đối với việc chợ búa hàng ngày và việc ăn mặc, học hành của con cái phụ nữ quyết định tương đối tự do. Còn quyết định các khoản chi lớn và các quyết định quan trọng khác đều có sự bàn bạc giữa 2 vợ chồng. Kết quả điều tra ở bảng sau cho thấy người vợ ít nhiêuu cũng có “ tiếng nói” trong những quyết định quan trọng thể hiện ở phương án “ cả hai” cùng tham gia quyết định.
Bảng1: Ai quyết định các khoản chi tiêu sau?:
Các khoản chi
Người được hỏi
Chồng
Vợ
Cả hai
Chi tiêu cho ăn uống ,sinh hoạt
Nam
0
24 80%
6 20%
Nữ
3 10%
21 70%
6 2 0%
Chi tiêu lớn như làm nhà,..
Nam
12 40%
3 10%
15 50%
Nữ
15 50%
0
15 50%
Đầu tư cho sản xuất
Nam
12 40%
3 10%
15 50%
Nữ
9 30%
6 20%
15 50%
Theo điều tra cho thấy có tới 50% ý kiến của cả nam và nữ cho rằng có sự bàn bạc giữa 2 vợ chồng trong những quyết định lớn.Đây có thể coi là một bước tiến lớn trong việc thực hiện bình đẳng giới trong gia đình.
Sự phân biệt đối xử giữa con trai và con gái đã được cải thiện.
Trước đây khi mà tư tưởng trọng nam khinh nữ còn phổ biến ,sự phân biệt đối xử giữa con trai và con gái trong gia đình được thể hiện rõ ngay khi đứa con ra đời.Nếu đứa bé ra đời là con trai sẽ được cả họ chào đón ăn mừng,còn nếu là con gái thì chỉ có thái độ thờ ơ.Hiện nay tuy trong các gia đình ,cách đối xử giữcon trai và con gái chưa hoàn toàn bình đẳng nhhwng đã có sự rút ngắn khoảng cách đáng kể.Đứa trẻ sinh ra dù là trai hay là gái cũng đều nhận được sự yêu thương chăm sóc của gia đình.Đến tuổi đi học các em đều được tạo điều kiện học tập như nhau.Lớn lên ,tuy chịu tác động lớn của bố mẹ trong định hướng nghề nghiệp và quyết định hôn nhân,nhưng cả con trai và con gái đã có thể tự quyết định tương lai của mình.
Một bộ phận nhỏ nam giới đã biết chia sẻ việc nhà với vợ
Tuy chỉ có một bộ phận nhỏ nam giới(5-10%) chia sẻ công việc nội trợ với người phụ nữ nhưng đó cũng là dấu hiệu cho thấy việc tuyên truyền nam giơi chia sẻ công việc nhà với vợ đã có chút hiêu quả.Bởi vì vùng đất này từ trước tới nay rất hiếm khi đàn ông nhúng tay vào việc bếp núc.
Nhìn chung,bình đẳng giới trong gia đình ở Tứ Hạ hiên nay đã có những bước tiến đáng kể, góp phần nâng cao vai trò,vị trí của người phụ nữ,vì sự tiến bộ của nữ giới.Tuy nhiên, bình đẳng giới trong gia đình cũng còn quá nhiều bất cập.
Những hiện tượng bất bình đẳng giới trong gia đình.
Qua điều tra, có tới hơn 70 % người được hỏi cho rằng không còn hiện tượng bất bình đẳng giới trong gia đình hoặc là ở mức độ không đáng kể,đó cũng là quan điểm của không ít cán bộ địa phương.Nhưng khi đi vào điều tra thực tế cho thấy bất bình đẳng giới vẫn tồn tại trong cuộc sống hàng ngày của các gia đình ở Tứ Hạ.Song những hiện tượng bất bình đẳng đó ít được chú ý, nóược nhiều người chấp nhận như một phần tất yếu của cuộc sống gia đình.Đi sâu nghiên cứu một số hiện tượng bất bình đẳng nam nữ trong gia đình ta sẽ thấy đã đến lúc phải thay đổi cách nhìn về vấn đề này.
Vai trò của người phụ nữ trong gia đình chưa đựoc đánh giá đúng mức
Bất kì ở đâu,lúc nào người ta cũng nhìn thấy sự đóng góp to lớn của nữ
giới trong các hoạt động gia đình .Những đóng góp của họ được xem là “quan trọng”,thế nhưng địa vị của họ trong gia đình không được cải thiện so với nam giới tương ứng với những đóng góp đó.Những đánh giá về vai trò của nữ giới còn mang tính chất khuôn sáo,chiếu lệ chứ chưa thật sự ghi nhận đúng mức những đóng góp của họ.Nhiều trường hợp, khi ông chồng làm việc mọi người ghi nhận đóng góp của anh ta nhưng khi người vợ làm việc đó người ta cho là việc tất nhiên.Nhất là trong các công việc nội trợ bởi nhiều người cho rằng “nội trợ và chăm sóc con cái là thiên chức của người phụ nữ chứ không phải công việc của đàn ông’’.Kể cả khi người vợ tham gia những công việc tạo ra thu nhập đáng kể cho gia đình nhưng dường như người chồng “trả công” vợ không xứng đáng với lao động bỏ ra bằng nhưng “đánh giá không xứng đáng” của mình. Nhiều khi các chị còn bị trách cứ “làm tý việc cũng kể lể”, “đàn bà không làm những việc ấy thì làm gì”. “Tý việc” mà các ông chồng nói là hơn 60% công việc nội trợ gia đình. Nếu một gia đình khá giả ở thành phố có điều kiện nuôi người giúp phải trả công từ 400000 ngàn đồng đến 600000 ngàn đồng mỗi tháng, có cơm ăn ,quần áo mặc và chỗ ở.Thế nhưng người vợ làm nội trợ gia đình thì không ai tính công sức của họ thành tiền mà chỉ được coi là “tý việc” không đáng kể. Đây là hiện tượng có tính chất phổ biến trong các gia đình ở Tứ Hạ nói riêng và trong gia đình nông thôn Việt Nam nói chung.Điều này phần nào lý giải khi điều tra tiêu chí “Ai là người đóng góp nhiều nhất vào thu nhập gia đình?” thì kết quả nghiêng về nam giới.Có tới 50% ý kiến của nam giới và 40% ý kiến của nữ giói cho rằng nam giới mang lại nguồn thu nhập chính cho gia đình,trong khi chỉ có 10% ý kiến của nam giói và 20% ý kiến của nữ cho rằng nữ giơi có đóng góp nhiều nhất vào thu mang lại cao hơn người chồng.
Bảng2 :Ai là người đóng góp nhiều nhất vào thu nhập gia đình?
Người được hỏi
Vợ
Chồng
Cả hai
Nam
3 10%
15 50%
12 40%
Nữ
6 20%
12 40%
12 40%
Điều này cho thấy uy tín về kinh tế của người chồng cao hơn người vợ.
3.4.2 Sự phân công lao động trong gia đình chưa hợp lý
Sự phân công lao động trong gia đình ở Tứ Hạ thể hiện khá rõ sự phân công theo giới.Trong gia đình,nữ giới thường phải chịu trách nhiệm về những công việc thiết yếu,lặp đi lặp lại và cần phải tiến hành đều đặn,trong khi nam giới đảm nhận những việc lớn, ít nhàm chán hơn.
Ở nhiều xã hội, sự phân công lao động phổ biến theo giới là giao nấu ăn cho phụ nữ, coi đó là khả năng thiên bẩm của giới nữ. Không nam giới nào cảm thấy xấu hổ mà coi là đương nhiên nếu họ không biết nấu ăn hoặc nấu ăn vụng. Nhưng nếu người vợ nấu ăn vụng sẽ bị khiển trách thậm tệ. Điều này là khà phổ biến trong các gia đình ở Tứ Hạ. Phụ nữ ở Tứ Hạ phải đam nhận hầu hết các công việc nội trợ, từ nấu ăn,dọn dẹp nhà cửa đến chăm sóc con cái.
Ngoài công việc chăm sóc gia đình, các chị còn tham gia hầu hết các hoạt động lao độong khác. Họ là những người tham gia chủ đạo và trực tiếp sản xuất nông nghiệp, là nghề chính của 2/3 gia đình ở đây. Theo khảo sát địa bàn cho thấy hầu hết nữ giới đều tham gia với vai trò chính trong các công việc như làm giống, cấy, làm phân, chăm sóc…chỉ có hai công việc họ ít tham gia hơn là làm giống và làm đất. Ở nhiều hoạt động nghề phụ hay buôn bán, dịch vụ nữ gíơi đóng vai trò là lao động chính, tạo ra thu nhập đáng kể cho gia đình. Kết quả phát phiếu điều tra cho thấy:
Bảng3 :Ai trong gia đình là lao động chính trong các loại việc sau?
Loại công việc
Chồng
Vợ
Bố mẹ già
Các con
Chợ búa
3 5%
40 66,7%
7 11,7%
10 16,6%
Chăn nuôi
9 15%
36 60%
6 10%
9 15%
Làm ruộng
26 44,3%
28 46,7%
3 5%
3 5%
Làm vườn
24 40%
30 50%
3 5%
3 5%
TTCN,Dịch vụ
6 10%
36 60%
6 10%
12 20%
Qua bảng này ta thấy phụ nữ tham gia vào hầu hết hoạt động sản xuất của gia đình và mức độ tham gia nhiều hơn nam giới. Số liệu điều tra cho thấy, trung bình mỗi ngày phụ nữ làm việc tới 15 tiếng, trong khi nam giới chỉ khoảng hơn 10 tiếng. Tuy trường độ làm việc của nữ giới nhiều hơn nam giới nhưng lao động của nam giới được đề cao hơn bởi công việc của nam giới vất vả, nặng nhọc hơn. Còn lao động của nữ giới có thể được trẻ em, người già hổ trợ, trong đó có nhiều lao động không tạo ra sản phẩm (việc nhà).
Trường độ làm việc lớn khiến ngươiì phụ nữ không có thời gian để nghỉ ngơi, thư giãn và chăm sóc bản thân. Các chị ở KV8,9,10 chủ yếu là cán bộ, tiểu thương, tiểu chủ còn có chút thơi gian để nghỉ ngơi, phụ nữ các khu vực thuần nông, nhất là phụ nữ nghèo phải làm việc triền miên, hết việc đồng áng, làm thêm lại đến việc nhà. Thời gian biểu hàng ngày của một phụ nữ có làm thêm nghề phụ ở Tư Hạ sẽ phần nào minh hoạ cho gánh nặng công viẹc của người phụ nữ nông thôn.
4.00 sáng
Thức dậy nấu cháo bánh canh, dọn dẹp nhà cửa, cho lợn ăn
5.30
Chuẩn bị hàng và dọn hàng lên quán
6.00-8.30
Bán hàng
8.30-9.00
Dọn hàng về
9.00-10.30
Đi chợ mua hàng, thức ăn
11.00-12.00
Nấu ăn, cho lợn ăn
12.00-1.00
Ăn trưa nghỉ ngơi cùng gia đình,
1.00-2.30
Nhào bột, cắt bột thành sợi
2.30-5.00
Ra vườn chăm sóc hoa màu
5.00-7.00
Nấu ăn, cho lợn ăn, tắm rửa và giặt giũ
7.00-7.30
Ăn tối và dọn ndẹp nhà cửa
7.30-8.30
Kiểm tra việc học của con
8.30-10.00
Làm thịt vịt, chuẩn bị bột để sáng nấu cháo, nấu cám và chuẩn bị rau cho lợn
10.00
Đi ngủ
Bảng 4:thời gian biểu hàng ngày của một phụ nữ làm thêm nghề phụ ở Tứ Hạ
Đây là những hoạt động diễn ra hàng ngày suốt hai năm nay của chị Nga (ở KV 3). Kể từ khi làm thêm nghề bán bánh canh lịch làm việc hàng ngày của chị dày hơn, chị vẫn phải đảm đương công việc nhà như trước đây. Khi phỏng vấn sâu chị cho biết thêm:
Hỏi:anh có giúp đỡ chị công việc nhà không?
TL: Thỉnh thoảng anh có chở đi chợ và phụ giúp làm thịt vịt
Hỏi: Còn những công việc nhà như nấu ăn, giặt giũ… thì sao ạ?
TL: Đó là công việc của đàn bà, ít khi anh động tay vào.
H: Chị có thấy công việc quá sức không?
TL: Làm cả ngày, không có thời gian nghỉ ngơi nên nhiều lúc rất mệt mỏi.
H: Chồng con có động viên chị không?
TL: Ít lắm, việc ai nấy làm, tui quen rồi.
H: Chị có ý định bỏ nghề không?
TL: Thì cũng phải dăm năm nữa, đợi mấy đứa nhỏ học hết chắc tui sẽ đỡ vất
vả hơn.
Nhiều chị đi làm thêm , hoặc tham gia chạy chợ buôn bán kiếm thêm thu nhập nhưng vẫn là người chịu trách nhiệm chính trong công việc gia đình. Nếu không chu toàn sẽ bị chồng và gia đình nhà chồng trách móc, áp lực gia đình càng nặng nề hơn. Điều này ảnh hưởng rất lơn đến sự phát triển thẻ chất va tinh thần của người phụ nữ. Nếu không có thời gian nghỉ ngơi, giải trí những người phụ nữ này rất dể măc phải stress. Thực tế qua điều cho thấy, nếu như người đàn ông một ngày trung bình có khoảng 6 tiếng nghỉ ngơi thì phụ nữ chỉ có khoảng 1 tiếng. Nhìn vào biểu đồ sau ta sẽ thấy rõ sự chênh lệch này
Sự bất công còn thể hiện ở việc sử dụng thời gian rảnh rỗi của 2 giới. Theo điều tra có tới 80% nam giới được hỏi cho biết họ sử dụng thời gian rổi để tụ tâp cà fê, ăn nhậu hoăc đánh bài. Trong khi đó 80% nữ được hỏi cho biết thời gian rổi họ thường kiểm tra con cái học bài hoặc may vá quần áo. Họ chỉ tranh thủ nghỉ ngơi giải trí khi xem một bộ phim hay hoặc một chương trình yêu thích.
Rõ ràng sự phân công trách nhiệm trong gia đình còn có sự bất bình đẵng giữa nam và nữ, mà phần thiệt luôn thuộc về nữ giới.
Thái độ của nam giới đối với công việc nội trợ
Nhiều nam giới ở xư Huế vẫn con quan niệm “đàn ông ngoài nhà đàn bà trong bếp” họ cho rằng vị trí của người đàn ông là gánh vác những trọng trách của gia đình và xã hội, còn viẹc bếp núc là của đàn bà. Xã hội đang lên tiếng kêu gọi nam giới chia sẻ công việc nhà với phụ nữ, nhưng ở Tứ Hạ qua điều tra chỉ có 20% ngươiì được hỏi thỉnh thoảng phụ giúp vợ nấu ăn, còn hơn 80% cho biết họ chưa từng vào bếp và có đến hơn 90% trả lời chưa bao giờ giặt giũ cho vợ con cả. Với tiêu chí “nam giới có cần phải chia sẻ công việc nhà với nữ giới không?”, chỉ có 30% nam giới trả lời là có, 40% trả lời không và 30% là ý kiến khác. Và có tơi 50% ý kiến của nữ giới mong muốn nam giới chia sẻ công việc nội trợ, chỉ có 20% ý kiến trả lời không.
Bảng 5: Nam giới cần chia sẻ việc nhà với nữ giới không?
Người được hỏi
Có
Không
Ý kiến khác
Nam
9 30%
12 40%
9 30%
Nữ
15 50%
6 20%
9 30%
Lý giải nguyên nhân không giúp đỡ vợ làm viêc nhà, các bậc nam giới cho răng: “Nấu nướng là thiên chức của người đàn bà, đàn ông còn phải làm nhiều viêc khác”.
“Nhà có đàn bà, đàn ông nhúng tay v ào con ra thể thống gi?”
Đa phần nam giới cho rằng nấu nướng là công v iệc của phụ nữ, đàn ông có nhúng tay vào cũng chỉ là “trợ giúp” hoặc “tạm thay”
Nấu ăn thể hiên quyền lực không ngang nhau giữa hai giới. Người vợ thường phải chiều theo ý chồng, nấu mon gì đều phải theo sở thích v à khẩu vị của người chồng. Nếu người vợ không làm theo dễ dẫn tới mâu thuẫn giữa vợ chồng. Để giữ gìn hạnh phúc gia đinh người phụ nữ thường nhận phần thiệt về mình.
3.4.4Quyền ra quyết định chính trong gia đình.
Hiện nay, người phụ nữ đã có quyền tham gia bàn bac về tất cả các vấn đề trong gia đinhh n gưng quyết inh cuối cùng thuộc về người chồng. Theo điều tra cho thấy nếu ý kiến hai bên khac nhau, không thống n hất với nhau thì tiếng nói của người chồng là quyết định, người v ợ buộc phải nghe theo. Đay là một trong những biểu hiện cho thấy quan hệ quyền lực không ngang nhau giữa hai giơi trong gia đinh.
3.4.5 Bạo lực trong quan hệ vợ chồng.
Đó là bất kỳ hành động nào trong gia đình do chồng (hoặc vợ) gây ra, làm tổn thương đến sức khoẻ thể xác, tinh thần hoặc xâm phạm quyền tự do củ người ban j đờ của mình. Nạn nhân của bạo lực trong quan hệ vợ chồng thường là phụ nữ.
Theo thống kê của UBND thị trấn thì số v ụ bạo hành không nhiều, môt năm chỉ có vài ba vụ. Nhưng đó c hỉ là những vụ gây ra hậu quả nghiêm trọng mới đựoc thống kê lên trên. Trong thực tế con số đó chắc chắn sẽ n hiều hơn rất nhiều. Qua điều tra 30 chị thì có ba chị thưòng xuyên bị chồng đánh chửi; 12 chị cho biết thỉnh thoảng bị chồng mắng nhiếc. Điều tra cho thấy khong có trường hơp nào nam giới bị vợ đabhs chửi. Qua thăm dò dư luận thì số lượng cac c ăp v ợ chồng mâu thuẫn chòng đánh chửi vợ khá nhiêu. Nhất là ở khu vưc 8 trong thời gian qua có các vụ đánh chửi nhau phải có sự can thiêp củ cán bộ khu vưc. Lý do gây mâu thuẫn chỉ là n hững b ất đồng trong gia đình, do ghen tuông do say rượu…Đặc biệt có một lý do nhay cảm it ai nhắc tới n hưng có ảnh hưởng rất sâu trong quan hệ vợ chồng, đó là sự không hoà hợp về tình dục, người chồng bắt ép vợ phải chiều mình…
Tiến hành phỏng vấn sâu một số đối tượng “ngoài danh sach đièu tra” tôi thu thập được một số thông tin:
Hỏi: tại sao chu đánh gi?
TL: do ổng say rượu, không vừa ý, tui về muộn cơm nước chưa kịp nấu nên ổng làm ầm lên.
Hỏi: Thế chú có hay đánh, mắng gì không?
Tl: tháng vài ba lần.
hỏi: khi chú đánh gì có ai can thiêp không?
TL: mâu thuân vợ chồng ai hơi đâu mà can thiệp vào
Hỏi: trong khu vực mình có nhiều trường hợp chồng đánh vợ không?
Tl: chửi bới nhau thì nhiều, còn đanh nhau thì chỉ có một số căp.
Hỏi: có cặp nào đanh nhau vì chồng “đòi hỏi” mà vợ “phản đối” không?
Tl: tui không biết, chắc là có nhưng không ai nói ra, người ta cười chết.
(phỏng vấn sâu gì Oanh ở kv3)
Nhìn chung, tình trạng bạo hành phụ nữ trong các gia đình ở TỨ HẠ vẫn còn tồn tại nhưng lai được ít người thừa nhận họ chỉ coi đó là mâu thuẫn vợ chồng. Kết quả điều tra cho thấy:
Bảng 6 : chồng đánh vợ có bị coi là nghiên trọng không?
Người được hỏi
có
không
Ý kiến khác
Nam
6 20%
15 50%
9 30%
Nữ
9 30%
9 30%
12 40%
Nhìn vào bảng có thể nhận thấy phần lớn người dân đều cho rằng chồng đánh, mắng vợ không phải là vấn đề nghiêm trọng. Bởi lẽ nhiều người còn quan niệm rằng xung đột vợ chồng là điều khong thể tránh khỏi trong đờ sống gia đình. Họ cho rằng đến bat đĩa trong chạn có lúc con bị xô đẩy huống hồ quan hệ vợ chông, đó là chuyện bình thường trong cuộc sống. Cho nên nhiều người dân, kể cả cán bộ chính quyền có xu hướng coi bạo lực trong quan hệ voqj chồng là chuyện riêng tư, không nên can thiệp. Chỉ khi người vợ b ị đánh thành thương tích hoặc bị đánh thường xuyênthì người ta mới nhờ đến chính quyền địa phương. Nếu họ chỉ mới chửi mắng nhau thì họ không cần giúp đỡ việc nhà nào nhà ấy lo “đóng cựa bảo nhau”, không ai muốn và cũng không ai có khả năng can thiệp vào. Chính ngời phụ nữ bị đánh và người thân của họ cũng có suy nghĩ như vây.
Đặc biệt có một hình thức bạo hành phụ nữ ít ai thừa nhận,đó là bạo hành tình dục.Đa số các chị dù “không muốn” nhưng vẫn phải “chiều chồng”,họ nghĩ đó là trách nhiệm của mình.Hơn nữa họ sợ chồng theo gái.Và không ai lên tiếng về vấn đề này cả
Chính những nhận thức đó của người dân vô hình chung đã tạo điều kiện cho nạn bạo hành phụ nữ tiếp diễn.Họ không nghĩ là làm như vậy là đã vi phạm đến quyền bình đẳng giới,đã tự mình tạo ra sự bất bình đẳng trong gia đình.
3.4.6 Phân biệt đối xử giữa con trai và con gái
Khoảng cách phân biệt đối xử giữa con trai và con gái mới chỉ được rút ngắn chứ chưa được xoá bỏ hoàn toàn.Trong tư tưởng của nhiều bậc làm ,làm mẹ vẫn mong muốn có con trai hơn con gái, mà thích nhất là có cả con trai và con gái.Có tới 80% ý kiến mong muốn có cả trai và gái,15% ý kiến chỉ thích con trai và 5% ý kiến thích con gái.Các bậc cha mẹ, ông bà có cách đối xử và dạy dỗ con trai khác con gái.Các bé trai thường được cha mẹ chiều chuộng hơn.Không mấy ai đòi hỏi con trai thạo việc nhà nhưng đòi hỏi người con gái phải thành thạo công việc nội trợ,phải ngoan, lễ phép,chịu nhịn.Trong gia đình,mọi việc nội trợ trong nhà thường chỉ do con gái đảm nhận,con trai không phải nhúng tay vào.Điều này ở Tứ Hạ nói riêng và Thừa Thiên Huế nói chung thể hiện rõ hơn ở các tỉnh thành khác trong cả nước.Thậm chí có nhiều người con trai vào bếp giúp vợ,đặc biệt giúp người bạn gái nấu nướng khi về ra mắt còn bị mẹ mắng.
Lý giải nguyên nhân con gái phải àm việc nhà nhiều hơn con trai, các bậc cha mẹ ở Tứ Hạ cho rằng đó là cách rèn luyện cho con gái họ chuẩn bị đảm nhận vai trò của người phụ nữ đảm đang,thảo hiện trong gia đình.Còn đối với người con trai điều đó là không cần thiết vì sau này đã có vợ làm.
3.4.7 Sự bất bình đẳng giữa nam và nữ trong việc lập gia đình
So với nữ giới,nam giói có nhiều thuận lợi hơn trong việc lập gia đình,lựa chọn người bạn đời của mình.Nam giới trên 40 tuổi,thậm chí trên 50 tuổi vẫn còn nhiều cơ hội lựa chọn bạn đời.Nhưng nữ giói trên 30 tuổi bị coi là ế,việc lập gia đình rất khó khăn.Họ không có nhiều cơ hội để chọn cho mình một mái ấm.Nhiều người đã sống độc thân,nhiều người lấy chồng nhưng mang trong mình mặc cảm tự ty,nhún nhường, “mình không có quyền lựa chọn ,có một tấm chồng là may rồi”( PV sâu chị mai).
Đối với quyết định hôn nhân,người phụ nữ phải chịu sự tác động của gia đình , họ hàng nhiều hơn nam giới.Khi người đàn ông khoá vợ sẽ dễ tái hôn hơn người phụ nữ khoá chồng.
Hậu quả của chiến tranh và tính cơ động cao của nam giới khiến cho một bộ phận nam giới ở đây thoát ly đi làm ăn xa.Điều này làm cho việc lập gia đinh của chị em càng khó khăn hơn.Vì vậy mà tỷ lệ nữ đơn thân,phụ nữ không có chồng mà có con của thị trấn gia tăng.Cuộc sống của những người này hết sức khó khăn ,vất vả.Họ phải chịu thiệt thòi cả về vật chất lẫn tinh thần,thường rơi vào diện nghèo khổ.Trong số 63 hộ nghèo của thị trấn có tới 42 hộ nghèo do phụ nữ làm chủ hộ,chiếm tới 65% hộ ngheo.Trong đó 19 trường hợp là phụ nữ đơn thân,8 trường hợp không có chồng mà có con.
không có chồng mà có con.Hội trưởng hội phụ nữ KV3 cho biết “cuộc sống của mấy chị em đó vất vả lắm.Mấy người sống độc thân thì thui thủi một mình.Còn mấy cô “xin con” thì tất bật cả ngày kiếm tiền về nuôi con
Một số hiện tượng bất bình đẳng khác
Trong các nghi thức giao tiếp cũng thể hiện sự khác biệt nam nữ.Khi có hội hè đình đám,đàn ông con trai thường là người đại diện cho cộng đồng nơi công cộng.Đàn ông có thể đi chơi khuya nhưng đàn bà con gái thường phải về nhà trước 10 giờ tối.Ở đây người ta kiêng không cho con gái lai vãng nơi thờ cúng.Vì vậy khi con gái ra khỏi nhà đều được bố mẹ dặn dò kỹ những quy tắc ứng xử đó.
Người phụ nữ thường chịu nhiều áp lực dư luận hơn nam giới.Nếu trong gia đình có điều gì bất ổn,phụ nữ vẫn thường là người chịu hậu quả nặng nề hơn,hứng chịu nhiều hơn sự trách móc của dư luân xung quanh.
Một điều bất công nữa đối với người phụ nữ nơi đây là địan vị của họ có thể phụ thuộc vào cái mà họ không có khả năng kiểm soát có tính chất ngẫu nhiên.Ví dụ,chừng nào người phụ nữ chưa sinh được con cho chồng thì chừng ấy địa vị của người phụ nữ trong gia đình chồng rất bấp bênh.
vv………..
Bất bình đẳng giới trong gia đình là vấn đề có tính chát thế giới ,cả đối với các xã hội đã phát triển lẫn ở các nước dâng phát triển.Nhưng hình thức và biểu hiện của nó rất khác nhau từ nước này sang nước khác,từ vùng văn hoá này sang vùng văn hoá khác.Những hình thức và biểu hiện của bất bình đẳng giới trong gia đình ở Tứ Hạ có thể coi là đặc trưng cho bất bình đẳng giới trong các gia đình nông thôn ở Việt Nam.
IV.NGUYÊN NHÂN,HẬU QUẢVÀ GIẢI PHÁP
Nguyên nhân tồn tại bất bình đẳng giới trong gia đình
Do ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến “trọng nam khinh nữ”
Trong gia đình Việt Nam người đàn ông được coi là ông chủ,là trụ cột của gia đình.Đồng thời,trong quan niệm của người Việt,xã hội đặt ra chuẩn mực riêng đối với nữ giới.Đó là người phụ nữ phải chăm lam,nấu ăn ngon,giỏi may vá thêu thùa.Đạo đức truyền thống đòi hỏi người phụ nữ phải hi sinh cho sự tiến bộ của người đàn ông(người cha,người chồng hoăc người con trai).Do những ảnh hưởng này mà nhiều năm nay,cuộc sống của nhiều gia đình Việt Nam vẫn đi theo con đường riêng của mình,vẫn tuân theo những tập quán, những chuẩn mực xử sự,những chuẩn mực xã hội đã thâm căn cố đế trong xã hội được tạo nên từ nhiều bởi đàn ông và để phục vụ cho đàn ông.Đặc biệt,Tứ Hạ lại là mảnh đất mang đậm dấu ấn phong kiến nên những tư tưởng của chế độ cũ vẫn còn ăn sâu trong con người nơi đây.Sinh ra và lớn lên trong bầu không khí đó,con người nơi đay tiếp tục học được khuôn mẫu ứng xử,các chuẩn mực và các giá trị thấm đuợm tư tưởng trọng nam khinh nữ.Lớn lên các giá trị này đươc nhập tâm thành cái điều chỉnh hành vi bên trong ,con người không cảm thấy bị cưỡng chế khi tuân theo những khuôn mẫu có tính bất bình đẳng đó mà không hề thấy thắc mắc về nó.Họ thấy bình thường và có thể thoải mái làm theo cái mà gia đình và xã hội xung quanh mong chờ ở họ.Khi đã trưởng thành ,chính nam giới(kể cả phụ nữ) lại tiếp tay cho việc củng cố,duy trì và tái tạo lại những giá trị bất bình thường đó không chút hoài nghi.Ngày nay,bối cảnh xã hội đã đổi khác,hệ thống giá trị cũ đã không còn ăn nhập một cách hoà hợp với sự phát triển của điều kiện xã hội.Trong điều kiện đó vấn đề giải phóng phụ nữ ngay trong gia đình có ý nghĩa cực kỳ quan trọng.Thế nhưng, hiện nay nhiều nam giới vẫn coi nữ giới là vật sở hữu của họ,còn phụ thuộc vào họ.Nam giới ở đây được sinh ra và giáo dục trong một xã hôi mà mọi tôn ty trật tự được sắp dặt theo hướng có lợi cho họ từ ngàn đời qua.
Nên việc thừa nhận vai trò của nữ giới và việc thực hiện bình đẳng giới trong gia đình đối với họ là không dễ gì.Còn đối với nữ giới,do ảnh hưởng của tư tưởng cũ nên đa phần họ vẫn công nhận cái quyền của nam giới trong xã hội,thành ra một cái luật bất thành văn vẫn cứ được duy trì vô điều kiện trong xã hội ,từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Môt khi trong xã hội vẫn cồn tồn tại những định kiến giới,còn có sự phân biệt đối xử theo giới thì nghĩa là xã hội đó vẫn còn tồn tại hiện tượng bất bình đắng giới.
Chính quyền địa phương chưa thật sự quán triệt vấn đề bình đẳng giới trong mọi hoạt động của địa phương và gia đình.Một số cán bộ chưa có nhận thức đúng về bình đẳng giới trong gía đình,chưa có biện pháp cụ thể thúc đẩy việc thực hiện bình đẳng trong gia đình có hiệu quả.
Xã hội và các phương tiện truyền thông đại chúng chưa thực sự lên án mạnh mẽ tình trạng bình đẳng giới trong gia đình.
Hậu quả:
Bất bình đẳng giới trong gia đình vừa là một trong những nguyên nhân của đói nghèo vừa là cản trở lớn đối với sự phát triển bền vững của gia đình và xã hội.Xã hội nào mà còn phổ biến hiện tượng bất bình đẳng giới nói chung và bất bình đẳng giới trong gia đình nói riêng thì sẽ gia tăng nghèo đói,bệnh tật và nhiều khó khăn khác.
Bất bình đẳng giới nói chung và bất bình đẳng giới trong gia đình nói riêng ở Tứ Hạ đã làm cản trở sự phát triển của các thành viên trong gia đình,nhất là với nữ giới,gây xung đột gia đình,ảnh hưởng tới mái ấm hạnh phúc và sự phát triển của thế hệ sau.Nó còn làm gia tăng tỷ lệ hộ nghèo,nhất là phụ nữ nghèo,phụ nữ đơn thân,và còn rất nhiềukhó khăn ảnh hưởng tới sự phát triển của phụ nữ.Điều này làm ảnh hưởng tới chất lượng cuộc sống và sự phát triển chung của địa phương.Một xã hội chỉ có thể phát triển công bằng,vững mạnh khi có mức độ bình đẳng giới cao.Do vậy mục tiêu bình đẳng giới vừa là yếu tố bảo đảm quyền con người vừa là điều kiện thiết yếu cho sự phát triển công bằng,hiệu quả và bền vững.
Các giải pháp
Bình đẳng giới là mục tiêu của sự phát triển.Thị trấn Tứ Hạ muốn phát triển vững mạnh phải thực hiện bình đẳng giới. Nghĩa là thực hiện quá trình thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi không đúng với nữ giới. Khoảng cách giới là do con người và xã hội tạo ra nhưng khoảng cách giới có thể thay đổi được. Sự tương đồng và khác biệt giữa nam giới và nữ giới phải được công nhận và mang giá trị như nhau. Để đạt được bình đẳng giới nói chung và bình đẳng giới trong gia đình là cả nột quá trình lâu dài và đầy khó khăn, không thể nóng vội. Vì vậy chính quyền va nhân dân thi trấn Tứ Hạ vần phải thực hiện những giải pháp trước mắt và cả những giải pháp chiến lược lâu dài để thực hiện bình đẳng giới trong gia đình một cách bền vững.
4.3.1 Giải pháp trước mắt:
Tăng cường tuyên truyền mở các lớp tập huấn vể giới, bình đẳng giới trong gia đình nhằm nâng cao nhận thức cho cán bộ và nhân dân.
Chính quyền địa phương khi áp dụng các chính sách và biện pháp thúc đẩy biình đẳng giới trong gia đình cần có những bổ sung, diều chỉnh cho phù hợp với địa phương.
Đặc biệt hội phụ nữ càn phát huy vai trò của mình, có sự quan tâm kịp thời, có biện pháp thúc đẩy chị em tham gia các hoạt động xã hội và các lớp tập huấn về giới, nâng cao vai trò và năng lực cho chị em.
Giải thích để cho các thành viên trong gia đình thấy rõ trách nhiệm của mình trong việc thực hiện bình đẳng giới trong gia đình, nữ giới và nam giới:
Tôn trọng lẩn nhau, chia sẻ các công viẹc gia đình.
Bàn bạc và quyết định công việc gia đình
Đối xử công bằng, tạo cơ hội giữa con trai và con gái trong học tập, lao động và tham gia các hoạt động khác.
Giúp đỡ động viên nhau tham gia các công việc của cộng đồng.
4.3.2 Các giải pháp chiến lược
Cần đưa mối quan tâm về bình đẳng giới trong gia đình và các cơ chế chính sách, chương trình hoạt động của các cấp, các nghành ở địa phương, nhằm giúp mỗi người thay đổi lối tư duy và cách thức hành độmg để giải quyết triệt để những nguyên nhân của tình trạng bất bình đẳng grới trong gia đình.
Có sự bất bình đẳng giới trong gia đình các gia đình hôm nay là do người chồng, người vợ trong gia đình đó sinh ra và lờn lên trong môi trường bất bình đẳng. Nên khi lớn lên những tư tưởng bất bình đẳng đã ăn sâu vào người họ, muốn thay đổi lả điều rất khó. Vì vậy muốn xoá bỏ bất bin hf đẳng giới trong gia đình thì ngay từ bây giò các bậc cha mẹ và các thầy cô giáo cần giáo dục về bình đẳng giới cho trẻ. Trong gia đình, con trai cũng được phân công làm công việc nhà, giùp đỡ mẹ giặt quần áo, nấu cơm, dọn hàng, tự biết chăm lo cho bản thân mình. Ở trung học, các em phải được dạy và đựoc học về sự tự lập, biết tự lo cho bản thân, không được ỷ lại, không phải nhờ mẹ giúp đỡ. Có như thế may ra thé hệ con cháu chúng ta mới có sự thay đổi trong tư duy về vấn đề bình đẳng giới nói chung và bình đẳng giới trong gia đình nói riêng.
Cần có chế tài xử phạt khi các cơ quan, đơn vị, cá nhân vi phạm quyền bình đẳng giới. Làm được điều này sẽ đem lại quyền lợi chính đang cho chị em và pháp luật được thực thi công băng. Qua đó giúp chị em nâng cao năng lực, thực hiện bình đẳng giới trong gia đình có hiệu quả.
CHƯƠNG III. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
KẾT LUẬN
Kết quả của báo cáo nghiên cứu này cho thấy hiện nay ở Tứ Hạ vai trò và địa vị của người phụ nữ trong gia đình đã được nâng cao. Bình đẳng giới trong gia đình đã có những bước tiến đáng kể.
Tuy vậy trong cuộc sống gia đình của người dân Tứ Hạ, sự bất côn g nam nữ-sản phẩm lịch sử của các chế độ cũ - vẫn âm ỉ và dai dẳng tồn tại, vẫn được bầu không khí xung quanh che chở và ngầm ủng hộ.
Những kết quả mà báo cáo này nêu ra chỉ mang tính chất tương đối. Vì thời gian hạn chế, địa bàn điều tra đã bị thu hẹp. Những số liệu điều tra được chỉ mang tính chất minh hoạ, song nó cũng thể hiện được phần nào thực trạng bình đẳng giới trong gia đình ở Tứ Hạ, giúp cho người dân nhận ra những hiện tượng bất bình đẳng giới vẫn diễn ra trong cuộc sống hàng ngày mà trước đó họ dã không quan tâm tới,
Cho đến nay chưa có nơi nào trên trái đất, phụ nữ được hoàn toàn bình đẳng với nam giới, kể cả các nước băc âu như Thụy Điển,Phần Lan, Na Uy…là nơi được coi là thiên đường của phụ nữ. Đặc biệt một nước còn đậm dấu ấn phong kiến như Việt Nam thì bất bình đẳng giới trong gia đình còn đáng lo ngại hơn. Để đạt được sự bình đẳng thật sự giữa nam và nữ là một quá trình lâu dài còn nhiều khó khăn và thử thách. Đây là cuộc đấu tranh giữa cái mới và cái cũ, cái tiến bộ và cái lac hậu.
KHUYẾN NGHỊ
Bình đẳng giới trong gia đình la mục tiêu phát triển. Thực hiện bình đẳng giới trong gia đình là trách nhiệm chung của các thành viên trong gia đình, các cấp chính quyền địa phưong và toàn xã hội. Chính quyền địa phương cần có sự lồng ghép mục tiêu bình đẳng giới trong gia đình vào các hoạt động của các cơ quan đoàn thể. Cần có sự thi đua giữa các cơ quan đoàn thể và khu dân cư nằm thúc đẩy bình đẳng giới trong gia đình có hiệu quả.
Cần phải nhớ răng bình đẳng trong gia đình có nghĩa là hạ thấp các giá trị truyền thống mà tạo hoá đã ban cho người phụ nữ.
Phụ nữ muốn được bình đẳng với nam giới thì trước hết phải thay đổi lối tư duy, suy nghỉ của mình cho phù hợp với tình hình mới trức khi bắt người khác phải thay đổi
HUONG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO
Nghiên cứu ảnh hưởng của các yếu tố văn hoá - xã hội tới việc thực hiện bình đẳng giới.
Nghiên cứu thực trạng bình đẳng giới trong các lĩnh vực: y tế, giáo dục – đào tạo; kinh tế - lao động – khoa học công nghệ; chính trị…
Nghiên cứu hiệu quả hoạt động của một số mô hình tâp huấn bình đẳng giới trong thời gian qua.
PHẦN PHỤ LỤC
Danh mục tài liệu tham khảo:
Bản báo cáo khái quát chung về thị trấn Tứ Hạ của UBND thị trấn
Báo cáo của ban dân số,gia đình và trẻ em
Các báo cáo của hội LH Phụ nữ thị trấn Tứ Hạ:
-Bản thành tích thi đua 2007
-Bản thành tích thực hiện chương trình tín dụng vay vốn 5 năm
-Kế hoạch chương trình hành động thực hiện nghị quyêt số 11 về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước
Mai Huy Bích(2003) “xã hội học gia đình”,NXB Khoa học xã hội
Lê Thi (1998) “Phụ nữ và bình đẳng trong đổi mới ở Việt Nam”,
NXB Phụ nữ ,Hà Nội
Tương Lai(1991) “Những nghiên cứu xã hội học về gia đình ở Việt Nam”, NXB Khoa học xã hội
Nguyễn Hữu Nhân(2004) “Phát triển cộng đồng”,NXB Đại học quốc gia Hà Nội
Nguyễn Thị Kim Hoa(2006) “Giới và giới tính”,Tập bài giảng
Trần Hồng Vân(2001) “Tìm hiểu xã hội học về giới”, NXB Phụ nữ
Hoàng Bá Thịnh(2002), “Vai trò của người phụ nữ nông thôn trong CNH nông nghiệp hoá nông thôn
Luât bình đẳng giới(21/11/2006)
“Quan hệ giới”,Trích trong báo cáo Việt Nam tiếng nói người nghèo(11/1999)
Tạp chí phụ nữ Thừa Thiên Huế,số xuân mậu tý 2008
Danh sách cá nhân đựoc phỏng vấn:
Cô Lê Thị Thừa (Hội trưởng hội phụ nữ thị trấn)
Anh Hoàng Tấn Son (Bí thư đoàn thanh niên)
Bác Lê Văn Anhs (Trưởng KV3)
Cô Nguyễn Thị Minh Vui (Hội trưởng phụ nữ KV3)
Chi Nguyễn Thị Nga (KV3)
Dì Trần Thị Oanh (KV6)
Dì Nguyễn Thị Ái (KV8)
Chị Trần Thị Nga (KV3)
Chú Hoàng Tấn Tô (KV6)
Anh Hoàng Tấn Học (KV6)
Mẫu Phiếu Điều Tra:
Mẫu Phiếu Điều Tra Về Thực Trạng Bình Đẳng Giới Trong Gia Đình ở
Tứ Hạ
Khu vực:
TT Tứ Hạ
Huyện Hương Trà-TTHuế
Ông (bà) vui lòng đánh dấu x vào ô và trả lời ngắn vào …….
Thông Tin Chung:
Họ Tên:……………………………………………………………
Tuổi :……………….Giới tính (nam,nữ)……………………….
Trình độ học vấn:…………………………………………………
Tình trạng hôn nhân:………………..Số con:…………………….
Hoàn cảnh gia đình:
-Số nhân khẩu :…………………………………………………. -Hoàn cảnh kinh tế(khá,TB,nghèo,đói)…………………………………………….
6. Nghề nghiêp:
-Nghề chính:…………………….Nghề phụ:………………….
-Thu nhập trung bình /tháng :…………………………………
Nội Dung Chính:
Anh(chị) đánh giá như thế nào về vai trò của nữ giớ trong gia đình và cộng đọng?..................................................................
Trong gia đình anh (chị),ai là lao động chính trong các loai viêc?
Loại việc
Chồng
Vợ
Bố mẹ già
Các con
Chợ búa
Chăn nuôi
Làm ruộng
Làm vườn
TTCN-Dvụ
-Thời gian sản xuất TB/ngày của anh (chi)?
-Thời gian nội trợ trung bình/ngày của anh(chị)?
-Thời gian ngủ trung bình/ngày?
3.Trong gia đình anh(chị) nam giới có tham gia những hoạt động sau không:
Thỉnh thoảng Th.xuyen Chưa bao giờ
-Nấu ăn
-Giặt giũ
-Dọn dẹp nhà cửa
4.Anh(chị) làm gì vào thời gian rảnh rỗi?.....................
5.Theo anh(chị),nam giới cần phải chia sẻ công việc nội trợ với nữ giới không?
Có
Không
Ý kiến khác:……………………..
6.Trong gia đình anh(chị) ai là người ra quyết định trong các khoản
Chi sau?
Các loại chi tiêu
Chồng
Vợ
Cả 2
Chi tiêu cho ăn uống
Chi tiêu lớn như làm nhà
Đầu tư sản xuất
Ai là người ra quyết định cuối cùng?
7.Ai là người đóng góp nhiều nhất vào thu nhập gia đình?
Chồng
Vợ
Cả 2
8.Chị có đã có lần nao bị chồng đánh chưa?............nếu có vì lý do gì? ………………….
9.Anh(chị) có coi chuyên chồng đánh vợ là nghiêm trọng không?
Có
Không
Ý kiến khác:………………………..
10.Khu vưc anh (chị) ở có nhiều vụ chồng đánh vợ không?.....Thường vì lý do gì?
11.Anh(chị) thấy trong gia đình mình vợ chồng bình đẳng với nhau không?.......................tại sao có?tại sao không?..........
12.Theo anh(chị) con trai có quan trọng hơn con gái không?
13.Nếu không có con trai gia đình anh(chị)sẽ có thái như thề nào?
14.Theo anh(chị) trong địa phương mình còn tình trạng bất bình đẳng giới không?
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Vấn đề bình đẳng giới trong gia đình, thực trạng, nguyên nhân và giải pháp tại thị trấn Tứ Hạ, huyện Hương Trà, Thừa Thiên - Huế.doc