MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN: Trang 1,2
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài Trang 3
2. Lịch sử vấn đề Trang 3
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu Trang 4
3.1. Đối tượng nghiên cứu Trang 4
2.2. Phạm vi nghiên cứu Trang 5
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu Trang 5
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Trang 5
5. Phương pháp nghiên cứu Trang 6
6. Cấu trúc của bài tập Trang 6
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÍ THUYẾT
1. Cơ sở lí thuyết thể loại Trang 8
1.1. Cách hiểu về kịch Trang 9
1.2. Cách hiểu về hài kịch Trang 9
2. Cơ sở phương pháp
2.1. Phương pháp đọc hiểu Trang 16
2.2. Phương pháp dạy học Trang 8
CHƯƠNG II: ĐỊNH HƯỚNG DẠY HỌC
1. Tác giả
1.1. Thân thế, sự nghiệp Trang 19
1.2. Con người và phong cách sáng tác Trang 20
1.3. Thời đại Môlie sống Trang 22
2. Tác phẩm
2.1. Xuât xứ, tóm tắt tác phẩm Trang 23
2.2. Phân tích nội dung văn bản Trang 23,24,25
CHƯƠNG III. ĐỊNH HƯỚNG DẠY HỌC
1. Thiết kế bài giảng Trang 27
2. Khảo sát kết quả Trang 46
PHẦN KẾT LUẬN Trang 50,51
PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Văn học là nhân học. Học văn chính là học làm người. Mỗi tác phẩm văn học nhằm bồi đắp nhân cách, thắp sáng lên trong lòng người đọc những tình cảm tốt đẹp. Qua những tác phẩm văn học con người biết yêu ghét rõ ràng, biết rung động trước cái thiện cái đẹp. Văn học giúp con người vượt lên cái xấu xa, cái ác, thắp sáng" thiên lương" để sống nhân ái, tốt đẹp hơn.
Từ lâu bộ môn văn trong nhà trường đã đóng góp một vai trò quan trọng. Để giúp học sinh có cái nhìn toàn diện về văn học thế giới, bên cạnh những tác giả, tác phẩm tiêu biểu của văn học Việt Nam, chương trình ngữ văn THCS đã đưa vào giới thiệu khá nhiều các tác giả, tác phẩm của nước ngoài với nhiều thể loại văn học(thơ, truyện, tiểu thuyết, kich .) của Trung Quốc, Nga, Anh, Mĩ, Pháp .Chúng ta không thể phủ nhận những giá trị to lớn, sức hấp dẫn mà những tác phẩm này đưa đến. Tuy nhiên, để nhận thức và hiểu biết hết những cái hay, cái đẹp của các tác phẩm không phải đơn giản, đặc biệt là các tác phẩm hài kịch. Nghe đến hài kịch người ra người ta thấy ẩn chứa ở ngay bản thân nó là tiếng cười. Những tiếng cười ấy có ý nghĩa gì không? Cười như thế để làm gì? Hẳn không phải ai cũng dễ dàng hiểu được điều đó, đặc biệt đối tượng đó lại là học sinh THCS.
Chính vì điều đó mà vịêc tiếp nhận một tác phẩm hài kịch không hề đơn giản. Điều đó đồng nghĩa với việc dạy học, tiếp nhận tác phẩm một cách khó khăn.
Trong chương trình ngữ văn THCS mới, phần kịch nói chung và kịch nói riêng, chúng ta thấy một tên tuổi với những cống hiến rất to lớn với tư cách là người sáng lập ra hài kịch cổ điển Pháp và đưa nó đến đỉnh cao. Đó là Mô - li - e với trích đoạn "Ông giuốc - đanh mặc lễ phục" trích từ vở kịch "Trưởng giả học làm sang"
Văn bản này đã được đưa vào trường Phổ thông bậc THCS, nhưng việc đọc hiểu tác phẩm này vẫn còn nhiều vấn đề. Để khẳng định nhận thức trên, chúng tôi đã thực hiện khảo sát ở học sinh khối lớp 8 và các thầy cô giáo tại trường THCS Xuân Thượng huyện Xuân Trường. Trong tổng số 59 em được khảo sát sau khi học bài thơ này thì có 15 em (chiếm tỷ lệ 25,4%) thấy học và thích đọc tác phẩm. Có 32 em không hiểu tác phẩm(chiếm tỷ lệ 54,2%) còn lại không thích và không có ý kiến(8,5%). Theo các em giáo viên dạy tác phẩm này chưa hay, chưa rõ kịch tính, chưa hấp dẫn, cách dạy còn buồn, ít tư liệu tham khảo.
Về phía giáo viên 2/4 đồng chí khi được hỏi thì cho rằng phương pháp dạy tác phầm kịch khó(chiếm tỉ lệ 50%).
Từ thực trạng đó, chúng tôi qyuết định lựa chon đề tài này để làm sáng tỏ hơn cách đọc hiểu trích đoạn: "Ông giuốc - đanh mặc lễ phục" giúp giáo viên và học sinh có thể tham khảo thêm khi trên lớp, tạo hứng thú cho học sinh khi học tác phẩm, nhằm mục đích cuối cùng là nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn ở trương THCS nói chung và văn học nước ngoài nói riêng. Ngoài ra, bản thân tôi cũng vì lòng yêu quý tác giả, với hài kịch tính cách, mỗi nhân vật đều có thói xấu, một thói xấu điển hình, một nét tính cách.
52 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5250 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Vấn đề dạy học và đọc hiểu hài kịch mô - Li-e theo chương trình THCS mới qua trích đoạn ông giuốc - đanh mặc lễ phục từ vở kịch trưởng giả học làm sang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
động học tập của học sinh. Như vậy, dạy học theo quan điểm tích cực là một xu thế tất yếu hiện nay.
2.2. Phương pháp dạy hoc.
2.2.1.Phương pháp chung trong dạy học văn.
2.2.1.1. Đọc diễn cảm(phương pháp đọc sáng tạo)
Đọc diễn cảm là một phương pháp truyền thống trong nhà trường từ xưa đên nay. Đọc diễn cảm không phải là một thủ thuật mà là một hoạt động sáng tao nghệ thuật. Nếu nhà văn đi từ tư tưởng đến ngôn từ thì người đọc lại đi từ ngôn ngữ đến tư tưởng. Đọc diễn cảm có ý nghĩa quan trọng đối với vịêc giảng dạy văn học vì con đường đi vào tác phẩm nhất thiết là phải đọc. Đọc là một hình thức hoạt động học tập có tính chất đặc thù của nhận thức về văn học. Tiếng nói của nhà văn gửi gắm cho bạn đọc thông qua hệ thống của ngôn ngữ tạo nên hình tượng của tác phẩm, nhưng trước mắt bạn đọc nó chỉ là những tín hiệu chết."đọc sẽ làm âm vang lên những tín hiệu của cuộc sống mà nhà văn định gửi gắm"(6,194). Âm vang của lời đọc kích thích quá trình tri giác, tưởng tượng và tái hiện hình ảnh. Cảm xúc bắt đầu từ đọc và được tư duy phát triển trong quá trình đọc. Nhập thân vào tác phẩm chỉ có thể bắt đầu từ đọc diễn cảm. Đọc kích thích quá trình tâm lý cảm thụ, tri giác tưởng tượng, xúc cảm. Đọc đưa người đọc vào thế giới của tác phẩm.
Việc đọc tác phẩm văn học khác với việc đọc các tác phẩm khoa học. Người đọc phải làm sống dậy những tình cảm, tư tưởng của tác giả gửi gắm vào tác phẩm qua sư đồng cảm của người đọc. Đồng thời người đọc phải truyền cảm xúc đến cho người nghe. Chính vì vậy trong quá trình đọc, người đọc phải xác lập được không khí giao hoà, giao cảm giữa người nghe và tác giả. Người đọc truyền đến cho người nghe điều nhà văn gửi gắm cho bạn đọc. Nếu không làm được điều này thì việc đọc sẽ không có ý nghĩa .
Ngữ điệu trong đọc diễn cảm thay đổi tuỳ theo giọng điệu của nhà văn mà người đọc phải thể hiện được. Bằng sức mạnh riêng của đọc diễn cảm, người giáo viên dẫn dắt học sinh đi vào thế giới của tác phẩm một cách dễ dàng, phù hợp với quy luật cảm thụ văn học. Tuỳ theo yêu cầu, giáo viên có thể đọc dưới nhiều hình thức, nhiều mức độ khác nhau: đọc cả bài, đọc từng đoạn, đọc để gây không khí, đọc đẻ gợi cảm xúc...Đọc diễn cảm tuy có khả năng khơi gợi rung động thẩm mĩ, trí tưởng tượng và nhiều năng lực cần thiết của tư duy nghệ thuật của học sinh. Tuy nhiên nếu chỉ đọc diễn cảm không thì học sinh chưa thể đi sâu vào bên trong tác phẩm. Vì vậy, đọc diễn cảm phải đươc phối hợp chặt chẽ với các phương pháp khác để giúp học sinh hiểu và cảm thụ tác phẩm một cách đúng đắn.
Tóm lại việc đọc diễn cảm phải đảm bảo các yêu cầu sau:
- Giản dị tự nhiên.
- Thâm nhập vào nội dung, tư tưởng nghệ thuât, của các tác phẩm ở mức độ dễ hiểu với học sinh ở các lứa tuổi.
- Truyền đạt rõ ràng tư tưởng của tác giả.
- Thể hiện rõ ràng tư tưởng của tác giả.
- Thể hiện rõ trình độ tiếp nhận của mình đối với tác phẩm được đọc.
- Thái độ tiếp xúc nhiệt tình với người nghe
- Phát âm rõ ràng, chính xác.
- Truyễn đạt được đặc điểm thể loại và phong cách tác phẩm.
- Kỹ năng sử dụng đúng giọng nói của mình.
2.2.1.2. So sánh trong phân tích văn học.
So sánh trong giảng dạy văn học đã trở thành một phương pháp có hiệu lực và khá quen thuộc. Tuy nhiên, trên thực tế gỉảng dạy văn học không phải thiếu những hiện tượng lạm dụng so sánh. Chính vì vậy việc so sánh luôn được xác định trên cớ sở những nguyên tắc chặt chẽ.
So sánh văn học không được lấy nội dung so sánh thay thế cho việc khám phá, phân tích tác phẩm. So sánh chỉ là phương tiện, là con đường đi vào tác phẩm. Những liên hệ so sánh ngoài tác phẩm không được làm "đứt mối" với đường dây chủ đề của tác phẩm, nếu không rất dễ đưa ra những bình luận không có căn cứ.
Khi so sánh cần phải tôn trọng chỉnh thể của bài văn. Người phân tích không được tách, chọn một từ ngữ, một chi tiết, một hình ảnh ra khỏi chỉnh thể để so sánh với những yếu tố ít nhiều có liên quan đến tác phẩm rồi bình luận một cách chủ quan, xa rời chủ thể tác phâm.
So sánh là một trong những phương pháp hữu hiệu trong phân tích văn học và cũng được khẳng định, hoàn thiện trong thực tiễn nghiên cứu, giảng dạy văn học làm sao cho việc phân tích, giảng dạy văn học vừa có được tính khoa học vừa nghiêm ngặt, vừa có tính nghệ thuật đậm đà.
2.2.1.3. Phân tích nêu vấn đề.
Dạy học nêu vấn đề là một hoạt động sáng tạo, song song với việc lĩnh hội tri thức là sự phát triển những năng lực sáng tạo ở học sinh. Thực tiễn cho thấy kiến thức sẽ được lĩnh hội vững chắc nếu con người trải qua suy nghĩ, có vượt qua khó khăn để tìm hiểu. Dạy học nêu vấn đề dựa vào nguyên tắc trên. Theo đó, kiến thức sẽ không được đưa đến dưới hình thức có sẵn mà thông qua tình huống có vấn đề đặt ra trước học sinh. Học sinh dưới sự giúp đỡ của giáo viên nắm được nôi dung bộ môn, phương thức học sinh tập và phát triển ở mình những phẩm chất cần thiết để sáng tạo trong khoa học và trong đời sống.
Một giờ dạy văn muốn mình thành công nhất thiết phải xây dựng được một hay nhiều tình huống có vấn đề và được học sinh tiếp nhận môt cách có ý thức. Tạo được tình huống có vấn đề và được học sinh tiếp nhận một cách có ý thức. Tạo dược tình huống có vấn đề và được một trạng thái tâm lí cần thiết để mở đầu cho quá trình giảng văn đạt được hiệu quả mong muốn.
Tình huống có vấn đề là gì? Có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau, so về cơ bản có thể hiểu đó là một trạng thái tâm lý cần thiết để mở đầu cho quá trình giảng văn đạt được hiệu quả mong muốn.
Muốn xây dựng được một tình huống có vấn đề phải biết xây dựng được một hện thông câu hỏi nêu vấn đề cần đảm bảo các yeu cầu sau:
- Câu hỏi nêu vấn đề thường gợi lên những mâu thuẫn giữa cái đã biết với cái chưa biết, giữa cái cũ và cái mới trong nhận thức của học sinh với tác giả, giữa học sinh với nhau về một vấn đề trung tâm nào đó trong tác phẩm.
- Câu hỏi nêu vấn đề cần phải định hướng vào những vấn đề khái quát.
- Câu hỏi nêu vấn đề phải mang tính hệ thống liên tục làm thành một chuỗi những liên hệ nối tiếp nhau trong một hệ thống vấn đề, phản ánh được bản chất nội dung và nghệ thuậh của tác phẩm.
Câu hỏi phải sát với tác phẩm và khêu gợi hứng thú cho học sinh, Giáo viên cần xác định được câu hỏi vừa phản ánh bản chất cuả tác phẩm vừa nằm trong tầm cảm nghĩ của học sinh. Mất đi một trong hai tính chất đó câu hỏi không còn giá trị nêu vấn đề nữa.
2.2.1.4. Gợi mở
Phương pháp gợi mở không phải là phương pháp mới. Phương pháp này có những khả năng riêng biệt mà các phương pháp khác không có được. Bằng con đường đàm thoại gợi mở, giáo viên tạo ra cho lớp học một không khí tự do tư tưởng, tự do bộc lộ những nhận thức trực tiếp của mình. Những tín hiệu trực tiếp phản hồi được báo lại cho giáo viên một cách kịp thời trên lớp khi học. Quan đàm thoại, giáo viên hỏi cụ thể con người học sinh hơn như hiểu được tính cách, phẩm chất trí tuệ, tâm hồn tình cảm, phong cách con người...Năng lực làm việc độc lập, óc tìm tòi suy nghĩ , thói quen giao tiếp xã hội của học sinh được phát huy một cách tích cực.
Phương pháp gợi mở giảng dạy văn chủ yêu được thông qua hệ thống câu hỏi, toạ điều kiện cho hoạt động song phương giữa thầy và trò để từmg bước đi vào tác phẩm văn học. Các câu hỏi đàm thoại phải đảm bảo các yêu cầu sau:
- Phải chính xác, rõ ràng, phải có màu sắc văn học, có khả năng khêu gợi tình cảm, cảm xúc thẩm mĩ cho học sinh.
- Phải vừa sức với học sinh, thích hợp với khuân khỏ một giờ lên lớp, phải có khe năng gợi vấn đèm suy nghĩ, tìm tòi sáng tạo cho học sinh.
- Phải xấy dựnh hệ thống logic có tính toán, giúp học sinh htừng bước đi ssâu vào tác phẩm như một chỉnh thể.
- Cần có sự kết hợp cân đối giữa loại câu hỏi cụ thể và loại câu hỏi tổng hợp gợi vấn đề. Câu hỏi có khi theo lô gic diễn dịch, có khi theo cách quy nạp h\nhưng đèu nhằm cung cấp cho học sinh một hệ tghống kiến thức vững chắc.
- Câu hỏi chung phải có căn cứ vào đặc điểm nội dung và nghệ thuật tác phẩm nhưng vẫn phẩi đảm bảo mục đích: làm cho học sinh hiểu tác phẩm.
2.2.1.5. Giảng bình.
Giảng bình là những việc làm khá quen thuộc đối với nhiều giáo viên dạy văn. Mục đích của người giảng bình là làm sao truyền được hiểu biết , rung cảm của mình về tác phẩm văn chương đến với người nghe để người nghe cũng rung cảm và hiểu tác phẩm một cách đúng đắn, sâu sắc. Đây là việc làm hết sức khó khưn, vì vậy nó đòi hỏi có nhiều nguyên tắc nhất định trong bình giảng. Dưới đây là một số ngyuên tắc đó:
- Người bình phải am hiểu sâu sắc về tấc phẩm đến độ biến thành rung động, cảm xúc, tình cảm chủ quan mới có khả năng gây hứng thú và rung cảm cho người nghe. Giáo viên giảng bình không để cho tiếng nói của mình lấn át tiểng nói của nhà văn, nhà thơ mà phải giúp nhà văn, thơ đưa tiếng nói đến với ngời nghe một cách nhanh nhậy, sâu lắmg.
- Người bính pahia lựa chọn những chi tiết những điểm đáng bình nhất để tạo cho học sinh một ấn tượng.
- Kết hợp nhuan nhuyễn giữa giảng và bình. Giảng mà không bình thì ý khô khan, bình mà không có giảng thì dễ miên man xã vời. Có khi giảng cho hiểu từ hiểu được rồi mới thấm lời bình. Có thể nói nhờ giảng mà lời bình thêm sâu sắc hơn.
Phương pháp dạy học văn có rất nhiều. Tuy nhiên, không có phương pháp nào là vạn năng là tối ưu, mỗi phương pháp đều có ưu và nhược điểm riêng. Chính vì vậy, mà mỗi người giáo viên khi lên lớp cần kết hợp các phương pháp dạy học sao cho phù hợp phát huy tối đa những ưu điểm và hạn chế nhược điểm của từng phương pháp dạy học sao cho giờ học văn trở lên hấp dẫn, sôi nổi gây được hớng thú cho học sinh bên cạnh đó các phươg pháp dạy học cũng cần có sự kết hợp hài hoà với phương pháp đọc, hiểu theo hướng tíchg hợp và tích cực.
2.2.2. Phương pháp dạy học kịch trong trường THCS.
Ngoài việc sử dụng kết hợp các phương pháp trên, còn cần lưu ý đến một số những nguyên tắc chung khi dạy học kịch nói chung và hái kịch nói riêng:
- Cần xác định được hành động kịch, hành động nào là cao trào, thắt, mở nút.
- Xác định xung đột kịch của các tuyến nhân vật trong tác phẩm.
- Chú ý vào những lời giới thiệu trước khi chuyển cảnh, bắt đầu một chảnh mới.
- Trong khi dạy nên cho học sinh đọc phân vai ở lớp (với điều kiện tất cả học sinh đã đoc văn bản ở nhà).
Chương II
Định hướng đọc - hiểu
1. Tác giả.
1.1. Thân thế sự nghiệp.
Mô -li -e tên thật là Jăng Baptixtơ Pôcơlanh, sinh ngày 16 thán 1 năm 1662 tai Pari trong một gia đình thị dân được nhiều ân sủng của nhà vua Mô-li -e được đào tạo thành luật sư nhưng ngay từ thời thơ ấu, ông đã say mê nghệ thuật hài kịch, đẫ sớm có năng khiếu mẫn cảm về loại hình này, nên Mô li e đã từ bỏ con đường luật sư êm ả để đi vào con đường nghệ thuật đầy khó khăn, vào một loại hình mà trong con mắt mọi người chỉ là trò mua vui rẻ tiền.
Cùng với gia đình nghệ sỹ Bêgia, ông sàng lập ra đoàn kịch chứ danh. Song ở Pari, đoàn kịch này không đứng nổi, ông cùng bạn bè đưa gáng hát của mình đi lang thang biểu diễn ở các tỉnh khác nhau của nước Phấp, từ 1645 - 1658 mới trở về biểu điẽn ở ngoại ô Pari. Lúc này đoàn kịch của Mô -li - e chững chạc có tay nghề vững chắc. Năm 1659 đoàn kịch được phép biểu diễn cho Vua Luixivê xem với vở hài kịch "Những ả cầu kỳ rởm". Vở kịch thành công, nhà Vua tán thưởng công chúa hoan nghênh. Đoàn kịch được phép về biẻu diễn ở Pari, được phép mua vui cho Vua, Mô-li -e là linh hồn của đoàn kịch và cùng với đoàn kịch tài năng của Mô-li-e chín rộ. Năm 1662, ông cho diễn vở(Trường học làm vợ, phê bình trường học là vở kịch ứng tác ở Vecxây). Trong giai đoạn 1664 - 1666, Mô-li-e viết 3 vở hài kịch lớn với những tư tưởng triết học và xã hội phong phú: (Táctuyp (1964), Đôngjuăng - 1665 và Anh ghét đời - 1666). Sau đó cuộc đời hoạt động của Mô -li - e bớt sôi động hơn với nhữmg vở ( Lão hà tiện - 16668, Trưởng giả học làm sang 1670, Những bà thông thái - 1672, Người bệnh tưởng - 1673...) ngày 11.2.1673 trong đêm diễn thứ 4 vở " người bệnh tưởng", đóng vai nhân vật chính Mô -li - e đã kiệt sức trên sân khấu. Ông được đưa ngay về nhà và chỉ hơn 1 giờ sau thì chết. Nhà thờ vốn thù ghét Mô -li - e ngăn cản việc mai táng ông theo nghi thức của tôn giáo. Vợ ông phải quỳ xuống chân nhà Vua hết lời cầu khẩn mới được phép chôn ông vào lúc đêm khuya, ở nghiã địa của nhà thờ.
"Đời hoạt động nghệ thụât của Mô -li - e là cuộc đời một mặt thì kiên trì rèn luyện trong thực tế vĩ đại của nhân dân, một mặt thì đấu tranh không khoan nhượng với những lực lượng đen tối cống hiến trọn vẹn cho nghệ thuật chân chính. Chỉ riêng cuộc đời ấy cũng đủ để khiến Mô -li - e trở lên bất hủ"(10,289)
1.2. Con người và phong cách sáng tác.
Mô -li - e là một tên tuổi lớn của chủ nghĩa cổ điển Pháp, của lịch sử văn học Pháp và của lịch sử sân khấu thế giới "hoạt động chủ yếu vào nửa cuối thế kỷ 17, cùng thời với Laphongten, Ra-xin, Boa-lô, Mô -li - e mang đến cho văn đàn Pháp những cống hiến rất lớn với tư cách là người sáng lập ra hài kịch cổ điển và đưa nó tới đỉnh cao xán lạn, với tư cách là nhà văn - chiến sĩ đã đấu tranh đến cùng cho những lý tưởng tiến bộ, với tư cách là người nghệ sỹ ưu tú đã kết tinh được những truyền thống tốt đẹp của nhân dân, dân tộc Pháp. Chủ nghĩa cổ điển Pháp, với Mô -li - e đã chuyển mạnh hơn, rộng rãi hơn về phía cuộc sống hiện thực muôn hình muôn vẻ và luôn sôi động trong đó quần chúng nhân dân lao động tiến lên vai trò mới"(10,287).
Mô -li - e có những quan điểm sáng tác rõ ràng. Những quan điểm này phù hợp với một nền nghệ thuật chân chính, tiến bộ, đồng thời cũng phù hợp chủ nghĩa cổ điển nói chung.
Trước hết, chính là trên tinh thần duy lí, duy vật, Mô -li - e đã nhận xét, phê phán các hiện tượng xã hội, cách tính cách đáng chê cười. Theo quan niệm chung của chủ nghĩa cổ điển, hài kịch là loại sáng tác văn học nhằm đả phá những tệ nạn của xã hội, những nhược điểm trong tâm lí của con người. Mô -li - e quan niệm rằng nhà văn có thể lấy đề tài ở bất kỳ nguồn gốc nào, miễn là đề tài ấy phong phú. Ông khai thác nguồn chủ yêu là đời sống tâm hồn xã hội Pháp đương thời, trong tâm lý của con người. Mô -li - e quan niệm rằng nhà văn có thể lấy đề tài ở bât kỳ nguồn nào, miễn là đề tài ấy phong phú. Ông khai thác nguồn chủ yếu là đời sống tâm hồn xã hội Pháp đương thời, trong cung đình, trong thành thị, trong dân gian.
Một bộ phận quan trọng sáng tạo của Mô -li - e là hài kịch tính cách. Những hài kịch này phản ánh xu hường đi vào lòng người, mô tả tâm lí, nghiên cứu tự nhiên của chủ nghĩa cổ điển nói chung. Để làm rõ các tính cách điển hình trong khuôn khổ sân khấu cổ điển, Mô -li - e đã chọn con đường riêng. Ông tập trung cao độ vào tính cách, thậm chí vào nét cơ bản trong tính cách. Ông tước bỏ những chi tiết phụ, đối lập, không có lợi cho sự chú ý theo dõi và sự xác định tính cách. Trong sáng tác của ông, chỉ thấy xuất hiện lên một tính cách cụ thể, dễ nhận, dễ phân biệt. Mỗi nhân vật là hiện thân của một tính cách nhất định: hoặc đạo đức giả, hoặc hà tiện, hoặc thông thái rởm...Những tính cách khác, nếu có đều phải lùi hàng xuống hàng dưới nhằm phục vụ cho tính cách chủ yếu.
Để khắc hoạ rõ tính cách và cũng để tăng cường tính hài kịch Mô -li - e hay dùng một biện pháp quen thuộc - cường điệu tính cách, đẩy tính cách lên sát ranh giới của sự vật vô lí, khó tin, không giống như thật. Hành động sân khấu của Mô -li - e khá đơn giản. Thường bắt đầu xu thế mỗi lúc một tập trung hơn, mạnh mẽ hơn cuar những thói giả dối, kệch cỡm. Sự thái quá ấy vi phạm"tự nhiên" làm cho những đầu óc lành mạnh, tỉnh táo, gần với cuộc sống bình thường, nhưcg sao chịu đựng nổi. Những xung đột ấy không phức tạp, không gay gắt đòi hỏi những giải pháp quyết liệt, chỉ một biện pháp nhỏ, kheo tổ chức, là đủ để bắt cái hài thể hiện rõ. Màn chót của xung đột vì thế cũng nhẹ, thường phụ thuộc vào những yếu tố bất ngờ bên ngoài.
Tài năng của Mô -li - e thể hiện rất đa dạng trong việc xây dựng các vở kịch. Ngoài việc tổ chức chặt chẽ các kịch tính, đảm bảo sự cân đối giữa các cảnh, các hồi, ông cìn sử dụng nhiều biện pháp gây cười lây truyền từ truyền thông dân gian như các biện pháp hề, ông tận dụng khả năng gây cười của biện pháp trùng lặp, bằng cách gây hiểu nhầm, bằng cách chơi chữ...tiếng cười mà ông tạo ra là đa dạng từ tiếng cười hề kịch vui vẻ, rồi đến tiêng cười khôi hài, tới cái cười mỉa mai giễu cợt, tới tiếng cười châm biếm, cho tới cái cười bi đát. Mỗi nhân vật, mỗi tính cách mà Mô -li - e dựng đều gắn với các tiếng cười khác nhau. Các tiếng cười này tạo ra cách nhìn soi chiếu nhân vật. Xây dựng nhân vật từ góc độ tiếng cười cũng là một đặc điểm thi pháp quan trọng trong hài kịch của Mô -li - e.
Mô -li - e tiếp thu những truyền thống của hài kịch dân gian và những thành tựu của kịch cổ điển, ông đã sáng tạo lên hững vở hài kịch có nội dung xã hội sâu sắc. Nhiều nhân vật điển hình xã hội về thói hư tật xấu. Mô -li - e là người sáng tạo ra hài kịch Pháp, đóng góp nhiều vào mỹ học cổ điển Pháp nhiều quan niệm mới. Hài kịch Mô -li - e đạt quy mô lớn chủ yếu do ông kết hợp một cách đầy sáng tạo tư tưởng Đề - các với tư tưởng Ga-xăng-đi, cái " cổ điển" với cái "barôc", vừa có tinh lịch sử, vừa có tính nhân loại, nhiều khi đạt tới cái mênh mông bí ẩn của con người, cái khát vọng không bờ bến, cái cô đơn vĩnh hằng bằng nghệ thuật hài kịch. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Mô-li-e đóng vai trò lớn trong sự phát triển của hài kịch toàn Châu Âu và cả thế giới.
1.3. Thời đại Mô-li-e sống
Mô-li-e sống ở thế kỷ XVII, một thế kỷ quan trọng trong lịch sử văn học thành văn của nhân dân Pháp. Đó là thế kỷ hoàn thành việc tập trung nhà nước tren nền tảng 1 Quốc gia thống nhất, một dân tộc thống nhất. Thế kỷ này trải qua và kéo dài qua 3 thời đại: Hăngri IV (1594 - 1610), Lu-i XIII (1610-1643), Lu-i XIV(1643-1715) người được mệnh danh là vua mặt trời.
Việc thống nhất này dã được tạo điều kiện tập trung thị trường, điều kiện quan trọng và có lợi cho sự phát triển của giai cấp tư sản. Sự phát triển của giai cấp tư sản đã mang lại cho nhà nước quân chủ tập trung một nguồn lợi to lớn. Chính quyền phong kiến tập trung tồn tại được nhờ vào túi tiền của tầng lớp thị dân. Sự xác lập chế độ quân chủ chuyên chế là biểu hiện về chính trị của quá trình phong kiến tan rã và quan hệ sản xuất tư bản phát triển. Trong điều kiệnlịch sử này đã xuất hiện và tồn tại một thế cân bằng lịch sử. Thế cân bằng chính trị giữa 2 lực lượng quý tộc và tư sản là một yếu tố lịch sử xã hội quan trọng nhất có ảnh hưởng đến quyết định đến sự phát triển của xã hội, đến sự hình thành và phát triển dòng văn học cổ điển chủ nghĩa, dòng văn học chính thống thế kỷ XVII.
Một sự kiện quan trọng nữa là hình thành Viện Hàn lâm Pháp vào năm 1634. Đây là chủ trương lấy văn nghệ phục vụ cho sự nghiệp thống nhất quốc gia do Hồng y giáo chủ Tể tướng Risơliơ đề xướng và thực hiện. Viện Hàn lâm chịu trách nhiệm biên soạn tự điển, ngữ pháp, thống nhất quốc gia về mặt ngôn ngữ. Vì vật, ý thức phục vụ cho sự thống nhất và ổn định về một đặc điểm thống nhất trong sáng tác của những nàh cổ điển. Cảm hứng về quốc gia trở thnàh nội dung chính của thời đại. Nghĩa vụ phụng sự quốc gia được đề cao.
Sau khi được nổi loạn La Phrôngđơ ( từ 1647 đến 1653), do sự bất mãn của tầng lớp lãnh chúa nhất thế bị dập tắt , nước Pháp đi vào thới kỳ phát triển mạnh mẽ nhất. Thời kỳ hoàng kim của Lu-i XIV.
Thời kỳ này, nước Pháp trở thành trung tâm chính trị, trung tâm của các hoạt động xã hội của các thế lực phong kiến Châu Âu. Nhờ có địa vị độc tôn về quân sự và chính trị, sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế, nước Pháp vươn lên chiếm lĩnh vị trí hàng đầu trong lĩnh vực tư tưởng văn hoá. Nó ảnh hưởng và tri phối mạnh mẽ các nền văn hoá Tây Âu khác. Đó là khi nói tới văn học Tây Âu người ta chỉ cần nói đến văn học Pháp với đỉnh cao của nó là chủ nghĩa cổ điển.
Nói đến thê kỷ XVII ở Pháp, không thể không nói đến chủ nghĩa duy lí của R.Đêcactơ - một thành tựu lớn của giai cấp tư sản đạt được trong lĩnh vực triết học. Chủ nghĩa duy lí đã trở thành thê giới quan và phương pháp luận giúp các nhà cổ điển tái tạo đời sống hiện thực xã hội Pháp thế kỷ XVII.
2. Tác phẩm
2.1 Xuất xứ, tóm tắt tác phẩm
Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục trích trong vở kịch 5 hồi trưởng gỉ học làm sang (1670) và là lớp kịch kết thúc hồi II.
Nhân vật trung tâm của vở kịch là Ông Giuốc-đanh, một ư sản giàu có đang tấp tểnh học đòi làm quý tộc. Lão đã ngoài 40 tuổi. Lão có 1 con gái là Luyxin đang yêu tha thiêt chàng trai Clêông nhưng bị lão ngăn cấm vì bản thân anh ta không phải là quý tộc. Lão tìm mọi cách để kết thân với người thượng lưu, để được lọt vào mắt xanh của quý bà Đôrimen. Vì thế lão không ngần ngại đổ tiền ra để làm đẹp lòng gã quý tộc Đôrăng thất thế sa cơ, đang cự kỳ túng bấn. Đôrăng cũng tỏ ra hết lòng để lão sớm được trở thành quý tộc, sớm chiếm được mối tình của Đôrimen. Bù lại hắn có đủ tiền để thoả mãn mọi ý đồ riêng. Bị lừa dối, bị phỉnh phờ Giuốc-đanh tỏ ra hào phóngvung tiền không tiéc tay. Để xứng đáng là bậc quý tộc mong muốn chiếm được cảm tình của quý bà phu nhân kia, Giuốc-đanh đã tổ chức thuê đủ các loại thầy: thầy nhạc, thầy vũ, thầy kiếm, thầy triết... đến nhà lão để dãy lão các môn học để tạo cho lão có 1 thứ vốn liếng để ra nhập hàng ngũ quý tộc. Các loại thầy này đều kiết Giuốc-đanh là một kẻ ngu dốt nhưng họ đều cho rằng " túi tiền của lão khôn ra phết, túi tiền ấy sửa chữa và uốn lắn được mọi sai sót". Và các ông thầy này tỏ ra hết sức tận tuỵ phục vụ cho túi tiền ấy. Nắm được những cuồng vọng của lão, những thành viên tích cực có lương tri của gia đình đã tìm mọi cách thức tỉnh lão. Cuối cùng học phải tạo ra hình thức là để Clêông đóng giả một hoàng tử Thổ Nhĩ Kỳ đến cầu hôn con gái lão. Giuốc-đanh đồng ý gả ngay con gái cho chàng rể ngoại bang ấy, đổi lại chàng rể quý tộc giả phong tặng cho lão tước hiệu Mamamusi, tước hiệu quý tộc phong kiến Thổ Nhĩ Kỳ giả hiệu. Kết thúc vở kịch là cảnh Giuốc-đanh sung sướng đến phát cuồng trong bộ quần áo, trong tước vị quý tộc giả hiệu tuyên bố với mọi người là " giờ chỉ còn bà vợ tôi nữa, ai lấy tôi xin cho nôt".
2.2 Phân tích nội dung văn bản
"Trưởng giả học làm sang là một trong những vở hài kịch thành công nhát của Mô-li-e. Tác giả đã tạo lên bức tranh xã hội Pháp thế kỷ XVII vô cùng chân thực và sinh động: những gã trọc phú học đòi quý tộc một cách ngu ngốc, kệch cỡm: những tên quý tộc kiểu cách rởm đời, giả dối xảo trá, tham lam. Mô-li-e đặt niềm tin vào thê hệ trẻ những người có hiểu biết, giàu lòng nhân ái. Ông đề cao giá trị đích thực của cá nhân. Mô-li-e đã sử dụng tiếng cười của một vũ khí sắc bén để tấn công lối cầu kỳ rởm tầng lớp quý tộc Pháp đương thời và đám trưởng giả lố bịch đang quý tộc hoá" (9219)
Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục, một lớp kịch tong vở trưởng giả học làm sang của Mô-li-e, được xây dựng và hết sức sinh động, khác học tài tình tính cách lố lăng của một tay trưởng giả học đòi làm sang, gây lên tiếng cười sảng khoái cho khán giả.
Lớp kịch này chai làm 2 cảnh, dấu hiệu nhận biết trên văn bản là đoạn chỉ dẫn sân khấu " Bốn anh thợ phụ bước vào". Cả 2 cảnh này đều diễn ra trong không gian phòng khách nhà ông Giuốc-đanh - nhân vật chính. Không khí kịch về sau càng sôi động, cho đến cuối cảnh sau thì không khí hài kịch thực sự náo nhiệt.
Trên văn bản ta thấy ở cảnh trước gồm những lời thoại của 2 nhân vật: ông Giuốc-đanh và bác phó may, cảnh sau là lời đối thoại của Giuốc-đanh và tay thợ phụ. Cảnh trước xuất hiện trên sân khấu 4 nhân vật ( ông Giuốc-đanh, một gia nhân, bác phó may và tay thợ phụ mang bộ lễ phục). Cảnh sau xuất hiện thêm 4 tay thợ phụ. Cảnh trước, ông Giuốc-đanh và bác thợ phụ đối thoại với nhau. Cảnh trước Giuốc-đanh. Cảnh trước, ông Giuốc-đanh và bác thợ phụ đối thoại với nhau. Cảnh sau Giuốc-đanh nói với một tay thợ phụ mang lễ phục xuất hiện từ cảnh trước, nhưng xung quanh ông ta là cả 4 tay thợ phụ đến sau đang xúm vào để giúp ông thể lễ phục mới lên như nói với cả bọn. Thêm nữa, cảnh trước cử chỉ, động tác của nhân vật ít hơn ( chỉ là những cử chỉ, động tác kèm theo đối thoại của 2 nhân vật), đến cảnh sau, các thợ phụ nhộn nhịp cởi quần áo cũ, mặc lễ phục mới cho ông Giuốc-đanh... thêm nữa, khi ông Giuốc-đanh mặc lễ phục còn có cả nhảy múa và âm nhạc.
ở cảnh đầu của lớp kịch, tính cách của Giuốc-đanh thể hiện tong đối thoại của bác phó may. Nào là chuyện đôi bít tất, chuyện bộ tóc giả, lông đính mũ xong chủ yếu là chuyện xoay quanh bộ lễ phục, với những bông hoa ngược. Không biết là do bác phó may dốt, do sơ suất hay cố ý may thành những bông hoa ngược? Chỉ biết rằng chính ông Giuốc-đanh phát hiện ra sự cố này. Nhưng bác phó may với tay nghề khó hiểu này lại bảo rằng người quý tộc họ vẫn mặc vậy. Giuốc-đanh thì học đòi làm sang. Thế là ông hoàn toàn bị khuất phục bởi sự láu cá của bác phó may. Kịch tính được đẩy lên cao khi bác phó may liên tiếp ra đòn " nếu ngài muốn thì tôi sẽ may hoa xuôi lại thôi mà", " xin ngài cứ việc bảo". Sợ cơ hội làm sang sẽ tuột mất, ông Giuốc-đanh từ chối đây đẩy: " không, không". " Tôi đã bảo không mà". Rồi lại chính đã nắm chắc điểm yếu của đối phương, chỉ cần bác lảng sang chuyện thử lễ phục mới là Giuốc-đanh chẳng còn để ý gì đến chuyện ăn bớt vải nữa. Chẳng thế mà bác phó may rất tự tin khi mặc đúng cái áo may bằng vải ăn bớt của ông Giuốc-đanh khi đến nhà Giuốc-đanh.
Sang cảnh sau của lớp kịch, tính cách tưởng giả học đòi làm sang của ông Giuốc-đanh đang tiếp tục được bộc lộ. Lần này đến lượt tay thợ phụ lợi dụng ông ta. Nếu anh này cứ gọi ông Giuốc-đanh như cách gọi thông thường ( ông hoặc ngài) thì đã không có chuyện gì sảy ra.Đằng này lại xưng tôn là ông lớn, lại đúng vào lúc ông đang mặc lễ phục say sưa với cảm giác trở thành quý tộc. Thế là y được thưởng vì tiếng ông lớn sang trọng ấy. Tay thợ phụ ranh ma này nắm được thóp Giuốc-đanh thì liên tiếp tung ra những câu lịnh hót để moi tiền. Và y rất thành công. Những tiếng " cụ lớn", rồi " đức ông" đều đem lại tiền thưởng cho y. Không phải ông Giuốc-đanh không nghĩ đến túi tiền của mình " Nó như thế là phải chăng, nếu không ta đến mất tong cả tiền cho nó thôi" mà vì cái mộng quý tộc còn lớn hơn cả tiếc tiền. Như vậy cũng đủ thấy tính cách học đòi làm sang của Giuốc-đanh mạnh đến mức nào.
Sự chênh lệch, mất cân xứng giữa nội dung và hình thức giữa cái bên trong và bên ngoài là nguyên tắc cơ bản để nhà văn tạo ra cái hài. ở lớp kịch này cũng vậy, M-li-e đã xây dựng một nhân vật hài kịch bất hủ khi tạo ra sự khập khiễng, bất hoà giữa cái ngu dốt, ngớ ngẩn và cái sang trọng học đòi ở nhân vật ông Giuốc-đanh, với hàng loạt những cac tình tiết gây cười: bộ lễ phục với những bông hoa in ngược, tiền thưởng cho những tiếng tôn xưng quý phái hão, vẻ vênh váo rởm của ông Giuốc-đanh khi mặc lễ phục cũng như khi được tôn xưng... Qua đó, nhà văn chế giễu thói học đòi làm sang vẫn thường thấy trong xã hội.
Chương III
Định hướng dạy học
1. Thiết kế bài giảng
Tiết 117 - 118
Ông Giuốc- đanh mặc lễ phục
(Trích Trưởng giả học làm sang)
Mô-li-e
A. Mục tiêu cần đạt
1. Kiến thức
Giúp học sinh hình dung được lớp kịch này trên sân khấu, hiểu rõ Mô-li-e là nhà soạn kịch tài ba, xây dựng lớp kịch hết sức sinh động, khắc hoạ tài tình tính cách lố lăng của một tay trưởng giả đòi hỏi sang và gây được tiếng cười sảng khoái cho khán giả
2. Kỹ năng
Rèn kỹ năng đọc kịch bản văn học kiểu phân vai, tìm hiểu tính cách nhân vật hài kịch qua lời nói, hành động vf mâu thuẫn kịch.
3. Thái độ
Giúp học sinh ý thức được những cách sống tiêu cực ( học đòi, kệch cỡm), và hướng bản thân học sinh sống có văn hóa.
Tích hợp với phần tiếng việt ở bài " Lựa chọn trật từ trong câu" với phần tập làm văn ở bài "luyện tập đưa yếu tố miêu tả và tự sự vào bài văn nghị luận"
Văn bản được học trong 2 tiết Tiết 1: tìm hiểu chung về tác giả, tác phẩm , đọc, phân tích cảnh 1 của văn bản Tiết 2 cảnh 2 tổng kết luyện tập
B. Chuẩn bị
1. Giáo viên: SGK, SGV, tài liệu tham khảo, bảng phụ, ảnh Mô-li-e
2. Học sinh: Trả lời câu hỏi SGK
C. Phương pháp:
- Đàm thoại giảng bình đọc sáng tạo gợi mở
- Hoạt động nhóm cá nhân
D. Tiến trình bài dạy
I/ ổn định tổ chức lớp
II/ Kiểm tra bài cũ
? Trình bày cmr nhận của em sau khi đọc xong văn bản Đi bộ ngao du của Ruxô?
Học sinh trả lời
Giáo viên nhận xét cho điểm
III. Bài mới
Giới thiệu bài
Hoạt động của giáo viên
Hoạt động
của học sinh
Nội dung cần đạt
ở lớp 7 các em đã làm quen với thể loại kịch dân gian qua trích đoạn tác trong phẩm "Quan Âm Thị Kính", lớp 8 chúng ta sẽ làm quen với một thể loại hài kịch với một tên tuổi lớn cuả chủ nghĩa cổ điển Pháp va hài kịch thế giới.
Nghe
Đọc - tìm hiểu chung về văn bản.
Hoạt động của giáo viên
Hoạt động
của học sinh
Nội dung cần đạt
Hoạt động 1: Giới thiệu tác giả tác phẩm.
? Hãy giới thiệu đôi nét cơ bản về tác giả Mô-li-e?
GV tổng kết, bổ sung câu trả lời của học sinh và chiếu lên máy chiếu:
- Cha là một nhà buôn giàu có , sau làm hầu cận nhà Vua.
- Ông từ chối ý định của cha muốn ông kế tục chức vụ hầu cận nhà Vua và bước vào NT sân khấu.
- Ông cùng nhóm nghệ sỹ M.Bê-gia thành lập một đoàn kịch ra mắt công chúng 1664. Thất bại ở Paris đoàn kịch phải đóng cửa một thời gian, sau đó đi diễn ở một số tỉnh nhỏ trong suốt 15 năm. Mô-li-e vừa tham gia diễn kịch vừa sáng tác kịch bản. 1658 trở về Pari diễn vở kịch ngắn "Những bà kiểu cách rởm" được hoan nghênh liệt nhiệt. Sau đó ông cho ra mắt nhiều vở hài kịch nổi tiếng: "Trường học làm vợ" (1663). "Tác tuyp"(1664)."Lão hà tiện"(1668)."Trưởng giả học làm sang"(1670)."Người bệnh tưởng"(1673). Trong buổi điễn thư 4 của vở kịch này ông lên cơn đau nặng và qua đời ngay trên sân khấu.
H: Trình bày theo chú thích SGK.
Nghe và quan sát trên màn chiếu, ghi lại những ý cơ bản
I. Tìm hiểu tác giả tác phẩm:
1. Tác giả:
- Mô-li-e (1622-1673)
- Nhà soạn kịch lớn, là người sáng lập ra hài kịch cổ điển Pháp thế kỷ XVII.
? Căn cứ vào chú thích SGK, hãy giới thiệu vở kịch"Trưởng giả học làm sang" và vị trí của đoan trích"Ông Giuốc đanh mặc lễ phục"?
GV chuẩn kiễn thức và chiếu lên màn chiếu.
- Sau lớp 4 của hồi 2(Ông giuốc đanh muốn trở thành nhà bác học) là lớp 5 "Ông Giuốc đanh mặc lễ phục"
? Em hiểu gì về hài kịch?
GV: chuẩn
- Hài kịch là kịch vui, kịch cười, đó là một thể loại kịch trong đó tinh cách, tình huống và hành động được thể hiện dưới dạng buồn cười hoặc ẩn chứa cái hài, nhằm giễu cợt, phê phán cái xấu, cái lố bịch, cái lỗi thời để tống tiễn nó một cách vui vẻ ra khỏi đời sống XH. Nó là thể loại đối lập với bi kịch. Hài kịch kết thúc nhất thiết phải có hậu, vui vẻ.
- Hài kịch của Mô-li-e nói chung, vở hài kịch "trưởng giả học làm sang" nói riêng được coi là mẫu mực của thể loại hài kịch cổ điển.
Học sinh trình bày theo chú thích SGK
H trình bày theo ý hiểu của mình.
2. Tác phẩm
- Lớp hài kịch kết thúc hồi II của vở hài kịch 5 hồi"Trưởng giả học làm sang"(16780)
Hướng dẫn học sinh đọc bài: đọc phân vai:
+ Ông Giuốc đanh: đọc thể hiện giọng của một kể giầu có nhưng ngu ngơ, háo danh nhưng lại dễ bị lừa phỉnh.
+ Bác phó may, chú thợ phụ: khéo léo, chiều khách, nịnh hót nhưng thâm tâm lại coi thường Giuốc - đanh.
- Nhận xét cách đọc và sửa cho học sinh.
? Giải thích từ lễ phục, trưởng giả?
Đọc theo yêu cầu của giáo viên.
Giải thích theo chú thích 2,11.
Đọc và chú thích:
Hoạt động 2: Hướng dẫn học sinh phân tích:
? Hành động kịch diễn ra ở đâu? Căn cứ vào các chỉ dẫn(những chữ in nghiêng trong VB) cho biết lớp kịch có mấy cảnh? Mỗi cảnh có mấy nhân vật? Nội dung của từng nhân cảnh?
GV chuẩn bị, chiếu kiến thức cơ bản lên màn chiếu.
- Cảnh 1: Trong phòng khách nhà ông Giuôc-đanh, gia nhân, thêm bác phó may và một tên thợ phụ mang lễ phục vào(4 nhân vật). Cảnh này chủ yếu chỉ là những lời đối thoại của Giuốc - đanh và bác phó may.
- Cảnh 2: Vẫn khung cảnh trên nhưng có thêm 4 tay thợ nữa(tất cả 8 nhân vật). Cảnh này cũng chỉ có 2 người là ông Giuô - đanh và tay thợ phụ đến lúc đầu đối thoại với nhau, nhưng có thêm 4 tay thợ phụ.
? Không khí của cảnh sau so với cảnh trước như thế nào? Vì sao?
- Cảnh sau sôi động, nhộn nhịp hơn cảnh trước vì cảnh sau có thêm 4 tay thợ phụ nữa và ở cảnh này chúng ta không chỉ được nghe những lời đối thoại mà còn được xem các thợ phụ xúm xít xung quanh cới quần áo cũ, mặc quần áo mới cho ông Giuốc - đanh.
- Trong đoạn trích này xung đột kịch, diễn biến kịch không căng thẳng nhưng qua nhân vật ông Giuốc - đanh giúp ta bước đầu hình dung thói học đòi bắt trước đã làm biễn đổi con người. Sự sáng suốt bỗng trở lên mù quáng không biết đâu là chân lí nữa.
H phát biểu
H nghe + ghi
H phát biểu
II. Phân tích văn bản:
1. Kết cấu, bố cục:
2 cảnh:
- Cảnh 1: + 4 nhân vật.
+ Lời thoại của ông Giuốc - đanh và bác phó may.
- Cảnh 2: + 8 nhân vật.
+ Lời thọại của ông Giuô - đanh và tay thợ phụ.
? Cuộc đối thoại giữa ông Giuốc - đanh và tay phó may xoay quanh những sự việc gì? Sự việc nào là chủ yếu?
GV chiếu kiến thức chuẩn.
- Xoay quanh bộ lễ phụ, đôi bit tất, bộ tóc giả lông đính mũ nhưng chủ yếu là xoay quanh bộ lễ phục.
? Lời thoại thứ nhất của ông Giuốc - đanh cho thấy điều gì?
- Mong ngóng, háo hức muốn được mặc lễ phục, khát khao muốn trở thành quý tộc danh giá từng giờ từng phút. Vì vậy khi thấy bác phó may xuất hiện, ông Giuốc - đanh vui vẻ reo lên...
? ông Giuốc - đanh đã phát hiện ra điều gì trên lễ phục mới may và trên cái áo của bác phó may? ông Giuốc - đanh đã có thái độ ntn? Thái độ đó chứng tỏ điều gi?
- May áo ngược hoa, bác phó may ăn bớt vải. Điều đó chứng tỏ ông Giuốc - đanh chưa mất hết tỉnh táo, Ông đã phản ứng"Thế này là thế nào? Bác may hoa ngược mất rồi!"và trách bác phó may gạn vải của mình để may áo.
? Thế nhưng sau đó điều gì đã khiến ông Giuốc - đanh dễ dàng thay đổi ý kiến? Lời thoại nào thể hiện rõ nhất sự thay đổi đó?
GV chuẩn:
- Lần đầu bác phó may chẳng biết vì dốt, do sơ suất hay vì cố tình biến ông Giuốc - đanh thành trò cười nên đã may ngược hoa. Ông Giuốc - đanh chưa phải đã mất hết tỉnh táo nên đã phát hiện ra điều đó. Nhưng chỉ cần bác thợ may vụng chèo, khéo chống, bịa ra lý lẽ: Những nhà quý phái đều mặc hoa ngược là ông ưng thuận, tin ngay rút lui ý kiến của mình: Những nhà quý phái đều mặc hoa ngược ư? ồ thế thì bộ này may được đấy.
- Lần sau khi phát hiện bác phó may ăn bớt vải, ông đã trách bác phó may nhưng bác phó may đã gỡ bí bằng cách chơi nước cờ lảng sang chuyện khác, hỏi ông Giuốc - đanh có muốn thử bộ lễ phục không. Nước cờ khá cao tay vì nó làm ông quên đi chuyện"thợ may ăn giẻ, thợ vẽ ăn hồ " đồng thời đánh trúng tâm lý ông Giuốc - đanh đang muốn học là sang.
? Kịch tính ở cảnh này thể hiệnở chỗ nào?
GV chiếu kiến thức chuẩn
- Kịch tính ở cảnh này khá cao, thể hiện ở chỗ:
+ ông Giuốc - đanh đang ở thế chủ động của một ông chủe có tiền, khó tính, khắt khe tự nhiên lại trở thành bị động trước sự ma mãnh phó của tay phó may lọc lõi.
+ Còn phó may vốn chẳng tử tế gì chỉ khéo léo mồm miệng đưa đẩy ( Những người quý phái đều mặc như thế cả) đang ở thế bị động(vì may hoa ngược lại ăn bớt vải) nay chuyển sang thế chủ động tấn công ông Giuốc - đanh(nếu ngài muốn thì tôi may hoa xuôi lại thôi mà. Xin ngài cứ việc bảo). Và thế là ông Giuốc - đanh cứ lùi mãi( không không, tôi đã bảo không mà. Bác may thế này được rồi.)
=> Tiếng cười được bật ra từ đây, ông Giuốc - đanh đã bị lừa, bị qua mặt vì sự ngớ ngẩn, ngu ngốc,vì thích danh giá, thích học đòi làm sang trước 1 tay thợ may vụng chèo, khéo chống, lọc lõi.
? ở cảnh 1 tính cách nào của ông Giuốc - đanh được bộc lộ?
GV chuẩn.
- Mô - li -e đã chuyển tiếp từ cảnh trước sang cảnh sau ở lớp kịch này hết sức tự nhiên, khéo léo khi ông Giuốc - đanh mặc xong lễ phục là được tôn xưng là ông lớn ngay, khiến ông tưởng rằng cứ mặc lễ phục vào là nghiễm nhiên trở thành quí phái. Và câu chuyện kịch phát triển sang 1 lớp mới
(Hết tiết117)
Đọc lại cảnh 1.
H phát biểu
H ghi
H phát biểu
H phát biểu
HĐ cặp, H phát biểu
- H phát biểu theo ý của mình.
H ghi
TLN: báo cáo
2. Phân tích:
a. ông Giuốc - đanh và bác phó may:
- Câu chuyện xoay quanh bộ lễ phục
- Kịch tính khá cao:
+ ông Giuốc - đanh đang ở thế chủ động-> bị động.
+ Phó may: bị động-> chủ động.
- ông Giuốc - đanh: khờ khạo, ngu dốt nhưng háo danh, thích học đòi làm sang.
Tiết 118
? Đọc lại phần in nghiêng"Bốn chú thợ phụ...dàn nhạc'. Đọan văn giúp em hiểu thêm gì về ông Giuốc - đanh?
GV chiếu kiến thức chuẩn
G: Lão trưởng giả không chỉ dốt nát, ngờ nghệch bị lão phó may tinh quái lừa bịp lấy dây xỏ mũi dắt đi mà còn lộ rõ chân tướng 1 kẻ lố bịch như 1 con rối, như một thằng hề. Thật nực cười khi cái quần cộc của ông Giuốc - đanh bị cởi tuột ra, áo ngắn của ông bị 2 chú thợ phụ lột để mặc bộ lễ phục mới vào. Buồn cười nhất là cử chỉ, hành động của Giuốc - đanh: phô áo mới, đi đi lại lại giữa đám thợ. Càng hợm hĩnh bao nhiêu, càng buồn cười bấy nhiêu cởi áo, mặc áo, chân bước, miệng nói, tất cả đều theo nhịp của dàn nhạc.
? Quan sát lời thoại của tay thợ phụ. Tay thợ phụ đã gọi ông Giuốc - đanh là gì? Cách gọi ấy có sự thay đổi ntn ở các lời thoại? Có phải hắn thật lòng kính trọng ông Giuốc - đanh không? Thực chất của cách xưng hô này là gì?
GV chiếu kiến thức chuẩn
GV:
- Gọi ông lớn -> cụ lớn-> đức ông.=> thực chất của cách xưng hô này là tay thợ phụ ranh mãnh đã dùng mánh khoé nịnh hót để moi tiền, điểm huyệt đúng thói học đòi làm sang của ông Giuốc - đanh.
? Thái độ của ông Giuốc - đanh ntn? Hãy phân tích thái độ đó qua các lời thoại của ông?(thái độ của ông Giuốc - đanh thể hiện qua mỗi lời tôn vinh ấy là gì?)
GV chiếu kiến thức chuẩn
- Ông Giuốc - đanh sung sướng, hả dạ như nở từng khúc ruột, cứ tưởng rằng chỉ cần mặc quần áo quý tộc là trở thành ông lớn. Y lập tức hào phóng thưởng tiền cho 2 tiếng tôn vinh cao quý và kịp thời ấy.
- Nhưng bọn thợ phụ ranh mãnh lại tiếp tục hót tung hô Giuôc- đanh lên cao hơn:"cụ lớn"-> Giuốc đanh mê mẩn tâm thần, quá ư sung sướng:
"Cụ lớn không phải là một tiếng tầm thường đâu nhé. Cái tiếng cụ lớn đáng thưởng lắm" và tiền thưởng lại được vung ra hào phóng.
- Được thể vì moi tiền qua dễ, đám thợ phụ lại tiếp tục tâng bốc ông chủ háo danh lên đến bậc đức ông, niềm hân hoan tràn ngập trong lòng Giuốc - đanh.
vì được đi tầu bay giấy quá cao: Lại đức ông nữa! Hà hà!Hà hà!...Đây thưởng cho chú về tiếng đức ông đấy nhé.
? Chỉ ra ý nghĩa của 2 lời thoại cuối cùng của Giuốc - đanh? Những câu nói ấy chứng tỏ điều gi?
GV chiếu kiến thức chuẩn
- Mặc dù y chưa đến nỗi mất trí, y vẫn còn lo mất cả túi tiền nếu được tôn làm tướng công nhưng 2 lời thoại của Giuốc - đanh chứng tỏ dục vọng được làm quý tộc, tính cách giả học làm sang của y còn rất mãmh liệt. Ông sẵn sàng cho hết cả túi tiền của mình để lại được tôn vinh, để được là sang.
? Nhận xét kịch tính mà Mô - li - e đã xây dựng ở đoạn kịch này và tác dụng của nó?
GV chiếu kiến thức chuẩn.
- Kịch tinh tăng dần làm nổ ra những trận cười châm biếm thói hơm hĩnh, háo danh, ưa phỉnh nịnh, thích được tâng bốc của bọn PK lỗi thời, bọn tư sản đang lên nhưng chứa đầy ung nhọt.
? Lớp kịch gây cười cho khán giả ở những khía cạnh nào? Hãy chỉ rõ?
- KHán giả cười ông Giuốc - đanh vì sự ngu dốt chẳng biết gì, vì thói học đòi làm sang mà bị bác phó may và tay thợ phụ lợi dụng để kiếm chác. Người ta cười khi thấy ông cứ moi tiền ra mãi để mua cái danh hão.
- Khán giả còn cười đến vỡ rạp khi được tận mắt trên sấn khấu ông Giuốc - đanh bị 4 tay thợ phụ lột quần áo ra mặc cho bộ lễ phục lố lăng theo nhịp điệu, màu sắc vớ vẩn lại bị hoa ngược mà cứ vênh vang ra vẻ ta đây là nhà quý phái. Đúng là sự là sang1 cách kệch cỡm, lố bịch, trở thành trò đùa cho mọi người.
G: Ông Giuốc - đanh xứng đáng là một nhân vật hài kịch của 1 kiệt tác hài kịch "Trưởng giả học làm sang
Đọc cảnh 2.
- Trả lời
H ghi
H: Trả lời
HĐN, báo cáo
H ghi
H: trả lời
H ghi
H ghi
H: Trả lời
b, Ông Giuốc - đanh và tay thợ phụ:
- ông Giuốc - đanh:
+ Hơm hĩnh, lố bịch như một thằng hề-> nực cười
+ Được tôn vinh là ông lớn, cụ lớn, đức ông
+ Bị moi tiền những vẫn hả hê, sung sướng đến mê mẩn tâm thần.
+ Tính cách trưởng giả học làm sang rất mãnh liệt.
-> Kịch tính đựơc phát triển tăng dần.
? Thái độ của tác giả thể hiện ntn qua lớp kịch?
GV chiếu kiến thức chuẩn
Mô -li-e đã châm biếm, giễu cợt và đả kích sự ngu dốt, ngờ nghệch, thói háo danh vô cùng lố bịch của Giuốc - đanh, điển hình cho bọn trưởng giả học đòi quý tộc, học đòi làm sang.\
- Tiếng cười trong hài kịch Môlie là tiếng cười có giá trị phê phán sâu sắc, mang ý nghĩa xã hội rất tiến bộ.
HĐ cặp, báo cáo
H ghi
c. Thái độ của tác giả
- Châm biếm, đả kích sự ngu dốt, thói háo danh vô cùng lố bịch của bọn trưởng giả học đòi làm sang.
Hoạt động 3: Tổng kết:
? NT đặc sắc của lớp kịch"Ông Giuốc - đanh mặc lễ phục"? Em hiểu gì về nhân vật ông Giuốc - đanh?
GV chuẩn chiếu lên màn chiếu.
? Đọc ghi nhớ SGK/122
Lớp 5 của hồi 2 đã khép lại nhưng chân tướng của một trưởng giả học làm sang thì vẫn còn gây ấn tượng mãi. Lớp kịch đã thể hiện NT châm biếm bậc thầy của Mô-li-e, tạo lên những trận cười thoải mái cho khán giả. Có thể nói ở đây, sân khấu cũng là cuộc đời. Cuộc đời cũng là sân khấu.
? Nhân vật ông Giuốc - đanh mặc lễ phục trên sấu khấu khiến ta liên hệ liên tưởng đến câu chuyện nào của nhà văn Đan Mạch An-đec-xen?
- Truyện"Bộ quần áo mới của hoàng đế"
HĐN, báo cáo
H ghi
H đọc ghi nhớ SGK
H trả lời
III. Tổng kết:
1. Nghệ thuật:
- Xây dựng nhân vật hết sức sinh động: khắc hoạ tài tình tính cách lố lăng của tay trưởng giả.
- Châm biếm, đả kích sắc xảo.
2. Nội dung:
- Phê phán thói học đòi làm sang của Ông Giuốc - đanh một cách kệch cỡm, lố bịch, trở thành trò đùa cho mọi người, để dễ bị lợi dụng.
3. Ghi nhớ: SGK/122
Củng cố, luyện tập
Hoạt động
của giáo viên
Hoạt động
của học sinh
Nội dung cần đạt
1. Chiếu nội dung trắc nghiệm cho học sinh làm để tìm hiểu việc nắm kiến thức của học sinh.
- Chữa bài:
2. Giáo viên cho các tổ đóng kịch theo các cảnh.
(Hoặc cho học sinh xem trích đoạn kịch)
GV nhận xét, tuyên dương.
Theo dõi, trả lời
H đóng theo sự phân công từ trước.
1. Mô -li - e là nhà văn nước?
A. Nga C. Đức
B. Mĩ D.Pháp
2. Hoàn cảnh xuất thân của ông Giuốc - đanh là gì?
A. Trong một gia đình thượng lưu quý tộc.
B. Trong một gia đình thương nhân giàu có.
C. Trong một gia đình trí thức.
D. Trong một gia đình nông dân.
3. Ông Giuốc đanh mặc lễ phục nằm ở vị trí nào trong vở kịch"Trưởng giả học làm sang"?
A. Kết thúc hồi 2 của vở kịch.
B. Mở đầu hồi 2 của vở kịch
C. Kết thuc cả vở kịch
D. Kết thúc hồi III vở kịch
4. Thái độ của Ông Giuôc- đanh khi nghe bác phó may giải thích những người quý phái đều mặc hoa ngược ntn?
A. Chê chiếc áo may hoa ngược và yêu cầu bác phải may lại.
B. Chấp nhận chiếc áo may hoa ngược và tỏ ý mặc thử nó.
C. Tán thưởng vẻ sang trọng của chiếc áo may hoa ngược.
D. Thắc mắc thắc tại sao những người quý phái lại mặc áo hoa ngược.
5. Quan thái độ của Ông Giuốc - đanh đối với chiếc áo may hoa ngược, em thấy ông ta là người ntn?
A. Cầu kỳ trong vấn đề ăn mặc.
B. Dốt nát, kém hiểu biết.
C. Thích những cái lạ mắt.
D. Hài hước và hóm hỉnh.
6. Mục đích của nhà văn khi khắc họa những động tác:"cởi áo, mặc áo, chân bước, miệng nói" của Giuốc- đanh diễn ra theo nhịp của dàn nhạc để:
A. Khắc hoạ sinh động hơn thói học đòi làm sang của Giuốc - đanh và tạo nên tiếng cười sảng khoái cho khán giả.
B. Tạo không khí vui nhộn, sinh động cho cảnh mới nhằm thu hút sự chú ý của khán giả.
C. Chễ giễu sự kém hiểu biết và quê kệch của Giuốc - đanh.
D. Diễn tả cụ thể những động tác, cử chỉ nực cười của ông Giuốc - đanh.
7. Vì sao ông Giuốc - đanh thưởng tiền cho các chú thợ phụ?
A. Vì họ đã gọi ông ta là "ông lớn", "cụ lớn", "đức ông".
B. Vì họ giúp ông ta mặc lễ phục theo đúng thể thức quý phái.
C. Vì họ khen nức nở bộ lễ phục của ông.
D. Vì họ đã hầu hạ ông rất chu đáo.
8. Vì sao ông Giuốc - đanh cho rằng các chú thợ phụ gọi mình là "đức ông" là vừa phải?
A. Vì ông ta mãn nguyện với những lời tung hô đó.
B. Vì ông sợ mất tong cả tiền để thưởng cho các chú thợ phụ.
C. Vì ông thích được tâng bốc, nịnh hót.
D. Vì ông thấy đó là những lời giả dối.
V. HDVN:
- Thuộc ND ghi nhớ/sgk.
- Chứng minh nhân vật ông Giuốc - đanh là một nhân vật hài kịch?
- Chuẩn bị bài: Lựa chọn trật tự từ trong câu(luyện tập)
D. Rút kinh nghiệm:
2. Khảo sát kết quả.
Câu hỏi kiểm tra kiến thức sau giờ học:
Các câu hỏi và bài tập trong phần luyện tập.
3. Kết quả khảo sát tại trường THCS Xuân Thượng.
3.1. Đối tượng khảo sát:
- Giáo viên dạy Ngữ văn lớp 8 là một số giáo viên văn trong tổ xã hội: 04
- Học sinh khối lớp 8: 59 em(hai lớp 8A, 8B)
3.2. Câu hỏi khảo sát.
3.2.1. Đối với học sinh.
1. Suy nghĩ của em sau khi học xong văn bản"Ông Giuốc- đanh mặc lễ phục"
Thích
Bình thường
Không thích
2. Lý do em chọn câu trả lời trên.
Lý do chủ quan
Lý do khách quan
Tác phẩm hay, có ý nghĩa
Tác phẩm không hay, khó hiểu
Tác phẩm không có nội dung, không hấp dẫn
Lý do khác
Giáo viên dạy dễ hiểu, hấp dẫn
Giáo viên dạy thiếu sinh động, ấp đặt
Lí do khác
3. Theo em, giáo viên dạy văn bản"Ông Giuốc - đanh mặc lễ phục" hấp dẫn vì:
Có nhiều kiến thức
Có phương pháp dạy học gây hứng thú, tích cực ở học sinh
Sử dụng nhiều phương tiện dạy học hiện đại
ý kiển của em
4. Theo em, giáo viên dạy văn b"Ông Giuốc - đanh mặc lễ phục" thiếu hấp dẫn vì:
Không có phương pháp dạy hứng thú
Sử dụng các tài liệu tham khảo không hiệu quả
Phương tiện dạy học lạc hậu
ý kiến của em
5. Khi học văn bản kịch, đọc theo hình thức phân vai em suy nghĩ như thế nào?
Thích
Bình thường
Không thích
3.2.2. Đối với giáo viên.
1. Sau khi đã dự tiết dạy mẫu văn bản "Ông Giuốc - đanh mặc lễ phục", theo đồng chí dạy văn bản này dễ hay khó?
A. Dễ
B. Bình thường
C. Khó
D. Rất khó
2. Vì sao đồng chí lại chọn ý kiến trên.
3. Trong việc dạy mẫu này, giáo viên có gây được hứng thú cho học sinh khi tìm hiểu văn bản không? Vì sao?
4. Theo đồng chí, dạy văn bản kịch giáo viên có nhất thiết cho học sinh đọc phân vai không? Vì sao?
5. Theo đồng chí, để có một giờ dạy văn bản"Ông Giuốc - đanh mặc lễ phục" nói riêng và dạy văn bản nước ngoài nói chung muốn có hiệu quả cần có những yêu cầu cơ bản nào?
3.3. Kết quả khảo sát.
3.3.1. Về học sinh.
Sau khi được học xong văn bản"Ông Giuốc - đanh mặc lễ phục" theo định hướng thể loại và đổi mới phương pháp dạy học theo hương tích hợp, tích cực, tỉ lệ học sinh hiểu bài và thích học văn tăng lên đáng kể, đặc biệt là tác phẩm kịch. Cụ thể trong tổng số 59 em tham gia khẩo sát có đến 42 em nắm chắc được kiến thức liên quan đến văn bản(chiểm tỷ lệ 71,1%) tăng so với khảo sát ban đầu
3.3.2. Về giáo viên.
Tất cả giáo viên tham gia khảo sát đều nhất trí cho rằng văn bản"Ông Giuốc - đanh mặc lễ phục" nói riêng và văn học nước ngoài nói chung rất cần thiết phải đổi mới phương pháp dạy học theo đặc trưng thể loại và sử dụng phương tiện dạy học phù hợp(chiếm 100%) nhằm gây hứng thú cho học sinh, làm giờ học sinh động, hấp dẫn và nhẹ nhàng hơn.
Trên tổng số 04 giáo viên tham gia khẩo sát có 3 giáo viên thấy dễ hơn khi dạy văn bản"Ông Giuốc - đanh mặc lễ phục"(chiếm tỷ lệ 75%)
Phần kết luận
Vấn đề dạy học và đọc hiểu tác phẩm văn học nước ngoài nói chung và dạy hài kịch Mô - li - e nói riêng theo định hướng thể loại và đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích hợp và tích cực đang trở thành vấn đề then chốt cho việc dạy và học của giáo viên và học sinh trong nhà trường THCS. Làm thế nào để nâng cao chất lượng giảng dạy và học tác phẩm này cũng như phần văn học nước ngoài trở lên đơn giản, gây hứng thú cho học sinh và giáo viên cần nhiều thời gian nghiên cứu, suy ngẫm và giảng dạy thực tế. Tuy nhiên cũng cần phải nhấn mạnh đến một góp phần làm nên thành công của giờ học đòi hỏi phải có nhiều yếu tố: Sự chuẩn bị giáo án của thầy, chuẩn bị tìm hiểu ở nhà của trò, sự nỗ lực tích cực của trò trên lớp. Giáo viên vận dụng nhiều phương pháp trong một giờ dạy. Đặc biệt quan trọng là trong thiết kế bài dạy của thầy có được một hệ thống câu hỏi khai thác kiến thức theo hướng tích cực và tích hợp thật tối ưu, phù hợp với đối tượng học sinh, phù hợp với quỹ thời gian cho phép(45 phút). Quan đó, khơi dậy lòng yêu văn chương, muốn tìm hiểu cái hay, cái đẹp, cái mới của từng tác phẩm.
Thực hiện đề tài này, do điều kiện thời gian có hạn, kinh nghiệm và khả năng còn hạn chế mà vấn đề khoa học đặt ra không đơn giản, tài liệu tham khảo, nghiên cứu chưa phong phú cho nên bài tập mới chỉ giải quyết được phần nào vấn đề: đọc hiểu và dạy học Hài kịch Mô-li-e theo chương trình cơ sở mới qua trích đoạn"Ông Giuốc - đanh mặc lễ phục" từ vở kịch Trưởng giả học là sang. Trước yêu cầu mới về chương trình và phương pháp dạy học hiện nay, chúng tôi hy vọng rằng bài tập sẽ nhận được những lời đóng góp, nhận xét của thầy giáo hướng dẫn và bạn bè đồng nghiệp để tôi tiếp tục suy nghĩ, nghiên cứu, rút kinh nghiệm và hoàn thiện tốt hơn đề tài của mình.
Từ thực tế nghiên cứu bài tập và đặc biệt là giáo viên trực tiếp giảng dạy ở trường THCS tôi xin đề xuất một số kiến nghị sau:
- Đối với văn bản là kịch bản văn học, cần có thêm phương pháp định hướng cho giáo viên.
- Tăng cường thêm những kiến thức lịch sử và văn học cho giáo viên.
- Bổ sung tư liệu mới có liên quan đến tác phẩm dưới dạng chuyên đề văn học.
- Tăng thêm thời gian giảng dạy văn bản kịch ở khối lớp 8.
Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo, các bạn đồng nghiệp đã giúp đỡ tôi trong suốt thời gian thực hiện bài tập này.
Nam Định, tháng 6 năm 2010.
Người thực hiện
Đặng Thị Tuyết Mai
Tài liệu tham khảo
1. PGS.TS Lê Nguyễn Cẩn, giáo trình Văn học Phương Tây từ Cổ đại Hi Lạp đến thế kỷ XVIII, NXB Đại học Sư phạm, 2006.
2. Trần Đình Chung, Hệ thống câu hỏi đọc - hiểu văn bản Ngữ văn 8, NXB Giáo dục, 2004.
3. Trần Đình Chung, Dạy học văn bản Ngữ văn THCS theo đặc trưng phương thức biểu đạt, NXB Giáo dục, 2006.
4. Nguyễn Viết Chữ, Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương, NXB Hà Nội, 2003.
5. Nguyễn Văn Đường(chủ biên), Thiết kế bài giảng Ngữ văn 8, NXB Hà Nội, 2003.
6. Phan Trọng Luận(chủ biên), Phương pháp dạy học văn(tập 1), NXB Giáo dục, 2001.
7. Nguyễn Khắc Phi(Tổng chủ biên), Sách giáo viên Ngữ văn 8 (tập 2), NXB Giáo dục, 2006.
8. Trần Đình Sử(chủ biên), giáo trình lí luận văn học(tập 2), NXB Giáo dục,1987.
9. Nhiều tác giả, Bồi dưỡng Ngữ văn 8, NXB giáo dục, 2004.
10. Nhiều tác giả, Giáo trình Văn học Phương Tây, NXB giáo dục, 2003.
11. Nhiều tác giả, Từ điển thuật ngữ Văn học, NXB Giáo dục, 2007.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Vấn đề dạy học và đọc hiểu hài kịch mô-li-e theo chương trình thcs mới qua trích đoạn ông giuốc-đanh mặc lễ phục từ vở kịchtrưởng giả học làm sang.doc