Vấn đề kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với người nước ngoài hiện nay và một số giải pháp nhằm đảm bảo quyền lợi của phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài

Ở Việt Nam trong những năm qua, cùng với sự phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội của đất nước và xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, các quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam có bước phát triển đáng kể. Trong đó chủ yếu là việc kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam người nước ngoài. Bên cạnh những mặt tích cực thì hiện nay việc kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với người nước ngoài đã bộc lộ không ít hạn chế, trở thành vấn đề nóng bỏng được dư luận xã hội quan tâm. Vì vậy em xin chọn nghiên cứu đề tài “Vấn đề kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với người nước ngoài hiện nay và một số giải pháp nhằm đảm bảo quyền lợi của phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài

doc10 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5525 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vấn đề kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với người nước ngoài hiện nay và một số giải pháp nhằm đảm bảo quyền lợi của phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. LỜI MỞ ĐẦU Ở Việt Nam trong những năm qua, cùng với sự phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội của đất nước và xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, các quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam có bước phát triển đáng kể. Trong đó chủ yếu là việc kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam người nước ngoài. Bên cạnh những mặt tích cực thì hiện nay việc kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với người nước ngoài đã bộc lộ không ít hạn chế, trở thành vấn đề nóng bỏng được dư luận xã hội quan tâm. Vì vậy em xin chọn nghiên cứu đề tài “Vấn đề kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với người nước ngoài hiện nay và một số giải pháp nhằm đảm bảo quyền lợi của phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài” B. NỘI DUNG I-MỘT SỐ KHÁI NIỆM VÀ QUY ĐỊNH VỀ VIỆC KẾT HÔN CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI. 1. Khái niệm. - Kết hôn là việc nam nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn. - Người nước ngoài là người không có quốc tịch Việt Nam, bao gồm công dân nước ngoài và người không quốc tịch. 2.Một số quy định của pháp luật Việt Nam về kết hôn có yếu tố nước ngoài. Kết hôn có yếu tố nước ngoài đã được quy định cụ thể trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Nghị định của chính phủ số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, Nghị định của chính phủ số 69/2006/NĐ-CP ngày 21/7/2006 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002, Thông tư của Bộ tư pháp số 07/2002/TT-BTP ngày 16/12/2002 hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002. II-VẤN ĐỀ KẾT HÔN GIỮA PHỤ NỮ VIỆT NAM VỚI NGƯỜI NƯỚC NGOÀI HIỆN NAY. 1.Tình hình chung. Theo số liệu thống kê, từ năm 1995 đến năm 2007 có khoảng 180.000 người Việt Nam kết hôn với người của 60 nước như Mỹ, Úc, Pháp, Canađa, các nước Bắc Âu, Đông Nam Á và Đông Á. Trong đó phụ nữ chiếm tới 80% tức là khoảng hơn 140.000 người, tập trung nhiều ở các tỉnh miền Tây Nam bộ và chủ yếu là kết hôn với công dân Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc. Hiện tượng phụ nữ Việt Nam kết hôn với người Đài Loan xuất hiện từ năm 1989 và tăng nhanh tại TP HCM, sau đó giảm mạnh tại thành phố nhưng lan rộng ra các tỉnh phía Nam như: Cần Thơ, Tây Ninh, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Sóc Trăng, Tiền Giang...Còn việc kết hôn của phụ nữ Việt Nam với người Hàn Quốc chỉ mới xuất hiện từ năm 2000, song đã tăng nhanh về mặt số lượng từ năm 2003 đến năm 2005 đã có 4.409 trường hợp. Có thể lấy ví dụ điển hình ở một số tỉnh, thành phố như: Thành phố Hồ Chí Minh: so với cả nước thì thành phố Hồ Chí Minh là địa phương có số lượng kết hôn với người nước ngoài cao nhất. Về trường hợp phụ nữ Việt Nam lấy chồng là công dân Trung Quốc (Đài Loan) có khoảng 13.000 trường hợp. Tuy nhiên từ năm 2003 đến nay thì giảm dần, tỷ lệ giảm mỗi năm từ 30 đến 40%. Trong khi đó, phụ nữ Việt Nam kết hôn với công dân Hàn Quốc lại có chiều hướng tăng so với các năm trước đây nhưng không đáng kể, mỗi năm có khoảng 100 trường hợp. Tuy nhiên, pháp luật về hôn nhân và gia đình của Hàn Quốc quy định rất “thoáng” như không cần có mặt cả hai bên nam nữ vẫn được đăng ký kết hôn, điểm này chưa phù hợp với pháp luật Việt Nam nên phát sinh tình trạng ghi chú công nhận kết hôn Hàn – Việt tăng cao. Chỉ trong hai năm 2006, 2007 đã có hơn 300 trường hợp ghi chú công nhận kết hôn. Ở tỉnh Long An, từ năm 2005 tình hình phụ nữ lấy chồng nước ngoài tăng nhanh về số lượng và có đến 90/284 trường hợp kết hôn với người Đài Loan (chiếm gần 30%). Phụ nữ Long An kết hôn với người nước ngoài chủ yếu tập trung ở các huyện vùng sâu, vùng biên giới có điều kiện kinh tế khó khăn, trong đó nhiều nhất ở hai huyện Đức Hòa và Đức Huệ. Trong năm 2006, riêng hai huyện Đức Hòa và Đức Huệ có 122/339 trường hợp kết hôn với người nước ngoài (chiếm hơn 30% cả tỉnh), trong đó có 65 trường hợp ghi chú kết hôn với người Hàn Quốc. Mười tháng đầu năm 2007, số trường hợp kết hôn với người nước ngoài ở hai huyện trên là 149/325, chiếm gần 50% cả tỉnh, trong đó kết hôn với người Hàn Quốc là 101 trường hợp. Kết hôn với người nước ngoài là quyền nhân thân của mỗi người trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ theo Luật Hôn nhân và gia đình. Luật pháp Việt Nam không có bất cứ quy định nào ngăn cản việc kết hôn của công dân Việt Nam với người nước ngoài nhưng những năm gần đây việc phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài diễn ra rất phức tạp và bộc lộ nhiều mặt trái. 2. Mặt trái của việc phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài. Trong các trường hợp phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài, bên cạnh những cuộc hôn nhân trên cơ sở tình yêu chân chính, đạt được hạnh phúc thì cũng có không ít các trường hợp kết hôn do môi giới bất hợp pháp, lừa đảo. Nhiều đối tượng người nước ngoài câu kết với một số cò mồi, môi giới người địa phương hình thành những đường dây buôn bán người xuyên quốc gia. Thời gian qua, các cô gái Việt Nam lấy chồng ngoại quốc phần lớn đều thông qua hoạt động dịch vụ môi giới hôn nhân đơn lẻ, tự phát; trong đó chủ yếu là bất hợp pháp dưới các hình thức tư vấn hỗ trợ kết hôn và dịch vụ tổ chức lễ cưới. Kết hôn với người nước ngoài qua các dịch vụ này, quyền lợi của người phụ nữ không được đảm bảo, không có tổ chức, đoàn thể nào đứng ra bảo vệ quyền lợi của họ sau khi kết hôn, mức độ rủi ro rất lớn và đặc biệt quan trọng hơn là họ không được tư vấn, trang bị các điều kiện cần thiết trước khi đi làm dâu. Do mang lại lợi nhuận lớn nên hoạt động môi giới hôn nhân nhanh chóng được thương mại hóa, làm hình thành một thị trường thực sự, có sự cạnh tranh giữa các tổ chức, cá nhân môi giới. Hoạt động dịch vụ môi giới hôn nhân bất hợp pháp ở các tỉnh phía Nam được tổ chức rất chặt chẽ, tinh vi nhằm đối phó với sự phát hiện của cơ quan chức năng. Theo thông tin đưa ra tại Hội nghị tổng kết mô hình giảm tiêu cực tình trạng phụ nữ kết hôn với người nước ngoài giai đoạn 2008-2009, tổ chức tại Vĩnh Long ngày 10/12/2009 thì từ năm 2007 đến tháng 7/1009, các cơ quan chức năng tại Thành phố Hồ Chí Minh đã phát hiện và xử lý 38 vụ, 170 đối tượng tổ chức môi giới hôn nhân trái pháp luật cho người Đài Loan, Hàn Quốc. Như chúng ta đã biết thì mục đích lấy chồng nước ngoài của đa số phụ nữ là lấy chồng giàu nên hầu hết các cuộc hôn nhân diễn ra nhanh chóng, thực chất là hoàn tất sự chuẩn bị của người môi giới hoặc tổ chức môi giới về các thủ tục pháp lý trên cơ sở thỏa thuận mà không dựa trên cơ sở hiểu biết về văn hóa, lối sống, về tình cảm và không xuất phát từ tình yêu nam nữ tự nguyện. Chính vì thế mà các cô dâu Việt Nam sau khi xuất ngoại đã gặp không ít khó khăn. Trở ngại đầu tiên mà các cô dâu Việt Nam gặp phải khi lấy chồng ngoại là vấn đề quốc tịch. Bởi họ là những người mới nhập cư, chưa đủ điều kiện để nhập quốc tịch đặc biệt là với những người lấy chồng ngoại thông qua các tổ chức môi giới trái phép. Không được cấp giấy tờ tùy thân của nước sở tại nên hầu hết đều không có việc làm, chỉ ở nhà nuôi con, nội trợ và phục vụ công việc gia đình, giao tiếp xã hội của họ hầu như rất hạn chế. Thứ hai, đa số các cô gái Việt Nam lấy chông Hàn Quốc, Đài Loan có trình độ văn hóa thấp nên trình độ ngoại ngữ rất hạn chế, không thạo tiếng địa phương, không hiểu biết về lối sống, văn hóa, phong tục tập quán, chính sách pháp luật của quốc gia mình đang cư trú trước khi kết hôn nên các cô dâu Việt Nam rất khó hòa nhập vào đời sống cộng đồng. Đặc biệt có nhiều cô gái lấy chồng già hơn mình cả mấy chục tuổi, chênh lệch tuổi tác quá lớn nên giữa hai vợ chồng rất khó có sự hòa hợp, đồng cảm. Mục đích lấy vợ của những ông chồng này chủ yếu là để có người chăm sóc, phục vụ nên cuộc sống của những cô dâu Việt Nam bị quản lý rất khắt khe, chặt chẽ. Đã có nhiều trường hợp cô dâu Việt Nam phải trốn ra ngoài do không chịu đựng nổi sự cực khổ hoặc không phù hợp với cuộc sống nơi xứ người; cũng có trường hợp bị chồng hành hạ, phải nhờ chính quyền địa phương can thiệp…Theo điều tra ở thành phố Hồ Chí Minh, phụ nữ Việt Nam kết hôn với công dân Đài Loan, Hàn Quốc có một số đặc điểm như: Về độ tuổi, từ 18-20 tuổi chiếm 18%, từ 21-30 tuổi chiếm 52%, trên 30 tuổi chiếm 30%. Về nghề nghiệp, đa số chưa có việc làm, chỉ ở nhà nội trợ chiếm 86,3%, công nhân 2,8%, kinh doanh 5% và làm thuê 5%. Một số đặc điểm nam giới là công dân Trung Quốc (Đài Loan), Hàn Quốc: đa số có nghề nghiệp là nông dân, công nhân, làm thuê chiếm 83%, kinh doanh 11%, không có công chức và người thất nghiệp. Về độ tuổi, nhiều nhất là từ 20 đến 40 tuổi chiếm 69%, từ 40-50 tuổi chiếm 20% và trên 50 tuổi chiếm 11%. Về hoàn cảnh gặp gỡ, quen biết và điều kiện tìm hiểu trước khi đăng ký kết hôn, có đến 85% thông qua sự môi giới của người quen, bạn bè, họ hàng đã có chồng ở Đài Loan, Hàn Quốc giới thiệu và qua trung tâm môi giới. Thời gian tìm hiểu rất ngắn, chỉ từ 1 đến 3 tháng là tiến tới hôn nhân. Và có đến 60% chung sống với nhau trước khi đăng ký kết hôn. Ngoài ra còn phải kể đến những trường hợp buôn bán phụ nữ núp dười hình thức kết hôn với người nước ngoài. Theo thống kê chưa đầy đủ của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, từ năm 2004 đến năm 2009 cả nước xảy ra 1.218 vụ mua bán phụ nữ với trên 2.300 đối tượng và trên 3.000 nạn nhân; 191 vụ mua bán trẻ em với 268 đối tượng và 491 nạn nhân; mua bán cả phụ nữ và trẻ em là 17 vụ, với 310 đối tượng và gần 500 nạn nhân. Xung quanh vấn đề môi giới hôn nhân bất hợp pháp, dụ dỗ, lừa gạt, buôn bán phụ nữ Việt Nam ra nước ngoài, Trung tướng Nguyễn Việt Thành (Phó Tổng cục trưởng Tổng cục cảnh sát-Bộ Công an) đã rất bức xúc kể lại: “Trong vụ án do tên Phượng cầm đầu dụ dỗ đưa 178 cô gái Việt Nam sang Malaixia bán mà chúng tôi đang điều tra, một cô bé trốn về được Việt Nam, một cô bé chạy được về Đại sứ quán Việt Nam, các cô còn lại giờ ở nước sở tại cũng không xác định được họ đang ở đâu. Nghe mà buồn lắm, họ đem những cô gái của chúng ta ra đứng xếp hàng ở ngã tư đường phố rao bán như con gà con vịt. Bất hạnh cho những cô gái kém nhan sắc, bán không được ở tỉnh này họ đem sang tỉnh khác bày bán”. Có thể thấy rằng đây là một hành vi xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm của người phụ nữ, xúc phạm đến hình ảnh của người phụ nữ Việt Nam. Pháp luật Việt Nam và công luận không ngăn cấm (cũng không khuyến khích) phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài, nhưng cương quyết lên án, không thể chấp nhận tình trạng lợi dụng hôn nhân với người nước ngoài để buôn bán phụ nữ, xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm của người phụ nữ Việt Nam trước con mắt bạn bè quốc tế. Có thể thấy rằng hậu quả từ những tiêu cực trong việc phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài đã để lại trước mắt và lâu dài, ảnh hưởng tiêu cực đến nhiều mặt kinh tế, văn hóa, an ninh xã hội, pháp luật quốc gia và quốc tế. Vậy nguyên nhân do đâu khiến cho những năm qua, tình trạng phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài lại tăng nhanh và trở nên nóng bỏng như vậy? 3.Một số nguyên nhân dẫn tới sự gia tăng kết hôn với người nước ngoài. Kết hôn vì tình yêu chân chính: Trong quan hệ hôn nhân giữa phụ nữ Việt Nam với người nước ngoài, không thể bác bỏ nhiều trường hợp kết hôn xuất phát từ tình yêu thực sự. Trường hợp này thường xảy ra giữa công dân Việt Nam với người Việt Nam định cư ở nước ngoài, hoặc giữa những người có điều kiện học tập, làm việc cùng nhau. Họ đã có thời gian tương đối dài để hiểu nhau, tìm hiểu về ngôn ngữ, phong tục tập quán…trước khi tiến tới hôn nhân. Kết hôn vì kinh tế: Rất nhiều trường hợp kết hôn có yếu tố nước ngoài vì mục đích kinh tế, thể hiện rõ nhất là các trường hợp kết hôn với người Đài Loan, Hàn Quốc. Đa số phụ nữ Việt Nam kết hôn với người Đài Loan, Hàn Quốc là những người không có việc làm hoặc có việc làm nhưng thu nhập thấp. Do đó họ mong muốn kết hôn với người nước ngoài để có cuộc sống sung túc hơn, thoát khỏi cảnh nghèo khổ. Thực tế có nhiều người sau khi kết hôn đã gửi tiền về giúp gia đình giải quyết khó khăn, cải thiện cuộc sống. Kết hôn theo phong trào: Đó là những trường hợp người Việt Nam khi thấy bạn bè, người thân kết hôn với người nước ngoài hoặc những người Việt Nam định cư ở nước ngoài khi về nước ăn mặc sang trọng, có nhiều tiền và được gọi là Việt kiều. Bên cạnh đó, những lời đồn đại, những hình ảnh hào nhoáng từ phim ảnh của những đất nước giàu có, phát triển…đã tác động đến một bộ phận phụ nữ nông thôn bị ảnh hưởng bởi lối sống thực dụng, đua đòi chạy theo xu hướng lấy chồng ngoại với hy vọng “đổi đời”, họ đã dễ dàng chấp nhận mai mối để lấy chồng ngoại quốc. Đây là một nhận thức kết hôn lệch lạc dễ dẫn đến hôn nhân đổ vỡ, không hạnh phúc. Kết hôn do hoạt động của các đối tượng môi giới bất hợp pháp: Tình hình phức tạp của hôn nhân có yếu tố nước ngoài hiện nay phần lớn là do hoạt động của các tổ chức, cá nhân môi giới bất hợp pháp. Môi giới hôn nhân bất hợp pháp không chỉ hoạt động tại thành phố mà còn mở rộng về vùng sâu, vùng xa. Phần lớn các cô gái lấy chồng Đài Loan, Hàn Quốc hiện nay đều xuất thân từ những gia đình nghèo ở vùng sâu, vùng xa, có trình độ học vấn thấp, không có điều kiện tiếp cận thông tin, càng không am hiểu pháp luật. Lợi dụng tình hình đó, nhiều tổ chức, cá nhân hoạt động môi giới kết hôn nhằm trục lợi đã ráo riết khai thác, đối tượng chính mà chúng nhằm vào chính là phụ nữ nghèo ở vùng sâu. Ngoài ra còn có những trường hợp phụ nữ lấy chồng ngoại quốc may mắn có được cuộc sống ổn định, sau đó lại đưa người nước ngoài về nước giới thiệu, mai mối cho chị em, họ hàng và cứ thế ngày càng nhân rộng. Kết hôn vì những nguyên nhân khác: Bên cạnh những lý do trên, phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài vfì nhiều yếu tố khác như: kết hôn để bảo lãnh ra nước ngoài, kết hon để được nhập quốc tịch nước ngoài, kết hôn để được thừa kế di sản…Các nguyên nhân này tuy không chủ yếu nhưng lại là những nguyên nhân có thực đang tồn tại hiện nay. Một nguyên nhân khiến cho tình trạng kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với người nước ngoài trở nên phổ biến là do pháp luật về hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài còn nhiều sơ hở. Quy định về công nhận và ghi chú việc kết hôn đã tiến hành ở nước ngoài còn lỏng lẻo, chưa cụ thể, thủ tục ghi chú khá đơn giản. Đương sự chỉ cần xuất trình giấy tờ hộ tịch đã đăng ký hợp lệ tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài thì được công nhận và ghi chú vào sổ hộ tịch (tức là công nhận giá trị pháp lý giấy tờ hộ tịch đó tại Việt Nam). Nghị định 68/2002/NĐ-CP và Nghị định 69/2006/NĐ-CP cho phép từ chối đăng ký kết hôn (điểm b khoản 1 điều 16) nhưng Bộ Tư pháp chưa có văn bản hướng dẫn xác định các căn cứ cụ thể làm cơ sở cho việc từ chối, cũng như hướng dẫn hoạt động cho Trung tâm hỗ trợ kết hôn trong việc thực hiện chức năng tư vấn, môi giới hôn nhân… Hiện nay cũng chưa có văn bản quy định việc bảo hộ cho công dân Việt Nam là phụ nữ sau khi kết hôn sang định cư ở Trung Quốc (Đài Loan), Hàn Quốc nên việc giúp đỡ các cô dâu Việt Nam khi gặp hoàn cảnh khó khăn còn nhiều hạn chế. III-MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM ĐẢM BẢO QUYỀN LỢI CỦA PHỤ NỮ VIỆT NAM KHI KẾT HÔN VỚI NGƯỜI NƯỚC NGOÀI. Trong xu thế hội nhập thì dự báo số lượng phụ nữ Việt Nam lấy chồng nước ngoài sẽ còn gia tăng, chắc chắn không còn bó hẹp trong phạm vi một số nước như hiện tại. Chính vì vậy cần phải có sự phối hợp đồng bộ giữa các cấp, các ngành, các cơ quan, tổ chức, đoàn thể để chung tay giải quyết vấn đề này. Đối với ngành Công an cần tăng cường kiểm tra, phát hiện các tổ chức, cá nhân môi giới bất hợp pháp và xử lý nghiêm minh trước pháp luật. Kiên quyết xử lý những cán bộ, công chức có biểu hiện tiêu cực hoặc tiếp tay cho bọn tội phạm trong việc làm thủ tục kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với người nước ngoài. Với các nhà hàng, khách sạn cho thuê địa điểm, tổ chức xem mặt cô dâu, nhẹ thì xử phạt hành chính, còn nặng thì cần rút giấy phép hành nghề… Đối với ngành Tư pháp cần phải phối hợp với Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam và một số cơ quan hữu quan tham mưu hoàn chỉnh các quy định về hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài trình Chính phủ và Quốc hội phê duyệt. Tăng cường hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra, thanh tra các địa phương trong việc thụ lý, giải quyết các hồ sơ đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài; kịp thời chấn chỉnh những lệch lạc, tiêu cực trong công tác này. Đối với Bộ Ngoại giao, cần phải nắm chắc tình hình về cuộc sống của phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài và đang sinh sống ở nước ngoài. Phối hợp với Bộ Tư pháp nghiên cứu, đàm phán, ký kết thỏa thuận với các nước hữu quan để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam kết hôn với người nước ngoài và đang sinh sống ở nước ngoài trên các phương diện quốc tịch, cư trú, hôn nhân – gia đình, tài sản… phù hợp với pháp luật Việt Nam, pháp luật nước sở tại, và điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập; kịp thời có biện pháp bảo vệ và hỗ trợ những phụ nữ này nếu họ bị rơi vào hoàn cảnh bất hạnh. Một giải pháp mang tính cấp bách và cũng là lâu dài là cần phải quy định rõ trình độ ngôn ngữ nhất định của người chuẩn bị kết hôn và nhất thiết phải qua một lớp học ngắn hạn về luật pháp, văn hoá, phong tục của đất nước mà người phụ nữ đến làm dâu. Chỉ khi nào cô gái có đủ các điều kiện cần thiết theo quy định thì Sở Tư pháp mới chứng nhận kết hôn. Tăng cường công tác giáo dục, tuyên truyền, nâng cao nhận thức của chị em phụ nữ là một nhiệm vụ hết sức quan trọng. Cần quan tâm đến việc phát triển kinh tế, tạo công ăn việc làm, đảm bảo cuộc sống cho những phụ nữ còn khó khăn, đặc biệt là đối với những người ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số và những người bị buôn bán hoặc do hôn nhân bất hạnh trở về quê hương làm ăn, sinh sống. Việc tuyên truyền, giáo dục, nhân rộng các gương điển hình, tiên tiến, những người biết vượt lên số phận hay tổ chức những cuộc toạ đàm, trao đổi trực tiếp với những người đã từng là nạn nhân của buôn bán, bất hạnh để răn đe cũng là việc nên làm. C. KẾT LUẬN

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docVấn đề kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với người nước ngoài hiện nay và một số giải pháp nhằm đảm bảo quyền lợi của phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nướ.doc