MỤC LỤC Trang 1. MỞ ĐẦU . 3
2. ĐỚI BỜ BIỂN LÀ GÌ? 4
3. ĐẶC TÍNH CỦA ĐỚI BỜ BIỂN 5
4. CÁC YẾU TỐ SINH THÁI MÔI TRƯỜNG ĐỚI BỜ BIỂN 6
5. CÁC VẤN ĐỀ VỀ TÀI NGUYÊN VÙNG ĐỚI BỜ 8
6. QUẢN LÝ ĐƠN NGÀNH 12
7. QUẢN LÝ TỔNG HỢP ĐỚI BỜ . 13
8. KẾT LUẬN . 16
9. TÀI LIỆU THAM KHẢO . 17
18 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4140 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vấn đề khai thác tài nguyên và ô nhiễm vùng đới bờ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Trang
1. MỞ ĐẦU 3
2. ĐỚI BỜ BIỂN LÀ GÌ? 4
3. ĐẶC TÍNH CỦA ĐỚI BỜ BIỂN 5
4. CÁC YẾU TỐ SINH THÁI MÔI TRƯỜNG ĐỚI BỜ BIỂN 6
5. CÁC VẤN ĐỀ VỀ TÀI NGUYÊN VÙNG ĐỚI BỜ 8
6. QUẢN LÝ ĐƠN NGÀNH 12
7. QUẢN LÝ TỔNG HỢP ĐỚI BỜ 13
8. KẾT LUẬN 16
9. TÀI LIỆU THAM KHẢO 17
1. MỞ ĐẦU
Vùng đới bờ luôn là nơi được con người quan tâm do nguồn tài nguyên của nó. Đây là nơi có vùng đồng bằng màu mỡ và tài nguyên biển phong phú, vùng đới bờ cũng là nơi dễ dàng cho sự tiếp cận của thị trường quốc tế. Nó tạo ra không gian sống, các tài nguyên sinh vật và phi sinh vật cho các hoạt động của con người và có chức năng điều hoà đối với môi trường tự nhiên cũng như môi trường nhân tạo.
Vùng đới bờ là trọng tâm của nhiều ngành kinh tế quốc gia, là nơi mà phần lớn các hoạt động về kinh tế, xã hội diễn ra và cũng là nơi mà tác động của các hoạt động này nhiều nhất.
Đối với những nước có vùng bờ, hơn một nữa dân số sống tại đây và tầm quan trọng của vùng đới bờ còn gia tăng trong tương lai do sự gia tăng không ngừng của việc di dân từ các vùng sâu trong lãnh thổ tới đây.
Do vậy, không ngạc nhiên khi có sự xung đột sâu sắc giữa nhu cầu tiêu dùng hiện nay đối với tài nguyên và việc đảm bảo cho việc tiêu thụ tài nguyên đó trong tương lai. Trong một số quốc gia, sự xung đột đó đã đạt đến mức nguy cấp do phần lớn vùng ven bờ đã bị ô nhiễm do các nguồn khác nhau. Rất nhiều hoạt động phát triển đô thị, công nghiệp và nông nghiệp trên vùng đới biển là nằm trong vùng đất ngập nước ven biển có năng suất cao và các dự án phát triển đang làm biến đổi hệ sinh thái ven biển trên một qui mô rất lớn. Nước thải từ hầu hết các đô thị và khu công nghiệp trên thế giới đổ trực tiếp vào biển hoặc gián tiếp qua các hệ thống sông mà không được xử lý hoặc xử lý rất ít. Nghề cá bị sa sút, đất ngập nước bị khô, các rạn san hô bị phá hủy, các bãi biển bị xuống cấp,...
Để các vùng đới bờ được duy trì và bảo vệ, cần phải có hành động hiệu quả và kịp thời. Để có hướng cải tạo và khai thác một cách hợp lý nhất, nhằm bảo vệ môi trường sống đang hằng ngày hằng giờ bên chúng ta.
2. ĐỚI BỜ BIỂN LÀ GÌ?
Đới bờ biển thực chất là một hệ thống tự nhiên có quy mô hành tinh, phức tạp và ngang cấp với vùng biển và lục địa lân cận. Nó được đặc trưng bởi sự phát sinh, phát triển, tiến hoá và suy tàn, cũng như có giá trị tài nguyên đặc thù khác hẳn với lục địa và biển lân cận. Chính vì thế nó đòi hỏi phải có phương thức sử dụng phù hợp và các phương pháp tiếp cận riêng.
Các thuộc tính cơ bản của đới bờ biển với tư cách là một hệ tự nhiên, gồm:
Là một thực thể tự nhiên hoàn chỉnh, độc lập nhưng không cô lập.
Tồn tại nhờ các mối tương tác qua lại giữa các hợp phần bên trong hệ (hay các quá trình nội tại hệ).
Phát triển nhờ các mối tương tác qua lại giữa nó với các hệ lân cận (hay các quá trình bên ngoài hệ).
Trong đới bờ biển chứa đựng các hệ tự nhiên cấp nhỏ hơn như các cửa sông, đầm, phá, các hệ sinh thái…
Đới bờ biển nằm chuyển tiếp giữa biển và lục địa, một đới hỗn tạp cả về mặt môi trường tự nhiên, sinh thái và giá trị tài nguyên. Nó được đặc trưng bởi các quá trình tương tác giữa lục địa và biển, giữa nước mặn và nước ngọt, giữa các hệ sinh thái khác nhau trong phạm vi đới bờ. Quy mô thời gian của các biến đổi trong đới bờ biển rất khác nhau: theo chu kỳ dài, theo mùa, theo tháng, theo ngày (con nước thủy triều). Nói khác đi đới bờ biển là một đới động lực, thường xuyên biến đổi.
Trong đới bờ biển hiện diện sự đa dạng của các hệ sinh thái như: rừng ngập mặn, cỏ biển (seagrass), rạn san hô, cửa sông, bãi triều, đầm phá… Chúng là các hệ thống tự nhiên cấp nhỏ hơn đới bờ biển, có quan hệ tương hỗ lẫn nhau, một trong các khâu bị tác động sẽ ảnh hưởng đến khâu còn lại. Đây cũng là nơi tiềm chứa đa dạng sinh học, nguồn lợi sinh vật và giá trị du lịch sinh thái cho các quốc gia có biển. Đới này chỉ chiếm khoảng 8% diện tích bề mặt trái đất nhưng cung cấp 26% tổng sản phẩm sinh học trên trái đất, 3/4 tổng năng suất sinh học sơ cấp có được từ các hệ sinh thái đới bờ biển, số ít ỏi còn lại thuộc về thềm lục địa và đại dương rộng lớn.
Đối với Việt Nam nếu tính cho các huyện ven biển thì dân số chiếm khoảng 20% tổng dân số cả nước, cùng với trên 50% các đô thị lớn tập trung rất cao mật độ dân số, khiến cho nhu cầu sử dụng tài nguyên thiên nhiên nói chung và biển nói riêng ngày càng tăng. Đồng thời nơi đây cũng tập trung các hoạt động kinh tế đa dạng: cảng, hàng hải, du lịch - giải trí, nghề cá, nuôi trồng thuỷ sản, nông nghiệp ven biển, công nghiệp ven biển, khai mỏ, đô thị hoá,…
Lợi ích đem lại từ các hoạt động kinh tế biển là hết sức to lớn, là nguồn thu đáng kể trong tổng thu nhập quốc dân của các quốc gia biển, thậm chí có những nước phát triển hoàn toàn lệ thuộc vào biển, đi lên từ biển. Vì lẽ đó, biển, đại dương và vùng bờ của nó sẽ là nơi dự trữ cuối cùng của loài người về các nguồn thực phẩm, nguyên liệu, năng lượng… vào thế kỷ 21.
3. ĐẶC TÍNH CỦA ĐỚI BỜ BIỂN
Vùng đới bờ bao gồm sự đa dạng lớn về nơi ở và các hệ sinh thái (như vùng cửa
sông, rạn san hô, thảm cỏ biển, rừng ngập mặn, đầm phá, vũng biển,..)
Các hệ sinh thái trên có các đặc điểm vốn có được mô tả như là các chức năng khi
chú ý đến phạm vi hệ thống tài nguyên đới bờ. Đối với các vùng đất ngập nước, các chức
năng đó bao gồm năng suất sơ cấp và năng suất thứ cấp để duy trì khu hệ động, thực vật; dự trữ trầm tích và các chất carbon hữu cơ để nâng cao săng suất sinh học; liên kết các hệ sinh thái cần thiết để duy trì chuỗi thức ăn, tuyến di cư và gia tăng sản lượng. Đối với các rạn san hô các chức năng đó sẽ bao gồm năng suất sinh học cao và tỷ lệ cố định carbon cao dẫn đến sự phát triển đáng kể các rạn san hô và sự ăn mòn vật lý và sinh học dẫn đến sự tạo thành trầm tích đá vôi.
Lần lượt, các chức năng đó sản sinh ra "hàng hoá" (ví dụ như cá, dầu khí, khoáng
sản,...) và các dịch vụ có ích (ví dụ như chống lại sóng, bão, sự giải trí và vận chuyển,..). Các hàng hoá và dịch vụ như thế có giá trị kinh tế, một số có thể trao đổi theo cơ chế thị trường, nhưng số khác không thể đánh giá trực tiếp.
Có một mối liên hệ trực tiếp giữa các chức năng môi trường và việc sản sinh ra các
hàng hoá để có thể sử dụng được nhiều dạng hơn chỉ là một dạng trong các hoạt động của con người (ví dụ như đá san hô được sử dụng trong việc xây dựng và sản xuất vôi).
Trong vùng đới bờ, nơi mà có sự cạnh tranh giữa các bên liên quan khác nhau (các
bên liên quan được xác định là các nhóm trong cộng đồng có những mối quan tâm đặc biệt hay là liên quan đến việc sử dụng các nguồn tài nguyên như là tài sản chung) đối với việc sử dụng đất và biển thường dẫn đến những xung khắc mãnh liệt và phá huỷ sự thống nhất của hệ thống tài nguyên.
Các hoạt động ở vùng ven bờ trong nhiều nước đã góp phần đáng kể vào GDP của
kinh tế quốc gia. Ví dụ như ở Sry Lanka, vùng ven bờ chiếm 24% diện tích đất cả nước,
nhưng đã đóng góp 40% GDP của quốc gia với 50% dân số sống ở đây. Nhiều cộng đồng trong vùng Đông Nam Á phụ thuộc vào công nghiệp dầu lửa và tàu thuyền, du lịch ven bờ,...
Vùng đới bờ là nơi tập trung cao sự định cư của con người và là nơi thích hợp cho sự đô thị hoá. Hầu hết các thành phố lớn của các nước vùng Đông Nam Á, cũng như các nước khác trên thế giới nằm ở vùng ven bờ.
Vùng đới bờ là sẽ tâm điểm cho sự phát triển trong tương lai trong vòng 50 năm tới với sự gia tăng dân số và mở rộng các ngành công nghiệp. Những sự phát triển như thế sẽ dẫn đến sự gia tăng những xung đột về môi trường và xã hội, đòi hỏi cần phải có việc thực hiện kế hoạch quản lý tổng hợp.
4. CÁC YẾU TỐ SINH THÁI MÔI TRƯỜNG ĐỚI BỜ BIỂN
4.1. Vị trí địa lý
Nằm tiếp giáp với đường bờ biển, có thể có các dạng địa hình:
Đồng bằng thấp trũng thuộc khu vực các sông lớn, chịu ảnh hưởng của thủy triều
Núi cao ăn ra tận biển, địa hình không bằng phẳng, cao hoặc là những gò đá sát biển và ít chịu ảnh hưởng của thủy triều
Vùng đầm lầy hoặc đầm phá.
4.2. Khí hậu
Tần suất xuất hiện gió và bão cao, nhất là vùng ven biển nhiệt đới.
Có chế độ gió mùa và ảnh hưởng rõ của chế độ này.
Biên độ nhiệt độ dao động ngày và đêm không lớn như ở lục địa.
Lượng mưa và độ ẩm không khí thường cao hơn các vùng khác. Đây cũng là vùng dễ có các sự cố môi trường như bão lốc, sóng thần.
4.3. Môi trường đất
Có thể có các dạng đất như đất mặn, đất phèn, phèn mặn hoặc đất cát, cồn cát ven biển.
Dễ mẫn cảm với các điều kiện biến đổi của môi trường như dễ bị xói lở do tác động của sóng gió.
Môi trường đất bị ảnh hưởng mạnh của cả độ mặn trong nước biển và thủy triều.
Môi trường sinh thái ở đây không có tính ổn định, dễ phát triển nhưng cũng dễ bị phá hủy, thay đổi.
4.4. Môi trường nước
Nước từ mặn cho đến lợ, độ mặn giảm từ biển vào đất liền, điều kiện nước cũng thay đổi theo chế độ thủy văn ở các cửa sông đổ ra biển. Trong nước biển, nước sông và nhất là nước lợ, hàm lượng chất dinh dưỡng cao, có nhiều chất phù sa lơ lững và nhiều hạt sét mịn tạo nên trầm tích nhiều sét.
Chế độ thủy triều ảnh hưởng mạnh đến hệ sinh thái thể hiện qua mức triều cực đại hay cực tiểu của chế độ nhật triều hay bán nhật triều.
Chế độ nước ngọt rất khan hiếm, chỉ thấy từ các nguồn nước mưa hoặc giếng sâu từ tầng nước ngầm.
4.5. Môi trường không khí
Thường chất lượng không khí ở các vùng ven biển rất tốt nếu không có các hoạt động công nghiệp. Trong những vùng hoạt động công nghiệp ven biển thì môi trường không khí sẽ bị ảnh hưởng. Tuy nhiên khả năng đảo nhiệt thường ít xảy ra hơn. Hàm lượng muối trong không khí cao dễ gây ăn mòn kim loại, các công trình xây dựng, vật liệu.
4.6. Đa dạng sinh học
Được chia làm hai phần: phần dưới nước và trên cạn. Phần trên cạn lại được chia ra sinh vật ở vùng cao và sinh vật ở vùng ngập và bán ngập. Phần dưới nước chia ra sinh vật tầng mặt, sinh vật tầng nước nông và sinh vật tầng nước sâu.
Nhìn chung đa dạng sinh học ở vùng ven biển rất phong phú và đa dạng. Tính đa dạng này phụ thuộc nhiều vào điều kiện môi trường tự nhiên như nhiệt độ, chế độ nước, môi trường đất. Đối với vùng đất cao, ít ngập triều và không có nước ngọt, đất dễ nhiễm mặn và khô hạn thì đa dạng sinh học nghèo nàn. Đối với vùng ngập nước và bán ngập triều hay còn gọi là đất ngập nước, thì đa dạng sinh học phong phú hơn nhiều.
4.7. Ô nhiễm môi trường vùng ven biển
Ngày nay với tốc độ phát triển kinh tế mạnh mẽ, hoạt động sản xuất và sinh hoạt của con người đã tác động mạnh mẽ đến môi trường sinh thái ven biển theo hướng ngày một xấu đi. Nguyên nhân của ô nhiễm xuất phát từ:
Nguồn nước thải sinh hoạt được thải trực tiếp từ các khu dân cư ven biển;
Nước thải công nghiệp;
Nguồn nước thải từ các cống rãnh đô thị;
Chất thải rắn từ công nghiệp, nông nghiệp.
4.8. Các dạng năng lượng trong môi trường ven biển
Năng lượng sóng biển: vô cùng lớn nhưng đến nay con người chỉ mới khai thác, sử dụng được khoảng 1-2%. Một số nước trên thế giới đã sử dụng một phần năng lượng sóng
biển để phát điện, tuy nhiên vấn đề này còn có nhiều khó khăn trong thiết kế, xử lý công trình.
Năng lượng gió: là loại năng lượng có tiềm năng rất lớn dùng để phát điện, bơm nước, quay các động cơ,... Tuy nhiên nguồn năng lượng này cũng chưa được khai thác nhiều.
Năng lượng ánh sáng mặt trời: sinh vật sử dụng năng lượng này cho quang hợp, sinh trưởng và phát triển, con người sử dụng để sấy khô nguyên liệu, làm muối
5. CÁC VẤN ĐỀ VỀ TÀI NGUYÊN VÙNG ĐỚI BỜ
Các vấn đề tài nguyên môi trường vùng đới bờ được phân thành hai loại sau:
Các vấn đề nội tại do kết quả của việc sử dụng trực tiếp môi trường và tài nguyên
tại chỗ, bao gồm: cạn kiệt tài nguyên vùng bờ, suy thoái và mất đi môi trường cho các hoạt động phát triển và cuộc sống cộng đồng. Thường những vấn đề này sẽ dẫn đến cạnh tranh không gian (cả lục địa lẫn biển), xung đột và gây cản trở lẫn nhau trong việc đạt được mục đích sử dụng khác nhau.
Các vấn đề nảy sinh ở bên ngoài có ảnh hưởng đến môi trường và tài nguyên vùng
bờ, bao gồm những biến đổi về: dự trữ nước ngọt trong các nguồn nước ven biển; dự trữ trầm tích cho các hệ sinh thái ven biển; dòng dinh dưỡng trong vùng nước ven bờ; dòng chất gây ô nhiễm nguồn gốc từ đất liền.
Vì thế, vùng bờ biển cần được bảo toàn chức năng tự nhiên, năng suất sinh học và các giá trị kinh tế vốn có nhằm hướng tới mục tiêu phát triển bền vững. Một trong những cách tiếp cận phát triển có hiệu quả ở vùng bờ là việc quy hoạch vùng ven biển một cách hợp lý gắn với các kế hoạch quản lý vùng bờ biển. Nói khác đi chúng ta từng bước tiến tới quản lý tổng hợp đới bờ biển (integrated coastal management) - một vấn đề mới mẻ nhưng rất hiệu quả mà các quốc gia ven biển đang áp dụng.
Hình 1. Khai thác tài nguyên vùng đới bờ
Giao thông hàng hải: Hoạt động tàu thuyền; Phát triển cảng => Tranh chấp vùng bờ. Ô nhiễm dầu.
Hình 2. Ô nhiễm dầu ở Côn Đảo
Khai thác tài nguyên sinh vật biển: Đánh bắt, nuôi trồng, chế biến hải sản; khai thác cá cảnh, thú biển, rong biển, nguyên liệu làm hàng thủ công mỹ nghệ. Xem, ngắm cảnh. => Suy thoái hệ sinh thái, ô nhiễm môi trường, đánh bắt quá mức, bất hợp lý; huỷ diệt, gây cạn kiệt tài nguyên; diệt vong loài.
Hình 3. Ô nhiễm biển
Khai thác khoáng sản, năng lượng biển, làm muối Tranh chấp không gian.=> Ô nhiễm môi trường.
Du lịch: Hoạt động của khách sạn, nhà nghỉ, dịch vụ, tắm biển, câu cá, đi thuyền, chơi thể thao, giải trí, tiêu thụ các dịch vụ chất lượng cao, đáp ứng nhanh, xa hoa lãng phí...=> Xả thải gây ô nhiễm môi trường; tranh chấp không gian và quyền khai thác tài nguyên; thay đổi các giá trị văn hoá bản địa.
Công trình chống sóng, bão, xói lở bờ, tái tạo bãi biển; ngăn ngừa và giảm thiểu tai biến đường bờ do bão, dâng cao mực nước biển...=>Mâu thuẫn giữa mong muốn và thực tế
Đô thị hoá: mở rộng diện tích, tăng cường xây dựng, thiếu quy hoạch phát triển, tăng chất thải đô thị, di dân, đa dạng hoá ngành nghề => Ô nhiễm môi trường; tranh chấp không gian; khó khăn khi chọn và thiết kế bãi rác.
Hình 4. Ô nhiễm vùng đới bờ
6. QUẢN LÝ ĐƠN NGÀNH
Trên thực tiễn ở tất cả các cấp như trung ương, tỉnh, huyện đều đã tiến hành quy hoạch phát triển vùng ven biển và các biện pháp quản lý tương ứng. Tuy nhiên thiếu sự điều phối theo cả cấu trúc dọc (trung ương xuống cơ sở) và cả cấu trúc ngang (giữa các ngành trong cùng địa bàn với nhau). Chính vì thế hiệu quả thực hiện các dự án phát triển còn thấp chưa tương xứng với tiềm năng vốn có ở vùng này. Đặc biệt đáng chú ý là sự thiếu hẳn kế hoạch quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường ngay trong các kế hoạch phát triển. Kiểu khai thác như vậy mang tính tự phát, ưu tiên khai thác ít chú ý đến bảo vệ môi trường và tài nguyên vùng bờ. Nó cũng bộc lộ chỉ chú ý đến lợi ích ngành mình, ít chú ý đến lợi ích ngành khác, người khác.
Nguyên nhân chủ yếu còn chưa hiểu rõ bản chất tài nguyên của đới bờ biển, của từng hệ tự nhiên trong nó và thiếu cách tiếp cận hệ thống, đa ngành trong sử dụng tài nguyên vùng này. Do vậy, nguồn tài nguyên thiên nhiên vùng bờ bị chia cắt, chức năng thống nhất và hoàn chỉnh của hệ thống tài nguyên bờ bị phá vỡ, tài nguyên suy giảm, dễ xảy ra sự cố.
Hậu quả là tài nguyên thiên nhiên ở đây suy giảm nhanh chóng, ít có khả năng phục hồi, đôi nơi không thể phục hồi được. Sự phát triển vùng bờ như vậy không bền vững, ảnh hưởng đến các mục tiêu chiến lược của địa phương, của một quốc gia hay một khu vực.
Bởi vậy, con đường đúng đắn nhất là sự phát triển vùng này tới mục tiêu bền vững, các tài nguyên được sử dụng lâu bền nhằm thoả mãn nhu cầu trước mắt trong phạm vi chịu đựng của hệ thống sinh thái - nhân văn ở vùng bờ, cũng như duy trì được nguồn tài nguyên cho các thế hệ mai sau.
Quản lý vùng bờ có hiệu quả phải dựa trên cơ sở khoa học vững chắc, có tính đến những hạn chế của các hệ thống tài nguyên ven bờ trong bối cảnh cân bằng và thống nhất với nhu cầu phát triển các ngành khác nhau. Quản lý vùng bờ bền vững có thể hiểu theo các khía cạnh khác nhau:
- Duy trì chất lượng môi trường và bảo toàn chức năng của hệ thống tài nguyên vùng
bờ.
- Thực hiện nền kinh tế có hiệu quả, bảo đảm lợi ích lâu bền.
- Đảm bảo quyền của các thế hệ hưởng dụng tài nguyên vùng bờ.
- Bảo đảm tính thích ứng với môi trường tự nhiên xã hội.
7. QUẢN LÝ TỔNG HỢP ĐỚI BỜ
7.1. Mục đích
Chấp nhận phát triển đa ngành.
Giảm thiểu các đối kháng lợi ích, các tác hại và mất mát không thể đảo ngược trong việc
lựa chọn sự phát triển cho tương lai.
Bảo tồn chức năng của các hệ thống tự nhiên và sinh thái.
Tối ưu hoá việc sử dụng đa mục tiêu các hệ thống tài nguyên.
7.2. Quản lý tổng hợp vùng ven bờ là một cơ cấu để tập hợp những người sử dụng, các chủ thể và những người ra quyết định tại vùng ven bờ nhằm đảm bảo quản lý hệ sinh thái có hiệu quả hơn đồng thời phát triển được kinh tế và phân chia quyền lợi hợp lý giữa các thế hệ và trong cùng thế hệ, thông qua việc áp dụng những nguyên tắc có tính bền vững.
Pháp chế và quy hoạch ở lãnh hải và nội địa thường là công cụ thuận lợi để thực thi Quản lý tổng hợp đới bờ.
Quản lý tổng hợp đới bờ là một quy trình tuần hoàn thường bao gồm 3 giai đoạn cơ bản: 1. khởi xướng, 2. lập kế hoạch và 3. thực thi, giám sát và đánh giá. Tuy nhiên nó cũng phải hoạt động như một quy trình lặp lại trong đó việc lập kế hoạch và thực thi cần phải được tiến hành xem xét đánh giá và điều chỉnh thường xuyên.
Có rất nhiều dạng của quản lý tổng hợp, theo NetCoast 2001, có thể phân biệt các dạng sau:
· Tổng hợp giữa các chính quyền: tổng hợp giữa các thể chế và cấp độ hành chính theo các mức độ như địa phương, tỉnh, quốc gia. Đây cũng được gọi là tổng hợp theo ngành dọc. Mục đích của sự tổng hợp này là hoà hợp chính sách của quốc gia và việc thực hiện cuối cùng ở các địa phương.
· Tổng hợp giữa các lĩnh vực: tổng hợp giữa các ngành khác nhau tại cùng một cấp độ hành chính, ví dụ như giữa các bộ với nhau. Đây cũng gọi là tổng hợp theo chiều ngang. Một dạng đặc biệt là tổng hợp theo không gian, do vùng đất và biển kế bên vùng ven bờ được quản lý bởi các ngành khác nhau (ví dụ du lịch và nghề cá), nhưng các hoạt động thì lại ảnh hưởng lẫn nhau.
· Tổng hợp giữa các tổ chức phi chính phủ và tổ chức chính phủ: ví dụ như giữa các chính quyền địa phương và các tổ chức tự nhiên ở địa phương và các công nghiệp nhỏ.
· Tổng hợp giữa khoa học và quản lý: tổng hợp giữa các lĩnh vực khoa học khác nhau và chuyển giao khoa học tới những người sử dụng và những người lập kế hoạch. Rõ ràng là khoa học xã hội, khoa học công nghệ và tự nhiên có nhiệm vụ cung cấp tài liệu cho các nhà quản lý vùng ven biển. Tuy nhiên, thông tin của họ thường không tối ưu nhất.
· Tổng hợp quốc tế: có thể xảy ra vấn đề khi một vùng diện tích lại nằm trong biên giới của hai nước. Do tác động của việc sử dụng tài nguyên giữa hai nước là không biết được, do vậy sự hợp tác quốc tế là điều kiện tiên quyết.
7.3. Mục tiêu
Mục tiêu chung của một chương trình quản lý tổng hợp vùng ven bờ là đảm bảo sử dụng bền vững, tốt nhất các tài nguyên thiên nhiên vùng bờ và duy trì lợi ích nhiều nhất từ môi trường tự nhiên.
Về mặt thực tế, chương trình quản lý tổng hợp vùng ven bờ hỗ trợ các mục tiêu quản lý thông qua việc đưa ra cơ sở cho việc sử dụng bền vững các tài nguyên, bảo tồn đa dạng sinh học, ngăn ngừa thiên tai, kiểm soát ô nhiễm, tăng cường lợi ích, phát triển bền vững nền kinh tế và tối ưu hóa việc sử dụng đa mục tiêu.
Các mục tiêu cụ thể bao gồm: hỗ trợ ngành thủy sản, thu hút khách du lịch, nâng cao sức khỏe cộng đồng, tăng cường nhận thức cộng đồng, duy trì sản lượng sản phẩm có được từ các vùng ngập mặn,... Tất cả các điều này đòi hỏi các hành động của cộng đồng phải được điều phối tốt. Đó chính là cái mà quản lý tổng hợp vùng ven bờ cần làm. Các mục tiêu cụ thể đó là:
· Hướng dẫn mức độ sử dụng và can thiệp đối với nguồn tài nguyên ven biển để chúng không bị sử dụng hoặc can thiệp quá sức mang cho phép bằng cách phân định ra các nguồn tài nguyên nào có thể khai thác mà không gây ra suy thoái hoặc cạn kiệt, hay nguồn tài nguyên nào cần phải cải tạo hoặc khôi phục lại để cho những mục đích sử dụng truyền thống và các mục đích khác sau này;
· Duy trì môi trường vùng bờ với chất lượng cao nhất, xác định và bảo vệ các loài có giá trị, xác định và bảo tồn các sinh cảnh vùng bờ quan trọng;
· Giải quyết các mâu thuẩn giữa các hoạt động tác động đến tài nguyên vùng bờ và việc sử dụng không gian;
· Tôn trọng các quy trình tự nhiên, khuyến khích các qui trình có lợi và ngăn chặn những sự can thiệp có hại;
· Xác định và kiểm soát các hoạt động gây tác hại lên môi trường vùng bờ;
· Kiểm soát các ô nhiễm từ nguồn, từ dòng chảy tràn và từ việc tràn hóa chất do sự cố;
· Phục hồi các hệ sinh thái bị phá hủy;
· Khuyến khích các hoạt động có tính kết hợp hơn là những hoạt động có tính cạnh tranh;
· Đảm bảo rằng các mục tiêu kinh tế, xã hội, môi trường đạt được với mức chi phí có thể chấp nhận được với xã hội;
· Bảo đảm các quyền và sử dụng truyền thống và các cách tiếp cận hợp lý đối với tài nguyên;
· Nâng cao nhận thức, phát triển cộng đồng.
8. KẾT LUẬN
Không những vùng đới bờ mà hầu hết các hệ sinh thái hiện nay đều bị xâm hại và ô nhiễm trầm trọng.
Vì thế ý thức con người là điều kiện đầu tiền để giải quyết vấn đề. Mọi người hãy cùng chung tay xây dựng một môi trường trong sạch nhằm phục vụ chính con người một cách tốt nhất.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
=EF=BB=BF
=EF=BB=BF
=EF=BB=BF
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Vấn đề khai thác tài nguyên và ô nhiễm vùng đới bờ.doc