Từ những phân tích trên ta có thể nói Công nghiệp hóa là một quá trình tất yếu để đưa đất nước ta từ một nước nghèo nàn, lạc hậu trở thành một nước công nghiệp phát triển để từng bước tiến lên sánh vai với các cường quốc năm châu. Những thành tựu và kinh nghiệm mà chúng ta đã đạt được đã tạo tiền đề cho phép Đảng ta quyết định chuyển mọi hoạt động của đất nước sang thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh và vựng chắc tiến trên con đường xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện được điều đó nước ta đang chú trọng đổi mới quan hệ sản xuất cho phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất( một quy luật tất yếu quyết định đối với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước).
Là một sinh viên và sau này sẽ là một cử nhân kinh tế, chúng ta cần phải thấy rõ vai trò của quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất đối với sự phát triển kinh tế, có như vậy chúng ta mới có thể đưa nền kinh tế Việt Nam ngày một phát triển, rút ngắn khoảng cách lạc hậu với các quốc gia trên thế gới.
36 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5379 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Vấn đề đổi mới lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i. Ba mặt quan hệ đó trong quá trình sản xuất xã hội luôn gắn bó với nhau, tạo thành một hệ thống mang tính ổn định tương đối so với sự vận động không ngừng của lực lượng sản xuất. Các quan hệ sản xuất của một phương thức sản xuất là một hệ thống bao gồm nhiều mối quan hệ phong phú và đa dạng biểu hiện dưới nhiều hình thức. Mỗi mặt quan hệ của hệ thống quan hệ sản xuất có vai trò và ý nghĩa riêng biệt, xác định, khi nó tác động tới nền sản xuất xã hội nói riêng và tới toàn bộ tiến trình lịch sử nói chung.
Tính chất của quan hệ sản xuất trước hết được quy định bởi quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất- biểu hiện thành chế độ sở hữu- là đặc trưng cơ bản của phương thức sản xuất. Trong hệ thống các quan hệ sản xuất của mỗi nền kinh tế- xã hội xác định, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất luôn luôn có vai trò quyết định đối với tất cả các quan hệ xã hội khác . Quan hệ sở hữu là quan hệ xuất phát, quan hệ cơ bản, quan hệ trung tâm của các quan hệ sản xuất. Chính quan hệ sở hữu- quan hệ giữa các tập đoàn người trong việc chiếm hữu các tư liệu sản xuất đã quy định địa vị của từng tập đoàn trong hệ thống sản xuất xã hội. Đến lượt mình, địa vị của từng tập đoàn người trong hệ thống sản xuất lại quy định cách thức mà các tập đoàn trao đổi hoạt động cho nhau, quy định cách thức mà các tập đoàn tổ chức quản lý quá trình sản xuất. Cuối cùng, chính quan hệ sở hữu là cái quyết định phương thức phân phối sản phẩm cho các tập đoàn người theo địa vị của họ đối với hệ thống sản xuất xã hội. “ Định nghĩa quyền sở hữu tư sản không phải là gì khác mà là trình bày tất cả những quan hệ xã hội của sản xuất tư sản”.( 7).
Trong các hình thái kinh tế- xã hội mà loài người đã từng trải qua, lịch sử đã chứng kiến sự tồn tại của hai loại hình thức sở hữu cơ bản đối với tư liệu sản xuất: sở hữ tư nhân và sở hữu công cộng. Sở hữu công cộng là loại hình mà trong đó tư liệu sản xuất thuộc về mọi thành viên của mỗi cộng đồng. Nhờ cơ sở đó nên về mặt nguyên tắc, các thành viên của mỗi cộng đồng bình đẳng với nhau trong tổ chức lao động và trong phân phối sản phẩm. Do tư liệu sản xuất là tài sản chung của cả cộng đống nên các quan hệ xã hội trong sản xuất vật chất và trong đời sống xã hội nói chung, trở thành quan hệ hợp tác, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau. Ngược lại, trong các chế độ tư hữu, do tư liệu chỉ nằm trong tay một số ít người nên của cải xã hội không thuộc về số đông mà thuộc về số ít người đó. Các quan hệ xã hội, do vậy, trở thành bất bình đẳng, quan hệ thống trị và bị trị. Đối kháng xã hội trong các xã hội tồn tại chế độ tư hữu tiềm tàng khả năng trở thành đối kháng gay gắt. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lê nin đã chỉ rõ trong các chế độ sở hữu tư nhân của các xã hội điển hình trong lịch sử( sở hữu tư nhân của xã hội chiếm hữu nô lệ, sở hữu tư nhân trong chế độ phong kiến và sở hữu tư nhân trong chế độ tư bản) thì chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa là đỉnh cao của loại sở hữu này.
C. Mác và Ph. Ăngghen đã chứng minh rằng chế đọ tư bản chủ nghĩa không phải là hình thức sở hữu cuối cùng trong lịch sử xã hội loài người. Chủ nghĩa xã hội dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, dù sớm hay muộn cũng sẽ đóng vai trò phủ định đối với chế độ tư hữu.
Trong hệ thống các quan hệ sản xuất, các quan hệ về mặt tổ chức, quản lý sản xuất là các quan hệ có khả năng quyết định một cách trực tiếp quy mô, tốc độ, hiệu quả và xu hướng của mỗi nền sản xuất cụ thể. Bằng cách nắm bắt các nhân tố xác định của một nền sản xuất, điều khiển và tổ chức cách thức vận động của các nhân tố đó, các quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất có khả năng đẩy nhanh hoặc kìm hãm các quá trình khách quan của sản xuất.
Các quan hệ về mặt tổ chức và quản lý sản xuất luôn luôn có xu hướng thích ứng với kiểu quan hệ sở hữu thống trị của mỗi nền sản xuất cụ thể. Do vậy, việc sử dụng hợp lý các quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất sẽ cho phép toàn bộ hệ thống quan hệ sản xuất có khả năng vươn tới tối ưu. Trong trường hợp ngược lại, các quan hệ quản lý và tổ chức có thể làm biến dạng quan hệ sở hữu, ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển kinh tế- xã hội.
Hiện nay, nhờ ứng dụng những thành tựu to lớn của khoa học quản lý hiện đại nên vai trò của các quan hệ tổ chức và quản lý đối với sản xuất, đặc biệt đối với việc điều hành sản xuất, đặc biệt đối với việc điều hành sản xuất ở tầm vĩ mô, trên thực tế đã tăng lên gấp bội so với vài thập kỷ trước đây. Đây là điều rất đáng lưu ý trong việc phân tích và đánh giá vai trò của các quan hệ sản xuất hiện đại.
Bên cạnh các quan hệ về mặt tổ chức- quản lý, trong hệ thống các quan hệ sản xuất, các quan hệ về mặt phân phối sản phẩm lao động cũng là những nhân tố có ý nghĩa hết sức to lớn đối với sự vân động của toàn bộ nền kinh tế- xã hội.
Mặc dù bị phụ thuộc vào các quan hệ sở hữu và vào trình độ tổ chức quản lý sản xuất, song do có khả năng kích thích trực tiếp vào lợi ích của con người, nên các quan hệ phân phối là “ chất xúc tác” của các quá trình kinh tế- xã hội. Quan hệ phân phối có thể thúc đẩy tốc độ và nhịp điệu của sự sản xuất, làm năng động toàn bộ đời sống kinh tế- xã hội; hoặc trong trường hợp ngược lại, nó có khả năng kìm hãm sản xuất, kìm hãm sự phát triển của xã hội.
4- Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau mà tác động biện chứng lẫn nhau hình thành quy luật phổ biến của toàn bộ lịch sử loài người- Quy luật về sự phù hợp quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Quy luật này vạch ra tính chất phụ thuộc khách quan của quan hệ sản xuất vào sự phát triển của lực lượng sản xuất. Đến lượt mình, quan hệ sản xuất tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất.
Tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất
Khuynh hướng của sản xuất xã hội là không ngừng biến đổi theo chiều hướng tiến bộ. Sự biến đổi đó, xét đến cùng, bao giờ cũng bắt đâù từ sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết là của công cụ lao động. Do vậy, lực lượng sản xuất là yếu tố có tác dụng quyết định đối với sự biến đổi của phương thức sản xuất: Trình độ của lực lượng sản xuất trong từng giai đoạn của lịch sử loài người thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người trong giai đoạn lịch sử đó. Khái niệm trình độ của lực lượng sản xuất nói lên khả năng của con người thông qua việc sử dụng công cụ lao động thực hiện quá trình cải biến giới tự nhiên nhằm đảm bảo cho sự sinh tồn và phát triển của mình. Trình độ của lực lượng sản xuất thể hiện ở:
+ Trình độ tổ chức lao động xã hội.
+ Trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất.
+ Kinh nghiệm và kỹ năng lao động của con người.
+ Trình độ phân công lao động.
Trình độ của phân công lao động thể hiện rõ ràng nhất trình độ của lực lượng sản xuất.
Bên cạnh khái niệm trình độ của lực lượng sản xuất, còn có khái niệm tính chất của lực lượng sản xuất. Chính Ph. Ăngghen đã sử dụng khái niệm này để phân tích lực lượng sản xuất trong các phương thức sản xuất khác nhau. Tính chất của lực lượng sản xuất là tính chất của quá trình sản xuất ra sản phẩm. Quá trình này phụ thuộc vào tính chất của tư liệu sản xuất và lao động. Lực lượng sản xuất có tính chất cá nhân thể hiện tính chất của tư liệu sản xuất là sử dụng công cụ thủ công và tính chất của lao động là lao động riêng lẻ. Những công cụ sản xuất như búa, rìu, cày bừa, xa quay sợi... do một người sử dụng để sản xuất vật dùng, không cần tới lao động tập thể, lực lượng sản xuất cóa tính chất cá nhân. Khi máy móc ra đời đòi hỏi phải có nhiều người mới sử dụng được, để làm ra một sản phẩm cần phải có sự hợp tác của nhiều người. Mỗi người làm một bộ phận công việc mới hoàn thành được sản phẩm ấy cho nên lực lượng sản xuất mang tính chất xã hội hóa. Ph. Ăngghen đã nhận định giai cấp tư sản “ không thể biến những tư liệu sản xuất có hạm ấy thành những lực lượng sản xuất hùng mạnh mà lại không biến chúng từ chỗ là tư liệu sản xuất do cá nhân sử dụng thành những tư liệu sản xuất xã hội, chỉ có thể được sử dụng chung bởi một số đông người”( 8). Trên thực tế, tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất không tách biệt với nhau.
Quan hệ sản xuất được hình thành, biến đổi, phát triển do lực lượng sản xuất quyết định.
Trong quá trình sản xuất để lao động bớt nặng nhọc và đạt hiệu quả cao hơn, con người luôn luôn tìm cách cải tiến, hoàn thiện công cụ lao động và chế tạo ra những công vụ lao động mới, tinh xảo hơn. Cùng với sự biến đổi và phát triển của công cụ lao động thì kinh nghiệm sản xuất, thói quen lao động, kỹ năng sản xuất, kiến thức khoa học của con người cũng tiến bộ. Lực lượng sản xuất trở thành yếu tố hoạt động nhất, cách mạng nhất. Còn quan hệ sản xuất là yếu tố tương đối ổn định, có khuynh hướng lạc hậu hơn sự phát triển của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất là nội dung của phương thức sản xuất, còn quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của nó. Trong mối quan hệ giữa nội dung và hình thức thì nội dung quyết định hình thức; hình thức phụ thuộc vào nội dung; nội dung thay đổi trước, sau đó hình thức mới biến đổi theo. Tất nhiên, trong quan hệ với nội dung , hình thức không phải là mặt thụ động, nó cũng tác động trở lại đối với việc phát triển của nội dung.
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất cũng hình thành, biến đổi cho phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp đó là động lực cho lực lượng sản xuất pats triển mạnh mẽ. Nhưng, lực lượng sản xuất luôn phát triển còn quan hệ sản xuất có xu hướng tương đối ổn định. Khi lực lượng sản xuất phát triển lên một trình độ mới, quan hệ sản xuất không còn phù hợp với nó nữa, trở thành chướng ngại đối với sự phát triển của nó, sẽ nảy sinh mâu thuẫn gay gắt giữa hai mặt của phương thức sản xuất. Sự phát triển khách quan đó tất yếu dẫn đến việc xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ, thay thế bằng một kiểu quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ mới của lực lượng sản xuất, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển.
Việc xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ, thay thế nó bằng quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa là sự diệt vong của một phương thức sản xuất đã lỗi thời và sự ra đời của một phương thức mới. Trong xã hội có giai cấp đối kháng, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mới và quan hệ sản xuất lỗi thời là cơ sở khách quan của các cuộc đấu tranh giai cấp, đồng thời cũng là tiền đề tất yếu của các cuộc cách mạng xã hội. C. Mác đã nhận định: “ Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có... trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội”( 9). đó là nội dung quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử chứng minh vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất song cũng chỉ rõ rằng quan hệ sản xuất bao giờ cũng thể hiện tính độc lập tương đối với lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội mà lực lượng sản xuất dựa vào đó đó để phát triển, nó tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất: có thể thúc đẩy hoặc lìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất trở thành động lực cơ bản thúc đẩy mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại, quan hệ sản xuất lỗi thời không còn phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, bộc lộ mâu thuẫn gay gắt với lực lượng sản xuất thì trở thành “ xiềng xích trói buộc” kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Song tác dụng kìm hãm đó chỉ là tạm thời, theo tính tất yếu khách quan, cuối cùng nó sẽ bị thay thế bằng kiểu quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
Sở dĩ quan hệ sản xuất có thể tác động mạnh mẽ trở lại đối với lực lượng sản xuất( thúc đẩy hoặc kìm hãm), vì nó quy định mục đích của sản xuất, quy định hệ thống tổ chức quản lý sản xuất và quản lý xã hội, quy định phương thức phân phối phần của cải ít hay nhiều mà người lao động được hưởng. Do đó ảnh hưởng đến thái độ của quảng đại quần chúng lao động- lực lượng sản xuất chủ yếu của xã hội; nó tạo ra những điều kiện hoặc kích thích hoặc hạn chế việc cải tiến công cụ lao động, áp dụng những thành tựu khoa học và kỹ thuật vào sản xuất, hợp tác và phân công lao động....
Tuy nhiên, không được hiểu một cách giản đơn tính tích cực của quan hệ sản xuất chỉ là vai trò của những hình thức sở hữu. Mỗi kiểu quan hệ sản xuất là một hệ thống, một chỉnh thể hữu cơ gồm cả ba mặt: quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối. Chỉ trong chỉnh thể đó, quan hệ sản xuất mới trở thành động lực thúc đẩy con người hành động nhằm phát triển sản xuất.
Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất là quy luật chung nhất của sự phát triển xã hội. Sự tác động của quy luật này đã đưa xã hội loài người trải qua các phương thức sản xuất: công xã nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và phương thức sản xuất cộng sản tương lai.
Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất là quy luật vận động, phát triển của xã hội qua sự thay thế kế tiếp nhau từ thấp lên cao của các phương thức sản xuất. Nhưng không phải bất cứ nước nào cũng phải nhất thiết, tuần tự trải qua tất cả các phương thức sản xuất mà loài người đã biết đến. Thự tế phát triển của lịch sử nhân loại cho thấy, tùy theo điều kiện lịch sử- cụ thể, một số nước có thể bỏ qua một hoặc một số phương thức sản xuất để tiến lên phương thức sản xuất mới cao hơn. Đó chính là sự biểu hiện của quy luật chung trong điều kiện cụ thể của mỗi nước. Quy luật chung chi phối sự vận động phát triển của tất cả các nước; còn hình thức, bước đi cụ thể lại tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của mỗi nước.
II- Cơ sở lý luận của quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa
1-Khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính, sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển và tiến bộ khoa học- công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
2- Tính tất yếu khách quan của công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Mỗi phương thức sản xuất xã hội nhất định có một cơ sở vật chất- kỹ thuật tương ứng.
Cơ sở vật chất của một xã hội là toàn bộ hệ thống các yếu tố vật chất của lực lượng sản xuất xã hội phù hợp với trình độ kỹ thuật( công nghệ) tương ứng mà lực lượng lao động xã hội sử dụng, tác động vào để sản xuất ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu xã hội.
Chỗ dựa để xem xét sự biến đổi của cơ sở vật chất- kỹ thuật của một xã hội là: sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất; sự phát triển khoa học- kỹ thuật; tính chất và trình độ của các quan hệ xã hội, đặc biệt là quan hệ sản xuất thống trị.
Nói cơ sở vật chất- kỹ thuật của một phương thức sản xuất nào đó là nói cơ sở vật chất- kỹ thuật đó đạt đến một trình độ nhất định làm đặc trưng cho phương thức sản xuất đó được khẳng định sự thay thế phương thức sản xuất cũ và được phát triển đúng trên cơ sở bản thân nó.
Đặc trưng của cơ sở vật chất- kỹ thuật của các phương thức sản xuất trước chủ nghĩa tư bản là dựa vào công cụ thủ công, nhỏ bé, lạc hậu. Cơ sở vật chất- kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản, đặc trưng của nó là nền đại công nghiệp cơ khí hóa và chỉ khi xây dựng xong cơ sở đó, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa mới trở thành phương thức sản xuất thống trị.
Chủ nghĩa xã hội- giai doạn thấp của phương thức sản xuất mới cao hơn chủ nghĩa tư bản- đòi hỏi một cơ sở vật chất- kỹ thuật cao hơn trên cả hai mặt: trình độ kỹ thuật và cơ cấu sản xuất, gắn với thành tựu của cách mạng khoa học- kỹ thuật hiện đại.
Do vậy có thể hiểu: Cơ sở vật chất- kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội sẽ là nền công nghiệp lớn hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, có trình độ xã hội hóa cao dựa trên trình độ khoa học- công nghệ hiện đại được hình thành một cách có kế hoạch và thống trị trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Từ chủ nghĩa tư bản hay từ trước chủ nghĩa tư bản quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan và được thực hiện thông qua công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đó là vì: cơ sở vật chất- kỹ thuật là điều kiện trọng yếu nhất, quyết định nhất có liên quan đến sự phát triển về chất đối với lượng sản xuất, và năng suất lao động; đối với việc đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của mọi thành viên trong xã hội và đối với sự thắng lợi cuối cùng của chủ nghĩa xã hội.
Có hai loại nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội: các nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, các nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội chưa qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa( các nước có nền kinh tế kém phát triển).
Đối với những nước phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội, những nước này đã có sẵn nền đại công nghiệp của chủ nghĩa tư bản để lại cho nên chỉ cần điều chỉnh nền đại công nghiệp đó theo yêu cầu của chủ nghĩa xã hội thì về cơ bản đã có cơ sở vật chất- kỹ thuật của xã hội mới. Do đó, vấn đề công nghiệp hóa không cần phải đặt ra. Sở dĩ chúng ta phải điều chỉnh nền đại công nghiệp cơ khí của chủ nghĩa tư bản theo yêu cầu của xã hội vì nền đại công nghiệp cơ khí của chủ nghĩa tư bản dù hiện đại đến đâu chỉ là tiền đề vật chất cho xã hội mới chứ chưa phải là cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội vì nó dựa trên chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, phân bố không đều giữa xá ngành, vùng do đó tất yếu phải điều chỉnh nó.
Đối với những nước có nền kinh tế kém phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội chưa qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, những nước này nền kinh tế lạc hậu chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp. Vì vậy, muốn có cơ sở vật chất- kỹ thuật của nền sản xuất lớn, hiện đại thì phải tất yếu tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là tất yếu khách quan vì:
+ Nó là con đường duy nhất để tạo ra sự phát triển về chất đối với lực lượng sản xuất và năng suất lao động. Chất của lực lượng sản xuất là hệ thống công cụ lao động hiện đại với trình độ công nghệ hiện đại.
+ Công nghiệp hóa tạo điều kiện để đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần ngày càng tăng của mọi thành viên trong xã hội bởi vì công nghiệp hóa sẽ làm cho lực lượng sản xuất phát triển, năng suất lao động tăng, khối kượng của cải sản xuất ra ngày càng nhiều tù đó mới có thể đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của xã hội nói chung và của con người nói riêng.
+ Là con đường duy nhất để đảm bảo sự thắng lợi cuối cùng vủa chủ nghĩa xã hội.
Như vậy, công nghiệp hóa, hiện đại hóa không những là tất yếu mà còn là điều kiện sống còn của chủ nghĩa xã hội. Công nghiệp hóa là tất yếu khách quan đối với những nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong đó có nước ta.
3- Tác dụng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa
- Tạo điều kiện biến đổi về chất lượng sản xuất, tăng năng suất lao động, tăng sức chế ngự của con người đối với tự nhiên, tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế; do đó góp phần ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân; góp phần quyết định sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội.
- Tạo điều kiện vật chất cho việc củng cố tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước; nâng cao năng lực tích lũy, tăng công ăn việc làm, nhờ đó làm tăng sự phát triển tự do và toàn diện trong mọi hoạt động kinh tế của con người- nhân tố trung tâm của nền sản xuất xã hội.
- Tạo điều kiện vật chất cho tăng cường củng cố an ninh và quốc phòng.
- Tạo điều kiện vật chất cho việc xây dựng nền kinh tế dân tộc tự chủ, đủ sức thực hiện sự phân công và hợp tác quốc tế.
Sự phân tích trên cho thấy mối quan hệ gắn bó trực tiếp giữa công nghiệp hóa với lực lượng sản xuất. Công nghiệp hóa là để thực hiện xã hội hóa về mặt kinh tế, kỹ thuật theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nó có tác dụng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng và toàn diện; do vậy, Đảng ta cho rằng: “ Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước... là nhiệm vụ trung tâm”( 10) của thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
4- Nội dung cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa
a- Trang bị kỹ thuật và công nghệ theo hướng hiện đại trong các ngành của nền kinh tế quốc dân
Nội dung này được thực hiện qua hai cách:
* Tiến hành cách mạng khoa học- kỹ thuật, xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật để tự trang bị
Thế giới đã trải qua hai cuộc cách mạng kỹ thuật: cuộc cách mạng kỹ thuật mà nội dung chủ yếu của nó là cơ khí hóa xuất hiện đầu tiên ở nước Anh vào ba mươi năm cuối thế kỷ XVIII và hoàn thành vào những năm 50 đầu thế kỷ Xĩ. Đến khoảng giữa thế kỷ XX xuất hiện cuộc cách mạng khoa học- công nghệ hiện đại. Mờy thập niên đã qua, nhất là thập niên gần đây loài người đang chứng kiến những thay đổi rất to lớn, trên nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị và xã hội. Cuộc cách mạng này có nhiều nội dung, song có 5 nội dung chủ yếu sau
- Về tự động hóa: Máy tự động quá trình, máy công cụ điều khiển bằng số, rô bốt.
- Về năng lượng: Ngoài những dạng năng lượng truyền thống( nhiệt điện, thủy điện) ngày nay đã và đang chuyển sang lấy dạng năng lượng nguên tử là chủ yếu.
- Về vật liệu mới: chỉ trong khoảng chưa đầy 40 năm lại đây các vật liệu mới đã xuất hiện với chủng loại rất phong phú và có nhiều tính chất đặc biệt mà vật liệu tự nhiên không có được. Thí dụ: vật liệu tổ hợp hay còn gọi là composit với các tính chất mong muốn; gốm zin côn hoặc các- bua- si- lích chịu nhiệt cao...
- Về công nghệ sinh học: công nghệ vi sinh, kỹ thuật cuzin, kỹ thuật gen và nuôi cấy tế bào được ứng dụng ngày càng nhiều trong công nghiệp, nông nghiệp, y tế, hóa chất, bảo vệ môi trường...
Vào khoảng những năm 80, cuộc cách mạng khoa học- kỹ thuật( hay công nghệ) hiện đại chuyển sang giai đoạn thứ ba- giai đoạn có nhiều quan điểm khác nhau đặt tên gọi cho nó. Tương ứng với giai đoạn thứ ba cuộc cách mạng này còn có một nội dung mới: điện tử và tin học.
- Về điện tử và tin học: một lĩnh vực vô cùng rộng lớn và hấp dẫn, nhất là lĩnh vực máy tính, diễn ra theo 4 hướng nhanh( máy siêu tính); nhỏ( vi tính); máy tính có xử lý kiến thức( trí tuệ nhân tạo); máy tính nói từ xa( viễn tin học).
Cuộc cách mạng này có hai đặc trưng chủ yếu:
Một là, khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Cách đây hơn 100 năm C. Mác đã từng dự đoán về mối quan hệ và sự phát triển giữa khoa học và lực lượng sản xuất. Người viết “ Thiên nhiên không tạo ra máy móc, đầu xe lửa điện báo... tất cả các thứ đó là thành quả của bộ óc con người, được bàn tay con người tạo ra là sức mạnh tri thức đã được vật hóa. Sự phát triển vốn cố định là chỉ tiêu cho thấy rằng tri thức xã hội chung đã biến thành lượng sản xuất với mức độ cao, và do đó cũng là chỉ tiêu nói lên mức độ phụ thuộc và biến đổi của chính những điều kiện hoạt động xã hội với trí tuệ chung”( 11).
Nói khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp là nó bao gồm cả khoa học tự nhiên- kỹ thuật lẫn khoa học- xã hội, nhất là khoa học kinh té; nó do con người tạo ra thông qua con người- nhân tố trung tâm- nhân tố chủ thể- đến lực lượng sản xuất. Nó đòi hỏi phải có chính sách đầu tư đúng đắn cho khoa học kỹ thuật. Ngày nay, bất cứ sự tiến bộ nào của kỹ thuật( công nghệ) sản xuất đều phải dựa trên những thành tựu của khoa học làm cơ sở lý thuyết cho nó.
Hai là, thời gian cho một phát minh mới của khoa học rút ngắn lại và phạm vi ứng dụng của một thành tựu khoa học vào sản xuất và đời sống ngày càng mở rộng.
ở nước ta, một nước bỏ qua chế độ tư bản đi lên chủ nghĩa xã hội, công nghiệp hóa và hiện đại hóa được tiến hành trong điều kieej thế giới đã trải qua hai cuộc cách mạng khoa học- kỹ thuật diễn ra trong xu hướng toàn cầu hóa, khu vực hóa. Trong hoàn cảnh đó cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật ở nước ta phải bao gồm cơ khí hóa và hiện đại hóa, coi nó là “ then chốt” và coi khoa học- công nghệ “ động lực” cho sự tăng trưởng và phát triển bền vững.
* Việc trang bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại còn được thực hiện thông qua nhận chuyển giao công nghệ mới từ các nước tiên tiến
- Nhận chuyển giao công nghệ mới là cách đi sớm đưa nhanh nước ta lên hiện đại gắn với con đường rút ngắn con đường phát triển hiện đại.
- Thực chất của việc chuyển giao công nghệ mới là sự chuyển đổi quyền sở hữu và quyền sử dụng hàng hóa kỹ thuật công nghệ từ các nước công nghiệp tiên tiến sang các nước có nền kinh tế kém hoặc đang phát triển.
- Nếu như hàng hóa thông thường thì sự vận động của ló đi từ nơi có giá thấp đến nơi có giá cao, thì trái lại hàng hóa kỹ thuật công nghệ lại có đặc điểm đi từ nơi có trình độ cao đến nơi có trình độ thấp.
- Để hiện thực hóa việc chuyển giao cần coi trọng các điều kiện về vốn và đội ngũ làm công tác nhận chuyển giao...
b- Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý và phân công lại lao động xã hội
Từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa trong quá trình công nghiệp hóa tất yếu phải phân công lại lao động xã hội. Phân công lao động xã hội là sự chuyên môn hóa lao động, tức là sự chuyên môn hóa giữa các ngành trong nội bộ từng ngành và giữa từng vùng trong nền kinh tế quốc dân. Phân công lao động có tác dụng rất to lớn: nó là đòn bẩy của sự phát triển công nghệ và năng suất lao động; cùng với cách mạng khoa học kỹ thuật nó góp phần hình thành và phát triển cơ cấu kinh tế hợp lý. Sự phân công lại lao động xã hội trong quá trình công nghiệp hóa tuân thủ các quá trình có tính quy luật sau:
- Tỷ trọng và tuyệt đối lao động nông nghiệp giảm dần; tỷ trọng và số tuyệt đối lao động công nghiệp ngày một tăng lên.
- Tỷ trọng lao động trí tuệ ngày một tăng và chiếm ưu thế so với lao động giản đơn trong tổng lao động xã hội.
- Tốc độ tăng lao động trong các ngành phi sản xuất chất( dịch vụ) tăng nhanh hơn tốc độ tăng lao động trong các ngành sản xuất vật chất.
ở nước ta, phương hướng phân công lại lao động xã hội hiện nay cần triển khai trên cả hai địa bàn: tai chỗ và nơi khác để phát triển về chiều rộng kết hợp phát triển theo chiều sâu.
Trong hai địa bàn này cần ưu tiên địa bàn tại chỗ; nếu cần chuyển sang địa bàn khác( đi vùng kinh tế mới) phải có sự chuẩn bị chu đáo.
Vấn đề phân công lao động xã hội có liên quan chặt chẽ với việc xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý.
Cơ cấu kinh tế hiểu theo nghĩa rộng bao gồm: cơ cấu ngành và lĩnh vực kinh tế, cơ cấu thành phần kinh tế và hướng phát triển tên các vùng kinh tế.
Cơ cấu kinh tế hiểu theo nghĩa hẹp là tổng thể quan hệ kinh tế giữa các ngành, các lĩnh vực kinh tế, giữa các vùng kinh tế... trong đó, quan hệ giữa công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ là ba bộ phận có tầm quan trọng- “ bộ xương” của cơ cấu kinh tế. Các quan hệ này được xem xét dưới các khía cạnh: trình độ công nghệ, quy mô, nhịp điệu phát triển giữa chúng.
Xây dựng cơ cấu kinh tế là yêu cầu cần thiết khách quan của mỗi nước trong thời kỳ công nghiệp hóa. Vấn đề quan trọng là tạo ra một cơ cấu kinh tế tối ưu( hợp lý). Xây dựng một cơ cấu kinh tế được gọi là tối ưu khi nó đáp ứng được các yêu cầu sau:
- Phản ánh được và đúng các quy luật khách quan, nhất là các quy luật kinh tế.
- Phù hợp với xu hướng của sự tiến bộ của khoa học và công nghệ đã và đang diễn ra như vũ bão trên thế giới.
- Cho phép khai thác tối đa mọi tiềm năng của đất nước, ngành, xí nghiệp, cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.
- Thực hiện sự phân công và hợp tác quốc tế theo xu hướng sản xuất và đời sống ngày càng được quốc tế hóa, do vậy, cơ cấu kinh tế được tạo dựng phải là “ cơ cấu mở”.
- Xây dựng cơ cấu kinh tế là một quá trình trải qua những chặng đường nhất định, do vậy xây dựng cơ cấu kinh tế của chặng đường trước phải sao cho tạo được đà cho chặng đường sau.
ở nước ta qua hàng chục năm xây dựng cơ cấu kinh tế đã đem lại những thành công nhất định, tạo dựng được một bộ phận cơ sở vật chất, công nghệ nhất định. Song trong việc bố trí cơ cấu kinh tế có những sai lầm không nhỏ về cơ cấu ngành, chạy theo công nghiệp nặng, cơ khí quá nhiều, xem nhẹ công nghiệp và kết cấu hạ tầng; chạy theo quy mô lớn; công nghệ lạc hậu... Qua nhiều lần đại hội, Nhưng kể từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay, dưới ánh sáng của sự đổi mới nói chung, trong đó có đổi mới việc xây dựng cơ cấu kinh tế, đến nay đã đưa lại chuyển động bước đầu quan trọng.
Thông qua cách mạng khoa học kỹ thuật và phân công lại lao động với những tính quy luật vốn có của nó, thích ứng với điều kiện nước ta, Đảng ta đã xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý: cơ cấu kinh tế công- nông nghiệp- dịch vụ gắn với phân công và hợp tác quốc tế sâu rộng.
Cơ cấu nói trên ở nước ta trong thời kỳ quá độ được thực hiện theo phương châm: kết hợp công nghệ với nhiều trình độ, tranh thủ công nghệ mũi nhọn- tiên tiến vừa tận dụng được nguồn nhân lực dồi dào, vừa cho phép rút ngắn khoảng cách lạc hậu, vừa phù hợp với nguồn vốn có hạn ở trong nước; lấy quy mô vừa và nhỏ là chủ yếu, có tính đến quy mô lớn nhưng phải là quy mô hợp lý và có điều kiện; giữ được nhịp độ( tốc độ) phát triển hợp lý, tạo ra sự cân đối giữa các ngành, các lĩnh vực kinh tế và các vùng trong nền kinh tế...
III- Vấn đề đổi mới quan hệ sản xuất dẫn đến phát triển lực lượng sản xuất trong quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa ở Việt Nam
ở nước ta trong cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp trước đây, đã có lúc chúng ta tưởng rằng có thể thiết lập được một quan hệ sản xuất cao hơn, đi trước để mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Song kết quả lại diễn ra trái với mong muốn của chúng ta. đó là lực lượng sản xuất không phát triển, tình trạng trì trệ kéo dài, hàng hóa sản xuất rra kém chất lượng, giá thành cao không thể cạnh tranh với hàng ngoại, lại khan hiếm không đủ để thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng, đời sống nhân dân rất khó khăn.
Tình hình trên do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau. Song, một trong những nguyên nhân quan trọng là do chúng ta đã áp đặt chủ quan một quan hệ sản xuất không phù hợp với lực lượng sản xuất . Trong điều kiện lực lượng sản xuất còn ở trình độ thấp kém, phổ biến là sản xuất nhỏ nhưng vì muốn tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội, nên chúng ta đã nhấn mạnh quá mức quan hệ sở hữu mà chưa chú ý đúng mức tới quan hệ tổ chức, quản lý và quan hệ phân phối, trao đổi. Từ đó đã dẫn đến việc mở rộng ồ ạt hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể, các thành phần kinh tế khác bị ngăn cấm hoặc
xóa bỏ để chuyển sang kinh tế quốc doanh và tập thể qua các đợt cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh. Bên cạnh đó, việc duy trì quá lâu cơ chế hành chính, tập trung, quan liêu, bao cấp và kèm theo nó là sự phân phối bình quân, lợi ích cá nhân chưa được quan tâm đúng mức đã kìm hãm sức sản xuất của xã hội. Các thành phần kinh tế tư nhân, tư bản nhà nước chưa được phát huy tác dụng. Động lực sản xuất bị giảm, người lao động xa lánh tư liệu sản xuất, thờ ơ với các kế hoạch của tập thể và Nhà nước.
Thực tế phát triển kinh tế ở nước ta gần 40 năm qua đã chứng minh rằng: quan hệ sản xuất kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất không chỉ khi nó trở nên lạc hậu, mà cả khi nó được áp đặt một hình thức đi trước quá xa so với lực lượng sản xuất, một lần nữa quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất lại thể hiện rõ tính tất yếu và tính phổ biến mạnh mẽ của nó bất chấp cả ý muốn chủ quan của con người. Dù mong muốn đẩy mạnh phát triển sản xuất, nhanh chóng thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế, chúng ta cũng không thể bất chấp quy luật, mà trái lại phải tôn trọng và hành động đúng quy luật khách quan. Đó là một trong những bài học lớn mà Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã chỉ rõ.
Đảng ta đã nhận thức đúng quy luật khách quan nên đã có những đướng lối, chủ trương đúng đắn, kịp thời. Chỉ thị 100- CT/ TƯ của ban bí thư ngày 13- 1- 1981 về khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động trong lĩnh vực nông nghiệp là khâu đột phá đầu tiên trong tiến trình đổi mới. Nhưng cái mốc quan trọng đánh dấu sự đổi mới toàn diện và sâu sắc nền kinh tế xã hội là Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng tháng 12 năm 1986.
Với Nghị quyết Đại hội VI, chúng ta đã dứt khoát đoạn tuyệt với cơ chế hành chính, tập trung, quan liêu, bao cấp, chuyển dần kinh tế sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ chế kinh tế mới khuyến khích phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, mở rộng quan hệ kinh tế với các nước, các khu vực trên thế giới, động viên mọi người làm giàu trong khuôn khổ luật pháp cho phép.
Đường lối của đảng đã nhanh chóng đi vào cuộc sống, được nhân dân lao đọng hứng khởi hưởng ứng và đã đem lại nguồn sinh khí mới, tạo đà cho nền kinh tế phát triển nhanh chóng và dần dần đi vào thế ổn định. Sau tám năm thực hiện công cuộc đổi mới, chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng kể: tăng trưởng kinh tế khá, lạm phát được đẩy lùi, đời sống nhân dân được cải thiện từng bước. Sở dĩ có sự chuyển biến đi lên theo hướng vững chắc như vậy chính là nhờ chúng ta đã đổi mới từng bước quan hệ sản xuất cho phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, do đó đã giải phóng sức sản xuất của xã hội, khai thác được các tiềm năng cả ở bên trong và bên ngoài, làm cho lực lượng sản xuất nước ta có những bước phát triển nhảy vọt về chất.
Việc giải phóng lực lượng sản xuất có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong tiến trình đổi mới nền kinh tế nước ta, bởi vì:
Thứ nhất: nền kinh tế nước ta còn kém phát triển do điểm xuất phát thấp, đang ở trạng thái đan xen nhiều loại hình và thành phần kinh tế ở những trình độ rất khác nhau như phân tán và tập trung, thủ công và hiện đại, lạc hậu và tiên tiến... Trong tình hình đó, nếu không kiến tạo được những hình thức quan hệ sản xuất đa dạng thích ứng với trình độ của lực lượng sản xuất ở tất cả các thành phần kinh tế hiện có, chúng ta sẽ không thể khai thác được tiềm năng to lớn của những thành phần kinh tế đó. Vì vậy, thừa nhận sự tồn tại lâu dài và thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần là giải pháp quan trọng nhất để giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta.
Thứ hai: Khi lực lượng sản xuất được giải phóng sẽ tạo ra động lực để khai thác và sử dụng có hiệu quả tất cả các nguồn kực hiện có như nguồn lực nhàn rỗi trong dân cư, tài nguyên thiên nhiên, đất đai, lao động và trí tuệ con người.
Thứ ba: chỉ khi lực lượng sản xuất được giải phóng, mọi tiềm năng sản xuất được gợi mở, khơi thông, chúng ta mới có thể thu hút mạnh mẽ vốn đầu tư của nước ngoài để tranh thủ vốn, kỹ thuật công nghệ hiện đại và tri thức quản lý kinh nghiệm tiên tiến nhằm thúc đẩy nhanh chóng tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh ế nước ta.
Giải phóng lực lượng sản xuất thực chất là giải tỏa, tháo gỡ những lực lượng cản kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất là hai quá trình diễn ra đồng thời và có tác động qua lại hỗ trợ lẫn nhau.
Quá trình phát triển lực lượng sản xuất đòi hỏi chúng ta phải thường xuyên đổi mới quan hệ sản xuất, khai thác và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực có thể có, cả nguồn lực bên trong và bên ngoài. Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại, lực lượng sản xuất của nhiều quốc gia trên thế giới phát triển nhanh chóng và ngày càng mang tính chất quốc tế hóa cao. Do đó giữa các quốc gia trên thế giới hiện nay đang diễn ra xu hướng vừa cạnh tranh gay gắt vừa giao lưu và hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học, công nghệ... Bất cứ quốc gia nào muốn tồn tại và phát triển cũng phải hòa nhập vào xu thế chung đó. Đối với nước ta, để thoát khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước xung quanh, giữ được ổn định chính trị, xã hội, bảo vệ được độc lập chủ quyền và định hướng phát triển xã hội chủ nghĩa thì nhiệm vụ trung tâm có tầm quan trọng hàng đầu trong thời gian tới là phải thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác trên nhiều lĩnh vực với tất cả các nước, các khu vực trên thế giới. Để giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất, chúng ta thừa nhận sự tồn tại lâu dài của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, trong đó có thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Một đất nước vừa phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa lại vừa thừa nhận sự phát triển của thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa. Điều đó không phải là một nghịch lý, vấn đề đặt ra ở đây là, chúng ta sẽ sử dụng chủ nghĩa tư bản như thế nào để phát triển nhanh chóng lực lượng sản xuất mà vẫn xây dựng được đát nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hơn bảy mươi năm trước đây, Chính sách kinh tế mới được Lê nin đề ra cùng với sự thừa nhận, “ toàn bộ quan điểm của chúng ta về chủ nghĩa xã hội đã thay đổi căn bản”( 12) đã cứu vãn kinh tế nước Nga Xô viết trẻ tuổi khỏi sụp đổ. Đó là quan điểm từ bỏ nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp chuyển sang nền kinh tế hàng hóa, mở rộng trao đổi, thực hiện chủ nghĩa tư bản nhà nước. Chủ nghĩa tư bản nhà nước theo Lê nin là cao hơn nhiều so với nền sản xuất nhỏ, rằng: “ Chúng ta phải lợi dụng chủ nghĩa tư bản, ( nhất là bằng cách hướng nó vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước) làm mắt xích trung gian giữa nền tiểu tư sản và chủ nghĩa xã hội, làm phương tiện, con đường, phương pháp, phương thức để tăng lực lượng sản xuất lên”( 13).
Chúng ta sẽ không thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội nếu không xây dựng nền công nghiệp tiên tiến. Nước ta xuất phát từ một nền kinh tế tiểu nông, con đường phát triển mang tính tự phát sẽ là trải qua chủ nghĩa tư bản, song để tránh cho nhân dân khỏi những đau khổ mà chế độ tư bản chủ nghĩa có thể gây ra, Đảng ta dứt khoát lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chúng ta cần sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước như một công cụ hữu hiệu, bắt nhà nước tư bản phải “ cày trên mảnh đất vô sản”, biến thành phần kinh tế tư bản tư nhân thành “ một trợ thủ đắc lực cho chủ nghĩa xã hội”.
Rõ ràng, công cuộc đổi mới đòi hỏi một tư duy mềm dẻo, năng động và nhạy bén, phải “ vận dụng sáng tạo và tiếp tục phát triển chủ nghĩa Mác- Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là tư tưởng của Lê nin về chính sách kinh tế mới, về chủ nghĩa tư bản nhà nước, sáng tạo nhiều hình thức quá độ, những nấc thang trung gian đa dạng, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể để đưa nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội một cách vững chắc”( 14).
IV- Những thành tựu Việt Nam đã đạt được
Sau 10 năm đổi mới, đất nước ta đã trải qua không ít những khó khăn và gặt hái được nhiều thành tựu to lớn về mọi mặt tạo đà thúc đẩy sự phát triển của những giai đoạn kế tiếp.
Cụ thể là chúng ta đã thúc đẩy sự phát triển kinh tế, hoàn thành xuất sắc, vượt nhiều mục tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm; trong 5 năm từ 1991- 1995, nhịp độ tăng bình quân về tổng sản phẩm quốc nội( GDP) đạt 8,2%( vượt kế hoạch là 5,5- 6% và hơn hẳn kế hoạch 5 năm 1986- 1990 là 3,9%); nhịp độ tăng bình quân về sản xuất công nghiệp là 3,3%, sản xuất nông nghiệp là 4,5%, kim ngạch xuất khẩu là 20%. Cơ cấu kinh tế chuyển đổi thu được những tiến bộ: tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP từ 22,6% năm 1990 đến năm 1995 là 29,1%; tỷ trọng dịch vụ từ 38,6% lên 41,9%; vốn đầu tư cơ bản toàn xã hội năm 1990 chiếm 15,8% GDP, đến năm 1995 lên 27,4% GDP; bắt đầu có tích lũy nội bộ nền kinh tế. Nguồn vốn công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiếp nhận từ nước ngoài tăng nhanh; viện trợ ODA năm 1991 là 180 triệu đô la, năm 1996( do có lệnh bỏ cấm vận đối với Việt Nam của Mỹ) nên tổng viện trợ ODA từ năm 1991- 1995 vốn cam kết là 9,058 tỷ đô; vốn đầu tư nước ngoài FDI năm 1991 là 0,62 tỷ đô( vốn thực hiện) với 364 dự án, năm 1996 là 2,5 tỷ đô( vốn thực hiện) với 362 dự án. Lạm phát đã giảm xuống một cách thần kỳ, từ 67,1% năm 1991 xuống còn 5,2% năm1993, 14,4% năm 1994 và 12,3% trong 10 tháng đầu năm 1995. Hoạt động khoa học công nghệ gắn bó hơn với nhu cầu phát triển kinh tế- xã hội, thích nghi dần với cơ chế thị trường . Ngày càng có thêm nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ được áp dụng có hiệu quả vào sản xuất đời sống, trong đó có một số công nghệ tiên tiến được tiếp thu từ nước ngoài. Nền kinh tế nhiều thành phần có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng XHCN đang từng bước được tiếp tục xây dựng. Quan hệ sản xuất được điều chỉnh phù hợp với lực lượng sản xuất.
Về mặt xã hội cũng có nhiều chuyển biến tích cực. Đời sống vật chất của phần lớn nhân dân được cải thiện. Các mặt y tế, giáo dục, bảo hiểm cho nhân dân được triển khai thực hiện cơ bản, mức thu nhập bình quân của người dân cũng được nâng lên( xấp xỉ 200 đô la/năm). Nước ta hiện nay có chỉ số phát triển con người( HDI) là 0,539 xếp thứ 120/174 nước; chỉ số tuổi thọ là 0,67; chỉ số kiến thức là 0,78; chỉ số GDP/người là 0,17. Trong khi đó chỉ số HDI của Hàn Quốc là 1,882; của Trung quốc 0,594. Song song với trình độ dân trí, mức độ hưởng thụ văn hóa cũng được nâng lên. Người lao động được phát huy hết khả năng tích cực của mình.
Chúng ta giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng, an ninh. Về mặt chính trị, chúng ta tiếp tục hoàn thiện bộ máy nhà nước, nâng cao chất lượng quản lý của đội ngũ cán bộ. Về quan hệ đối ngoại, với chủ trương muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới, chúng ta đã đặt được quan hệ ngoại giao với hầu hết các nước trên thế giới. Theo thống kê thì chỉ số ghi nhận quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam là 55,1%( thuộc vào diện trung bình trên thế giới).
Vào năm 1998, vượt lên những khó khăn và thách thức lớn do thị trường xuất khẩu sang các nước Đông Âu và Châu á giảm, sức mua của nhiều mặt hàng công nghiệp trong nước chững lại, thiếu vốn và công nghệ hiện đại, sản xuất công nghiệp nước ta vẫn đứng vững, tiếp tục tăng trưởng và phát triển với nhịp độ khá. So với năm 1997, giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp nước ta tăng khoảng 12% đạt kế hoạch điều chỉnh cua quốc hội và tiếp tục đứng hàng đầu về tốc độ tăng trưởng trong các ngành xuất khẩu và dịch vụ. Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tổng GDP cả nước tăng từ 31,8% năm 1997 lên 33,2% năm 1998( theo giá so sánh năm 1994), là thành tựu nổi bật, khẳng định xu thế đi lên đầy triển vọng của sản xuất công nghiệp của nước ta.
Trong khó khăn chung, khu vực doanh nghiệp nhà nước vẫn giữ được vai tò chủ đạo của toàn bộ ngành công nghiệp xét trên cả hai yếu tố quy mô và tốc độ. Đây là khu vực chiếm tỷ trọng lớn nhất( 46,7%) lại bao gồm toàn bộ ngành công nghiệp then chốt của toàn bộ nền kinh tế và đuy trì được nhịp độ tăng trưởng cao 8,7%. Năm 1998, tỷ trọng của công nghiệp quốc doanh trung ương chiếm 65,45 tổng giá trị sản xuất của công nghiệp quốc doanh nói chung. Khu vực công nghiệp ngoài quốc doanh vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng 6,3%. Các công ty cổ phần, TNHH, doanh nghiệp tư nhân có quy mô lớn trong giá trị sản xuất ngoài quốc doanh tăng trưởng khoảng 4,5%. Khu vực công nghiệp đầu tư có vốn nước ngoài tuy chịu ảnh hưởng trực tiếp của khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Châu á, khu vực này vẫn đạt kết quả khả quan: phát triển toàn diện và giữ vững tốc độ tăng trưởng cao so với các năm trước: 1998 tăng 1,6% so với năm 1997. Không chỉ bổ sung nguồn vốn, trang bị kỹ thuật và công nghệ mới, khu vực này còn hình thành một số ngành công nghiệp mới kỹ thuật cao làm tăng khả năng cạnh tranh của hàng công nghiệp Việt Nam trên thị trường trong nước và thế giới: hàng loạt sản phẩm mới của các ngành công nghiệp lắp ráp ô tô, sản xuất đồ điện cao cấp, thiết bị bưu điện viễn thông... đạt tiêu chuẩn quốc tế và được xuất khẩu sang thị trường thế giới.
V- Những kiến nghị, đề xuất
Xuất phát từ thực tế và những nhu cầu đòi hỏi mang tính cấp thiết của sinh viên, em chỉ dám đưa ra một kiến nghị nhỏ nhưng nó thực sự quan trọng cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước nhà. Đó chính là việc quan tâm nhiều hơn nữa đến cuộc sống vật chất cũng như tinh thần của sinh viên. Trước hết em phải nói đến cuộc sống tinh thần của sinh viên. Một con người được tạo nên tất yếu phải đủ cả hai yếu tố trí và lực. Như một câu ngạn ngữ đã nói: “ Có sức khỏe thì chưa chắc anh đã có thể làm được tất cả nhưng để có tất cả anh phải có sức khỏe”. Vậy nên việc lo cho đời sống tinh thần của sinh viên là hết sức cần thiết. Em thiết nghĩ cần phải trang bị thêm nữa những khu vui chơi giải trí cho học sinh, sinh viên, để sau những giờ học tập căng thẳng, sinh viên chúng em có những chỗ để có thể nghỉ ngơi một cách bổ ích. Hơn thế nữa, chúng ta cần trang bị một cách đầy đủ những phương tiện như ti vi, máy vi tính... để sinh viên có thể được cập nhật những thông tin mới nhất, những kiến thức mới nhất trên thế giới. Bên cạnh đào tạo một đội ngũ trẻ khỏe về thể chất, họ còn phải “khỏe” về kiến thức. Muốn vậy, chúng ta không phải chỉ trang bị cho thế hệ trẻ không chỉ những kiến thức mang tính bắt buộc ở trường mà còn phải trang bị những kiến thức nâng cao, đòi hỏi sự năng động sáng tạo của mỗi người sinh viên, bằng cách tăng thêm số đầu sách ở thư viện, tạo nên những buổi bàn luận về phương pháp học tập để giúp nhau cùng tiến bộ...
Tuy nhiên chúng ta không nên hỏi tổ quốc đã làm gì cho chúng ta. Như câu nói bất hủ của Bác Hồ, vị cha già kính yêu của dân tộc: “ Muốn có chủ nghĩa xã hội thì phải có những con người xã hội chủ nghĩa”. Chúng ta là những sinh viên còn ngồi trên ghế nhà trường, chúng ta không nên quên nhiệm vụ cao cả của chúng ta là phải học tập tốt để ngày mai lập nghiệp. Chúng ta phải luôn trau dồi kiến thức, nắm bắt được những kiến thức mới mẻ để có thể hòa nhập với những nước có nền công nghiệp cao, tiên tiến trên thế giới. Em tin tưởng rằng trong một tương lai không xa, thế hệ trẻ, thế hệ sinh viên sẽ làm rạng danh cho Tổ quốc.
C- KẾT LUẬN
Từ những phân tích trên ta có thể nói Công nghiệp hóa là một quá trình tất yếu để đưa đất nước ta từ một nước nghèo nàn, lạc hậu trở thành một nước công nghiệp phát triển để từng bước tiến lên sánh vai với các cường quốc năm châu. Những thành tựu và kinh nghiệm mà chúng ta đã đạt được đã tạo tiền đề cho phép Đảng ta quyết định chuyển mọi hoạt động của đất nước sang thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh và vựng chắc tiến trên con đường xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện được điều đó nước ta đang chú trọng đổi mới quan hệ sản xuất cho phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất( một quy luật tất yếu quyết định đối với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước).
Là một sinh viên và sau này sẽ là một cử nhân kinh tế, chúng ta cần phải thấy rõ vai trò của quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất đối với sự phát triển kinh tế, có như vậy chúng ta mới có thể đưa nền kinh tế Việt Nam ngày một phát triển, rút ngắn khoảng cách lạc hậu với các quốc gia trên thế gới.
Bài tiểu luận này là một số những hiểu biết của em về vấn đề đổi mới lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa ở Việt Nam thu được trong quá trình học tập và tham khảo tài liệu. Tuy em đã hết sức cố gắng vận dụng hiểu biết và phát huy năng lực của mình để hoàn thành bài viết song vẫn không tránh khỏi mhững thiếu sót, sai lầm và rất nhiều điểm hận chế.
Bài tiểu luận đầu tay này em rất mong nhận được sự thông cảm của thầy. Em cũng mong được thầy cho ý kiến đánh giá và nhận xét để có thể viết tốt hơn trong các bài tiểu luận sắp tới. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn thầy.
D- TÀI LIỆU THAM KHẢO
1- Giáo trình “ Triết học Mác- Lê Nin”.
2- “ Công nghiệp hóa và hiện đại hóa ở Việt Nam và các nước trong khu vực”.
3- “ Một số vấn đề triết học Mác- Lê Nin về công nghiệp hóa và hiện đại hóa”.
4- Tạp chí triết học.
5- Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, XI.
6- Giáo trình “ Kinh tế chính trị”.
7- Tạp chí cộng sản.
CHÚ THÍCH
(1) C. Mác và Ph. Angghen: Toàn tập. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, t. 23, Tr. 269.
(2) V.I. Lê nin: Toàn tập, Nhà xuất bản. Tiến bộ, Mát cơ va, 1977, T. 38, Tr. 430
(3) U. Pet- Ty: Kinh tế chính trị, T. 2
(4) C. Mác và Ph. Angghen: Toàn tập. NXB. Chính trị quốc gia, Hà nội, 1995, T. 4, Tr. 187.
(5) C. Mác và Ph. Angghen: Toàn tập. NXB. Chính trị quốc gia, Hà nội, 1993, T. 6, Tr. 552.
(6) C. Mác và Ph. Angghen: Toàn tập. NXB. Chính trị quốc gia, Hà nội, 1993, Tr. 14- 15
(7) C. Mác và Ph. Angghen: Toàn tập. NXB. Chính trị quốc gia, Hà nội, 1995, T. 4, Tr. 234
(8) C. Mác và Ph. Angghen: Toàn tập. NXB. Chính trị quốc gia, Hà nội, 1994, T. 20, Tr. 373.
(9) C. Mác và Ph. Angghen: Toàn tập. NXB. Chính trị quốc gia, Hà nội, 1993, T. 13, Tr. 15.
(10) Đảng cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
(11) C. Mác: “ Bản thảo kinh tế” C. Mác và Ph. Angghen: Toàn tập- Tiếng Nga, Tr. 125.
(12) V.I.Lê nin: Toàn tập: NXB. Tiến bộ, Mát cơ va, 1978, T. 45, Tr. 428
(13) Sdd, Tr. 276
(14) Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, tháng 1- 1994, Tr. 24.
II- Đề cương khái quát
A- Đặt vấn đề
I- Lý do chọn đề tài
II- Đề cương khái quát
B- Nội dung
I- Cơ sở triết học của đề tài
1- Phương thức sản xuất
2- Lực lượng sản xuất
3- Quan hệ sản xuất
4- Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất
và trình độ của lực lượng sản xuất
II- Cơ sở lý luận của quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa
1- Khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa
2- Tính tất yếu khách quan của công nghiệp hóa, hiện đại hóa
3- Tác dụng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa
4- Nội dung cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa
a- Trang bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại theo hướng hiện đại
hóa các ngành của nền kinh tế quốc dân
b- Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý và phân công lại lao động xã hội
III- Vấn đề đổi mới lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong
quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa ở Việt Nam
IV- Những thành tựu Việt Nam đã đạt được
V- Những kiến nghị, đề xuất
C- Kết luận
D- Tài liệu tham khảo
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Vấn đề đổi mới lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam.doc