Con người là khái niệm chỉ những cá thể người như một chỉnh thể, trong sự thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội của nó.
Nếu chỉ dừng lại ở một số thuộc tính sinh học của con người thì không thể giải thích được bản chất của con người, con người là một thực thể đặc biệt hoạt động có ý thức, có khả năng sáng tạo cho mình. Từ tự nhiên và chính trong quá trình hoạt động đó những quan hệ xã hội được hình thành và phát triển mạnh mẽ tới nhân cách con người như C.mac đã viết “ Con người là tổng hòa các mối quan hệ trong xã hội”.
Từ những vấn đề nêu trên, chúng ta thấy, môi trường có ảnh hưởng không nhỏ tới sự hình thành và phát triển nhân cách; vì vậy, việc tạo ra một môi trường đảm bảo cho nhân cách có sự phát triển hài hòa trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, thiết nghĩ, là điều cần thiết. Ngược lại, những nhân cách có đủ đức và tài sẽ là điều kiện để chúng ta đạt được mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
44 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3585 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Vấn đề con người và định hướng phát triển nhân cách con người VN hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tâm sinh học được xem như cơ sở vật chất và có ảnh hưởng tới sự phát triển con người. Thực tế đã chứng minh rằng, những khiếm khuyết về mặt cơ thể, về gen… đã có ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển con người, tới thế giới quan, định hướng giá trị… của họ; hay những năng khiếu bẩm sinh, những tài năng… chính là do các yếu tố sinh học chi phối. Một ví dụ khác là, ngày nay, người ta thường nhắc tới nhịp điệu sinh học (đồng hồ sinh học) như một cơ chế có ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động của con người; hay nhiều kết quả nghiên cứu khoa học đã chỉ ra rằng, khi có một gen nào đó hoạt động hoặc ngừng hoạt động thì con người có sự thay đổi nhất định.
Môi trường xã hội cũng ảnh hưởng tới sự phát triển con người, ảnh hưởng tới cơ cấu và chức năng… của cơ thể. Nếu con người ít tiếp xúc, trao đổi với người xung quanh hoặc sống trong môi trường xã hội quá đơn điệu thì sẽ nghèo nàn về tâm lý, kém sự linh động. Chẳng hạn, bác sỹ Sing, người Ấn Độ, có kể về trường hợp cô Kamala được chó sói nuôi từ nhỏ. Khi được đưa ra khỏi rừng, cô đã 12 tuổi. Bình thường, cô ngủ trong xó nhà, đêm đến thì tỉnh táo và đôi khi sủa lên như chó rừng. Cô đi lại bằng hai chân, nhưng khi bị đuổi thì chạy bằng bốn chi khá nhanh. Người ta dạy nói cho Kamala trong bốn năm, nhưng cô chỉ nói được hai từ. Cô không thể thành người và chết ở tuổi 18. Đến nay, người ta đã biết được trên 30 trường hợp tương tự. Những sự thực đó đã khẳng định tính đúng đắn trong nhận xét của C.Mác: Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội.Như vậy, có thể thấy rằng, đứa trẻ ra đời mới chỉ như một con người “dự bị”. Nó không thể trở thành con người nếu bị cô lập, tách khỏi đời sống xã hội; nó cần phải học để trở thành người. Trong Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844, C.Mác đã viết: “Cá nhân là thực thể xã hội. Cho nên mọi biểu hiện sinh hoạt của nó - ngay cả nếu nó không biểu hiện dưới hình thức trực tiếp của biểu hịên sinh hoạt tập thể, được thực hiện cùng với những người khác - là biểu hiện và sự khẳng định của sinh hoạt xã hội”(5,43). Chính sự gia nhập xã hội và được xã hội điều chỉnh hành vi của mình mà đứa trẻ và hành vi của nó mang nội dung xã hội.
Nghiên cứu sự tác động qua lại giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội trong con người là để thấy được những hạn chế trong các quan niệm cực đoan về cái sinh học, cái xã hội trong con người của một số trường phái triết học. Thực tế cho thấy rằng, những quy luật sinh học chi phối mặt sinh học, còn quá trình con người gia nhập xã hội sẽ quyết định mặt xã hội trong con người. Điều này thể hiện rõ nhất ở những đứa trẻ sinh ra từ cùng một trứng. Những đứa trẻ này giống nhau về mặt di truyền. Điều đó có nghĩa là, trong quá trình phát triển, chúng có thể mắc một số bệnh giống nhau, như bệnh về mắt hay nội tiết, tức là ở đây, mặt sinh học đóng vai trò không nhỏ. Song, nếu được nuôi dưỡng trong những môi trường xã hội khác nhau thì những đứa trẻ này cũng có sự phát triển khác nhau. Điều này có nghĩa là, con người vừa chịu sự tác động của quy luật sinh học, vừa chịu sự tác động của xã hội (nhưng cũng cần phải thấy được rằng, sự tác động của yếu tố sinh học và yếu tố xã hội không phải là ngang nhau, như nhau trong mỗi cuộc đời con người). Dĩ nhiên, cũng cần phải thấy rằng, với những mục đích nghiên cứu khác nhau, có thể các nhà nghiên cứu nhấn mạnh tới mặt sinh học hoặc mặt xã hội của con người (và chỉ nhấn mạnh, chứ không phải tuyệt đối hoá như chủ nghĩa tự nhiên, thuyết sinh học xã hội hay trường phái xã hội đã làm). Việc tuyệt đối hoá vai trò của yếu tố sinh học, di truyền trong con người sẽ dẫn đến tình trạng, các tệ nạn xã hội được giải thích bằng những nguyên nhân tự nhiên và do đó, người ta cho rằng, không thể khắc phục được những tệ nạn xã hội. Điều đó còn đưa đến một quan niệm về “giống thượng lưu”, về sự phân biệt chủng tộc. Quan điểm này cho rằng, lịch sử loài người được tạo ra bởi một số người tiêu biểu, được chọn lọc và do đó, dù muốn hay không, con người phải chủ động kiểm soát việc tái sản xuất ra giống người, thực hiện sự “tuyển chọn” vì “lợi ích” loài người. Ngược lại, việc quá đề cao yếu tố xã hội trong con người lại đưa đến một quan niệm khác – quan niệm cho rằng, mọi tệ nạn xã hội đều bắt nguồn từ khuyết điểm chính trị.
Trên cơ sở đó, triết học Mac-Lenin cho rằng, sự hình thành và phát triển nhân cách là do hai nhân tố quyết định: nhân tố bên ngoài - những yếu tố xã hội, tính quyết định xã hội và nhân tố bên trong - tính tích cực của chính cá nhân.
Nhân tố xã hội cơ bản có ảnh hưởng lớn đến sự hình thành và phát triển nhân cách con người là tồn tại xã hội, hoàn cảnh sống mang tính lịch sử - cụ thể mà cá nhân đó sống. Đó có thể là các tập đoàn xã hội, kiểu loại cộng đồng dân tộc, tập thể... C.Mác đã nói: “Nếu như con người bẩm sinh đã là sinh vật có tính xã hội thì do đó con người chỉ có thể phát triển bản tính của mình trong xã hội và cần phải phán đoán lực lượng bản tính của anh ta, không phải căn cứ vào lực lượng của cá nhân riêng lẻ mà căn cứ vào lực lượng của toàn xã hội”(6,43). Do vậy, ở mỗi thời đại khác nhau, như thời Cổ đại, Trung cổ, Cận đại, Hiện đại… có những kiểu loại nhân cách khác nhau. Thời Cổ đại, khi nền kinh tế chưa phát triển, của cải còn ít, con người phải sống phụ thuộc vào tập thể, nhân cách mỗi người hoà vào nhân cách tập thể. Thời Trung cổ, với sự ra đời Kitô giáo, nhân cách chủ yếu hướng về đời sống tinh thần, về những giá trị đạo đức thuần túy, con người sống nhưng luôn chuẩn bị cho đời sống của mình sau khi chết. Thời Cận đại, với sự khẳng định giá trị con người, nhân cách đã mang tính độc lập sáng tạo…
Khi khẳng định tính quyết định của xã hội đối với nhân cách, cũng cần tránh quan điểm đồng nhất sự hình thành nhân cách với quy luật phát triển xã hội. Lẽ dĩ nhiên, trong mỗi một kiểu xã hội nào đó, bao giờ cũng có kiểu mẫu nhân cách (điển hình) cho xã hội đó và xã hội nào, nhìn chung, cũng thiết lập một số chuẩn mực, giá trị mà mỗi cá nhân muốn tồn tại và phát triển phải hướng tới. Nhưng điều đó không có nghĩa là sự hình thành nhân cách đồng nhất với quy luật phát triển xã hội. Bởi như vậy, sẽ không giải thích được tính đa dạng của nhân cách trong mỗi xã hội.
Quá trình hình thành và phát triển nhân cách là quá trình con người nắm lấy kinh nghiệm đời sống xã hội. Ở mỗi giai đoạn lịch sử, kinh nghiệm đó thể hiện trình độ làm chủ của con người đối với lực lượng tự nhiên và lực lượng xã hội. Nó thể hiện một cách khách quan, được vật thể hóa trong nền văn hóa vật chất và tinh thần của xã hội. Nó có thể ở trong những vật thể cụ thể, trong công cụ sản xuất, trong các quan hệ xã hội, trong ngôn ngữ hoặc trong những hình thức và phương pháp tư duy… Quá trình con người nắm lấy kinh nghiệm của đời sống xã hội là sự thống nhất biện chứng giữa sự đối tượng hóa (khách quan hóa) với việc cá thể con người giành lấy (chủ quan hóa) bản chất xã hội của mình. Ví dụ, trong quá trình lao động, con người không chỉ phát triển năng lực của mình mà trong quá trình đó, con người đã đối tượng hóa các năng lực ấy trong các vật phẩm. Các vật phẩm đó là kinh nghiệm của con người được kết tinh dưới hình thức vật chất và mang tính khách quan. Các thế hệ sau sử dụng những vật phẩm đó cũng có nghĩa là nắm lấy những kinh nghiệm đã có. Điều này cũng tương tự như trong các lĩnh vực khác của đời sống xã hội, như đạo đức, thẩm mỹ… Bên cạnh đó, chúng ta còn thấy, trong quá trình sống của mình, con người có vô vàn mối quan hệ, sự giao tiếp với những người khác. Trước tiên, khi sinh ra, họ là thành viên trong một gia đình nào đó và vì vậy, họ có thể là con cái, anh chị; sau nữa, họ có thể trở thành cha mẹ, ông bà… Họ cũng có thể thuộc về một nhóm xã hội (giai tầng, giai cấp) nào đó và qua đó, cũng bị ảnh hưởng tư tưởng của nhóm xã hội (giai tầng, giai cấp) ấy. Cuối cùng, họ cũng là một cá nhân trong một cộng đồng dân tộc nào đó và do vậy, họ mang trong mình những những giá trị đặc trưng của dân tộc ấy… Nghĩa là, trong cả cuộc đời mình, ở con người luôn diễn ra sự quan hệ với những người khác. Chính những nhân tố này quyết định hoạt động, hành vi của con người. Môi trường xã hội chính là nguồn gốc trực tiếp mà ở đó, con người hấp thụ và cũng rút ra những tư tưởng, tri thức, kinh nghiệm của mình. Con người sẽ không thể tồn tại, phát triển được nếu không có sự giao tiếp với thế giới xung quanh, với cộng đồng người. Hệ thống các quan hệ xã hội không phải là cái gì trừu tượng, xa lạ, mà do chính con người tạo ra. Để tồn tại và phát triển, con người phải sản xuất và chính trong quá trình sản xuất, con người tạo ra các mối quan hệ xã hội và ngược lại, các mối quan hệ xã hội này lại quy định toàn bộ đời sống xã hội và bản chất mỗi người, như C.Mác đã nói: “Bản thân xã hội sản xuất ra con người với tính cách là con người như thế nào thì nó cũng sản xuất ra xã hội như thế”(7,43). Như vậy, mối quan hệ giữa cá nhân - xã hội thể hiện ra như mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Cá nhân nằm trong các quan hệ xã hội (mà các quan hệ xã hội đó chính là sự tác động lẫn nhau giữa cá nhân với nhau); nhưng qua đó, cá nhân đồng thời tích cực giành lấy bản chất xã hội của các quan hệ xã hội đó, làm cho bản chất ấy thành bản chất bên trong của mình, thành bản chất cá nhân. Nhân cách là mức độ “nội tâm hoá” bản chất xã hội của con người trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Do vậy, con người muốn chiếm lĩnh những kinh nghiệm xã hội và làm phong phú nhân cách của mình thì phải có sự hoạt động tích cực, bởi “sự phong phú tinh thần hiện thực cá thể hoàn toàn phụ thuộc vào sự phong phú của những quan hệ hiện thực của nó”(8,43).
Ở đây, xảy ra vấn đề, nếu môi trường xã hội đóng vai trò quyết định sự hình thành và phát triển nhân cách như vậy, vậy thì tại sao lại có những con người có nhân cách khác nhau, tại sao trong cùng một điều kiện sống lại có những con người khác nhau và tại sao trong cùng một hoàn cảnh sống, con người lại có những hành vi khác nhau. Đây là một vấn đề không đơn giản. Khi nghiên cứu ảnh hưởng của môi trường xã hội đối với sự phát triển nhân cách, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, môi trường xã hội bao gồm: môi trường vĩ mô và môi trường vi mô. Môi trường vĩ mô được coi là nguyên nhân chung của tính quyết định xã hội, còn môi trường vi mô là những hoàn cảnh xã hội trực tiếp, mang tính đặc thù của tính quyết định xã hội. Đó có thể là hệ thống giáo dục địa phương, là nhà trường, gia đình,… Việc đặt vấn đề môi trường vi mô, thiết nghĩ, là cần thiết, bởi nó cho phép chúng ta giải thích sự đa dạng của nhân cách, mà nếu chỉ dựa vào những tồn tại cơ bản của xã hội thì sẽ không giải thích được. Thực ra, ngay ở cấp độ sinh học, sự phong phú, đa dạng của nhân cách cũng đã được thể hiện. Khi sinh ra, mỗi người đã có một bộ gen riêng của mình mà rất hiếm khi trùng với người khác. Do vậy, mỗi người có khí chất, thiên hướng, khả năng tư duy… hết sức khác nhau. Cho nên, có thể, dù cùng sống trong một thời đại, một nhóm xã hội (giai cấp, giai tầng), một môi trường giáo dục giống nhau và thậm chí, ngay cùng một gia đình, nhưng con người vẫn có những phẩm chất, kiểu loại nhân cách khác nhau. Trong những hành vi của mình, con người thường dựa trên những kinh nghiệm sống, thiên hướng bẩm sinh, … để quyết định.
Việc đặt ra tính đa dạng, phong phú của nhân cách trong xã hội là rất quan trọng. Bởi, nếu bỗng dưng vì những nguyên nhân nào đó mà mọi người trong xã hội đều như nhau: bộ mặt, đầu óc, tư tưởng, tinh thần, năng lực… thì khi đó, xã hội sẽ như thế nào? có được sự phát triển bình thường hay không? - “Một cộng đồng toàn thể những cá thể đồng loạt giống nhau, không có độc đáo cá nhân và mục đích cá nhân - thì sẽ là một cộng đồng nghèo, không có khả năng phát triển”(9,43). Thực ra, sự phát triển đa dạng, độc đáo của mỗi người là điều kiện, là hình thức biểu hiện sự phát triển tốt đẹp của xã hội. Và ngược lại, đây không chỉ là biểu hiện của sự phát triển tốt đẹp của xã hội, mà còn là nhu cầu, yêu cầu phát triển của mỗi người.
Khi nhấn mạnh vai trò quyết định của môi trường xã hội, chúng ta cũng đồng thời phải khẳng định tính tích cực của con người trong đời sống xã hội, trong sự hình thành bản chất của mình. Môi trường xã hội không phải là "tủ kính" trưng bày tất cả những giá trị xã hội mà qua đó, con người phải lựa chọn những giá trị cần thiết cho mình. Bởi lẽ, con người là một động vật xã hội khác với toàn bộ thế giới động vật còn lại ở khả năng hoạt động có ý thức. Sự hoạt động có ý thức là điều kiện cơ bản để phân biệt hoạt động của con người với hoạt động của động vật. Con người sáng tạo ra tất cả của cải vật chất và tinh thần, đồng thời cũng sáng tạo ra chính bản chất của mình.
Tính tích cực của nhân cách không mang tính tự nhiên, mà là bản chất của con người. Quan điểm của thuyết hành vi mới không tính đến yếu tố này trong sự hình thành và phát triển nhân cách, mà coi con người như một sản phẩm thụ động của môi trường. Theo quan điểm của họ, môi trường tác động đến con người như thế nào, thì cũng tạo ra con người như thế ấy. Đó là sự suy diễn máy móc. Giải thích theo cách này không thể lý giải được tính độc đáo của mỗi nhân cách. Bởi như đã trình bày, con người khi sinh ra chỉ như là con người “dự bị”. Chính vì vậy, không ai nói tới nhân cách của đứa trẻ mới sinh hay còn ẵm ngửa. Bước vào đời sống xã hội, đầu tiên là bắt chước, hành động tự phát, sau đó, hoạt động của con người dần mang tính tự giác, con người bộc lộ tính chủ thể của mình trong các hoạt động xã hội và qua đó, thể hiện tính tích cực xã hội của mình. Có thể thấy rằng, tính tích cực của nhân cách, một mặt, phụ thuộc vào nhu cầu và lợi ích của họ. Quá trình thực hiện nhu cầu và lợi ích là quá trình con người nỗ lực hoạt động, phát huy tính tích cực xã hội của mình. Tuỳ thuộc vào nhu cầu và lợi ích của mình, các cá nhân hoạt động với những động cơ, tình cảm và lý trí khác nhau và qua đó, trong hoạt động, những mặt nhất định của tính tích cực xã hội xuất hiện trong mỗi cá nhân (có thể cá nhân này tích cực hoạt động trong học tập, cá nhân khác là trong giao tiếp hoặc trong lao động…). Chúng tạo ra xu hướng phát triển của nhân cách và dần đi vào cấu trúc nhân cách của mỗi người. Chính ở đây, tính đa dạng, phong phú của nhân cách cũng được hình thành. Song, cũng cần phải thấy rằng, nếu nhu cầu và lợi ích của con người được thực hiện một cách tự động, không cần nỗ lực của chủ thể thì sẽ không khuyến khích chủ thể tìm kiếm phương thức thực hiện và thoả mãn nhu cầu. Điều này sẽ gây ra tính ỷ lại, tính thụ động của nhân cách. Mặt khác, môi trường xã hội và khuynh hướng tiến bộ xã hội cũng quy định tính tích cực của nhân cách. Một môi trường xã hội lành mạnh, như nền dân chủ, các quan hệ xã hội, điều kiện văn hoá - tinh thần của xã hội có sự phát triển hài hoà… thì sẽ tạo điều kiện cho tính tích cực của nhân cách phát huy. Ngược lại, tính tích cực xã hội của nhân cách sẽ bị thui chột đi, nếu môi trường xã hội không tạo điều kiện cho nó bộc lộ. Trong một chừng mực nào đó, điều này không những làm cho nhân cách bị nghèo nàn, mà còn có thể dẫn tới sự phá vỡ nhân cách, mà trong Bản thảo kinh tế – triết học năm 1844 C.Mác đã nói tới.
Như vậy, có thể nói, sự hình thành và phát triển nhân cách là một quá trình lâu dài và phức tạp. Trong quá trình đó, giữa các yếu tố bên trong và yếu tố bên ngoài, giữa cái sinh học và cái xã hội thường xuyên tác động lẫn nhau và vai trò của mỗi yếu tố đó thay đổi trong từng giai đoạn phát triển của mỗi người. Trong quá trình sống, con người có được những kinh nghiệm sống, niềm tin, thói quen… và ngược lại, khi tiếp nhận bất cứ việc gì, nhân cách cũng dựa trên chuẩn mực xã hội để điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp. Không chỉ thế, họ còn dựa vào những cái bên trong, những kinh nghiệm của mình để đánh giá, tiếp nhận hay gạt bỏ cái bên ngoài. Như thế, quá trình này luôn gắn với năng lực tự đánh giá, tự ý thức của mỗi người và do vậy, gắn với quá trình tự giáo dục, quá trình thường xuyên tự hoàn thiện mình của nhân cách. Nhân cách không phải là một cái gì đó đã hoàn tất, mà là quá trình luôn đòi hỏi sự trau dồi thường xuyên.
Từ những vấn đề nêu trên, chúng ta thấy, môi trường có ảnh hưởng không nhỏ tới sự hình thành và phát triển nhân cách; vì vậy, việc tạo ra một môi trường đảm bảo cho nhân cách có sự phát triển hài hòa trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, thiết nghĩ, là điều cần thiết. Ngược lại, những nhân cách có đủ đức và tài sẽ là điều kiện để chúng ta đạt được mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
2.2.Nhân cách con người Việt Nam trong nền kinh tế thị trường hiện nay dưới góc nhìn triết học:
Mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan phổ biến hình thành từ những cấu trúc và thuộc tính bên trong vốn có của tất cả các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan, tạo thành một quy luật cơ bản của thế giới. Quy luật này cho ta biết nguồn gốc(bên trong) và động lực của sự vận động và phát triển của mọi sự vật. Do vậy, cần nắm vững nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn để tạo đà cho sự vật phát triển. Đó chính là sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập diễn ra theo quy luật phá vỡ cái cũ để thiết lập cái mới tiến bộ hơn. Cũng dựa trên nguyên lý này có thể nhận ra trong nền kinh tế của chúng ta hiện nay đang tồn tại nhiều mâu thuẫn cần được nghiên cứu và giải quyết một cách đúng đắn để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững.
2.2.1. Thực chất kinh tế thị trường ở Việt Nam nhìn từ góc độ triết học
Nền kinh tế nước ta hiện nay đang trong giai đoạn quá độ, chuyển tiếp từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Do vậy, những đặc điểm của giai đoạn quá độ của nền kinh tế nước ta rất cần được nghiên cứu và xem xét một cách sâu rộng. Nhìn nhận, đánh giá được điều này và thấy rõ được những đặc điểm phức tạp của giai đoạn quá độ để nắm bắt và xử lý nó, chúng ta sẽ tránh được những sai lầm chủ quan, nóng vội, duy ý chí hoặc những khuynh hướng cực đoan, máy móc, sao chép nguyên bản kinh tế thị trường từ bên ngoài. Vậy nhìn từ phương diện triết học thì những đặc điểm của nền kinh tế quá độ của nước ta hiện nay là gì?
Như chúng ta đã biết, trong nền kinh tế tập trung bao cấp, mọi chức năng kinh tế xã hội của nền kinh tế đều được triển khai trong quá trình kế hoạch hoá ở cấp độ quốc gia. Nhưng kể từ Đại hội lần thứ VI của Đảng (12/1986) đến nay, theo đường lối đổi mới, chúng ta đã từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Điều đó có ý nghĩa to lớn được thể hiện qua những thành quả mà chúng ta đã đạt được như: kinh tế phát triển, đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao... Với những thành tựu đó cho phép chúng ta vững tin về con đường đã lựa chọn để tiếp tục điều chỉnh và bổ sung nhận thức, làm cho quan niệm về XHCN ngày càng cụ thể cả về đường lối, chủ trương, chính sách sao cho ngày càng đồng bộ, có căn cứ khoa học và cơ sở thực tiễn.
Kinh tế thị trường như chúng ta đã biết, là một kiểu quan hệ kinh tế xã hội mà trong đó sản xuất và tái sản xuất xã hội gắn chặt với quan hệ hàng hoá - tiền tệ, với quan hệ cung- cầu… Trong nền kinh tế thị trường, nét biểu hiện có tính chất bề mặt của đời sống xã hội là quan hệ hàng hoá: mọi hoạt động đều phải tính đến quan hệ hàng hoá hay ít nhất cũng phải sử dụng quan hệ hàng hoá như là mắt xích trung gian.
Thành tựu của hơn 20 năm đổi mới vừa qua ở nước ta đã có tác dụng làm cho chúng ta quen dần với các quan hệ hàng hoá. Hàm lượng kinh tế trong các hoạt động xã hội ngày càng được chú ý. Thế nên trong bước chuyển sang cơ chế thị trường này đương nhiên chúng ta không tránh khỏi những sai lầm, .., nhưng dẫu sao nó cũng nói lên sức sống và khả năng tác động của quan hệ thị trường đối với đời sống kinh tế - xã hội. Về thực chất của bước nhảy này, một số nhà nghiên cứu cho rằng: ở Việt Nam dù nền kinh tế thị trường chỉ mới vừa được hình thành, còn đang trong những bước chập chững ban đầu và được Nhà nước điều tiết một cách có ý thức theo định hướng XHCN, song cũng đã tác động khá rõ đến mọi mặt của đời sống xã hội và để lại ở đó những dấu ấn của mình…
Quan niệm hiện nay của chúng ta về CNXH đã chứa đựng những tư tưởng mới về quy luật của sự phù hợp khách quan giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Cái có ý nghĩa quyết định trong quy luật này là trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, sự tồn tại của các thành phần kinh tế và các hình thức sở hữu đa dạng ở một nền kinh tế theo định hướng XHCN. Hơn thế nữa, vai trò điều tiết nền kinh tế của nhà nước, và chủ đạo là thành phần kinh tế nhà nước trong một nền kinh tế hướng tới thị trường theo định hướng XHCN là điều không phải bàn cãi. Nhà nước với các chính sách, luật lệ của mình, một mặt có khả năng làm cho nền kinh tế đạt tới sự tăng trưởng có hiệu quả, nhưng mặt khác cũng chính là người phải lo giải quyết các vấn đề do chính sự tăng trưởng kinh tế đó tạo ra. Về đại thể chìa khoá để đáp ứng nhu cầu phức tạp và trái ngược nhau của xã hội nằm trong bộ máy quản lý vĩ mô của xã hội, mà trước hết đó là nhà nước. Tuy nhiên, ở nước ta hiện nay đang có nhiều vấn đề được đặt ra đối với vai trò chủ đạo của nhà nước và thành phần kinh tế nhà nước cần được tháo gỡ để nhà nước có thể đảm đương được trọng trách to lớn của mình .
Trên thực tế, các quốc gia trên thế giới cũng như Việt Nam, trong tiến trình phát triển của mình, đều gặp phải những khó khăn trên hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội.. Đó là sự thách thức đối với bất kỳ nền kinh tế nào. Đây cũng là một tất yếu, cho nên chúng ta phải chấp nhận những mặt trái của kinh tế thị trường. Vấn đề là để từng bước nâng cao chất lượng và hiệu quả của nền sản xuất xã hội, chúng ta phải có chính sách và biện pháp cho phù hợp với từng lĩnh vực như giáo dục và đào tạo, chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, hay lĩnh vực bảo vệ môi trường, đặc biệt là các vấn đề xã hội đang nổi cộm hiện nay như phân hoá giàu nghèo, gia tăng tệ nạn xã hội, vấn đề xuống cấp về đạo đức…Tuy nhiên, đây cũng là bài toán khó, không thể được giải quyết ngay trong một sớm một chiều.
Trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá, việc chúng ta bước đầu sử dụng thị trường như là một công cụ, một phương thức, trên thực tế đã đem lại những kết quả tích cực cả về phương diện thực tiễn và cả về phương diện nhận thức. Một hành trang có ý nghĩa mà công cuộc đổi mới trang bị cho chúng ta là sản xuất hàng hoá cùng với “nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường”, đã được hiểu là không đối lập với CNXH. Với tính cách là sản phẩm của văn minh nhân loại “một cơ hội để các cộng đồng mở cửa tiếp xúc với bên ngoài”, kinh tế thị trường rõ ràng là cái khách quan và tất yếu đối với công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta .
Tuy nhiên nhận ra sức mạnh của cơ chế thị trường bao nhiêu, thì chúng ta hiểu rõ hơn bấy nhiêu mặt trái của nó đối với sự vận động của đời sống xã hội. Sự tăng trưởng kinh tế đương nhiên là một mục tiêu của phát triển xã hội, nó có khả năng tạo ra điều kiện để giải quyết các vấn đề xã hội. Nhưng tăng trưởng kinh tế không nhất thiết đi liền với tiến bộ xã hội. Do vậy, trong quan niệm của Đảng ta, để thực hiện sự nghiệp xây dựng CNXH với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” thì kinh tế nhất thiết phải có sự quản lý chặt chẽ của nhà nước theo định hướng XHCN.
2.2.2. Những mâu thuẫn phát sinh trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường ở Việt Nam.
- Mâu thuẫn trong mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị
Theo chủ nghĩa Mác - Lênin thì kinh tế quyết định chính trị: “chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế”. Trong lịch sử phát triển xã hội loài người không phải bao giờ cũng có vấn đề chính trị, chẳng hạn trong xã hội nguyên thuỷ chưa có giai cấp, chưa có nhà nước nên cũng chưa có vấn đề chính trị. Từ khi xã hội có giai cấp và nhà nước xuất hiện thì vấn đề chính trị mới xuất hiện, bởi vấn đề chính trị là vấn đề thuộc về giai cấp và đấu tranh giai cấp. Trung tâm của các vấn đề chính trị là đấu tranh giữa các giai cấp, các lực lượng xã hội nhằm dành và giữ chính quyền. Bản thân vấn đề chính trị ra đời hoàn toàn do kinh tế quyết định. Chính trị không phải là mục đích mà chỉ là phương tiện để thực hiện mục đích kinh tế, Ph.Ăngghen đã khẳng định: “bạo lực chỉ là phương tiện, còn lợi ích kinh tế trái lại là mục đích”. Và trong tác phẩm “Lútvích Phoiơbăc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức” Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: “để thoả thuận những lợi ích kinh tế thì quyền lực chính trị chỉ được sử dụng làm một phương tiện đơn thuần”.
Quyền lực chính trị là công cụ mạnh mẽ nhất để bảo vệ chế độ xã hội. Sự thống trị về chính trị của một giai cấp là điều kiện đảm bảo cho giai cấp đó thực hiện được sự thống trị về kinh tế. Đấu tranh giai cấp về thực chất là đấu tranh về lợi ích kinh tế, được thực hiện thông qua đấu tranh chính trị. Theo Ph.Ăngghen “bất cứ cuộc đấu tranh nào cũng đều là đấu tranh chính trị, xét đến cùng đều xoay quanh vấn đề giải phóng về kinh tế”. Để nhấn mạnh vai trò của chính trị V.I Lênin đã khẳng định chính trị cũng chiếm vị trí quan trọng hàng đầu như kinh tế. Tuy nhiên, khẳng định của Lênin không có nghĩa phủ định vai trò quyết định của kinh tế đối với chính trị, mà muốn nhấn mạnh tác động tích cực của chính trị đối với kinh tế. Vấn đề kinh tế không thể tách rời vấn đề chính trị, mà nó được xem xét, giải quyết theo một lập trường chính trị nhất định. Giai cấp nào cầm quyền cũng hướng kinh tế phát triển theo lập trường chính trị của giai cấp đó nhằm phục vụ cho mục tiêu kinh tế - xã hội nhất định. Và lập trường chính trị đúng (hay sai) sẽ thúc đẩy(hoặc kìm hãm) sự phát triển của nền kinh tế.V.I Lênin còn khẳng định: “không có một lập trường chính trị đúng thì một giai cấp nhất định nào đó, không thể nào giữ vững được sự thống trị của mình và do đó cũng không thể nào hoàn thành được nhiệm vụ của mình trong lĩnh vực sản xuất”. Khi thể chế chính trị không phù hợp với yêu cầu phát triển của kinh tế thì tất yếu kinh tế sẽ mở đường cho chính chị thay đổi. Khi đó việc thay đổi thể chế chính trị cho phù hợp với yêu cầu phát triển của kinh tế là điều kiện tiên quyết để thúc đẩy kinh tế phát triển. Như vậy chúng ta có thể khẳng định rằng kinh tế và chính trị thống nhất biện chứng với nhau trên nguyên tắc kinh tế đóng vai trò quyết định. Đây là cơ sở phương pháp luận quan trọng trong việc nhận thức xã hội nói chung, và nhận thức công cuộc đổi mới ở Việt Nam nói riêng.
Có thể nói từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12/1986) của Đảng Cộng sản Việt Nam, đất nước ta chuyển sang giai đoạn mới - giai đoạn thực hiện công cuộc đổi mới. Cho đến nay công cuộc đổi mới đã tiến hành được hơn 20 năm. Trong hơn 20 năm qua, việc nhận thức về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị cũng ngày càng chính xác hơn. Tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (6/1991) Đảng ta đã khẳng định: “Về quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, phải tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của nhân dân về đời sống, việc làm và nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, coi đó là điều kiện quan trọng để tiến hành thuận lợi đổi mới trong lĩnh vực chính trị. Đồng thời đổi mới kinh tế phải từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của chính trị phát huy quyền làm chủ và nâng cao tính sáng tạo của nhân dân trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội. Vì chính trị động chạm đến mối quan hệ cực kỳ phức tạp và nhạy cảm trong xã hội nên việc đổi mới chính trị nhất thiết phải dựa trên cơ sở nghiên cứu, và chuẩn bị nghiêm túc không cho phép gây mất ổn định chính trị dẫn đến sự rối loạn trong xã hội”(7).
Tuy nhiên, không phải vì lí do trên mà chúng ta chậm trễ đổi mới chính trị, nhất là việc cải tiến tổ chức bộ máy và nhân sự, mối quan hệ giữa Đảng, nhà nước và các đoàn thể nhân dân. Đây là điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội và thực hiện dân chủ. Đảng ta đã không tách rời mà gắn đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị và khẳng định rằng phải tập trung sức làm với đổi mới kinh tế và đồng thời với đổi mới kinh tế, phải tiến hành từng bước đổi mới chính trị nhưng phải thận trọng không gây mất ổn định chính trị.
Tư tưởng trên đã được tiếp tục phát triển một cách rõ ràng hơn ở Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII tháng 6/1996 của Đảng Cộng sản Việt Nam. Khi tổng kết các bài học của những năm đổi mới, Đảng ta đã khẳng định phải kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị.
Trong khi đề ra đổi mới chính trị, Đảng ta luôn nhấn mạnh phải ổn định chính trị, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. Điều này tưởng như là một nghịch lý nhưng lại hoàn toàn có lý và khoa học. Đổi mới chính trị không phải là đổi mới vô nguyên tắc, mà đổi mới là để giữ vững ổn định chính trị, giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, vai trò tổ chức quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đổi mới kinh tế không phải là đổi mới một cách tùy tiện mà theo một định hướng chính trị nhất định. Đó là sự dịch chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường và có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng, văn minh, tạo sự ổn định về chính trị.
Tóm lại, ổn định và đổi mới chính trị là 2 mặt đối lập nhưng thống nhất biện chứng với nhau. Có ổn định thì mới có đổi mới và đổi mới là điều kiện để ổn định. Hai mặt đó tác động qua lại với nhau và gắn bó chặt chẽ với đổi mới kinh tế, và trên nền tảng của đổi mới kinh tế.
Trong bất kỳ một nền kinh tế nào cũng luôn tồn tại những mâu thuẫn cần giải quyết như:
- Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN ở nước ta hiện nay, vấn đề lực lượng sản xuất - quan hệ sản xuất là một vấn đề hết sức phức tạp. Mâu thuẫn giữa hai lực lượng này và những biểu hiện của nó cần được xem xét trên phương diện triết học của chủ nghĩa Mác- Lênin. Theo đó, LLSX là nội dung của sự vật còn QHSX là ý thức của sự vật. LLSX quyết định QHSX. LLSX là yếu tố động, luôn luôn thay đổi. Khi LLSX phát triển đến một trình độ nhất định thì QHSX không còn phù hợp nữa, và trở thành yếu tố kìm hãm LLSX. Để mở đường cho LLSX phát triển, cần phải thay thế QHSX cũ bằng một QHSX mới phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX. Đó là quy luật kinh tế chung cho sự phát triển của mọi thời đại và mọi xã hội.
Quá trình mâu thuẫn giữa LLSX tiên tiến với QHSX lạc hậu kìm hãm nó diễn ra gay gắt, quyết liệt và cần được giải quyết. Nhưng giải quyết nó bằng cách nào? đó chính là cuộc cách mạng xã hội, chuyển đổi nền kinh tế mà cuộc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường ở nước ta là một ví dụ. Một nhiệm vụ cực kì quan trọng thể hiện rõ tính chất cách mạng của công cuộc đổi mới hiện nay ở Việt Nam là phấn đấu xây dựng nước ta trở thành quốc gia công nghịêp hoá, hiện đại hoá “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh”
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là chủ trương, biện pháp vừa mang tính cách mạng vừa mang tính khoa học để xây dựng CNXH. Nói đến công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước chính là nói đến nền sản xuất tiên tiến và đó chính là LLSX và QHSX. Nói đến khoa học, đến sự anh minh trí tuệ, là nói đến một phương thức tối ưu để thoát khỏi tình trạng sản xuất nhỏ lạc hậu, nhằm tạo điều kiện và cơ sở vật chất cho CNXH được phát triển. Không thể ăn đói mặc rách với cái cuốc trên tay cộng thêm tấm lòng cộng sản để kiến thiết CNXH chuyển sang nền kinh tế thị trường. Khẳng định cái mới đúng đắn tự bản thân nó đã bao gồm ý nghĩa phủ định, gạt bỏ quan niệm cũ sai lầm về điều kiện và cách thức xây dựng CNXH ở nước ta. Trước đây, chúng ta đã chưa quan tâm đúng mức đến vai trò của khoa học công nghệ, cũng như việc tạo lập cơ sở vật chất - kỹ thuật trong công cuộc xây dựng CNXH. Do vậy, nền kinh tế của nước ta chậm phát triển, đất nước không thoát khỏi nền sản xuất nhỏ lẻ thủ công, công nông nghiệp lạc hậu và càng không thể nói đến công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Mâu thuẫn trong vấn đề sở hữu:
Hơn 20 năm đổi mới đất nước theo định hướng XHCN, chúng ta đã chứng tỏ được rằng đường lối đổi mới là đúng đắn. Với định hướng đa dạng hoá các loại hình sở hữu tương ứng với các thành phần kinh tế, chứ không phải chỉ có một hình thức sở hữu toàn dân như trước đây, Đảng ta đã khơi dậy tiềm năng, động lực phát triển của mọi cá nhân cũng như của toàn dân.
Trong giai đoạn hiện nay chúng ta đang xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần (gồm 5 thành phần kinh tế) với các hình thức sở hữu tương ứng như: sở hữu toàn dân, sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu cá thể, sở hữu tư bản và các hình thức sở hữu hỗn hợp khác. Trong đó, mỗi hình thức sở hữu lại có trình độ và cách thức thể hiện khác nhau vì chúng được hình thành dựa trên trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, của các thành phần kinh tế khác nhau.
Chẳng hạn, đất đai là thuộc sở hữu toàn dân (điều này đã được khẳng định trong luật đất đai). Xét về mặt kinh tế, đất đai là phương tiện cơ bản của cả một cộng đồng xã hội. Xét về mặt xã hội đất đai là lãnh thổ, là nơi cư trú của cả một cộng đồng. Và nếu xét ở cả hai phương diện trên thì đất đai không phải của riêng ai. Tuy nhiên, đất đai là một loại tư liệu sản xuất đặc biệt, và là một bộ phận quan trọng của tư liệu sản xuất nói chung, nhưng trong nền kinh tế thị trường, nó phải vận động theo những quy luật của thị trường và chịu sự điều tiết của những quy luật đó. Việc đất đai là sở hữu toàn dân mà nhà nước là đại diện sở hữu và quản lý không hề mâu thuẫn với việc trao quyền sử dụng cho các hộ nông dân, kể cả quyền được chuyển nhượng. Văn kiện đại hội VII của Đảng đã chỉ rõ: “trên cơ sở chế độ sở hữu toàn dân về đất đai, ruộng đất được giao cho nông dân sử dụng lâu dài. Nhà nước quy định bằng luật pháp các vấn đề thừa kế, chuyển quyền sử dụng ruộng đất…”. Như vậy, hình thức sở hữu toàn dân ở nước ta hiện nay đã được xác định theo nội dung mới và rõ ràng hơn.
+ Hình thức sở hữu nhà nước xét về tổng thể, mới chỉ là kết cấu bên ngoài của sở hữu. Còn kết cấu bên trong của sở hữu là sự thể hiện quyền sở hữu ở khu vực kinh tế quốc doanh, khu vực các doanh nghiệp nhà nước.
+ Về sở hữu tập thể: Ở nước ta trước đây, sở hữu tập thể chủ yếu tồn tại dưới hình thức hợp tác xã (gồm cả hợp tác xã nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp) với nội dung là cả giá trị lẫn giá trị sử dụng của đối tượng sở hữu đều là của chung, tập thể xã viên là chủ sở hữu. Chính vì vậy mà, với hình thức sở hữu này, quyền mua bán hoặc chuyển nhượng tư liệu sản xuất, trong thực tế sản xuất và lưu thông ở nước ta đã diễn ra hết sức phức tạp. Quyền của các tập thể sản xuất thường rất hạn chế, song đôi khi lại có tình trạng lạm quyền. Do không xác định rõ ràng, cho nên có sự “nhập nhằng” giữa sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân. Để thoát ra khỏi tình trạng đó, trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường hiện nay, cần phải xác định rõ hơn nữa quyền mua bán và chuyển nhượng tư liệu sản xuất đối với các tập thể sản xuất kinh doanh. Chỉ có như vậy thì sở hữu tập thể mới có thể trở thành một hình thức sở hữu có hiệu quả.
Chúng ta đều biết hợp tác xã không phải là hình thức riêng có, đặc trưng cho chủ nghĩa xã hội, mà nó còn là một hình thức sở hữu kinh tế và tiến bộ trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, chúng ta cần phải duy trì và phát triển hơn nữa hình thức sở hữu này khi xây dựng chủ nghĩa xã hội như V.I.Lênin đã khẳng định “chế độ của người xã viên hợp tác xã văn minh là chế độ xã hội chủ nghĩa”.
Thực tiễn cho thấy, ở nước ta hiện nay, đã có những hình thức hợp tác xã kiểu mới ra đời do nhu cầu tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường “hợp tác xã đã được tổ chức trên cơ sở đóng góp cổ phần và sự tham gia lao động trực tiếp của xã viên phân phối theo kết quả lao động và theo cổ phần, mỗi xã viên có quyền như nhau đối với công việc chung”(1). Những điều này cho thấy kết cấu bên trong của sở hữu tập thể đã thay đổi cho phù hợp với thực tiễn của đất nước trong giai đoạn hiện nay.
- Mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường với mục tiêu xây dựng con người XHCN
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói rằng: Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết phải có con người XHCN. Như vậy, yếu tố con người được Người xác định là giữ vai trò quyết định trong sự nghiệp cách mạng, bởi vì con người là chủ thể của mọi sáng tạo, của mọi nguồn của cải vật chất và văn hoá. Con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức là động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới, là mục tiêu của CNXH. Chúng ta phải bắt đầu từ con người và lấy con người làm điểm xuất phát.
Thế nhưng, trong nền kinh tế thị trường các mối quan hệ kinh tế giữa con người với con người cũng được biểu hiện thông qua thị trường, tức là thông qua việc mua - bán, trao đổi hàng hoá, tiền tệ. Trong kinh tế thị trường, các quan hệ hàng hoá, tiền tệ phát triển mở rộng, bao quát trên mọi lĩnh vực, có ý nghĩa phổ biến đối với người sản xuất và người tiêu dùng. Do nảy sinh và hoạt động một cách khách quan trong những điều kiện lịch sử nhất định, kinh tế thị trường phản ánh trình độ văn minh và sự phát triển của xã hội, là nhân tố phát triển sức sản xuất, tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy xã hội tiến lên. Tuy nhiên, kinh tế thị trường cũng có những hạn chế tự thân, đặc biệt là tính tự phát mù quáng, sự cạnh tranh lạnh lùng dẫn đến sự phá sản thất nghiệp, hay khủng hoảng chu kỳ…
Xuất phát từ thực tế đó, chúng ta thấy xây dựng và phát triển con người trong giai đoạn hiện nay không thể nằm ngoài kinh tế thị trường. Nhưng do hậu quả của nhiều năm chiến tranh, với nền kinh tế kém phát triển của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp… nên nền kinh tế nước ta đã tụt hậu nghiêm trọng so với khu vực và quốc tế. Trong bối cảnh đó, kinh tế thị trường là điều kiện rất quan trọng đưa nền kinh tế nước ta thoát khỏi khủng hoảng và phát triển, phục hồi sản xuất, đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng, bắt kịp bước tiến của thời đại. Bởi kinh tế thị trường tạo ra sự cạnh tranh, chạy đua quyết liệt nên con người buộc phải năng động sáng tạo, linh hoạt, có tác phong nhanh nhẹn, có đầu óc quan sát, phân tích để thích nghi và hành động có hiệu quả. Điều đó đã nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn của con người, góp phần làm giảm đi sự chậm chạm và trì trệ vốn có của người lao động trong nền kinh tế lạc hậu từ ngàn đời ở Việt Nam. Kinh tế thị trường tạo ra những điều kiện thích hợp để con người mở rộng các mối quan hệ, giao lưu buôn bán, từ đó hình thành các chuẩn mực văn hoá, đạo đức mới theo tiêu chí thị trường như: chữ tín trong chất lượng, chữ tín trong giao dịch… Đây cũng là một hướng tốt đẹp bù đắp những thiếu hụt trong hệ giá trị của con người Việt Nam.
Tuy nhiên, cần phải nhìn nhận rằng không phải xây dựng được kinh tế thị trường là những phẩm chất tốt đẹp của con người tự hình thành trong xã hội. Có những lúc, những nơi, kinh tế thị trường không những không làm cho con người ta năng động hơn, tốt đẹp hơn mà ngược lại làm tha hoá bản chất con người, biến con người thành gã nô lệ sùng bái đồng tiền hoặc kẻ đạo đức giả chỉ biết tôn trọng sức mạnh và lợi ích cá nhân, sẵn sàng chà đạp nên nhân phẩm, văn hoá, đạo đức, luân lý… Bên cạnh những tác động tích cực, kinh tế thị trường cũng gây ra những tác động xấu như: tệ nạn thương mại hoá trường học, xem nhẹ truyền thống tôn sư trọng đạo. Quan hệ hàng hoá - tiền tệ làm sôi động thị trường nhưng cũng xói mòn nhân cách và hạ thấp phẩm giá con người. Ngoài ra đi kèm với kinh tế thị trường là hàng loạt tệ nạn xã hội dễ đưa đến những rối loạn, khủng hoảng cho gia đình - tế bào của xã hội. Nạn cờ bạc rượu chè, mại dâm, ma tuý, buôn lậu, hối lộ, tham nhũng… những căn bệnh trầm kha không dễ khắc phục trong kinh tế thị trường. Như vậy, chúng ta có thể hình dung kinh tế thị trường như là con dao hai lưỡi, nếu dùng không cẩn thận thì rất dễ bị
2.3. Vận dụng triết học Mac-Lenin vào phát triển nhân cách con người Việt Nam:
Từ việc nghiên cứu sự hình thành nhân cách theo chủ nghĩ Ma-Lenin, ta nhận thấy để phát triển nhân cách theo đúng con đường mà triết học đưa ra thì cần hội tụ đủ những yếu tố sau:
Thứ nhất, chúng ta phải luôn quan tâm đến lợi ích, trước hết là lợi ích vật chất của những cá nhân cụ thể, đồng thời chú ý cải thiện điều kiện và môi trường sống cho họ.
Thứ hai, cần tạo môi trường thuận lợi để mọi người đều có thể cống hiến hết khả năng sáng tạo của mình. Cần phải thấy rằng, con người không dừng lại ở sự thoả mãn nhu cầu sinh học, mà luôn có xu hướng vươn tới những "tầng" nhu cầu cao hơn. Khi nhu cầu cống hiến được đáp ứng, nó sẽ trở thành động lực kích thích bản chất sáng tạo của mỗi con người và trên cơ sở đó, bản chất người cũng dần dần được hoàn thiện hơn.
Thứ ba, chúng ta không những phải tích cực xây dựng môi trường xã hội trong sạch, mà còn phải chủ động giữ gìn, bảo vệ tài nguyên và môi trường tự nhiên, bởi đó là một trong những điều kiện căn bản để phát triển bền vững
Như vậy, để phát triển nhân cách con người Việt Nam ta có thể chia ra những khía cạnh sau:
Khía cạnh xã hội:
Nhân tố xã hội cơ bản có ảnh hưởng lớn đến sự hình thành nhân cách là tồn tại xã hội, hoàn cảnh sống mang tính lịch sử –cụ thể mà cá nhân đó sống. Còn tính tích cực xã hội của mỗi cá nhân, một mặt, phụ thuộc vào nhu cầu và lợi ích của họ; mặt khác, phụ thuộc vào môi trường xã hội và khuynh hướng tiến bộ xã hội, như nền dân chủ, các quan hệ xã hội…Nước ta đang hướng theo con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là một điều hết sức đúng đắn. Bên cạnh đó nước ta cũng đang từng bước hiện đại hóa đất nước nhằm giúp nâng cao đời sống nhân dân, nâng cao chất lượng nguồn lực Việt Nam một cách toàn diện. Bởi con người trước hết phải đảm bảo đủ về mặt sinh học thì mới có thể phát triển nhân.
Bên cạnh đó, xã hội cần quan tâm những người có hoàn cảnh khó khăn như trẻ em lang thang cơ nhỡ, người già neo đơn, người bị khuyết tật,…có như vậy mới tạo ra một xã hội trong sạch và bình đẳng, giúp hoàn thiện nhân cách, đạo đức “lá lành đùm lá rách”, hay sự yêu thương giữa người với người.
Tuy nhiên, vẫn còn những bất cập xảy ra trong bộ máy nhà nước, giữa quan hệ người với người trong xã hội,…điều này đòi hỏi nhà nước phải có biện pháp mạnh nhằm ngăn chặn những nhân cách xấu này ảnh hưởng đến xã hội, đặc biệt là ảnh hướng đến giới trẻ - những người dễ bị ảnh hưởng nhất bởi những cái xấu tiềm tang trong xã hội.
Cộng đồng cần đưa ra những hoạt động tích cực nhằm hướng đến xã hội trong sạch, bền vững…để giúp con người hoàn thiện hơn trong nhân cách, biết yêu thương con người va biết làm bạn với thiên nhiên như : các chiến dịch “ ngày phòng chống thuốc lá”, Tình nguyện mùa hè xanh, trồng cây ươm rừng, vệ sinh công cộng,….
Giáo dục:
giáo dục là hoạt động chuyên môn của xã hội nhằm hình thành và phát triển nhân cách con người theo hướng hoàn thiện. Giáo dục ngay từ khi con người con nhỏ cho đền khi trưởng thành nhất là trong lứa tuổi đến trường vì trường học là môi trường trong sạch nhất và ảnh hưởng nhất đến con người. Hiện nay trên thế giới nói chung và Việt Nam ta nói riêng, giáo dục là phần phúc lợi xã hội nhằm xây dụng môi trường cho con người phát triển cả về mặt tài và đức. Giáo dục ở nước ta co những bước phát triển tốt đẹp như: Giáo dục vạch ra nhiều hướng hình thành và phát triển nhân cách từ khi còn nhỏ để dẫn dắt phát triển theo hướng mà xã hội công nhận. Điều nay được thực hiện thông qua mục tiêu giáo dục và qua sự thực hiện mục tiêu đó của các cơ quan giáo dục trong và ngoài.
+ Giáo dục có thể đưa lại cho những đứa tr3 những yếu tố giúp ích cho sự hình thành nhân cách , đưa chúng đến gần với môi trường thiên nhiên để thông qua các hoạt động trong trường lớp.
+ Giáo dục có thể bù đắpcho những thiếu hụt ở một người bị tật hay bị bệnh nào đó gây ra.
+ Giáo dục có thể uốn nắn những phẩm chất tâm lí của một người theo yêu cầu xã hội.
Như vậy, giáo dục đóng vai trò to lớn trong hình thành nhân cách con người. Việt Nam ta hiện nay đang hết sức quan tâm đến vấn đề này va ngày càng hoàn thiện hơn. Tuy nhiên, cũng không tránh khỏi những tiêu cực vì vậy đòi hỏi nhà nước cần quan tâm hơn đến ngành giáo dục. Cần thúc đẩy và đưa giáo dục lên quan tâm hàng đầu nhằm đưa Việt Nam sánh vai cùng cường quốc năm châu.
Khía cạnh gia đình:
Theo triết học Mac-Lenin thì bản chất con nguời tốt hay xấu đều do tác động biện chứng lẫn nhau của tất cả các mối quan hệ xã hội. Trước nhất là mối quan hệ trong gia đình bởi “Gia đình là nền tảng của xã hội”. Từ mối quan hệ gia đình là mối quan hệ cơ bản nhất và gần gũi nhất để giáo dục cũng như để con người rèn luyệ nhân cách của mình ngay từ khi còn nhỏ cho đến khi trưởng thành. Mối quan hệ xã hội sẽ tác động biện chứng với các mối quan hệ khác trong xã hội như: quan hệ bạn bè, quan hệ đồng nghiệp…từ đó làm nhân cách con người hoàn thiện hơn. Chính vì vậy, mỗi gia đình VIệt Nam cần phải là một xã hội trong sạch thu nhỏ, ông bà, cha, mẹ phải là những người làm gương cho con cháu, phải có lối sống lành mạnh, biết yêu thương , chia sẽ với các thành viên trong gia đình….và cần phải hướng cho những thế hệ sau đi đúng hướng….có như vậy mới giúp xã hội trong sạch, giúp nhân cách con người Việt Nam và đất nước Việt Nam vươn lên tầm cao.
Bản thân mỗi người:
Bản thân mỗi người cần phải biết lựa chọn môi trường sống và tham gia vào những môi trường sống lành mạnh, loại bỏ những mội trường tiêu cực. Môi trường ở đây bao hàm toàn thể các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa , đạo đức, tâm ly, dư luận xã hội,…Bên cạnh đó, bản thân mỗi người cần tôn trọng và bảo vệ môi trường sống. Nếu con người tác động tiêu cực đến môi trường sống, đến giới tự nhiên như phá rừng, ô nhiễm môi trường sống thì đó cũng là những hành động phá hoại chính bản than mình. Mỗi người trong cộng đồng Việt Nam cần phải sống một cách chủ động , năng động trong học tập, trong công việc để luôn luôn sáng tạo va giữ vai trò là chủ thể của xã hội. Mỗi người cũng cần phải quan tâm đến lợi ích chung của cộng đồng, đảm bảo hài hòa giữa lợi ích cộng đồng và cá nhân đồng thời phải tạo dựng môi trường làm việc lành mạnh trong học tập và công việc. Có như vậy đất nước mới mới có thể phát, vươn cao, vươn xa xứng tầm thế giới nhờ những nhân cách với đầy đủ năng lực cũng như phẩm chất tốt của đất nước thông qua quá trình rèn luyện nhân cách lâu dài.
Khía cạnh pháp luật
+ Dùng pháp luật nhầm cải tạo nhân cách con người:
Trong xã hội luôn có những mặt tích cực và tiêu cực thì trong con người cũng vậy, sẽ có những nhân cách tốt và cũng có những nhân cách đi ngược lại với xã hội, đạo đức….đó chính là những hạng người tầm thường chỉ nghĩ đến lợi ích cá nhân, nham hiểm, ác độc, lừa đảo, nóng nảy, cố chấp, hẹp hòi... làm ảnh hưởng đến cộng đồng, ảnh hưởng đến chính bản thân họ - vì họ không nhận thức đúng đắn về những hành vi của mình là sai hay đúng? Nên hay không nên? Chính vì lẽ đó, pháp luật được thực thì nhằm đem họ về với cộng đồng , xả hội, về với nhân cách của một con người theo một hướng tốt đẹp.Luật pháp cần được đưa ra và áp dụng xử lý khi đã có dấu hiệu phạm tội, chế tài để không cho kẻ đó tái phạm.
Tuy nhiên, đối với những người đã hoàn lương, xã hội cần phải nhìn nhận học bới chỉ có cộng đồng mới có thể giúp họ quay lại con đường lương thiện, nếu xã hội ghét bỏ và quay lung lại với họ thì họ sẽ trở nên thất vọng và mất ý chí. Điều đó cho thấy, cộng đồng và xã hội đóng vai trò to lớn trong nhân cách con người, đặc biệt là đối với người VIệt Nam, tinh dân tộc luôn được dặt lên vị trí hàng đầu.
+Khống chế văn hóa phẩm độc hại làm ảnh hưởng nhân cách con người:
Cỏ dại luôn luôn dễ mọc. Cây lương thực luôn luôn khó trồng tỉa. Cũng vậy, bản năng chấp ngã, ích kỷ, hưởng thụ của con người rất dễ nẩy nở phát triển, trong khi tâm hồn vị tha, nhu hòa, tha thứ rất khó nuôi trồng giữ gìn. Những tác phẩm văn hóa độc hại giống như những thùng phân bón vào cánh đồng cỏ ác độc trong tâm hồn con người. Chính vì thế việc ban hành lệnh cấm đối với những thứ văn hóa phẩm độc hại, kích thích bạo lực,…là điều nhất thiết phải làm nhằm tạo cho con người mội trường sống trong sạch, môi trường có trong sạch thì con ngưới mới có thể phát triển theo hướng đúng đắn.
KẾT LUẬN
Con người là khái niệm chỉ những cá thể người như một chỉnh thể, trong sự thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội của nó.
Nếu chỉ dừng lại ở một số thuộc tính sinh học của con người thì không thể giải thích được bản chất của con người, con người là một thực thể đặc biệt hoạt động có ý thức, có khả năng sáng tạo cho mình. Từ tự nhiên và chính trong quá trình hoạt động đó những quan hệ xã hội được hình thành và phát triển mạnh mẽ tới nhân cách con người như C.mac đã viết “ Con người là tổng hòa các mối quan hệ trong xã hội”.
Từ những vấn đề nêu trên, chúng ta thấy, môi trường có ảnh hưởng không nhỏ tới sự hình thành và phát triển nhân cách; vì vậy, việc tạo ra một môi trường đảm bảo cho nhân cách có sự phát triển hài hòa trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, thiết nghĩ, là điều cần thiết. Ngược lại, những nhân cách có đủ đức và tài sẽ là điều kiện để chúng ta đạt được mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1) Từ điển bách khoa triết học, t.3. Mátxcơva, 1964, tr.196.
(2) Xem: Nguyễn Trọng Chuẩn. Một vấn đề cần được quan tâm: Mối quan hệ giữa các yếu tố sinh học và các yếu tố xã hội trong con người. Tạp chí Triết học, số 3, 1992, tr.13.
(3) Dẫn theo: Chủ nghĩa xã hội và nhân cách, t.1. Nxb Sách giáo khoa Mác-Lênin, Hà Nội, 1993, tr.26.
(4) Dẫn theo: Nguyễn Hào Hải. Mấy nét về chủ nghĩa sinh học xã hội.Tạp chí Triết học, số 3, 1992, tr.66-67.
(5) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.42. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.171.
(6) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.2, tr.200.
(7) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.42, tr.169.
(8) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.3, tr.26.
(9) Dẫn theo: GS.VS.Phạm Minh Hạc, PGS.TS. Lê Đức Phúc (chủ biên). Một số vấn đề nghiên cứu nhân cách. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.15.
1. Tham khảo: TS Nguyễn Viết Thông ( tổng chủ biên,2009), Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mac-Lenin, NXB chính trị quốc gia,Hà Nội.
2. Tham khảo: C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.42. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
3.Tham khảo:
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- van_de_con_nguoi_va_dinh_huong_phat_trien_nhan_cach_con_nguoi_vn_hien_nay_5876.docx