Trong thời gian gần đây, Việt Nam chủ động đẩy nhanh tiến trình hội nhập với việc tích cực ký kết và gia nhập vào các điều ước quốc tế song và đa phương trong khu vực cũng như trên thế giới nhằm thể hiện rõ chính sách mở cửa, hội nhập toàn diện và sâu rộng của Đảng và Nhà nước. Hệ thống pháp luật quốc gia đã có những thay đổi cơ bản nhằm đảm bảo tương thích với những cam kết quốc tế mà Việt Nam có nghĩa vụ thi hành. Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005 là văn bản luật điều chỉnh một cách tổng thể các vấn đề liên quan đến công tác điều ước quốc tế của Việt Nam. Luật đã ghi nhận hai phương thức áp dụng điều ước mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia là áp dụng trực tiếp và chuyển hoá điều ước ước quốc tế vào pháp luật quốc gia. Tuy nhiên, việc áp dụng điều ước quốc tế được thực thi bằng phương thức nào, nói một cách khác, điều ước quốc tế sau khi đã được hoàn tất các thủ tục ký kết, sẽ được áp dụng trực tiếp hay phải thông qua một thủ tục chuyển hóa bằng việc sửa đổi hoặc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quốc gia? luật lại không quy định rõ. Cho nên, việc giải quyết một cách triệt để các vấn đề nêu trên sẽ đặt nền móng cho những luận cứ khoa học vô cùng quý báu, nhằm xây dựng và hoàn thiện cơ chế thực thi pháp luật quốc tế - đặc biệt là cơ chế thực thi các điều ước quốc tế theo nguyên tắc pacta sunt servanda; bảo vệ tối đa lợi ích dân tộc, bảo vệ triệt để chủ quyền và an ninh quốc gia trong điều kiện hội nhập và toàn cầu hoá.
11 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 8301 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vấn đề pháp lý về chuyển hóa và áp dụng trực tiếp điều ước quốc tế mà Việt Nam kí kết hoặc tham gia, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trong thời gian gần đây, Việt Nam chủ động đẩy nhanh tiến trình hội nhập với việc tích cực ký kết và gia nhập vào các điều ước quốc tế song và đa phương trong khu vực cũng như trên thế giới nhằm thể hiện rõ chính sách mở cửa, hội nhập toàn diện và sâu rộng của Đảng và Nhà nước. Hệ thống pháp luật quốc gia đã có những thay đổi cơ bản nhằm đảm bảo tương thích với những cam kết quốc tế mà Việt Nam có nghĩa vụ thi hành. Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005 là văn bản luật điều chỉnh một cách tổng thể các vấn đề liên quan đến công tác điều ước quốc tế của Việt Nam. Luật đã ghi nhận hai phương thức áp dụng điều ước mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia là áp dụng trực tiếp và chuyển hoá điều ước ước quốc tế vào pháp luật quốc gia. Tuy nhiên, việc áp dụng điều ước quốc tế được thực thi bằng phương thức nào, nói một cách khác, điều ước quốc tế sau khi đã được hoàn tất các thủ tục ký kết, sẽ được áp dụng trực tiếp hay phải thông qua một thủ tục chuyển hóa bằng việc sửa đổi hoặc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quốc gia? luật lại không quy định rõ. Cho nên, việc giải quyết một cách triệt để các vấn đề nêu trên sẽ đặt nền móng cho những luận cứ khoa học vô cùng quý báu, nhằm xây dựng và hoàn thiện cơ chế thực thi pháp luật quốc tế - đặc biệt là cơ chế thực thi các điều ước quốc tế theo nguyên tắc pacta sunt servanda; bảo vệ tối đa lợi ích dân tộc, bảo vệ triệt để chủ quyền và an ninh quốc gia trong điều kiện hội nhập và toàn cầu hoá.
Với mong muốn tìm hiểu rõ hơn về các phương thức áp dụng điều ước quốc tế của Việt Nam cả về phương diện lý luận cũng như thực tiễn, nhóm chúng em đã quyết định họn đề tài: “….”
1. Những vấn đề pháp lý về chuyển hóa và áp dụng trực tiếp điều ước quốc tế mà Việt Nam kí kết hoặc tham gia
1.1. Cơ sở lí luận của việc chuyển hóa và áp dụng trực tiếp điều ước quốc tế vào pháp luật quốc gia
Khi tham gia các điều ước quốc tế, các quốc gia đều có nghĩa vụ là làm cho pháp luật quốc gia mình phù hợp với pháp luật quốc tế. Về vấn đề này hiện nay có hai quan điểm chính:
- Quan điểm thứ nhất cho rằng điều ước quốc tế có hiệu lực trực tiếp trong các lĩnh vực của pháp luật quốc gia mà không cần phải có sự chuyển hoá (nội luật hoá) các điều ước quốc tế vào pháp luật quốc gia – tức là thừa nhận việc chỉ áp dụng trực tiếp.
Học thuyết về sự chấp nhận hiệu lực trực tiếp của quy phạm điều ước quốc tế rất gần với chủ nghĩa nhất nguyên. Học thuyết này khước từ việc ban hành một văn bản thi hành của Nhà nước như là cầu nối giữa quy phạm pháp luật quốc tế và sự áp dụng nó ở trong nước. Theo học thuyết này, các quy phạm pháp luật quốc tế được áp dụng trực tiếp ở trong nước. Tuy nhiên, các quy phạm này không vì thế mà mất đi tính chất của nó với tư cách là các quy phạm pháp luật quốc tế. Với sự chấp nhận, các quy phạm điều ước được công nhận như là pháp luật trong nước.
Ví dụ: Theo hệ thống pháp luật nhất nguyên của mình, các Toà án của Hà Lan áp dụng trực tiếp và tức thời các quy phạm điều ước mà không cần một thể thức chuyển hoá vào nội luật.
- Quan điểm thứ hai: pháp luật quốc tế không áp dụng trực tiếp trong các lĩnh vực của pháp luật quốc gia; điều ước quốc tế, muốn phát huy hiệu lực của mình ở trong các nước thì đòi hỏi phải được chuyển hoá vào nội luật, nghĩa là toàn bộ hoặc một phần nội dung của điều ước đó phải được chuyển đổi dưới các hình thức văn bản quy phạm pháp luật.
Trái ngược với học thuyết về sự chấp nhận, học thuyết về sự chuyển hoá thể hiện rõ tính nhị nguyên luận. Học thuyết này xuất phát từ chỗ cho rằng các quy phạm pháp luật quốc tế không thể được áp dụng như các quy phạm pháp luật trong nước vì pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia là hai hệ thống độc lập với nhau. Những quy phạm điều ước quốc tế muốn được áp dụng trong nước thì phải được chuyển đổi (chuyển hóa) thành quy phạm pháp luật trong nước.
Pháp luật nhiều nước bên cạnh việc thừa nhận ưu thế của điều ước quốc tế so với pháp luật quốc gia, còn quy định rằng, điều ước quốc tế chỉ có hiệu lực ở trong nước sau khi có hành vi chuyển đổi (Điều 25, Điều 29, Luật Cơ bản (GG) của CHLB Đức; Điều 38 - Các nguyên tắc chung về luật của Italia; Điều 28 Hiến pháp năm 1975 của Hy Lạp).
1.2. Chuyển hóa và áp dụng trực tiếp điều ước quốc tế mà Việt Nam kí kết hoặc tham gia
1.2.1. Quan điểm về chuyển hóa và áp dụng trực tiếp điều ước quốc tế theo pháp luật Việt Nam
Xuất phát từ các nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế, mỗi quốc gia là thành viên của điều ước quốc tế đều có quyền hạn và trách nhiệm xác định cách thức thực thi các điều khoản của điều ước quốc tế trong phạm vi quyền lực pháp lý của mình.
Khoản 3 Điều 6 của Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005 quy định: “Căn cứ vào yêu cầu, nội dung, tính chất của điều ước quốc tế, Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ khi quyết định chấp nhận sự ràng buộc của điều ước quốc tế đồng thời quyết định áp dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một phần điều ước quốc tế đó đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong trường hợp quy định của điều ước quốc tế đã đủ rõ, chi tiết để thực hiện; quyết định hoặc kiến nghị sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong nước để thực hiện điều ước quốc tế đó”. Quy định này thể hiện Việt Nam chấp nhận cả hai phương pháp thực hiện điều ước quốc tế: áp dụng trực tiếp và chuyển hoá điều ước vào văn bản pháp luật quốc gia.
- Áp dụng trực tiếp điều ước quốc tế là hình thức “nội luật hoá” toàn bộ hoặc một phần nội dung của điều ước quốc tế thông qua một quyết định chấp thuận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tức là các quốc gia chỉ bằng một văn bản pháp luật thừa nhận việc thi hành tất cả các điều ước quốc tế mà mình tham gia sẽ được áp dụng trên phạm vi lãnh thổ mà không cần sửa đổi hay ban hành các văn bản pháp luật quốc gia chuyên biệt. Văn bản này thường có giá trị pháp lý tương đương với một đạo luật kí kết và thực thi các điều ước quốc tế nói chung của một quốc gia hoặc có thể được ghi nhận trong các văn bản có giá trị pháp lý cao như Hiến pháp, Bộ luật…
Về bản chất, khi áp dụng trực tiếp, điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên đã được coi như là một “nguồn luật” bên cạnh pháp luật quốc gia và được thực hiện như pháp luật quốc gia. Có nghĩa là khi điều ước quốc tế đã được ký kết và có hiệu lực thì mọi cá nhân, tổ chức là đối tượng điều chỉnh của điều ước đó đều có nghĩa vụ thi hành và công dân hoàn toàn có thể viện dẫn các quy định của điều ước quốc tế đó trước Tòa án để bảo vệ lợi ích chính đáng của mình. Nhà nước không nhất thiết phải thực hiện các thủ tục “chuyển hoá điều ước quốc tế” bằng việc xây dựng văn bản quy phạm pháp luật truyền thống theo quy định của Luật, vừa phức tạp, kéo dài và tốn kém.
Chẳng hạn như trong Nghị quyết của Quốc hội phê chuẩn Nghị định thư gia nhập WTO đã liệt kê các quy định liên quan đến nội dung cam kết được áp dụng trực tiếp của Việt Nam là: Luật Doanh nghiệp, Luật Luật sư, Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Điện ảnh, hoặc Hiệp định về thuế…
- Chuyển hóa điều ước quốc tế là việc nhà nước của quốc gia thành viên ban hành các văn bản qui phạm pháp luật mới chứa đựng nội dung, tinh thần của các điều ước mà quốc gia đã kí kết, tham gia hoặc sửa đổi, bổ sung các văn bản qui phạm pháp luật có liên quan để phù hợp với các điều ước quốc tế nhằm chuyển hóa các quy định của điều ước quốc tế vào nội luật. Trường hợp này thường xảy ra khi nội dung của điều ước quốc tế chưa đủ cụ thể, rõ ràng để có thể áp dụng trực tiếp vào thực tiễn pháp luật hoặc nội dung điều ước đó có điều khoản trái hoặc chưa được quy định trong Hiến pháp.
Bản chất của phương thức này là dù bằng cách này hay cách khác trong quá trình “chuyển hóa” các qui phạm pháp luật quốc tế không bị biến đổi thành các qui phạm pháp luật quốc gia mà qui phạm pháp luật quốc tế vẫn là qui phạm pháp luật quốc tế, chỉ xuất hiện thêm hoặc tồn tại sự thay đổi các qui phạm pháp luật quốc gia để phù hợp với tinh thần và nội dung của các qui phạm pháp luật quốc tế. “Các văn bản nội luật hóa là các văn bản qui phạm pháp luật trong nước nhưng có một số nội dung pháp lý vốn là nội dung pháp lý của điều ước quốc tế có liên quan. Nếu xét về bản chất thì nội dung pháp lý của văn bản nội luật hóa đó có cội nguồn từ nội dung pháp lý của các cam kết cần được thi hành của các nước liên quan.” Xem: Đường Thị Thùy Chi, Mối quan hệ giữa Điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia, Khóa luận tốt nghiệp, Hà Nội, 2010, trang 36.
Chẳng hạn như việc chuyển hóa một số điều ước về quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao, lãnh sự trong Pháp lệnh về quyền ưu đãi, miễn trừ dành cho cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự và cơ quan đại diện của tổ chức quốc tế tại Việt Nam; chuyển hóa nội dung Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) vào trong Luật Bình đẳng giới. Nhiều quy định của các điều ước quốc tế khác cũng đã được chuyển hóa thành các quy định trong các đạo luật của Việt Nam, nhất là từ khi chúng ta gia nhập WTO như: Bộ luật dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Luật cạnh tranh, Luật thương mại…có nhiều quy định tương thích với các quy định của Công ước BERN về bảo hộ tác phẩm văn học nghệ thuật, Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp; Pháp lệnh về công nhận và thi hành của trọng tài nước ngoài tại Việt Nam hài hòa với các quy tắc của Công ước New York năm 1958…
Với ý nghĩa là hoạt động pháp lý nhằm bảo đảm điều ước quốc tế được thực hiện thông qua những công cụ pháp luật quốc gia, thực chất của hoạt động chuyển hoá điều ước quốc tế là quá trình tạo ra môi trường pháp luật và thực tế để thực thi có hiệu quả điều ước quốc tế. Quá trình này có thể diễn ra ở nhiều hoạt động với nhiều cách thức khác nhau. Nhưng yêu cầu chung đặt ra cho hoạt động chuyển hoá điều ước quốc tế là thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế, đồng thời áp dụng đúng các quy định của điều ước quốc tế trong điều chỉnh các quan hệ pháp luật phát sinh trên cơ sở của điều ước quốc tế đó.
1.2.2. Phương thức chuyển hóa và áp dụng điều ước quốc tế mà Việt Nam kí kết hoặc tham gia
* Đối với phương thức áp dụng trực tiếp điều ước quốc tế mà Việt Nam kí kết hoặc tham gia: như đã đề cập ở trên, Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ có thẩm quyền quyết định áp dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một phần điều ước quốc tế đó đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong trường hợp quy định của điều ước quốc tế đã đủ rõ, chi tiết để thực hiện. Do đó, trong trường hợp quy định của điều ước quốc tế đầy đủ, rõ ràng và chi tiết thì cơ quan có thẩm quyền chỉ cần ban hành văn bản pháp luật thừa nhận toàn bộ hoặc một phần nội dung của một điều ước quốc tế và hệ quả của nó là nội dung của điều ước quốc tế trở thành bộ phận của hệ thống pháp luật quốc gia, được thực hiện, dẫn chiếu áp dụng như các quy định của pháp luật quốc gia.
Có thể thấy rằng, trong điều kiện khuôn khổ pháp lý còn chưa hoàn thiện và khả năng ban hành luật đầy đủ, chi tiết còn hạn chế như hiện nay thì việc tính toán để áp dụng trực tiếp điều ước quốc tế là hợp lý. Trên thực tế, có nhiều điều ước quốc tế như Công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp năm 1967, Công ước Berne về bảo hộ tác phẩm văn học nghệ thuật năm 1971 mà nước ta gia nhập là những điều ước quốc tế chuyên ngành, nên việc việc quy định áp dụng trực tiếp các điều này để bảo đảm sự hài hoà và thống nhất giữa pháp luật quốc gia và điều ước quốc tế là cần thiết.
* Việc chuyển hóa điều ước quốc tế mà Việt Nam kí kết hoặc tham gia vào pháp luật quốc gia (nội luật hóa) được thực hiện theo các phương thức phổ biến sau:
- Sửa đổi, bổ sung, ban hành pháp luật nhằm bảo đảm thực hiện điều ước quốc tế. Theo quy định tại khoản 10 Điều 14 Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005, cơ quan đề xuất ký kết có trách nhiệm “Kiến nghị về việc áp dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một phần điều ước quốc tế hoặc sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ, ban hành văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện điều ước quốc tế.” Như vậy, để thực hiện nghĩa vụ pháp lý quốc tế phát sinh từ điều ước quốc tế mà cần phải sửa đổi, bổ sung pháp luật hiện hành, thì cơ quan đề xuất việc ký kết điều ước quốc tế phải chủ động phối hợp với Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện việc này.
Trong công tác xây dựng pháp luật, theo quy định tại Điều 5 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008, một trong những nguyên tắc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật mới là phải "không làm cản trở việc thực hiện điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên." Đây cũng là một biện pháp bảo đảm cho việc thực hiện các nghĩa vụ pháp lý quốc tế phát sinh từ điều ước quốc tế được tuân thủ nghiêm túc tại Việt Nam.
- Tiến hành chuyển hoá quy phạm của điều ước quốc tế vào pháp luật trong nước. Nghĩa vụ thực hiện điều ước quốc tế có liên quan mật thiết đến vấn đề chuyển hoá (nội luật hoá) các điều ước quốc tế vào pháp luật trong nước. Mục đích cơ bản của vấn đề chuyển hoá là bảo đảm thuận lợi cho việc thực hiện các điều ước quốc tế.
2. Những vấn đề thực tiễn về chuyển hóa, áp dụng trực tiếp điều ước quốc tế mà Việt Nam kí kết hoặc tham gia
2.1. Thực tiễn áp dụng trực tiếp điều ước quốc tế mà Việt Nam kí kết hoặc tham gia
Nhìn vào thực tế áp dụng các điều ước quốc tế tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay có thể thấy Việt Nam công nhận hiệu lực thi hành trực tiếp cho nhiều điều ước quốc tế (những điều ước có nội dung đủ rõ, chi tiết) mà không thông qua quá trình chuyển hoá, đặc biệt là các điều ước quốc tế là đòn bẩy cho sự phát triển kinh tế và các điều ước là bước đệm cho sự hội nhập nhanh và mạnh như các hiệp định về khuyến khích và bảo hộ đầu tư, các hiệp định thương mại song phương…
Một ví dụ điển hình là việc Quốc hội ban hành Nghị quyết số 71/2006/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2006 về việc Phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong đó quyết định : "2. Áp dụng trực tiếp các cam kết của Việt Nam được ghi tại Phụ lục đính kèm Nghị quyết này và các cam kết khác của Việt Nam với Tổ chức thương mại thế giới được quy định đủ rõ, chi tiết trong Nghị định thư, các Phụ lục đính kèm và Báo cáo của Ban công tác về việc Việt Nam gia nhập Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới. Trong trường hợp quy định của pháp luật Việt Nam không phù hợp với quy định của Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới, Nghị định thư và các tài liệu đính kèm thì áp dụng quy định của Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới, Nghị định thư và các tài liệu đính kèm”.
Việc Quốc hội thông qua Nghị quyết số 71/2006/QH11 đã đánh dấu một bước quan trọng trong sự phát triển pháp luật về điều ước quốc tế của Việt Nam trong quá trình hội nhập. Lần đầu tiên một Nghị quyết của Quốc hội khẳng định việc áp dụng trực tiếp các cam kết của Việt Nam trong Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới mà không cần phải thực hiện phương thức chuyển hoá.
Chẳng hạn như nội dung trong cam kết WTO (tức đoạn 502 và 503 của Báo cáo gia nhập WTO) về vấn đề tỷ lệ đại diện tham dự cuộc họp, các thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông, tỷ lệ thông qua quyết định của cơ quan này trong các doanh nghiệp cổ phần và các doanh nghiệp được phép tự do quy định về loại quyết định thuộc thẩm quyền quyết định của Đại hội đồng cổ đông, số đại biểu cần thiết trong quy trình bỏ phiếu và tỷ lệ đa số phiếu chính xác đề ra quyết định với điều kiện các doanh nghiệp này phải là doanh nghiệp liên doanh sẽ được áp dụng trực tiếp. Hoặc Đoạn 397 trong Báo cáo gia nhập WTO về thù lao, nhuận bút, Tổ chức phát sóng sử dụng tác phẩm, bản ghi âm, ghi hình đã công bố để thực hiện chương trình phát sóng không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao cho chủ sở hữu quyền tác giả, quyền liên quan sẽ được áp dụng trực tiếp….
Nghị quyết cũng ghi rõ trong trường hợp các quy định của pháp luật Việt Nam không phù hợp với quy định của WTO thì thực hiện các quy định của WTO.
Với quy định áp dụng trực tiếp các cam kết quốc tế với WTO, đã chuyển các cam kết quốc tế của Việt Nam thành một “nguồn luật” bên cạnh các quy định của pháp luật quốc gia có giá trị ràng buộc thi hành đối với các cơ quan thực thi pháp luật, kể cả Tòa án và Viện kiểm sát, các doanh nghiệp từng cá nhân.
2.2. Thực tiễn chuyển hóa điều ước quốc tế mà Việt Nam kí kết hoặc tham gia
Thực tiễn chỉ ra rằng các điều ước quốc tế mà Việt Nam kí kết hoặc tham gia thực hiện thông qua quá trình chuyển hóa thường là các điều kiện mang tính xã hội, các điều ước đa phương về các vấn đề toàn thế giới quan tâm hoặc các điều ước về khoa học công nghệ, sở hữu trí tuệ như Hiệp định TRIPS, Thỏa ước Madrit, Công ước Lahay về nuôi con nuôi… Những điều ước này cần thiết có sự chuyển hóa để đảm bảo dễ thực hiện và phù hợp với môi trường xã hội Việt Nam. Đặc biệt là các điều ước quốc tế về sở hữu trí tuệ, các văn bản pháp luật đã nêu ra nguyên tắc chung giải quyết mối quan hệ giữa điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia khi không có sự tương đồng thì không áp dụng trực tiếp mà sẽ phải chuyển hóa vào pháp luật trong nước thông qua việc ban hành các văn bản qui phạm pháp luật nhằm cụ thể hóa các qui định của điều ước để đảm bảo thi hành đầy đủ và hiệu quả. Thực tiễn cho thấy sau khi thực hiện hàng loạt các điều ước quốc tế về sở hữu trí tuệ song phương và đa phương, Việt Nam đã ban hành các văn bản pháp luật sửa đổi bổ sung các văn bản pháp luật trong nước như Bộ luật Dân sự năm 2005, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, Luật cạnh tranh năm 2004… và các văn bản dưới luật để hướng dẫn thi hành như Nghị định 100/2006/NĐ-CP của chính phủ qui định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả, Nghị định 103/2006/NĐ-CP của Chính phủ qui định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về Sở hữu công nghiệp…
Trong khuôn khổ một bài tập nhóm, nhóm xin chỉ nêu cụ thể một ví dụ tiêu biểu trong chuyển hóa điều ước quốc tế vào pháp luật quốc gia ở Việt Nam là việc nội luật hóa công ước Luật biển năm 1982 vào pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật biển nói riêng.
Công ước Luật biển 1982 của Liên hiệp quốc là khung pháp luật giải quyết một cách tổng thể, toàn diện và cũng rất cụ thể các vấn đề pháp lý thuộc phạm vi điều chỉnh của luật biển quốc tế. Ngay từ khi công ước chưa hiệu lực, Việt Nam đã chú trọng xây dựng hệ thống văn bản pháp luật về biển dựa vào các tiêu chí khoa học ghi nhận trong nội dung công ước. Sau khi công ước chính thức có hiệu lực chung, Việt Nam cũng như nhiều quốc gia thành viên khác đã sửa đổi, bổ sung các qui định pháp luật quốc gia về biển cho phù hợp với Công ước Luật biển 1982. Mặc dù chưa có một văn bản pháp luật có hiệu lực cao, với tính chất là luật khung về các vùng biển và qui chế pháp lý các vùng biển đó, nhưng trên thực tế lập pháp và thực thi pháp luật tại Việt Nam, nhiều qui định của Công ước 1982 đã được chuyển hóa (nội luật hóa) vào trong các văn bản pháp luật quốc gia, trong đó có các quy định về các vùng biển chủ quyền và quyền chủ quyền.
Các văn bản dưới luật, như Tuyên bố của Chính phủ nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 12/5/1977 về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, Tuyên bố của Chính phủ nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 12/11/1982 về đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam, đến thời điểm hiện tại chưa được thay thế bằng một đạo luật chung nên vẫn tiếp tục có hiệu lực. Trong các văn bản này và trong Luật Biên giới quốc gia năm 2003, quan điểm về các vùng biển nội thủy, lãnh hải, tiếp giáp, đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam về cơ bản là hoàn toàn phù hợp với quy định của Công ước 1982. Chẳng hạn, theo Điều 4 khoản 1 của Luật Biên giới quốc gia năm 2003 thì đường cơ sở ven bờ lục địa Việt Nam dùng để tính chiều rộng của lãnh hài và các vùng biển quyền chủ quyền của Việt Nam được xác định là dạng đường cở sở thẳng, phù hợp với Điều 7 Công ước 1982 về đường cơ sở thẳng. Cũng theo các văn bản pháp luật trên, Việt Nam đã khẳng định chủ quyền và quyền chủ quyền của mình đối với các vùng biển của Việt Nam, theo đúng quy định của công ước 1982.
Tương tự, Luật Biên giới quốc gia năm 2003 (Điều 8) xác định, Lãnh hải Việt Nam rộng 12 hải lý tính từ đường cơ sở ra phía ngoài, bao gồm lãnh hải của đất liền, của đảo, của quần đảo (phù hợp với Điều 3 – 4 của công ước 1982). Các quy định về qua lại vô hại trong lãnh hải Việt Nam hay việc đi lại của tàu thuyền trong vùng tiếp giáp đều được Luật Biên giới quốc gia năm 2003 quy định theo đúng quy định của Công ước 1982. Luật Biên giới của Việt Nam cũng quy định rõ quy chế quản lý và bảo vệ các vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam theo hướng nội luật hóa công ước 1982.
3. Một số nhận xét và kiến nghị hoàn thiện
3.1. Một số nhận xét về việc chuyển hóa, áp dụng trực tiếp điều ước quốc tế mà Việt Nam kí kết hoặc tham gia
- Pháp luật Việt Nam hiện nay chưa có qui định rõ ràng và cụ thể về vị trí của điều ước quốc tế trong hệ thống pháp luật Việt Nam, các qui định pháp luật chưa xác định được mối quan hệ thứ bậc của điều ước quốc tế với pháp luật quốc gia mà chỉ dừng lại ở việc qui định điều ước quốc tế có giá trị cao hơn nội luật, không xác định được có vị trí như thế nào đối với Hiến pháp. Cần xác định rõ hơn nữa về việc “ưu tiên áp dụng các điều ước quốc tế” được ghi nhận trong các văn bản pháp luật quốc gia, điều này có ý nghĩa quan trọng đối với việc áp dụng trực tiếp các văn bản pháp luật quốc tế.
- Việt Nam đã áp dụng linh hoạt cả hai phương pháp áp dụng trực tiếp và chuyển hóa các qui định điều ước quốc tế mà Việt Nam kí kết hoặc tham gia vào pháp luật quốc gia nhưng hiện nay chưa có văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tiêu chí xác định loại điều ước quốc tế nào được áp dụng trực tiếp, loại nào buộc phải tiến hành chuyển hóa. Điều này ảnh hưởng nhất định đến hoạt động của các chủ thể lập pháp và hành pháp.
- Đối với các điều ước quốc tế được áp dụng trực tiếp thường không có các văn bản hướng dẫn thi hành đi kèm. Đôi khi các cơ quan chức năng còn nhầm lẫn với việc ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành đối với các điều ước quốc tế được áp dụng trực tiếp với việc ban hành các văn bản pháp luật thực hiện việc chuyển hóa các quy định của điều ước quốc tế vào pháp luật quốc gia. Việc không có các văn bản hướng dẫn thi hành các điều ước quốc tế được áp dụng trực tiếp sẽ dẫn đến tình trạng thực thi không đúng, không đủ, không hiệu quả vì các quy định của điều ước quốc tế không phải lúc nào cũng dễ hiểu, dễ áp dụng.
- Trong số các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, có nhiều điều ước quốc tế được ký kết bằng cả tiếng Việt và tiếng nước ngoài (các Hiệp định song phương), có những điều ước quốc tế không được ký kết bằng tiếng Việt, nhất là những điều ước quốc tế đa phương, các Công ước quốc tế mà Việt Nam gia nhập sau khi chúng đã có hiệu lực. Điều này đặt ra yêu cầu phải dịch những điều ước quốc tế ra tiếng Việt (đối với những điều ước quốc tế chưa có bản tiếng Việt). Đảm bảo tốt nhất tính chính xác về nội dung của điều ước quốc tế trong bản dịch tiếng Việt là cực kì quan trọng không chỉ đối với những điều ước quốc tế được áp dụng trực tiếp mà còn cả những điều ước quốc tế được chuyển hóa vào pháp luật quốc gia. Bởi lẽ, bản dịch tiếng Việt của các điều ước quốc tế càng chính xác thì các nhà lập pháp trong nước càng dễ dàng nội luật hóa các điều ước đó. Hiện nay, việc dịch các điều ước quốc tế đã được các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân, tổ chức dịch, đăng tải, xuất bản trên những ấn phẩm khác nhau. Tuy nhiên, những bản dịch các điều ước quốc tế chưa thực sự đảm bảo cả về tính hệ thống cũng như nội dung bản dịch. Việc tra cứu, tìm hiểu còn khó khăn, nội dung các bản dịch trong nhiều trường hợp chưa thật sự chính xác, chưa đảm bảo độ tin cậy đối với nội dung các bản dịch, chưa có nguồn chính thức, đầy đủ về các bản dịch điều ước quốc tế. Do đó, gây khó khăn cho việc tiếp cận các văn bản này, nhất là các văn bản điều ước quốc tế được áp dụng trực tiếp.
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện
* Về mặt pháp lý
- Nhà nước cần có qui định thống nhất về việc các điều ước quốc tế có giá trị pháp lý như thế nào đối với pháp luật quốc gia, đặc biệt là so với Hiến pháp để tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện và áp dụng điều ước quốc tế.
- Pháp luật Việt Nam cần quy định rõ về tiêu chuẩn xác định loại điều ước nào có thể áp dụng trực tiếp, loại điều ước nào buộc phải tiến hành chuyển hóa, nhanh chóng khắc phục tình trạng giải quyết theo thời vụ như hiện nay. Tuy nhiên, việc xây dựng các tiêu chuẩn này trên thực tế cũng rất khó khăn vì việc áp dụng trực tiếp hay chuyển hóa phụ thuộc vào tính chất, lĩnh vực và thời điểm ký kết từng điều ước quốc tế. Giải pháp tạm thời có thể là trong các văn bản điều ước quốc tế, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền nên quy định rõ điều ước này áp dụng trực tiếp hay phải sửa đổi, bổ sung ban hành nội luật để chuyển hóa và nêu rõ lý do. Việc này cũng sẽ tạo thuận lợi cho các nhà làm luật sau một thời gian theo dõi, tập hợp các tiền lệ sẽ dễ dàng hơn khi xây dựng các tiêu chuẩn phân loại. Hơn nữa trong trường hợp áp dụng trực tiếp, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng cần ban hành các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật để việc áp dụng dễ dàng, hiệu quả. Công tác giải thích điều ước quốc tế cũng cần chú trọng, tránh tình trạng mỗi nơi giải thích một kiểu, thiếu thống nhất, hiểu sai lệch.
* Về mặt thực tiễn
Việc dịch nội dung các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia cần thiết phải có sự tham gia tích cực hơn nữa của các cơ quan nhà nước – đặc biệt là các cơ quan ngoại giao trong việc dịch các điều ước ra tiếng Việt (đối với những điều ước quốc tế không được ký kết bằng tiếng Việt) để việc dịch đảm bảo tính chính thức, khắc phục những hạn chế nêu trên. Mặc dù các bản dịch không có giá trị pháp lý như bản gốc và không thể áp dụng khi có tranh chấp quốc tế trong trường hợp điều ước quốc tế không được ký kết bằng tiếng Việt nhưng việc tổ chức dịch một cách chính thức bởi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ tạo ra một kênh cơ sở, đảm bảo cho việc tổ chức, thực hiện có hiệu quả các điều ước tại Việt Nam.
Nâng cao năng lực và trình độ chuyên môn của các nhà lập pháp trong nước để họ ngày càng tiếp cận một cách chính xác nhất đối với các điều ước quốc tế, xác định và đánh giá đúng mức độ rõ ràng, chi tiết của điều ước quốc tế mà Việt Nam kí kết hoặc tham gia từ đó qui định phương thức áp dụng trực tiếp hay chuyển hóa điều ước quốc tế vào pháp luật quốc gia. Giảm thiểu tối đa tình trạng do hạn chế về năng lực và trình độ của chủ thể có thẩm quyền mà bất cứ điều ước quốc tế nào cũng chuyển hóa cho “an toàn”.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Vấn đề pháp lý về chuyển hóa và áp dụng trực tiếp điều ước quốc tế mà Việt Nam kí kết hoặc tham gia.doc