Vấn đề quốc hữu hóa và tính trị ngoại lãnh thổ của đạo luật quốc hữu hóa

Pháp luật quốc tế từ lâu đã thừa nhận quyền quốc hữu hóa của các quốc gia đối với tài sản của quốc gia. Tuy nhiên, cho đến gần đây với áp lực của sự khủng hoảng kinh tế toàn cầu, với sự tuyên bố xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa của một số các nước ở Nam Mỹ thì ta mới được nghe thấy cụm từ “quốc hữu hóa ” nhiều hơn, quen thuộc hơn trên các phương tiện thông tin đại chúng. Tuy nghe thấy nhiều, đọc thấy nhiều nhưng đó vẫn là khái niệm rất mơ hồ với chúng em. Vì thế, trong bài tập nhóm lần này chúng em đã chọn tìm hiểu đề tài: “Phân tích mặt lý luận và thực tiễn vấn đề quốc hữu hóa, nêu quan điểm trị ngoại lãnh thổ của đạo luật quốc hữu hóa”.

doc9 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5632 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vấn đề quốc hữu hóa và tính trị ngoại lãnh thổ của đạo luật quốc hữu hóa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Pháp luật quốc tế từ lâu đã thừa nhận quyền quốc hữu hóa của các quốc gia đối với tài sản của quốc gia. Tuy nhiên, cho đến gần đây với áp lực của sự khủng hoảng kinh tế toàn cầu, với sự tuyên bố xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa của một số các nước ở Nam Mỹ thì ta mới được nghe thấy cụm từ “quốc hữu hóa ” nhiều hơn, quen thuộc hơn trên các phương tiện thông tin đại chúng. Tuy nghe thấy nhiều, đọc thấy nhiều nhưng đó vẫn là khái niệm rất mơ hồ với chúng em. Vì thế, trong bài tập nhóm lần này chúng em đã chọn tìm hiểu đề tài: “Phân tích mặt lý luận và thực tiễn vấn đề quốc hữu hóa, nêu quan điểm trị ngoại lãnh thổ của đạo luật quốc hữu hóa”. NỘI DUNG I. Khái quát chung về vấn đề quốc hữu hóa. 1. Khái niệm quốc hữu hóa Quốc hữu hóa là việc một quốc gia tước quyền sở hữu tài sản (công cụ và tư liệu sản xuất, ruộng đất, hầm mỏ, xí nghiệp, ngân hàng, phương tiện giao thông…) của một cá nhân hoặc một tổ chức để chuyển tài sản đó thuộc quyền sở hữu quốc gia. Trong một số trường hợp, tài sản bị quốc hữu hóa là các cơ sở có vốn đầu tư nước ngoài, và hậu quả sẽ có những vấn đề pháp lý phát sinh vượt quá thẩm quyền của tòa án địa phương. Quốc hữu hóa phải được hiểu dưới hai góc độ: có bồi thường và không được bồi thường. Quốc hữu hóa mà không bồi thường gọi là tịch thu hay sung công 2. Cơ sở của quốc hữu hóa Hành vi quốc hữu hóa thường được biện minh bằng học thuyết được luật pháp quốc tế gọi là “hành vi quốc gia” (The acts of state doctrine), theo đó cho phép một quốc gia có chủ quyền được toàn quyền hành động trên phạm vi lãnh thổ của mình mà không bị xét xử bởi một tòa án của quốc gia khác. Đây là một hình thức đặc quyền xuất phát từ chủ quyền quốc gia (immunity of state). Nói cách khác, học thuyết “hành vi quốc gia” cho rằng tòa án của một quốc gia không có thẩm quyền xét xử một quốc gia khác khi: Quốc gia đó đã thực hiện một hành vi thể hiện uy quyền quốc gia và hành vi được thực hiện trên chính lãnh thổ của quốc gia đó. Học thuyết này làm phát sinh nguyên tắc mà người ta gọi là “nguyên tắc giới hạn thẩm quyền của một tòa án địa phương đối với một quốc gia khác”. Học thuyết “hành vi quốc gia” không phải là một nguyên tắc được chế định bởi luật pháp quốc tế (tức là không được tạo ra từ hiệp ước quốc tế hoặc tập quán quốc tế), nhưng vẫn được áp dụng như một nguyên tắc tổng quát của luật quốc tế nhờ vào sự thừa nhận áp dụng từ các tòa án Liên bang Hoa Kỳ. Nói một cách cụ thể, sự thừa nhận nguyên tắc này của các Tòa án Hoa Kỳ không nhằm bảo vệ chủ quyền của các quốc gia khác mà chỉ nhằm vào công việc nội bộ chính quyền Hoa Kỳ, tức là nhằm bảo vệ quyền lực của ngành hành pháp Hoa Kỳ trong hoạt động bang giao với các nước khác, mà không bị ràng buộc bởi thẩm quyền xét xử từ Tòa án của các nước đó mà thôi. Như vậy, quốc hữu hóa là hành vi biểu hiện quyền lực của Nhà nước, dựa trên ý chí độc lập của Nhà nước tiến hành quốc hữu hóa. Việc chuyển dịch sở hữu trên cơ sở đạo luật quốc hữu hóa khác với việc chuyển dịch quyền sở hữu trong dân sự ở chỗ: việc chuyển dịch quyền sở hữu trong đạo luật quốc hữu hóa mang tính chất cưỡng chế và không cần có sự thỏa thuận giữa các chủ thể thuộc đối tượng điều chỉnh của đạo luật quốc hữu hóa. Phạm vi tài sản bị quốc hữu hóa thông thường được quy định cụ thể ngay trong các đạo luật về quốc hữu hóa. Các tài sản đều có thể trở thành đối tượng điều chỉnh của các đạo luật quốc hữu hóa bất luận tài sản đó thuộc về ai, của công dân và pháp nhân nước sở tại hay của người nước ngoài. 3. Nguyên nhân của quốc hữu hóa. Hiện nay, không có một đạo luật nào trên thế giới quy định về quốc hữu hóa, chỉ tùy từng thời điểm, tùy hoàn cảnh của mỗi quốc gia mà quốc gia sẽ ban hành một đạo luật để quốc hữu hóa những tài sản riêng, trong phạm vi cụ thể. Thực tiễn cho thấy có nhiều nguyên nhân dẫn tới việc các quốc gia tiến hành quốc hữu hóa nổi bật là những nguyên nhân sau: Thứ nhất: Một số công ty, tập đoàn lớn ở các nước phát triển đang lâm vào tình trạng phá sản. Nếu các công ty này phá sản, nó có thể ảnh hưởng vô cùng lớn tới nền kinh tế quốc gia (đặc biệt là các ngân hàng), bởi vậy, Nhà nước có thể tiến hành quốc hữu hóa để cứu vớt các công ty đó, tránh những hậu quả khôn lường. Thứ hai: ở các nước đang phát triển, nguồn tài nguyên dồi dào, việc chính phủ “quốc hữu hóa” một số ngành công nghiệp quan trọng có ý nghĩa to lớn với nền kinh tế quốc dân là rất cần thiết để tránh việc các nước giàu có đầu tư vào để khai thác tài nguyên dẫn đến nền kinh tế bị phụ thuộc. Thứ ba: Quốc hữu hóa đôi khi là trường hợp của sự trả đũa về chính trị khi bang giao giữa các quốc gia liên quan - ở đây là quốc gia nhận vốn đầu tư với quốc gia của nhà đầu tư - không được tốt đẹp. II. Thực tiễn của vấn đề quốc hữu hóa. 1. Thực tiễn về quốc hữu hóa trên thế giới a. Quốc hữu hóa một số công ty, tập đoàn lớn ở các nước phát triển đang lâm vào tình trạng phá sản. Ví dụ ngày 18/2/2008, Chính phủ Đức đã thông qua dự luật cho phép cưỡng chế quốc hữu hóa các tổ chức tín dụng lâm vào cảnh khó khăn, một biện pháp cứng rắn nhằm bình ổn thị trường tài chính trong bối cảnh suy thoái toàn cầu. Việc quốc hữu hóa các công ty này chỉ được sử dụng khi tất cả các biện pháp khác nhằm bình ổn thị trường đều không có tác dụng. Chính phủ Anh cũng đã quốc hữu hóa vài ngân hàng trong năm 2007 và 2008. Nhiều người lầm tưởng rằng, “quốc hữu hóa” là một trong những biểu hiện của “xã hội chủ nghĩa”, nhưng việc quốc hữu hóa một số ngân hàng hay một số doanh nghiệp của các nước tư bản pháp triển không phải như vậy. Đó chỉ là một trong những biện pháp can thiệp của Nhà nước chứ hoàn toàn không có nghĩa là các nước này đi theo con đường “xã hội chủ nghĩa”. “Quốc hữu hóa” chỉ là quốc hữu hóa tạm thời mà thôi. Thụy Điển là một ví dụ điển hình. Quốc gia này đã quốc hữu hóa một số ngân hàng lớn yếu kém khi khủng hoảng xảy ra đầu các năm 1990. Khi đó các ngân hàng lớn ở Thụy Điển thực sự đã phá sản và chính phủ trung hữu đã quốc hữu hóa chúng, vực chúng dậy và sau đó lại thoái các khoản đầu tư của Nhà nước bằng cách bán cổ phần của mình cho các nhà đầu tư tư nhân khi ngân hàng đã lành mạnh trở lại. Một số ý kiến của các chuyên gia cho rằng việc “quốc hữu hóa” này càng chứng tỏ bản chất của nhà nước tư sản là nhà nước phục vụ đắc lực cho giai cấp tư sản. Khủng hoảng kinh tế toàn cầu lại là một cơ hội bằng vàng cho các ông chủ kếch xù củng cố và sở hữu tư nhân phát triển mạnh hơn bao giờ hết. Nhà nước lấy tiền từ thuế cứu những ông chủ kếch xù nay có biểu hiện quá yếu kém. Các ông chủ đang phất thì được dịp thâu tóm rồi trải rộng cơ sở sản xuất của mình, bành trướng sức mạnh. Nhân danh thời khủng hoảng tăng công việc cho công nhân nhưng không tăng tiền lương là bao so với sức lao động bỏ ra. Được dịp sa thải những người lao động đã có mức hưởng phúc lợi cao nhưng đã giảm năng suất lao động mà không phạm luật, giảm được khoản chi và tăng tích lũy vốn. Nghĩ cho cùng thì khủng hoảng chỉ thiệt hại cho kinh tế nhà nước, thiệt hại cho người lao động là chính. b. Quốc hữu hóa một số ngành công nghiệp quan trọng có ý nghĩa to lớn với nền kinh tế quốc dân ở một số nước đang phát triển. Ở Việt Nam, một số ngành công nghiệp quan trọng đều thuộc sở hữu Nhà nước như điện, nước, xăng dầu, viễn thông, sắt thép… Venezuela cũng đã quốc hữu hóa nhiều doanh nghiệp lớn trong nền kinh tế, gồm các dự án dầu lửa, các công ty điện lực, viễn thông, sắt thép... c. Quốc hữu hóa nhằm trả đũa về chính trị. Trong những trường hợp này, thường tài sản bị quốc hữu hóa là từ các nhà đầu tư thuộc quốc gia “không được thân thiện” về mặt bang giao. Với tài sản của những quốc gia có quan hệ hữu hảo có thể không bị ảnh hưởng nhiều vì đã có những hiệp ước song phương cam kết bảo hộ những khoản đầu tư giữa hai chính phù. Chẳng hạn, nếu Chính phủ Việt Nam hay Chính phủ Venezuela đã có những cam kết bảo hộ đầu tư song phương thì chắc chắn vốn đầu tư của Việt Nam và Venezuela không bị ảnh hưởng gì. d. Quốc hữu hóa công ty nước ngoài nằm trên lãnh thổ của mình. Việc quốc hữu hóa các công ty nước ngoài tại bất kỳ nền kinh tế nào cũng sẽ gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng không chỉ đối với các nhà đầu tư nước ngoài có tài sản bị quốc hữu hóa mà còn đối với cả chính quốc gia đã quốc hữu hóa. Biện pháp này là một hình thức bị cấm trong khuôn khổ các quy định của WTO. WTO coi đây là một hình thức “phi cạnh tranh” dẫn đến nhiều thiệt hại về kinh tế. Các chuyên gia kinh tế WTO luôn phản đối bất cứ hình thức quốc hữu hóa nào. Theo họ, các quốc gia tiến hành quốc hữu hóa đó chỉ nhìn thấy những lợi nhuận trước mắt mà những thiệt hại về lâu dài thì không thể nào thấy và tính hết được. Tuy nhiên, các nước tiến hành quốc hữu hóa lại không có quan điểm như vậy. Ví dụ như việc chính phủ Ethiopia quốc hữu hóa công ty con của Nestle tại nước này năm 1975 và sau đó đã bán lại cho một công ty trong nước để lấy 8,7 triệu USD. Đối với một nước nghèo như Ethiopia, với mức bình quân đầu người dưới 100USD/ năm, kinh tế kiệt quệ thì đây là một khoản tiền khá lớn để tạo đà cho sự tăng trưởng kinh tế. Tập đoàn Nestle đã đòi nước này khoản bồi thường lên đến 6 triệu USD, tuy nhiên Chính phủ Ethiopia chỉ đồng ý bồi thường cho Nestle 1,5 triệu USD. Việc làm này của Ethiopia có thể có lợi trước mắt nhưng về lâu dài nó sẽ tạo ra một tâm lý không an tâm cho các nhà đầu tư nước ngoài, từ đó đầu tư nước ngoài sẽ giảm đáng kể. Thông thường Luật đầu tư nước ngoài của các quốc gia thường có quy định cấm quốc hữu hóa hay đặt ra các quy định ngặt nghèo đối với việc quốc hữu hóa. Tuy nhiên, một khi đã vì lợi ích, chính phủ nhiều quốc gia vẫn có cách để “tránh khỏi” các quy định pháp luật đó. Và kết quả người thiệt hại là các nhà đầu tư nước ngoài. Một ví dụ điển hình nữa là vụ kiện khá nổi tiếng: Banco Nacional de Banco kiện Sabbatino (1964). Đây là vụ ki n phát sinh khi Chính phủ Cuba quốc hữu hóa mà không bồi thường cho một công ty đường do nhiều công dân Hoa Kỳ đầu tư. Mặc dù nhiều nhà đầu tư Hoa Kỳ đã chịu tổn thất lớn vì mất vốn đầu tư vào nhà máy đường bị Chính phủ Cuba quốc hữu hóa, nhưng Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ đã chấp nhận áp dụng học thuyết “hành vi quốc gia” để bác đơn kiện Chính phủ Cuba của các nhà đầu tư Hoa Kỳ. Venezuela là một trong những nước sử dụng các đạo luật quốc hữu hóa mạnh mẽ nhất. Sau khi thông qua đạo luật cho phép chính phủ kiểm soát toàn bộ ngành công nghiệp “vàng đen”, quốc gia này đã tịch thu tài sản, quốc hữu hóa 39 công ty dầu mỏ tư nhân và có vốn đầu tư nước ngoài. Tổng thống Venezuela, ông Hugo Chavez tuyên bố tài sản của 39 công ty tư nhân và nước ngoài bị tịch thu từ nay sẽ thuộc sở hữu của Venezuela. Để bảo vệ tài sản của các nhà đầu tư nước ngoài, một công ước quốc tế có tên “Công ước về giải quyết tranh chấp đầu tư giữa một quốc gia với công dân của quốc gia khác” do Ngân hàng thế giới bảo trợ ra đời vào năm 1965 (Còn gọi là Công ước Washington 1965). Mục tiêu của công ước này là thúc đẩy hoạt động đầu tư vào các quốc gia khó thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vì những bất ổn chính trị xã hội khiến vốn đầu tư của họ có nguy cơ bị quốc hữu hóa. Để thực hiện mục tiêu này, qua công ước Washington 1965, Ngân hàng Thế giới thiết lập một tòa án để giải quyết các tranh chấp đầu tư phát sinh giữa một bên là chính phủ nhận đầu tư với một bên là nhà đầu tư nước ngoài. Tòa án này có tên là Trung tâm giải quyết các tranh chấp đầu tư quốc tế (ICSID) và thủ tục áp dụng của trung tâm là thủ tục tố tụng trọng tài. Hầu hết các quốc gia là thành viên của Công ước Washington. Riêng Việt Nam chưa hoàn thành thủ tục tham gia công ước này. 2. Thực tiễn về quốc hữu hóa ở Việt Nam. Ở Việt Nam, trong quá trình cải tạo và xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, quốc hữu hoá là một trong những vấn đề không chỉ vì mục đích kinh tế mà còn mang tính chính trị sâu sắc, thể hiện quan điểm, đường lối của Nhà nước và nhân dân Việt Nam về con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta. a. Vấn đề quốc hữu hóa sau khi giành độc lập và thống nhất đất nước. Trong những thời kì mới giành được độc lập chủ quyền cho dân tộc (sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước sau 30 tháng 4 năm 1945), nhà nước ta đều ban hành các đạo luật về quốc hữu hoá các tài sản, xí nghiệp của tư nhân. Tiêu biểu, có thể kể đến các văn bản như: Luật cải cách ruộng đất năm 1953 do Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà thông qua ngày 4 tháng tháng 2 năm 1953 quy định về tịch thu, trưng thu, trưng mua ruộng đất. Điều 9 có quy định trưng thu: công điền, công thổ; Ruộng giáp, ruộng xóm, ruộng tư văn, tư vũ, lộc điền, ruộng hậu, ruộng họ, ruộng môn sinh…; ruộng đất của các đoàn thể. Sau đó, khi đất nước hoàn toàn giải phóng năm 1975, Nhà nước ta lại tiếp tục ban hành các văn bản về quốc hữu hóa. Theo Quyết định của Hội đồng Chính phủ số 111/CP ngày 14 tháng 4 năm 1977 về việc ban hành chính sách quản lí và cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nhà, đất cho thuê ở các đô thị, các tỉnh phía nam: “Nhà nước quốc hữu hoá toàn bộ nhà cho thuê, không kể diện tích cho thuê nhiều hay ít của tư sản mại bản, của địa chủ, của tư sản gian thương lớn, của những người phạm tội nặng về chính trị và kinh tế của các tổ chức phản động.” Như vậy, có thể thấy vấn đề quốc hữu hoá ở nước ta đã được đặt ra trong các hoàn cảnh cụ thể, đối với các tư liệu sản xuất quan trọng của nền kinh tế mà chủ yếu là đất đai, nhà ở. Các đạo luật quốc hữu hoá được ban hành chủ yếu sau những biến động lớn của lịch sử dân tộc nhằm mục đích xoá bỏ chế độ tư hữu chủ yếu là của các thành phần kinh tế phản động đối với các tư liệu sản xuất chính của nền kinh tế, qua đó phát triển lực lượng sản xuất, thực hiện chính sách phân công lao động xã hội, ổn định tình hình kinh tế, chính trị của đất nước. Từ đó, có thể thấy quốc hữu hoá là một phương tiện quan trọng trong quá trình xây dựng và củng cố đất nước. b. Vấn đề quốc hữu hóa trong giai đoạn hiện nay. Trong thời hiện đại, vấn đề quốc hữu hoá được Nhà nước quy định cụ thể trong Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001), cụ thể tại Điều 23 và Điều 25 của Hiến pháp. Từ những đường lối, chính sách về vấn đề quốc hữu hoá được nêu ra trong Hiến pháp 1992, các luật chuyên ngành cũng có những quy định cụ thể về vấn đề này: Điều 6 Luật đầu tư năm 2005 quy định: “Vốn đầu tư và tài sản hợp pháp của nhà đầu tư không bị quốc hữu hoá, không bị tịch thu bằng biện pháp hành chính; Trường hợp thật cần thiết vì lí do quốc phòng, an ninh và lợi ích quốc gia, Nhà nước trưng mua, trưng dụng tài sản của nhà đầu tư thì nhà đầu tư được thanh toán hoặc bồi thường theo giá thị trường vào thời điểm công bố việc trưng mua, trưng dụng.” Từ những quy định trên có thể thấy, vấn đề quốc hữu hoá trong bối cảnh hiện nay ở Việt Nam không được áp dụng mà Nhà nước chỉ quy định về vấn đề trưng mua, trưng dụng. Quy định như vậy là trên cơ sở tôn trọng quyền sở hữu hợp pháp của cá nhân, tổ chức, nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của người dân, giữ vững ổn định về kinh tế cũng như chế độ chính trị. Như đã phân tích ở trên, kết quả của quốc hữu hoá trong lĩnh vực kinh tế luôn mang tính hai mặt: vừa mang lại lợi ích kinh tế cho Nhà nước nhưng đồng thời lại hạn chế “niềm tin” của các cá nhân, tổ chức khi đầu tư kinh doanh tại Việt Nam do quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của họ có thể bị xâm phạm, với quy định về trưng mua, trưng dụng, tổ chức, cá nhân sẽ được bồi thường khi Nhà nước thực hiện việc trưng dụng tài sản thuộc sở hữu của tổ chức, cá nhân đó.Tính hai mặt của lợi ích kinh tế sẽ dẫn đến những hậu quả về chính trị. Chính vì vậy, quy định về vấn đề quốc hữu hoá - một trong những vấn đề khá “nhạy cảm” – chính là sự thể hiện những quan điểm, chính sách của Nhà nước Việt Nam về ổn định và phát triển nền kinh tế nói riêng cũng như ổn định và phát triển về mọi mặt của đời sống xã hội nói chung. c. Đánh giá vấn đề quốc hữu hóa ở Việt Nam. Chủ nghĩa xã hội bao gồm các tư tưởng chính trị ủng hộ một hệ thống kinh tế - xã hội mà trong đó chế độ sở hữu và các tài sản là thuộc quyền điều khiển của toàn thể cộng đồng nhằm mục đích tiến đến sự công bằng trong xã hội. Trên khía cạnh kinh tế thì chủ nghĩa xã hội có đặc tính là sự sở hữu của các phương tiện sản xuất đã được “cộng đồng hoá” mà quyền điều khiển có thể trực tiếp qua một tập thể hay gián tiếp qua hình thức nhà nước. Nói cách khác, để tiến tới xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa, Việt Nam cần xây dựng một chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, tức là vấn đề quốc hữu hoá là một trong những biện pháp quan trọng trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Thực hiện mục tiêu này, trong thời gian trước ở nước ta, sự triệt tiêu gần như hoàn toàn chủ nghĩa tư bản tư nhân chính là điều được hệ tư tưởng chính thống coi là một tiêu chuẩn chủ yếu của chủ nghĩa xã hội. Về tư tưởng, chỉ có sở hữu nhà nước và sở hữu hợp tác xã mới được công nhận là chủ nghĩa xã hội. Tức là, vấn đề quốc hữu hoá được xem là phương tiện để xây dựng nền kinh tế - xã hội của hình thái kinh tế xã hội xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, từ năm 1986 đến nay, nền kinh tế nước ta lại được xác định là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế - xã hội trong đó quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng được thực hiện thông qua thị trường. Nhà nước xác định nền kinh tế với chế độ đa sở hữu và đa thành phần kinh tế . Vấn đề quốc hữu hoá hay sở hữu nhà nước không được đặt ra như là công cụ duy nhất để xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa bởi nền kinh tế nước ta dựa trên nhiều hình thức sở hữu, Nhà nước khuyến khích mọi thành phần kinh tế cùng tham gia hoạt động kinh doanh xây dựng đất nước. Nền kinh tế ở nước ta vừa mang những đặc tính chung của nền kinh tế thị trường, vừa mang tính đặc thù là định hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện qua một trong những đặc điểm: chế độ sở hữu công về tư liệu sản xuất chủ yếu đóng vai trò nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Vậy, việc xác định cơ cấu kinh tế như trên, không đặt ra vấn đề quốc hữu hoá để hình thành chế độ sở hữu nhà nước có đi ngược lại với định hướng quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội tức là cần xây dựng chế độ sở hữu công ở nước ta hay không? Hơn nữa, hiện nay Nhà nước ta lại có chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia hoạt động kinh doanh, ban hành các văn bản hướng dẫn chuyển đổi sở hữu công ty nhà nước nhằm tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác trở thành đồng chủ sở hữu của các công ty này, chứ không tiến hành quốc hữu hoá các doanh nghiệp để hình thành nên chế độ sở hữu công của chủ nghĩa xã hội. Có thể thấy, quan điểm về vấn đề quốc hữu hoá nói riêng và chế độ sở hữu công cộng nói chung ở nước ta hiện nay đã thể hiện quan điểm về đường lối xây dựng đất nước trong thời kì quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nền kinh tế thị trường ở Việt Nam được xây dựng mang một màu sắc đặc biệt, bởi nó gắn với định hướng xã hội chủ nghĩa tức là mục tiêu hàng đầu là giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất, động viên mọi nguồn lực trong và ngoài nước để xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội, trên cơ sở đó cải thiện từng bước đời sống nhân dân. Như vậy, phát triển kinh tế thị trường ở nước ta là đòn bẩy để phát triển kinh tế nhanh và bền vững, là phương tiện để thực hiện xã hội hoá xã hội chủ nghĩa nền sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất – kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội. Vậy, quy định ở nước ta hiện nay về vấn đề xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, đa hình thức sở hữu chứ không thừa nhận quốc hữu hoá để sở hữu nhà nước giữ địa vị độc tôn không hề mâu thuẫn với mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kì quá độ. III. Quan điểm về tính trị ngoại lãnh thổ của đạo luật quốc hữu hóa. Khi nói đến vấn đề quốc hữu hóa, ta không thể không nghiên cứu đến quan điểm về tính trị ngoại lãnh thổ của đạo luật quốc hữu hóa. Đây là quan điểm về tính chất của đạo luật quốc hữu hóa xét trên phương diện hiệu lực về lãnh thổ. Theo tính chất này, các đạo luật quốc hữu hóa không những có hiệu lực trên lãnh thổ của quốc gia ban hành mà còn có hiệu lực cả ở nước ngoài. Trên cơ sở đó, quốc gia tiến hành quốc hữu hóa phải được thừa nhận là chủ sở hữu của tất cả những tài sản (thuộc đối tượng điều chỉnh của đạo luật quốc hữu hóa) – kể cả những tài sản đang ở trên lãnh thổ của quồc gia khác. Khi đưa ra quan điểm về tính trị ngoại lãnh thổ của đạo luật quốc hữu hóa, các quốc gia không nhằm mục đích áp đặt pháp luật của nước mình lên lãnh thổ của các nước khác mà chủ yếu nhằm ngăn chặn một số hành vi trái pháp luật, xâm hại đến quyền và lợi ích của nhà nước và của xã hội như hành vi tẩu tán tài sản của Nhà nước hay tài sản đã bị tịch thu để sung công quỹ Nhà nước ra nước ngoài... Tính chất trị ngoại lãnh thổ của các đạo luật quốc hữu hóa đã được thừa nhận rộng rãi. Tuy nhiên, lý luận và thực tiễn tư pháp của mỗi nước đều có những lý giải và vận dụng khác nhau về vấn đề này. Hiện nay, khi nói đến tính chất trị ngoại lãnh thổ của các đạo luật quốc hữu hóa có hai quan điểm chính và trái ngược nhau: Quan điểm thứ nhất cho rằng: các đạo luật quốc hữu hóa có tính chất trị ngoại lãnh thổ. Những người đưa ra quan điểm này xuất phát từ một số lý do sau: đạo luật quốc hữu hóa cũng là một đạo luật của quốc gia, nó có hiệu lực pháp lý cao nên sau khi ban hành phải được thi hành trên thực tế. Trong các đạo luật quốc hữu hóa đã khoanh vùng số lượng, phạm vi các đối tượng bị quốc hữu hóa, do đó khi đạo luật này có hiệu lực thì những đối tượng đó thuộc quyền sở hữu của Nhà nước ban hành. Những người theo quan điểm này cho rằng khi đã thuộc quyền sở hữu của Nhà nước thì tài sản đó dù ở trong nước hay ở nước ngoài thì đều phải được trả lại cho chủ sở hữu. Vì vậy mà đạo luật quốc hữu hóa có hiệu lực cả ở nước ngoài nơi có tài sản. Tuy nhiên, trên thực tế, quan điểm này rất khó thi hành bởi mỗi quốc gia đều có chủ quyền riêng, pháp luật của quốc gia này không thể có hiệu lực trên lãnh thổ của một quốc gia khác nếu giữa các quốc gia không có sự thỏa thuận hoặc quốc gia nước ngoài không đồng ý. Chính vì vậy, đạo luật quốc hữu hóa có được thực hiện ở nước ngoài hay không không phụ thuộc vào ý chí của nước ban hành mà là nước nơi có tài sản. Quan điểm thứ hai cho rằng: các đạo luật quốc hữu hóa không có tính chất trị ngoại lãnh thổ. Quan điểm này xuất phát từ lý do: chủ quyền quốc gia là tuyệt đối, quốc gia có quyền tối cao trong mọi vấn đề liên quan đến các hoạt động đối nội và đối ngoại. Do đó mà pháp luật của quốc gia này không thể có hiệu lực trên lãnh thổ của một quốc gia khác. Hiện nay, trên thực tế, pháp luật của các nước phương Tây chỉ thừa nhận tính chất trị ngoại lãnh thổ của đạo luật quốc hữu hóa đối với những tài sản (đối tượng của đạo luật quốc hữu hóa) đã bị đưa ra nước ngoài (vì một lý do nào đó) sau ngày ban hành đạo luật. Còn đối với những tài sản đã ở lại nước ngoài trước ngày ban hành đạo luật thì pháp luật các nước này không chấp nhận việc chuyển giao quyền sở hữu cho quốc gia ban hành. Ở Việt Nam, tính chất trị ngoại lãnh thổ của các đạo luật quốc hữu hóa mới chỉ được nhìn nhận dưới góc độ khoa học từ các nhà nghiên cứu và cũng với những quan điểm trái ngược nhau. Trong pháp luật thực định cũng như thực tiễn thi hành chúng ta chưa có quy định cụ thể và cũng chưa có trường hợp nào xảy ra. Theo quan điểm của nhóm, mỗi quan điểm ủng hộ hay không ủng hộ tính chất trị ngoại lãnh thổ của đạo luật quốc hữu hóa đều xuất phát từ những lý do có cơ sở cả về mặt lý luận và về mặt thực tiễn. Thừa nhận tính chất đó có thể sẽ giúp các nước tăng cường mối quan hệ hữu nghị, hợp tác toàn diện song cũng chứa đựng những yếu tố làm ảnh hưởng, xâm phạm đến quyền lợi của quốc gia. Do đó, các quốc gia cần tùy thuộc vào hoàn cảnh, điều kiện cụ thể để thực hiện chúng mà một trong những giải pháp quan trọng, hữu hiệu là ký kết các điều ước quốc tế song phương và đa phương. KẾT LUẬN Quyền quốc hữu hóa của mỗi quốc gia hầu như được thừa nhận bởi các nước trên thế giới, song việc sử dụng quyền này một cách hợp lý và hiệu quả là không hề dễ. Nếu các quốc gia lạm dụng quyền quốc hữu hóa của mình để cưỡng chế thu hồi quá nhiều những tài sản tư nhân, tài sản của nước ngoài ở nước mình sẽ làm cho rối loạn nền kinh tế, chính trị trong nước, thậm chí là xung đột với các quốc gia khác. Hiện nay, nước ta đang trong thời kỳ quá độ, nhưng chẳng bao lâu nữa chúng ta sẽ trở thành một nước xã hội chủ nghĩa với chế độ sở hữu công các tư liệu sản xuất chủ yếu. Vì thế, chúng ta cần phải có những công trình khoa học nghiên cứu kỹ lưỡng về vấn đề này để rồi áp dụng nó một cách linh hoạt hiệu quả trong công cuộc tiến lên chủ nghĩa xã hội của đất nước. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình Tư pháp quốc tế - Trường Đại học Luật Hà Nội – Nxb Công an nhân dân. Phương Tây trước bài toán quốc hữu hóa ngân hàng - Theo Le Monde, RFI, Le Figaro dịch bởi Phương Anh. Anh quốc hữu hóa ngân hàng lâm nạn – Trang web: www. Vnexpress.net Quốc hữu hoá các công ty nước ngoài, một hình thức bảo hộ kinh tế nguy hiểm -Trang wed: www. bwportal.com.vn. Chính sách quốc hữu hóa ngành dầu khí của Venezuela phát huy tác dụng – Trang web: www. Cpv.org.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docVấn đề quốc hữu hóa và tính trị ngoại lãnh thổ của đạo luật quốc hữu hóa.doc
Luận văn liên quan