Vấn đề con người trong triết học mác – lênin và phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước

LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Trong triết học, con người là một đề tài lớn, nghiên cứu vấn đề con người có vai trò rất to lớn đối với sự phát triển của thế giới, là vấn đề được các nhà triết gia của mọi thời đại bao gồm cả phương Đông và phương Tây quan tâm nghiên cứu. Trong các hệ thống tư tưởng đó, vấn đề con người trong triết học Mác – Lê nin được nghiên cứu và trình bày một cách bao quát, đặc sắc và mang tính khoa học nhất. Chủ nghĩa Mác – Lê nin đã kết luận: con người không chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất vật chất, đóng vai trò quyết định trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, mà con người còn là chủ thể của quá trình lịch sử, của sự tiến bộ xã hội. Đặc biệt khi xã hội loài người ngày càng phát triển và đạt đến trình độ văn minh cao cấp như hiện nay. Đối với một quốc gia bất kỳ, trong các điều kiện và nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội. Nhân tố con người (nguồn nhân lực) luôn giữ một vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát triển đó. Nguồn nhân lực có dồi dào, có đủ mạnh về tri thức để thúc đẩy sự phát triển hay không? Trên thế giới, các quốc gia có nền kinh tế phát triển mạnh như Hoa Kỳ, Nhật Bản, các nước Tây Âu Đều là những quốc gia có nhân tố con người có trình độ tri thức rất cao để đáp ứng nhu cầu phát triển công ngiệp và hiện đại hóa đất nước. Với các quốc gia chậm phát triển và đang phát triển thì nhân tố con người càng có vai trò quan trong hơn nữa trên tiến trình CNH – HĐH đất nước. Việt Nam là một quốc gia đang phát triển và đang thực hiện mạnh mẽ quá trình CNH và HĐH đất nước. Với đà phát triển như vậy thì việc chú trọng nghiên cứu nhân tố con người là một yêu cầu và nhiệm vụ cấp bách mà Đảng và Nhà nước ta phải thực hiện. Con người Việt Nam với rất nhiều tố chất và năng lực tốt đẹp đã được chứng minh trong lịch sử dân tộc và cho đến ngày nay. Với những lý luận về vấn đề con người được trình bày khoa học trong triết học Mác – Lê nin và được đúc kết sâu sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Vấn đề đặt ra là Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng những lý luận khoa học trên như thế nào? Để phục vụ cho sự nghiệp CNH – HĐH ở Việt Nam. Sau khi học xong chương trình triết học dành cho học viên cao học và hướng dẫn làm tiểu luận của quý thầy phụ trách học phần. Căn cứ vào tình hình thực tế Việt Nam, tôi đã quyết định chọn đề tài tiểu luận triết học là: “Vấn đề con người trong triết học Mác – Lênin và phát huy nhân tố con người trong sự ngiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa ở nước ta hiện nay”. Với những hiểu biết cá nhân, tác giả hy vọng sẽ có những đóng góp nhỏ cho lý luận về vấn đề này. MỤC LỤC Ñ&Ò Trang Lời cảm

doc32 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 13785 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Vấn đề con người trong triết học mác – lênin và phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m triết học Mác – Lê nin về vấn đề con người tôi đã vận dụng và quán triệt các nguyên tắc phương pháp luận cơ bản của phép biện chứng duy vật để tìm hiểu vai trò của nhân tố con người trong sự nghiệp CNH – HĐH ở nước ta, để từ đó vận dụng những quan điểm triết học Mác – Lê nin đưa ra nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam phù hợp với giai đoạn hiện nay. KẾT CẤU TIỂU LUẬN Phần mở đầu Chương 1 Cơ sở lí luận về vấn đề con người 1.1. Một số quan niệm về con người ngoài triết học Mác – Lênin. 1.2. Quan niệm của triết học Mác – Lê nin về bản chất con người 1.3. Chủ nghĩa xã hội (CNXH) là sự phát triển toàn diện của con người Chương 2 Phát huy nhân tố con người trong sự ngiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước 2.1. Quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về nhân tố con người 2.2. Phát huy vai trò của nhân tố con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước 2.3. Những nhiệm vụ cơ bản xây dựng con người trong qua trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước Phần kết luận CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ CON NGƯỜI MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VỀ CON NGƯỜI NGOÀI TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN Trong lịch sử triết học, con người là một đề tài được các triết gia triết học phương Đông và phương Tây quan tâm nghiên cứu. Có rất nhiều quan điểm khác nhau về con người đã được đưa ra, có thể chú ý đến những quan điểm sau: Quan điểm triết học trước Mác, coi con người là một thực thể tự nhiên – thực thể xã hội. Song họ cũng không vượt qua tính chất siêu hình và thậm chí còn là duy tâm. Theo triết học Phương Đông với sự chi phối bởi thế giới quan duy tâm hoặc duy vật chất phác thơ ngây. Điều này được biểu hiện trong tư tưởng triết học Phật giáo, Nho Giáo, Lão Giáo, quan niệm về bản chất con người củng thể hiện một cách phong phú. Chẳng hạn như Khổng Tử quy tính thiện của con người vào năng lực bẩm sinh, do ảnh hưởng bởi phong tục, tập quán xấu mà bị nhiễm cái xấu, xa rời cái tốt đẹp. Cũng như Khổng Tử, Mạnh Tử cho rằng phải lấy lòng nhân ái, quan hệ đạo đức để dẫn dắt con người hường tới các giá trị đạo đức tốt đẹp. Tuân Tử cho rằng bản chất con người khi sinh ra là ác nhưng có thể cải biến được, qua một quá trình chống lại cái ác ấy thì con người mới tốt được. Lão Tử cho rằng con người sinh ra từ “ Đạo”. Do vậy con người cần phải sống theo lẽ tự nhiên thuần phát, không hành động một cách giả tạo, gò ép trái với quy luật tự nhiên. Cũng như triết học phương Đông, triết học phương Tây cũng có nhiều quan niệm khác nhau về con người. Đặc biệt là Kitô giáo, họ nhận thức con người trên cơ sở thế giới quan duy tâm và thần bí. Triết học Hy Lạp cổ đại bước đầu cũng đã có sự phân biệt con người với giới tự nhiên, nhưng cũng chỉ là hiểu biết bên ngoài về tồn tại con người. Triết học thời kỳ phục hưng cận đại đặc biệt đề cao vai trò trí tuệ, lý tính của con người, xem con người là một thực thể có trí tuệ. Nói chung nền triết học thời bấy giờ, vấn đề con người vẫn chưa được nhận thức đầy đủ cả về bản chất, về mặt sinh học và xã hội. Con người mới chỉ được nhấn mạnh về mặt cá thể, mà xem nhẹ mặt xã hội. Bởi vì họ đã quy đặc trưng bản chất con người theo khuynh hướng tuyệt đối hoá những thuộc tính tự nhiên hoặc thuộc tính xã hội, mà không thấy được vai trò của thực tiễn. Chẳng hạn, khi phê phán quan điểm duy tâm của Hêghen thì Phơbách cho rằng vấn đề giữa tư duy và tồn tại là vấn đề bản chất của con người. Vì chỉ có con người mới có tư duy và sự tồn tại của con người cũng như tư duy của con người không thể tách khỏi quá trình tâm sinh học. Tuy nhiên, Phơibách đã mắc phải sai lầm khi ông tuyệt đối hoá mặt sinh học của con người hoặc tách con người ra khỏi quan hệ hiện thực của xã hội hoặc ông quy bản chất con người vào tính tộc loại, mà đặc trưng của nó là tình cảm đạo đức, tôn giáo và tình yêu. Có thể khái quát rằng, các quan niệm về con người trong triết học trước Mác, dù đứng trên nền tảng thế giới quan duy tâm, nhị nguyên luận hoặc duy vật siêu hình, đều không phản ánh đúng bản chất con người. Họ đều xem xét con người một cách trừu tượng, tuyệt đối hoá về mặt tinh thần hoặc thể xác con người, tuyệt đối hoá mặt tự nhiên – sinh học mà không thấy được mặt xã hội trong đời sống con người. Tuy vậy cũng không thể phủ nhận hết những thành tựu trong việc phân tích, quan sát con người, đề cao lý tính, xác lập các giá trị về nhân bản học để hướng con người tới tự do. Đó là những tiền đề có ý nghĩa quan trọng cho việc hình thành tư tưởng về con người của triết học Macxít sau này. QUAN NIỆM CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh học với mặt xã hội Kế thừa các quan điểm tiến bộ trong lịch sử triết học, dựa trên những thành tựu của khoa học tự nhiên, trực tiếp là thuyết tiến hóa và thuyết tế bào, triết học Mác đã khẳng định con người vừa là sản phẩm phát triển lâu dài của giới tự nhiên, vừa là sản phẩm hoạt động của chính bản thân con người. Con người là sự thống nhất giữa yếu tố sinh học với yếu tố xã hội – là thực thể sinh vật – xã hội. Tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự tồn tại của con người là sản phẩm của giới tự nhiên. Con người tự nhiên là con người mang tất cả bản tính sinh học, tính loài. Yếu tố sinh học trong con người là điều kiện đầu tiên quy định sự tồn tại của con người. Vì vậy giới tự nhiên là “thân thể vô cơ của con người”. Con người là một bộ phận của tự nhiên. Tuy nhiên, cần khẳng định rằng, mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy nhất quy định bản chất của con người. Đặc trưng quy định sự khác biệt của con người với thế giới loài vật là mặt xã hội . Tính xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất. Thông qua hoạt động lao động sản xuất, con người sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần, phục vụ nhu cầu cuộc sống của mình; Hình thành và phát triển ngôn ngữ và tư duy; Xác lập quan hệ xã hội. Bởi vậy lao động chính là yếu tố quyết định bản chất xã hội của con ngươi, đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội. Theo Mác, xã hội suy cho cùng là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa người với người. Con người tạo ra xã hội, là thành viên của xã hội. Mọi biểu hiện sinh hoạt của con người là biể hiện và là khẳng định của xã hội. Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển, con người luôn phải chịu sự tác động của ba hệ thống quy luật khác nhau, nhưng thống nhất với nhau. Bao gồm: Hệ thống quy luật tự nhiên chịu sự quy định của mặt sinh học, hệ thống quy luật tâm lý ý thức hình thành và vận động trên nền tảng sinh học của con người , hệ thống quy luật xã hội quy định các quan hệ giữa người với người trong xã hội. Con người là chủ thể của lịch sử, mục tiêu của sự phát triển xã hội Con người là chủ thể của lịch sử Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con người. Bởi vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hoá lâu dài của giới hữu sinh. Song, điều quan trọng hơn cả là: Con người luôn luôn là chủ thể của lịch sử - xã hội. C.Mác đã khẳng định “ Cái học thuyết duy vật chủ nghĩa cho rằng con người là sản phẩm của những hoàn cảnh và giáo dục... cái học thuyết ấy quên rằng chính những con người làm thay đổi hoàn cảnh và bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục”. Trong tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên”, Ph.Ăngghen cũng cho rằng : “ thú vật cũng có một lịch sử phát triển dần dần của chúng cho tới trạng thái hiện nay của chúng. Nhưng lịch sử ấy không phải do chúng làm ra và trong chừng mực mà chúng tham dự vào việc làm ra lịch sử ấy thì điều đó diễn ra mà chúng không hề biết và không phải do ý muốn của chúng. Ngược lại, con người càng cách xa con vật, hiểu theo nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu thì con người lại càng tự mình làm ra lịch sử của mình một cách có ý thức bấy nhiêu”. Như vậy, với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động phát triển của lịch sử xã hội. Thế giới loài vật dựa vào những điều kiện có sẵn của tự nhiên. Con người thì trái lại, thông qua hoạt động thực tiễn của mình để làm phong phú thêm thế giới tự nhiên, tái tạo lại một tự nhiên thứ hai theo mục đích của mình. Trong quá trình cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của mình. Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của chính bản thân con người. Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự tồn tại của con người, vừa là phương thức để làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội. Trên cơ sở nắm bắt quy luật của lịch sử xã hội, con người thông qua hoạt động vật chất và tinh thần, thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao, phù hợp với mục tiêu và nhu cầu do con người đặt ra. Không có hoạt động của con người thì cũng không tồn tại quy luật xã hội, và do đó, không có sự tồn tại của toàn bộ lịch sử xã hội loài người. Không có con người trừu tượng, chỉ có con người cụ thể trong mỗi giai đoạn phát triển nhất định của xã hội. Do vậy, bản chất con người trong mối quan hệ với điều kiện lịch sử xã hội luôn luôn vận động, biến đổi cũng không phải thay đổi cho phù hợp. Bản chất con người không phải là một hệ thống đóng kín, mà là hệ thống mở, tương ứng với điều kiện tồn tại của con người. Mặc dù là “tổng hoà các quan hệ xã hội”, con người có vai trò tích cực trong tiến trình lịch sử với tư cách là chủ thể sáng tạo. Thông qua đó, bản chất con người cũng vận động biến đổi cho phù hợp. Có thể nói rằng, mỗi sự vận động và tiến lên của lịch sử sẽ quy định tương ứng (mặc dù không trùng khắp) với sự vận động và biến đổi của bản chất con người. Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải làm cho hoàn cảnh ngày càng mang tính người nhiều hơn. Hoàn cảnh đó chính là toàn bộ môi trường tự nhiên và xã hội tác động đến con người theo khuynh hướng phát triển nhằm đạt tới các giá trị có tính mục đích, tự giác, có ý nghĩa định hướng giáo dục. Thông qua đó, con người tiếp nhận hoàn cảnh một cách tích cực và tác động trở lại hoàn cảnh trên nhiều phương diện khác nhau: hoạt động thực tiễn, quan hệ ứng xử, hành vi con người, sự phát triển của phẩm chất trí tuệ và năng lực tư duy, các quy luật nhận thức hướng con người tới hoạt động vật chất. Đó là biện chứng của mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh trong bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử xã hội loài người Con người là mục tiêu của sự phát triển xã hội Từ khi xuất hiện đến nay, loài người luôn cháy bỏng hoài bão được sống tự do, hạnh phúc và không ngừng đấu tranh để hoài bão đó được trở thành hiện thực. Trong các chế độ xã hội dựa trên quyền sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất (chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản). Các giai cấp thống trị luôn dùng mọi thủ đoạn để tước đoạt hoặc hạn chế quyền tự do và hạnh phúc của số đông quần chúng lao động. Cho nên loài người không ngừng đấu tranh chống lại sự áp bức bất công đó. Xã hội ngày càng văn minh, đó là xu hướng chủ yếu của xã hội. Nhưng cho đến nay, bước tiến của nền văn minh vẫn chứa đựng những yếu tố, những khuynh hướng đi ngược lại lợi ích chung của loài người, nhiều thành tựu của khoa học – kỹ thuật được sử dụng để huỷ diệt con người. Công nghiệp hoá học tạo ra năng suất, chất lượng lao động cao, nhưng lại gây ô nhiễm môi trường, máy móc thay thế sức người nhưng lại đẩy hàng chục triệu người vào thất nghiệp, xu thế hội nhập mở cửa tạo ra cơ hội phát triển cho mỗi người, cho các quốc gia nhưng lại nảy sinh những biểu hiện tiêu cực về lối sống làm mất bản sắc văn hoá dân tộc... Ông Nobel đã phát minh ra thuốc nổ và nhờ thuốc nổ trở thành giàu có. Nhưng bản thân ông lại không ngờ thuốc nổ lại sử dụng rộng rãi trong chiến tranh, tàn sát hàng chục triệu người vô tội. Ân hận về điều đó, ông đã để lại di chúc, đề nghị sử dụng gia tài mà ông có được do phát minh thuốc nổ, làm giải thưởng cho những ai có công trình khoa học đem lại hạnh phúc cho con người. Như vậy, Nobel đã đề xuất một tư tưởng: Văn minh phải hướng tới nhân đạo. Thế kỷ XXI chắc chắn sẽ có nhiều biến đổi to lớn, khoa học và công nghệ sẽ có những bước tiến bất ngờ. Vì vậy nhiệm vụ đặt ra cho mỗi người, mỗi quốc gia là phải làm chủ được các thành tựu của văn minh. Vậy con người là chủ thể của lịch sử nên chính con người chứ không phải đối tượng nào khác, phải loại trừ những yếu tố ngăn cản tự do, hạnh phúc của con người, đồng thời thúc đẩy làm biến đổi xã hội theo chiều hướng ngày càng tốt đẹp hơn. Thế giới hiện nay còn chứa đựng những yếu tố khác đe doạ tự do và hạnh phúc của con người như đói nghèo, dịch bệnh, thất học, ô nhiễm môi trường, bất bình đẳng xã hội, nguy cơ khủng bố, chiến tranh…. Do đó mọi chủ trương chính sách, mọi hành động của cộng đồng quốc tế, của các quốc gia và hành động của mỗi cá nhân phải nhằm bảo vệ con người, vì tự do hạnh phúc của con người. Vì con người là chủ thể của lịch sử nên con người cần được tôn trọng, cần phải đảm bảo các quyền chính đág của mình, phải là mục tiêu của mọi tiến bộ xã hội. Chủ Nghĩa Tư bản hiện đại vẫn đang còn sự phát triển. Nhưng theo qui luật tiến hoá của lịch sử, tương lai sẽ thuộc về một xã hội tốt đẹp hơn. Một xã hội không có tình trạng áp bức, bóc lột, một xã hội thống nhất và văn minh với nhân đạo, một xã hội mà trong đó mọi người có cuộc sống tự do, hạnh phúc, và xã hội đó chỉ có thể là XHCN. Bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội Con người là một thực thể xã hội được tách ra như một lực lượng đối lập với giới tự nhiên, sự tác động qua lại giữa cái sinh học và cái xã hội tạo thành bản chất của con người. Bởi vậy, để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, C.Mác đã nêu lên luận điểm nổi tiếng Luận cương về Phoiơbắc: “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội”. Theo luận đề trên thì không có con người trừu tượng, thoát ly mọi điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của lịch sử và xã hội. Luận đề đã khẳng định bản chất xã hội không có nghĩa là phủ nhận mặt tự nhiên trong đời sống con người. Trái lại, điều đó muốn nhấn mạnh sự phân biệt giữa con người và giới động vật trước hết là bản chất xã hội và đó cũng là để khắc phục sự thiếu sót của những nhà triết học trước Mác, không thấy được bản chất xã hội của con người. Mặt khác, cái bản chất với ý nghĩa là cái phổ biến, là cái mang tính quy luật. Vì vậy cần phải thấy được các biểu hiện riêng biệt, phong phú và đa dạng của mỗi cá nhân về cả phong cách, nhu cầu và lợi ích trong cộng đồng xã hội. Con người là sản phẩm của giới tự nhiên, song con người không hoàn toàn phụ thuộc vào giới tự nhiên mà đã vươn lên, tách xa thế giới động vật, trở thành con người của xã hội, sáng tạo ra lịch sử. Với vai trò là chủ thể của lịch sử con người phải được tự do, hạnh phúc, phải được phát triển các khả năng của mình. Nhưng không phải lúc nào và ở đâu con người cũng có đủ điều kiện để phát triển toàn diện. Vì vậy, một vấn đề đã và đang đặt ra là các quốc gia nói riêng, nhân loại nói chung, phải coi con người là mục tiêu của sự phát triển của xã hội. CHỦ NGHĨA XÃ HỘI (CNXH) LÀ SỰ PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN CỦA CON NGƯỜI Xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.... mọi người có cuộc sống tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân là mục tiêu cao cả của XHCN. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bật là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân tộc ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Chế độ Chủ Nghĩa Xã Hội đã trải qua bước phát triển quanh co, đầy thử thách của lịch sử, nhưng đang vững bước đi lên và đạt nhiều kết quả trong mục tiêu vì sự phát triển toàn diện của con người. Nước ta là một nước nghèo đang trong giai đoạn quá độ đi lên Chủ Nghĩa Xã Hội. Tuy vậy, Đảng và nhà nước luôn coi trọng con người, coi con người là mục tiêu của sự phát triển của xã hội, thể hiện ở các nhiệm vụ phát triển sau: Đưa đất nước ra khỏi tình trạng đói nghèo, kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất tinh thần của nhân dân. Thực hiện công bằng trong phân phối, thực hiện bình đẳng trong các quan hệ xã hội. Bằng nhiều giải pháp tạo ra nhiều việc làm cho người lao động. Phát triển kinh tế phù hợp với các vùng, miền nhiều khó khăn, thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo. Thực hiện đồng bộ chính sách bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ của nhân dân. Đẩy mạnh hoạt động của thể dục thể thao, nâng cao thể trạng tầm vóc của con người Việt Nam. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, phấn đấu vì sự công bằng xã hội. Trong giáo dục, thực hiện: giáo dục cho mọi người, cả nước trở thành một xã hội văn minh. Những mục tiêu trên đang được Đảng và nhân dân ta thực hiện nhằm xây dựng một xã hội: dân giàu nước mạnh ,xã hội công bằng, dân chu, văn minh. CHƯƠNG 2 PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA VÀ HIỆN ĐẠI HÓA (CNH – HĐH) ĐẤT NƯỚC QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG TA VỀ NHÂN TỐ CON NGƯỜI Ngay từ những ngày đầu xây dựng CNXH, Đảng ta đã khẳng định “Con người là vốn quý nhất” và “Muốn xây dựng thành công XHCN thì phải có con người XHCN”. Đảng ta đã đặt con người vào vị trí trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hộ, nhằm giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội, lợi ích riêng và lợi ích chung. Đại hội lần thứ VII của Đảng: “Mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con người, do con người, trước hết là người lao động”. Đại hội lần thứ VIII của Đảng: “Lấy việc phát huy yếu tố con người là nhân tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”. Đại hội lần thứ IX của Đảng: “Nguồn lực con người – yếu tố cơ bản của sự phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”. Phát triển nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc nhằm xây dựng và phát huy nguồn lực con người. Đại hội lần thứ IX của Đảng cũng đã nêu: “Moi hoạt động văn hóa nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có tinh thần yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội, có ý thức tự cường dân tộc, trách nhiệm cao trong lao đông, có lương tâm nghề nghiệp, có tác phong công nghiệp, có ý thức cộng đồng, tôn trọng nhân nghĩa, có lối sống văn hóa, quan hệ hài hòa trong gia đình và cộng đồng xã hội”. PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA VÀ HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC Với tầm quan trọng của nhân tố con người như đã đề cập ở trên. Đảng ta đã phát huy nhân tố con người trên cả hai phương diện: con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới đất nước. Trên phương diện con người là động lực của sự phát triển xã hội Với nền kinh tế bao cấp đã kìm hãm sự phát triển đất nước. Năm 1986, Đảng ta đã thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần, đổi mới cơ chế quản lý hành chính nhà nước từ quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường nên đã phát huy được tính năng động, sáng tạo của mỗi người. Nền kinh tế thị trường đang thúc đẩy sự phát triển của sản xuất, nâng cao năng suất lao động, tạo ra cơ sở vật chất và văn hóa tinh thần ngày càng đa dạng và phong phú. Lợi ích cá nhân ngày càng được chú ý, tạo ra cơ hội mới cho đà phát triển cá nhân. Đại hội lần thứ IX của Đảng đã nêu ra: “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cở sở liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo. Kết hợp hoài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội” để xây dựng một xã hội “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”. Trên phương diện con người là mục tiêu của sự phát triển xã hội Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Muốn chủ nghĩa cộng sản thực hiện được, cần phải có kỹ nghệ, nông nghiệp và tất cả mọi người đều được phát triển hết khả năng của mình”. Đó chính là mục tiêu mà chủ nghĩa xã hội hướng tới: giải phóng con người nhằm phát triển mọi tiềm năng, giá trị nhân cách của con người. Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng Cộng Sản Việt Nam xác định: “Phát triển con người, với tư cách vừa là động lực, vừa là mục đích của cách mạng, của sự nghiệp đổi mới đất nước”. Đây cũng là mục tiêu nhân văn của nền văn hoá tiên tiến,đậm đà bản sắc dân tộc: “Nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do và toàn diện của con người”. Con người trong quan niệm của Hồ Chí Minh và của Đảng ta không phải là con người trừu tượng mà là những cá nhân, những tập thể, những tầng lớp người cụ thể. Vì hạnh phúc của mỗi người “dân” của “đồng bào” và của cả dân tộc Việt nam là mục tiêu phấn đấu của Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hiện nay, trong sự nghiệp CNH – HĐH đất nước để đi lên Chủ Nghĩa Xã hội, mục tiêu xây dựng con người được đặt ra một cách thiết thực và trực tiếp. Vấn đề con người là mục tiêu của sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội ở nước ta là một vấn đề có tính chiến lược. Đại hội của Đảng đã đề ra đường lối và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội: Xuất phát từ tình hình hiện nay và yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ mới, đường lối kinh tế của Đảng ta được xác định là đẩy mạnh CNH – HĐH, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đưa nước ta thành môt nước công nghiệp, ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất phù hợp theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa, phát huy cao nội lực. Đồng thời tranh thủ nguồn lực từ bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh có hiệu quả và bền vững. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện cơ sở vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường. Kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh và trật tự xã hội. Đây là con đường phát triển bền vững đất nước, con đường phát triển nhắm tới một mục tiêu kép: vừa phát triển kinh tế, vừa phát triển con người và xã hội, vừa phấn đấu để dân giàu, nước mạnh, công bằng xã hội và dân chủ, văn minh. Lấy phát triển con người làm mục tiêu chiến lược, chúng ta cần chú ý đến những vấn đề sau: Cần quan tâm đến lợi ích của con người bao gồm lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần, trước hết là lợi ích vật chất. Hồ Chí Minh cho rằng: “Không có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thoả mãn bằng chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa”. Cần bảo đảm và phát huy quyền dân chủ của nhân dân trong đời sống xã hội bắt đầu từ cơ sở trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hôi. Đặc biệt phát huy tinh thần làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp đổi mới CNH – HĐH. Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến kiến quốc là công việc của dân”. Cần bảo đảm và thực hiện sự bình đẳng giữa những cá nhân, nhóm cộng đồng về cơ hội phát triển, tạo điều kiện cho mọi người và các nhóm, cộng đồng có điều kiện phát triển ngang nhau, được hưởng lợi ích công bằng phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn cụ thể. Cần phát huy sức mạnh của nhân dân, của khối đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân. Phát triển kinh tế đi đôi với bảo vệ Tổ Quốc vì hạnh phúc của nhân dân. Vai trò của con người trong quá trình CNH – HĐH đất nước Từ cách tiếp cận mới, Đảng ta chỉ ra vai trò quyết định của con người trong quá trình CNH – HĐH đất nước. Con người không chỉ là trung tâm của sự phát triển kinh tế - xã hội với tư cách là mục tiêu mà còn là động lực và là nhân tố bảo đảm cho quá trình CNH – HĐH đất nước thành công. Nói con người là động lực của sự phát triển là nói tới vai trò của nguồn lực con người bao gồm các yếu tố tri thức, kỹ năng, ý chí, tình cảm, đạo đức…của con người trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nghị quyết của Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp Hành TW khoá VIII đã chỉ rõ điều đó: “Đẩy mạnh CNH – HĐH”. Thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc vì “dân giàu, nước mạnh, công bằng, văn minh là sự nghiệp xây dựng và sáng tạo to lớn của nhân dân ta. Đồng thời là một quá trình cải biến của xã hội sâu sắc, đòi hỏi phát huy khả năng và trí tuệ ở con người Việt Nam". Để phát triển kinh tế xã hội ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa Xã Hội, chúng ta cần rất nhiều nguồn lực như: Nguồn lực khoa học và công nghệ; nguồn lực tài chính; nguồn lực tài nguyên thiên nhiên; nguồn lực lao động…. Trong các nguồn lực trên đều có vai trò của con người, con người với tư cách là nhân tố liên kết tích hợp, tổng hợp các nguồn lực thành động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Hay có thể nói đó chính là nguồn lực con người tham gia vào quá trình phát triển và đóng vai trò chủ đạo trong quá trình đó. Yếu tố đầu tiên của nguồn lực con người là tri thức, kỹ năng nghề nghiệp bí quyết hành nghề. Trong thời đại khoa hoc, công nghệ, tin học, con người tiến lên không chỉ bằng sức mạnh cơ bắp mà bằng trí tuệ của mình là chủ yếu. Người lao động có tri thức nghề nghiệp, kỹ năng lao động, có năng lực thích ứngvới sự phát triển của khoa học, công nghệ và sự biến đổi liên tục của nền kinh tế thị trường thì mới bảo đảm cho nền kinh tế phát triển bền vững và ổn định. Ngày nay, trong nền kinh tế tri thức, khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Nó sản sinh, truyền bá và sử dụng tri thức là yếu tố quyết định nhất đối với tăng trưởng kinh tế, làm giàu của cải vật chất, nâng cao chất lượng sống. Kinh tế tri thức là giai đoạn phát triển mới của lực lượng sản xuất của loài người, từ chỗ chủ yếu sử dung nguồn lực vật chất sang nguồn lực trí tuệ. Tri thức là yếu tố quyết định đối với sự tăng trưởng kinh tế, làm giàu của cải vật chất. Ở nước ta hiện nay đang trong quá trình CNH – HĐH gắn với việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế, chuyển đổi cơ cấu sản xuất thì vấn đề vai trò của tri thức, kỹ năng của người lao động được đặt ra. Chẳng hạn, trong nông nghiệp muốn chuyển đổi vật nuôi, cây trồng nào đó ta đều phải dùng đến tri thức. Vai trò con người trong quá trình sản xuất được biểu hiện ở lương tâm, trách nhiệm nghề nghiệp, ý thức kỷ luật. Nguồn lực con người trong hoạt động kinh tế được thể hiện ở khả năng tổ chức. Nguồn lực con người trong phát triển kinh tế xã hội còn được thể hiện qua ý chí, tình cảm, đạo đức….CNH – HĐH là quá trình cải biến xã hội sâu sắc ở nước ta đòi hỏi phải có một ý chí lớn, tư tưởng lớn…Cho nên, nó đòi hỏi con người Việt Nam phải quyết tâm vượt qua khó khăn thử thách, chiến thắng nghèo nàn, lạc hậu để xây dựng đất nước thành công. Do vậy, khi đề cập quan điểm về vai trò của con người trong quá trình phát triển kinh tế xã hội hiện nay, Đảng Cộng Sản Việt Nam nhấn mạnh: “Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm nhân tố cho sự phát triển nhanh và bền vững” ở nước ta. NHỮNG NHIỆM VỤ CƠ BẢN XÂY DỰNG CON NGƯỜI TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA VÀ HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC Xây dựng con người là mục tiêu của sự nghiệp CNH – HĐH đất nước nên nó phải là kết quả tổng hợp của tất cả những hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa của chúng ta. Song ở đây, chúng ta chỉ bàn đến những nhiệm vụ cơ bản trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa tác động đến sự hình thành con người trong quá trình CNH – HĐH đất nước, cụ thể như sau: Xây dựng tư tưởng đạo đức và lối sống Nghị quyết hội nghị lần thứ V Ban Chấp Hành Trung Ương khóa VIII về xây dựng đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân ta đã chỉ rõ: “Tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn hóa được coi là những lĩnh vực quan trọng nhất hiện nay cần đặc biệt quan tâm”. Định hướng xây dựng con người, yếu tố tư tưởng, đạo đức lối sống là yếu tố cơ bản nhất trong phẩm chất tinh thần của con người Việt Nam hiện nay. Trong đó, “Hệ tư tưởng là cốt lõi của văn hóa, là định hướng cơ bản cho đời sống tinh thần xã hội”. Theo quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam đó là tư tưởng: Độc lập dân tộc gắn liền với Chủ Nghĩa Xã Hội dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú tự do, toàn diện của con người trong mối quan hệ hài hòa giữa cá nhân và xã hội, giữa cộng đồng và tự nhiên. Do vậy, nhiệm vụ đặt ra là: Cần nghiên cứu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh nước ta trong giai đoạn hiện nay và trước những biến đổi sâu rộng của thời đại mới. Tuyên truyền giáo dục cho nhân dân hiểu biết đầy đủ sâu sắc chủ nghĩa Mác-Lênin, củng cố lòng tin của nhân dân va tư tưởng Hồ Chí Minh đã lựa chọn. Khắc phục những biểu hiện dao động, hoài nghi về con đường đi lên CNXH; Phủ nhận những thành quả của CNXH hiện thực trên thế giới; Phủ nhận con đường đi lên CNXH ở nước ta; Phủ nhận lịch sử Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự mơ hồ, bàn quan mất cảnh giác trước những luận điệu xuyên tạc, bôi nhọ chế độ ta của các thế lực thù địch. Đồng thời đấu tranh phê phán chống lại những tư tưởng phản động, chống phá cách mạng nước ta và sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Xây dựng tinh thần yêu nước có ý chí xây dựng đất nước vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh. Biến tinh thần đấu tranh giành độc lập dân tộc trước đây thành tinh thần phục hưng đất nước trong thời kỳ CNH – HĐH đất nước hiện nay. Quyết tâm xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc Việt Nam XHCN, vì hạnh phúc của nhân dân, của dân tộc và của mỗi con người. Xây dựng đạo đức và lối sống mới phấn đấu vì lợi ích con người với tư cách là mỗi cá nhân và cả cộng đồng, gắn lợi ích của cá nhân với lợi ích của cộng đồng, ở từng cơ sở, từng địa phương và trong cả nước. Hình thành lối sống mới, lối sống văn minh tác phong công nghiệp, trật tự kỷ cương và trách nhiệm. Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống đẹp đẽ và “những thuần phong mỹ tục” của dân tộc, của từng địa phương. Phê phán lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền hay quan liêu, cửa quyền, cục bộ mà ở nhiều địa phương đã trở thành hiện tượng nổi cộm trong đời sống xã hội hiện nay. Cần nêu gương người tốt, việc tốt những cá nhân đơn vị, tập thể tiêu biểu có những phẩm chất tốt đẹp của con ngườiViệt Nam hiện nay. Cần phát huy sức mạnh của dư luận và sức mạnh của luật pháp để lên án và trừng phạt thích đáng những kẻ cố tình vi phạm pháp luật, quấy rối mất trật tự, an toàn xã hội, những kẻ gây nên những tội ác, gieo rắc những tư tưởng xấu hay những tệ nạn xã hội….Công tác tư tưởng phải tạo ra sự nhất trí về tinh thần, sự đoàn kết dân tôc, phấn đấu cho sự nghiệp CNH – HĐH đất nước và hình thành những con người hiện đại, con người Việt Nam với những phẩm chất mà Đảng Cộng Sản Việt Nam đã nêu ra. Phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo Để thực hiên chiến dịch con người và nguồn nhân lực, nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước trong thời kỳ CNH – HĐH đất nước cần tạo sự chuyển hướng căn bản , toàn diện về giáo dục và đào tạo. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm 2020 của Đảng đã xác định nhiệm vụ phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo như sau: Bồi dưỡng thế hệ trẻ tinh thần yêu nước, yêu quê hương, gia đình và tự tôn dân tộc, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, lòng nhân ái, ý thức tôn trọng pháp luật, tinh thần hiếu học chí tiến thủ lập nghiệp, không cam chịu nghèo hèn. Đào tạo lớp người lao động có kiến thức cơ bản, làm chủ kỹ năng nghề nghiệp, quan tâm hiệu quả thiết thực, nhạy cảm với cái mới, có ý thức vươn lên vì khoa học và công nghệ. Xây dựng đội ngũ công nhân lành nghề, các chuyên gia và nhà khoa học, nhà văn hóa. Nhà kinh doanh, nhà quản lý phải có chính sách sử dụng lao động và nhân tài phải tận dụng mọi nhân lực, phát huy mọi tài năng của các tập thể và cá nhân phục vụ sự nghiệp xây dụng và bảo vệ đất nước. Phát triển giáo dục mầm non, củng cố vững chắc kết quả xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, tiến hành phổ cập trung học cơ sở trong cả nước, phần lớn thanh thiếu niên trong độ tuổi ở thành thị và vùng nông thôn, đồng bằng được học hết trung học phổ thông, trung học chuyên nghiệp hoặc đào tạo nghề. Tạo mọi điều kiện cho mọi người ở mọi lứa tuổi được học tập thường xuyên suốt đời . Điều chỉnh hợp lý cơ cấu bậc học, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vùng trong hệ thống giáo dục và đào tạo phù hợp với yêu cầu học tập của nhân dân, yêu cầu phát triển kinh tế xã hội và các mục tiêu của chiến lược. Chú trọng giáo dục hướng nghiệp thiết thực trong trường phổ thông. Mở rộng đào tạo công nhân, kỹ thuật viên và nhân viên nghiệp vụ theo nhiều trình độ. Phát triển và nâng cao chất lượng đào tạo đại học, sau đại học, tập trung xây dựng một số trường đại học trọng điểm quốc gia mang tầm khu vực, tiến tới đạt trình độ quốc tế. Phát triển giáo dục thường xuyên và đào tạo từ xa. Nhà nước dành ngân sách đưa người giỏi đi đào tạo ở các nước phát triển, khuyến khích tạo thuận lợi cho việc học tập và nghiên cứu nước ngoài. Coi trọng đào tạo đội ngũ công nhân tay nghề cao, có kỹ thuật thực hành và nhà kinh doanh giỏi. Ưu tiên đào tạo nhân lực phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn, miền núi, xuất khẩu lao động, một số nghành mũi nhọn. Phát triển và nâng cao chất lượng các trường dân tộc nội trú, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số. Khẩn trương điều chỉnh và đưa vào sử dụng ổn định trong cả nước chương trình đào tạo đại học và sách giáo khoa phổ thông phù hợp với yêu cầu phát triển mới. Ngoài tiếng phổ thông, các dân tộc có chữ viết riêng được khuyến khích học chữ dân tộc. Đổi mới chương trình đào tạo đại học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề theo hướng thiết thực, hiện đại. Chú trọng trang bị và năng cao kiến thức tin họ, ngoại ngữ cho học sinh, sinh viên. Đổi mới phương pháp dạy và học, phát huy tư duy sáng tạo và năng lực đào tào của người học, coi trọng thực hành thực nghiệm, ngoại khóa làm chủ kiến thức tránh nhồi nhét, học vẹt, học chạy. Đổi mới và thực hiện nghiêm chỉnh chế độ thi cử. Đề cao tính tự chủ của trường học. Phát triển đội ngũ giáo viên, coi trọng chất lượng và đạo đức sư phạm, cải thiện chế độ đãi ngộ. Bảo đảm về cơ bản đội ngũ giáo viên đạt chuẩn quốc gia và tỷ lệ giáo viên so với học sinh theo yêu cầu của từng cấp học. Có cơ chế chính sách bảo đảm đủ giáo viên cho miền núi, hải đảo. Tăng cường cơ sở vật chất và từng bước hiện đại hóa nhà trường (lớp học, sân chơi, bãi tập, phòng thí nghiệm, thiết bị giảng dạy hiện đại, thư viện, kí túc xá…..). Phấn đấu đến năm 2020, phần lớn các trường phổ thông có đủ điều kiện cho học sinh học tập và hoạt đông cả ngày tại trường. Tăng cường đầu tư cho ngân sách nhà nước và đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục – đào tạo. Khuyến khích mạnh mẽ các thành phấn kinh tế đầu tư phát triển giáo dục ở tất cả các cấp học đáp ứng nhu cầu đa dạng của xã hội. Ngân sách nhà nước tập trung nhiều hơn cho các bậc giáo dục phổ cập, cho vùng nông thôn, miền núi cho đào tạo trình độ cao và những nghành khó thu hút đầu tư ngoài ngân sách nhà nước; Bảo đảm điều kiện học tập cho con em người có công với cách mạng và gia đình nghèo. Tăng cường quản lý nhà nước đặc biệt là hệ thống thanh tra giáo dục, thiết lập kỷ cương, đẩy lùi các hoạt động tiêu cực. Tăng cường quản lý và giúp đỡ người đi học tập và nghiên cứu ở nước ngoài. Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế của xã hội. Nghị quyết hội nghị lần năm ban chấp hành trung ương khóa VIII đã chỉ rõ vai trò của văn hóa nhiệm vụ xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc: Chăm lo văn hóa là chăm lo củng cố nền tảng tinh thần của xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ, lành mạnh không quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội thì không thể có sự phát triển kinh tế bền vững. Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hóa, vì con người phát triển toàn diện. Văn hóa là kết quả của kinh tế đồng thời là động lực của sự phát triển kinh tế. Các nhân tố văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, xã hội, luật pháp, kỉ cương… biến thành nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển đất nước. Để phát huy vai trò của văn hóa đối với sự phát triển của xã hội và con người. Đại hội đại biểu toàn quốc lần IX của Đảng đã đặt ra các nhiệm vụ xây dựng và phát triển nền văn hóa giai đoạn 2011 – 2020 như sau: Thứ nhất, cần tập trung xây dựng con người Việt Nam phát triển về thể lực, trí lực và tình cảm, có lý tưởng và nhiệt tình cách mạng, trung thành với sự nghiệp đổi mới, có kỹ năng lao động và sáng tạo, có ý chí và bản lĩnh trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp CNH – HĐH đất nước và hội nhập quốc tế, phấn đấu vì xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Các phẩm chất cơ bản của con người cần xây dựng là con người công dân, con người khoa học và con người nhân văn. Đề cao việc xây dựng ý thức công dân, tinh thần tôn trọng và làm theo hiến pháp và pháp luật; Nâng cao trình độ khoa học, kỹ thuật và công nghệ; Đề cao các giá trị nhân văn, hướng tới cái đúng, cái tốt và cái đẹp trong hoạt động thực tiễn của mọi người. Tăng cường giáo dục lý tưởng chính trị, đạo đức xã hội và bản lĩnh văn hóa cho thanh niên, học sinh, sinh viên. Thực hiện tốt cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Thứ hai, cần nâng cao chất lượng toàn diện của việc xây dựng đời sống văn hóa và môi trường văn hóa thông qua đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước và cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa. Đẩy mạnh việc xây dựng môi trường văn hóa trong tổ chức Đảng và cơ quan Nhà nước, các Đoàn thể chính trị xã hội, trong các doanh nghiệp, trong gia đình và trong cộng đồng dân cư... Xây dựng nếp sống văn minh trong xã hội, nhất là nơi công cộng. Thứ ba, cần mở rộng và phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ văn hóa, gắn kết chặt chẽ văn hóa với nhiệm vụ phát triển kinh tế, khai thác tài nguyên văn hóa một cách hợp lý để phát triển du lịch dịch vụ. Đa dạng hóa các ngành nghề sáng tạo và sản xuất các sản phẩm văn hóa, nâng cao sức cạnh tranh của các sản phẩm văn hóa, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Thứ tư, là đảm bảo tự do và dân chủ trong hoạt động sáng tạo văn học, nghệ thuật, báo chí xuất bản, phát huy vai trò tích cực của các lĩnh vực này trong việc xây dựng môi trường văn hóa tinh thần lành mạnh. Đồng thời nâng cao trách nhiệm của đội ngũ văn nghệ sĩ, đội ngũ những người làm báo đối với nhân dân, dân tộc và thời đại, nâng cao chất lượng đào tạo ở các trường, các viện về văn học, nghệ thuật, báo chí, xuất bản. Phát huy vai trò của các hội văn học, nghệ thuật và báo chí từ trung ương đến địa phương. Thứ năm, bên cạnh việc tiếp tục đầu tư, tôn tạo, bảo tồn và phát huy các di tích lịch sử văn hóa, cần chú trọng xây dựng các công trình văn hóa trọng điểm quốc gia và khu vực. Đặc biệt, Nhà nước quan tâm tới đầu tư xây dựng đời sống văn hóa ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng miền núi, biên giới và hải đảo, xây dựng đời sống văn hóa ở nông thôn, ở các khu công nghiệp, khu chế xuất tập trung đông công nhân. Thứ sáu, cần nâng cao chất lượng và hiệu quả lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước trên lĩnh vực văn hóa - thể thao - du lịch. Xây dựng cơ chế, chính sách chế tài ổn định phù hợp với yêu cầu quản lý văn hóa trong thời kỳ mới. Thứ bảy, đẩy mạnh hoạt động thể dục thể thao, nâng cao thể trạng và tầm vóc của người Việt Nam. Phát triển phong trào thể dục, thể thao quần chúng với mạng lưới cơ sở rộng khắp. Đào tạo, bồi dưỡng vận động viên thể thao có thành tích cao, đưa thể thao Việt Nam lên trình độ chung trong khu vưc Đông Nam Á và có vị trí cao trong nhiều bộ môn. Đẩy mạnh xã hội hóa, khuyến khích nhân dân và các tổ chức tham gia thiết thực, có hiệu lực các hoạt động văn hóa thể thao. Khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư và bảo trợ các hoạt động văn hóa, thể thao. Phát triển thị trường sản phẩm về dịch vụ văn hóa, thể thao phong phú, lành mạnh. Thứ tám, tăng đầu tư ngân sách cho văn hóa tương ứng với tăng trưởng kinh tế. Tập trung xây dựng một số trung tâm văn hóa lớn gắn kết với văn hóa, thể thao, du lịch như làng văn hóa các dân tộc việt Nam, trung tâm thể thao quốc gia và các trung tâm đào tạo về văn hóa, thể thao ngang tầm khu vực. Thứ chín, mở rộng giao lưu văn hóa, thể thao quốc tế. Đầu tư thích đáng cho việc truyền bá ở trong các nước giá trị văn hóa của loài người và giới thiệu đất nước, văn hóa con người Việt Nam với thế giới. Xây dựng môi trường văn hóa Xây dựng môi trường văn hóa và đời sống văn hóa ở cơ sở. Nói đến môi trường văn hóa là nói đến những quan hệ vô cùng rộng lớn của con người trong không gian và thời gian, từ phạm vi vĩ mô đến vi mô của một cộng đồng ( từ cả nước, địa phương đến từng cơ sở). Xây dựng môi trường văn hóa vì mục tiêu của sự phát triển kinh tế xă hội vì con người như liên hợp quốc đã khuyến cáo: Mục tiêu tăng trưởng kinh tế mà không tính đến môi trường văn hóa thì kết quả thu được sẽ khập khiễng, mất cân đối, cả về kinh tế và văn hóa. Đồng thời tiềm năng sáng tạo của mỗi dân tộc cũng sẽ suy giảm đi rất nhiều. Vì vậy, xây dựng một môi trường văn hóa phải đạt được các chỉ tiêu sau: Tạo ra ở các đơn vị cơ sở (gia đìmh, làng bản, xã phường, khu tập thể, cơ quan trường học, đơn vị bộ đội…), các vùng dân cư (đô thị , nông thôn, miền núi…), đời sống văn hóa lành mạnh, đáp ứng những nhu cầu văn hóa đa dạng và không ngừng tăng lên của các tầng lớp nhân dân. Đẩy mạnh phong trào xây dựng làng, ấp, xã, phường văn hóa, nâng cao tính tự quản của cộng đồng dân cư trong công cuộc xây dựng nếp sống văn minh. Thu hẹp dần khoảng cách đời sống văn hóa giữa các trung tâm đô thị và nông thôn, giữa những vùng kinh tế phát triển với các vùng sâu, vùng xa, vùng núi, biên giới, hải đảo, giữa các tầng lớp nhân dân. Phát triển và không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động của các thiết chế văn hóa cơ sở; Đầu tư xây dựng một số công trình văn hóa trọng điểm mang tầm quốc gia. Tăng cường hoạt động của các tổ chức văn hóa, nghệ thuật chuyên nghiệp, phát triển phong trào quần chúng hoạt động văn hóa nghệ thuật. Xây dựng môi trường văn hóa không chỉ xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở mà còn xây dựng gia đình văn hóa, giữ gìn và phát huy những đạo lý tốt đẹp của gia đình Việt Nam. Nêu cao vai trò gương mẫu của các bậc cha mẹ. Coi trọng xây dựng gia đình văn hóa, xây dụng mối quan hệ khăng khít giữa gia đình, nhà trường xã hội. Gia đình là cái nôi nuôi dưỡng con người, thực hiện hai chức năng cơ bản là duy trì nòi giống và văn hóa cá nhân để hình thành nhân cách. Vinh dự và trách nhiệm của gia đình là cung cấp cho xã hội những công nhân ưu tú về tài năng và đạo đức. Gia đình cần được xây dựng bền vững để trở thành niềm vui và hành phúc của mỗi con người. Vì vậy, các chính sách của nhà nước phải chú ý tới xây dựng gia đình no ấm, hòa thuận, tiến bộ. Nâng cao ý thức vế nghĩa vụ gia đình đói với mọi lớp người. Thực hiện tốt chính sách xã hội nhằm tác đông trực tiếp đến con người như tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo, chăm lo sức khỏe cho nhân dân . Giải quyết việc làm là yếu tố quyết định để phát huy nhân tố con người ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân. Để giải quyết vấn đề việc làm, tạo môi trường và điều kiên thuận lợi cho tất cả các thành phần kinh tế, đầu tư phát triển rộng rãi các cơ sở sản xuất kinh doanh tạo nhiều việc làm và phát triển thị trường lao đông. Thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động xã hội phù hợp với cơ cấu kinh tế. Xóa đói giảm nghèo: Bằng nguồn lực của nhà nước và của toàn xã hội, tăng đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng cho vay vốn, để giúp đào tạo nghề, cung cấp thông tin, chuyển giao công nghệ. Giúp đỡ tiêu thụ sản phẩm… Đối với những vùng nghèo, xã nghèo và nhóm dân cư nghèo. Chủ động di dời một bộ phận nông dân không có đất canh tác và điều kiện sản xuất đến lập nghiệp ở những vùng còn nhiều tiềm năng. Nhà nước tạo môi trường thuận lợi, khuyến khích mọi người dân vươn lên làm giàu chính đáng và giúp đỡ người nghèo. Thực hiện trợ cấp xã hội đối với những người có hoàn cảnh khó khăn không thể tự lao động, không có người bảo trợ, nuôi dưỡng. Phấn đấu đến năm 2020 về cơ bản không có hộ nghèo. Thường xuyên củng cố thành quả xóa đói, giảm nghèo. Chăm sóc sức khỏe cho nhân dân: Tiếp tục thực hiện các chương trình, mục tiêu về y tế quốc gia. Nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe ở tất cả các tuyến. Đặc biệt coi trọng tăng cường dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe cho trẻ em, người bị di chứng chiến tranh, người nghèo, đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng căn cứ cách mạng, vùng sâu, vùng xa. Giảm tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng, tỉ lệ tử vong của trẻ em dưới năm tuổi, tỉ lệ tử vong của bà mẹ liên quan đến thai sản. Giảm tỉ lệ tử vong do các bệnh truyền nhiễm, không để xẩy ra dịch lớn. Tích cực phòng, chống các bệnh không do nhiễm trùng, khắc phục hậu quả do tai nạn và thương tích. Bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm và an toàn truyền máu. Hoàn chỉnh quy hoạch, củng cố và nâng cấp mạng lưới y tế cơ sở, có bác sĩ làm việc ở tất cả các trạm y tế đồng bằng và trung du, phần lớn xã miền núi. Nâng cấp bệnh viện huyện, tỉnh; Phát triển các bệnh viên đa khoa khu vực ở các địa bàn xa trung tâm tỉnh. Hoàn thiện hai trung tâm y tế chuyên sâu tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, xây dựng trung tâm y tế chuyên sâu tại miền Trung và phát triển các trung tâm y tế vùng. Từng bước hiện đại hóa trang thiết bị y tế, ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến vào việc khám và chữa bệnh cho nhân dân. Kết hợp y học hiện đại với y học cổ truyền dân tộc, kết hợp quân – dân y; Phấn đấu có một số lĩnh vực y dược học có thế mạnh, trở thành trung tâm của khu vực Đông Nam Á. Tiêu chuẩn hóa và tăng cường đào tạo cán bộ y tế, chú ý đào tạo cán bộ là người dân tộc thiểu số; phân bố cán bộ theo vùng phù hợp yêu cầu. Khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia phát triển các cơ sở khám, chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe đáp ứng nhu cầu đa dạng của xã hội. Đề cao y đức gắn với xây dựng và thực hiện quy chế hành nghề, xóa bỏ các hiện tượng tiêu cực. Phòng chống các tệ nạn xã hội: Phòng chống, đẩy lùi các tệ nạn xã hội, đặc biệt là ma túy. Thực hiện cơ chế giải pháp đồng bộ về tuyên truyền, giáo dục, chữa trị, đào tạo nghề, tạo việc làm, xử lý nghiêm theo pháp luật những hành động gây tệ nạn xã hội. Xây dựng nếp sống lành mạnh trong toàn xã hội, ngăn chặn sự lây nhiễm HIV/AIDS. Tổ chức chữa bệnh cho bệnh nhân AIDS và người nghiện ma túy, giúp họ sống, lao động có ý nghĩa trong cộng đồng. Có biện pháp đồng bộ ngặn chặn tai nạn giao thông. Đề cao trách nhiệm các cấp ủy Đảng, chính quyền, mặt trận đoàn thể đối với tình trạng tệ nạn trên từng địa bàn. Phát huy vai trò của người dân, từng cộng đồng trong việc đấu tranh, ngăn chặn và đẩy lùi những tệ nạn này./. KẾT LUẬN CNH – HĐH đất nước, đã và đang trở thành xu hướng phát triển chung của tất cả các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, đặc biệt là đối với các quốc gia đang phát triển. Đó cũng là xu thế và là con đường phát triển của nước ta hiện nay để đi đến mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. CNH – HĐH không chỉ là công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế mà chính là quá trình thay đổi sâu sắc mọi lĩnh vực của đời sống xã hội như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và con người... làm cho xã hội phát triển lên một trạng thái mới về chất. Nhưng cơ sở và động lực để thực hiện quá trình này là gì? Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin, con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của quá trình này. Tức là, con người vừa là điểm khởi đầu vừa là điểm kết thúc, đồng thời vừa là trung tâm của mọi biến đổi lịch sử. Trong xã hội hiện nay, chủ thể của quá trình CNH – HĐH vẫn chính là con người. Chính vì vậy, quá trình náy đòi hỏi phải có nguồn nhân lực đủ về số lượng, mạnh về chất lượng. Nói cách khác, nguồn lực phải trở thành động lực thật sự của sự phát triển. Bên cạn đó, xuất phát từ tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lê nin về sự phát triển con người và sự nghiệp giải phóng con người, giải phóng nhân loại. Chúng ta có thể khằng định rằng, sự nghiệp CNH – HĐH đất nước ở các quốc gia trên thế giới nói chung và ở Việt Nam hiện nay nói riêng là một cuộc cách mạng – “cách mạng con người”. Trong tác phẩm “Tư bản”, C. Mác đã khẳng định: “Để sản xuất ra những con người toàn diện cần có một nền kinh tế phát triển, một nền văn hóa mới, một nền khoa học kỹ thuật hiện đại, một nền giáo dục tiên tiến”; “Tạo ra những thành tựu kinh tế, không phải chỉ là một phương pháp để làm tăng thêm nền sản xuất xã hội, mà còn là phương pháp duy nhất để sản xuất ra những con người phát triển toàn diện”. Như vậy, CNH – HĐH phải vì mục tiêu phát triển con người. Chỉ có như vậy, CNH – HĐH mới trở thành sự nghiệp cách mạng của quần chúng. Quan những nhận định trên có thể khẳng định rằng, quá trình CNH – HĐH ở nước ta là một quá trình tất yếu để đưa Việt Nam trở thành một quốc gia phát triển trong tương lai. Bên cạnh, quá trình này diễn ra ở nước ta theo định hướng XHCN. Vì vậy, chúng ta phải lấy con người làm động lực và mục tiêu cho sự phát triển. Phải phát triển con người Việt Nam hiện nay, phải gắn tăng trưởng kinh tế với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hóa, giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Đồng thời, CNH – HĐH phải vì sự phát triển con người Việt Nam toàn diện, con người phải được coi là giá trị tối cao và là mục đích của sự nghiệp đầy khó khăn và phức tạp nhưng là quá trình tất yếu để phát triển./. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO @&? Bộ Giáo Dục và đào tạo, (2008), Giáo trình triết học (dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh), Nxb chính trị - hành chính. Đảng cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc, Nxb Chính trị quốc gia. Ngô Đình Giao (chủ biên), (1996), Suy nghĩ về công nghiệp hóa và hiện đại hóa ở nước ta, Nxb Chính trị quốc gia. Phạm Minh Hạc, (2001), Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào công nghiệp hóa – hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia. Nguyễn Thanh, (10/1996 ), Mục tiêu con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa, Tạp trí triết học số 5. Đặng Hữu Toàn, (2/1997), Phát triển vì con người trong quan điểm của Mác và ..., Tạp chí triết học số 1. Các Wedsite …

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCON NGUOI CNH.doc
  • doctrang bia tl triet.doc
Luận văn liên quan