Cũng như văn hoá, đạo đức xã hội nói chung và đạo đức kinh doanh nói riêng là
những phạm trù phức tạp, cần có nhiều thời gian và công sức để hoàn thiện và phát triển.
Là một quốc gia đang phát triển, Việt Nam mới tham gia vào tiến trình toàn cầu hoá, hội
nhập kinh tế quốc tế, vào WTO., nên những phạm trù như: văn hoá kinh doanh, văn hoá
doanh nghiệp, đạo đức kinh doanh còn khá mới mẻ ở nước ta. Được biết trong thời gian
tới, chính phủ Việt Nam đang có chủ trương nâng cao trình độ nhận thức cho người dân
và doanh nghiệp về các vấn đề có liên quan đến hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hoá.
Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đang khuyến cáo các trường Đại học, Cao đẳng cần đổi
mới chương trình đào tạo cho phù hợp với trình độ chung trên thế giới.
Có được những yếu tố thuận lợi này và truyền thống đạo đức lâu đời của người Việt
Nam, hy vọng trong thời gian tới, nhận thức của người Việt Nam nói chung, người dân
Hà Nội nói riêng về đạo đức kinh doanh sẽ nhanh chóng được nâng cao, góp phần duy trì
sự phát triển bền vững và nâng cao chất lượng đời sống cho người dân Việt Nam.
21 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 6679 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Vấn đề xây dựng đạo đức kinh doanh ở Việt Nam hiện nay (qua thực tế ở Hà Nội), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ôi trường… qua đó đề ra các giải pháp khắc phục những tiêu cực trên.
- Cuốn “Những vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường”. Từ góc nhìn của các
nhà khoa học Trung Quốc do Lại Văn Toàn làm chủ tịch hội đồng biên tập. Nhà xuất bản
Thông tin Khoa học Xã hội. Hà Nội, 1996. Các tác giả đã phân tích quan hệ giữa kinh tế thị
trường và luân lý đạo đức; sự tác động có tính hai mặt của kinh tế thị trường đối với đạo
đức; đạo đức trong kinh tế thị trường và việc xây dựng đạo đức trong kinh tế thị trường.
Tập thể tác giả đã phân tích về sự xung đột giữa lợi ích và giá trị đạo đức; nguyên nhân của
tình hình đạo đức xã hội hiện nay trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp xây dựng lại đạo
đức hiện nay.
- Mai Ngọc Cường, Vũ Thành Hưng, Bùi Anh Tuấn trong cuốn “Đạo đức kinh doanh:
lý thuyết và thực hành” (1996). Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội lại tiếp cận vấn đề từ góc
độ khác. Các tác giả đã làm sảng tỏ những nguyên lý cơ bản về đạo đức kinh doanh: vai
trò, tầm quan trọng của đạo đức kinh doanh, lịch sử các tư tưởng về đạo đức kinh doanh
và cơ sở triết học của lý thuyết đạo đức kinh doanh. Đồng thời làm sáng tỏ các chuẩn
mực đạo đức và nguyên tắc xác định hành vi đạo đức. Trên nền tảng những nguyên lý cơ
bản về đạo đức kinh doanh, tập thể tác giả đã vận dụng những tư tưởng cơ bản của đạo
đức kinh doanh vào thực tiễn thông qua việc nghiên cứu các tình huống và chiến lược
nâng cao đạo đức kinh doanh trong doanh nghiệp ở phần sau.
- Trần Hữu Quang, Nguyễn Công Thắng (chủ biên ): “Văn hoá kinh doanh - Những
góc nhìn” (2008). Nhà xuất bản Trẻ - Thời báo kinh tế Sài Gòn. Tập thể tác giả lại nhìn
nhận và phân tích đạo đức kinh doanh ở những khía cạnh khác nhau như: chữ “tín” trong
kinh doanh; mối quan hệ giữa kinh doanh và đạo đức; đạo đức với đối tác và đối thủ;
doanh nhân và chữ lợi… Từ sự phân tích đạo đức kinh doanh ở những khía cạnh khác
nhau đó, các tác giả đã chỉ ra rằng: chữ “tín” là phẩm chất cao quý nhất của người kinh
doanh, các doanh nghiệp muốn thành công trong kinh doanh, trước hết hãy biết giữ chữ
“tín”. Mặt khác, trong kinh doanh phải có đạo đức, phải có cái “tâm” thì mới gặt hái được
4
thành công lâu dài, ổn định, thậm chí phải có đạo đức với cả đối tác và đối thủ của
mình…
- Trong cuốn “Sự biến đổi của thang giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường với
việc xây dựng đạo đức mới cho cán bộ quản lý ở nước ta hiện nay” của tập thể các nhà
nghiên cứu và giảng viên thuộc học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh do Nguyễn Chí
Mỳ chủ biên, lại bàn về vấn đề đạo đức mới trong cơ chế thị trường; sự biến đổi của
thang giá trị đạo đức trong cơ chế đó; xây dựng đạo đức mới cho cán bộ quản lý trong
nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ đó, tập thể tác giả đề ra các
phương hướng và giải pháp hình thành thang giá trị đạo đức mới.
- Nguyễn Thị Lan lại xem xét vấn đề dưới góc độ “Nhìn nhận của người dân về đạo
đức kinh doanh của các chủ doanh nghiệp tư nhân”. Tạp chí Tâm lý học - Số 5. Năm
2006. Tác giả đã xây dựng thang đo đánh giá của người dân Hà Nội về đạo đức kinh
doanh của các chủ doanh nghiệp tư nhân trong giai đoạn phát triển kinh tế hiện nay ở
nước ta. Theo tác giả, các chủ doanh nghiệp tư nhân tuy có nhiều đóng góp trong giai
đoạn phát triển kinh tế - xã hội hiện nay nhưng không vì thế mà người dân xoá nhoà, san
bằng tất cả cái tốt và cái xấu trong hoạt động kinh doanh của các chủ doanh nghiệp tư
nhân. Trái lại, càng kỳ vọng bao nhiêu ở sự đóng góp của các chủ doanh nghiệp tư nhân
đối với cộng đồng, với xã hội người dân càng có xu hướng nhìn nhận khắt khe hơn, yêu
cầu cao hơn đối với họ. Vì vậy, khi tìm kiếm những giải pháp giáo dục và xây dựng chế
tài nhằm nâng cao đạo đức kinh doanh trong giai đoạn hiện nay cần phải chú ý điều này.
Với hướng nghiên cứu này còn có nhiều công trình khác liên quan đến đề tài. Song
trong phạm vi hạn hẹp của luận văn chúng tôi không có điều kiện liệt kê ra tất cả.
Ngoài ra, còn có một hướng nghiên cứu khác, kết hợp cả hai hướng nghiên cứu trên.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn đạo đức kinh doanh, các tác giả đã đưa ra các
đề xuất, biện pháp nhằm xây dựng đạo đức kinh doanh.
Theo hướng nghiên cứu này có các công trình tiêu biểu như: “Bài giảng Văn hoá kinh
doanh”, Dương Thị Liễu (chủ biên ). Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội,
2008; cuốn “Văn hoá doanh nghiệp” của Đỗ Thị Phi Hoài. Nhà xuất bản Tài chính, Hà
Nội, 2009; Vương Liêm trong cuốn “Kinh tế học Internet: từ thương mại điện tử đến
Chính phủ điện tử”. Nhà xuất bản Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2001; Cuốn “Giáo trình
Pháp luật kinh tế” của Nguyễn Hợp Toàn (chủ biên). Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc
dân, Hà Nội, 2008; Phạm Côn Sơn: “Tâm đức trong kinh doanh - 99 điều cần biết”. Nhà
xuất bản Lao động, Hà Nội, 2006…
Đáng chú ý là các bài đăng trên Tạp chí triết học với một loạt bài viết của nhiều tác
giả liên quan đến chủ đề của đề tài. Trong đó, một số bài viết đã thành công trong cách
tiếp cận và giải quyết vấn đề từ phương diện triết học, chẳng hạn như, bài “Về vai trò của
đạo đức kinh doanh và việc xây dựng đạo đức kinh doanh ở nước ta hiện nay” của tác giả
Trịnh Duy Huy, đăng trên Tạp chí Triết học, số 2, tháng 4 năm 2001; bài “Xây dựng đạo
5
đức kinh doanh - Cơ sở cho việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp” của Đỗ
Thị Kim Hoa (Tạp chí Triết học, số 10, tháng 10 năm 2009); bài “Vấn đề xây dựng đạo
đức nghề nghiệp trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay” của Nguyễn Văn Phúc.
(Tạp chí Triết học, số 7, tháng 10 năm 2001); bài “Kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta hiện nay và những biến động trong lĩnh vực đạo đức” của Nguyễn
Trọng Chuẩn (Tạp chí Triết học, số 9, tháng 12 năm 2001)…
Trong quá trình nghiên cứu, hoàn thành luận văn của mình, tác giả còn tham khảo
nhiều tài liệu có liên quan đến đạo đức kinh doanh như: các bài viết của các nhà khoa học
trong nước; các bài báo, các sách của nước ngoài đã được công bố và dịch sang tiếng
Việt Nam, cùng những tài liệu có liên quan đến chủ đề của đề tài.
Các công trình nghiên cứu trên đã phân tích các khía cạnh cụ thể khác nhau với những
nội dung rất phong phú và đa dạng ở mức độ nông sâu khác nhau về vấn đề đạo đức
trong kinh tế thị trường, đạo đức trong kinh doanh. Cũng đã có công trình nghiên cứu đưa
ra cái nhìn tổng quan về thực trạng đạo đức kinh doanh tại Việt Nam và các giải pháp
nhằm hoàn thiện đạo đức kinh doanh ở Việt Nam. Song, đạo đức xã hội nói chung, đạo
đức kinh doanh nói riêng, với tư cách là một hình thái ý thức xã hội phản ánh sự biến đổi
của tồn tại xã hội, cũng luôn có sự biến đổi cùng với sự biến đổi của kinh tế thị trường.
Do đó, hệ thống hoá, phân tích thực trạng đạo đức kinh doanh ở nước ta hiện nay, đặc
biệt làm rõ vai trò của đạo đức trong kinh doanh, từ đó đưa ra những phương hướng và
giải pháp nhằm xây dựng đạo đức kinh doanh trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay là một hướng mới mà người viết tiếp tục nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn góp phần làm rõ mối quan hệ giữa đạo đức và kinh doanh, đặc biệt là vai trò
của đạo đức trong kinh doanh. Trên cơ sở đó, luận văn đưa ra một số nội dung của đạo
đức kinh doanh cần xây dựng và đề xuất các phương hướng và giải pháp xây dựng đạo
đức kinh doanh ở Việt Nam hiện nay.
Để đạt được mục đích trên luận văn có các nhiệm vụ sau:
Một là, làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề xây dựng đạo đức kinh doanh ở
Việt Nam hiện nay.
Hai là, phân tích một số vấn đề đạo đức kinh doanh điển hình - qua thực tế ở Hà Nội
(sau khi sát nhập).
Ba là, đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm xây dựng và nâng cao đạo đức kinh
doanh ở nước ta hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là những vấn đề về đạo đức kinh doanh trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Luận văn tập trung làm rõ một số vấn đề của đạo đức kinh doanh trên địa bàn Hà Nội
(sau khi sát nhập). Trên cơ sở đó, xác định những nội dung cơ bản để xây dựng đạo đức
6
kinh doanh (mà chủ yếu là xây dựng đạo đức cho giới doanh nhân) và đề xuất một số
phương hướng và giải pháp xây dựng đạo đức kinh doanh ở Việt Nam hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, các văn kiện của Đảng ta, quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt
Nam về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và kế thừa có chọn lọc những
công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước có liên quan đến đề tài đã được
công bố.
Luận văn sử dụng tổng hợp các nguyên tắc phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-
Lênin kết hợp với các phương pháp phân tích - tổng hợp; lôgic - lịch sử; phương pháp
điều tra, khảo sát thực tế; phương pháp đi từ trừu tượng đến cụ thể…
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần hệ thống hoá, có bổ sung những vấn đề lý luận cơ bản về đạo đức
kinh doanh ở Việt Nam hiện nay. Bên cạnh đó, luận văn còn phân tích, đánh giá một số
vấn đề đạo đức kinh doanh ở nước ta hiện nay (qua thực tế ở Hà Nội).
Luận văn đã đưa ra một cách hiểu về khái niệm đạo đức kinh doanh; một số nội dung
của đạo đức kinh doanh cần xây dựng và đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng một hệ
thống đạo đức kinh doanh mới ở nước ta hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu,
giảng dạy và học tập của sinh viên các trường Đại học, Cao đẳng, các nhà quản lý, các
nhà hoạch định chính sách liên quan đến tiêu đề của luận văn.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo, luận văn được chia
thành 2 chương, 5 tiết.
Chƣơng 1: Đaọ đức kinh doanh và tầm quan troṇg của đaọ đức kinh doanh.
Chƣơng 2: Phương hướng và giải pháp xây dưṇg đaọ đức kinh doanh ở Viêṭ Nam .
7
Chƣơng 1
ĐẠO ĐỨC KINH DOANH
VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA ĐẠO ĐỨC KINH DOANH
1.1. Mối quan hệ giữa đạo đức và kinh tế
Đạo đức có mối quan hệ với kinh tế, kinh doanh là điều không ai nghi ngờ. Đó là mối
quan hệ biện chứng gắn bó mật thiết, hữu cơ với nhau. Xem xét mối quan hệ đó trước hết
cần khẳng định lại một nguyên lý cơ bản của quan điểm duy vật về lịch sử là tồn tại xã
hội quyết định ý thức xã hội, ý thức xã hội có tính độc lập tương đối và có sự tác động trở
lại đối với tồn tại xã hội đã sinh ra nó.
Xung quanh vấn đề mối quan hệ giữa kinh tế và đạo đức có rất nhiều quan điểm khác
nhau. Trong đó, hiện nổi lên hai vấn đề vừa có tính cấp bách vừa có tính lâu dài. Đó là
vấn đề tác động của kinh tế thị trường đối với đạo đức và vấn đề vai trò của đạo đức
trong kinh tế thị trường.
1.1.1. Tác động của kinh tế thị trường đối với đạo đức
Ở nước ta hiện nay, sự tác động của kinh tế thị trường đối với đạo đức diễn ra hết sức
phong phú, đa dạng và phức tạp. Điều đó khiến cho việc đánh giá tác động của kinh tế thị
trường đối với đạo đức khó có được sự thống nhất tuyệt đối. Chính vì vậy, khi bàn về vấn
đề này cũng có rất nhiều ý kiến khác nhau. Song tựu chung lại cho đến nay nổi lên ba
quan điểm chủ yếu. Đó là:
1.1.1.1. Kinh tế thị trường tác động tiêu cực đối với đạo đức
Những người theo quan điểm này cho rằng, kinh tế thị trường và đạo đức là bài xích
lẫn nhau, là đối lập nhau, hoạt động của kinh tế thị trường không bao hàm việc sản sinh
ra những giá trị đạo đức, kinh tế thị trường càng phát triển thì đạo đức càng suy thoái. Do
đó, chấp nhận kinh tế thị trường đồng nghĩa với việc chấp nhận suy thoái về đạo đức, lối
sống.
1.1.1.2. Kinh tế thị trường tác động tích cực đối với đạo đức
Những người theo quan điểm này cho rằng, kinh tế thị trường hoàn toàn không đối lập
mà thống nhất với đạo đức. Theo họ, một cơ chế kinh tế chỉ có thể xuất hiện và tồn tại
nếu nó hợp lý, tức là nó có vai trò đối với sự phát triển kinh tế. Trong đời sống hiện nay,
kinh tế thị trường là mô hình kinh tế có ưu thế nhất, mang lại hiệu quả cao nhất cho sự
phát triển kinh tế - xã hội, nó có thể cho phép huy động tối đa mọi nguồn lực tự nhiên và
xã hội để thúc đẩy sản xuất, không ngừng nâng cao sản xuất và thu nhập xã hội. Vì vậy,
nó chính đáng về mặt đạo đức. Từ đó họ đi đến kết luận: kinh tế thị trường không chỉ hợp
lý về mặt lịch sử mà nó còn chính đáng về mặt đạo đức. Do đó, nó có tác động tích cực
thúc đẩy xã hội phát triển.
Những cách lý giải trên đều mang tính phiến diện, một chiều hoặc là quá nhấn mạnh
đến ảnh hưởng tích cực, hoặc là quá nhấn mạnh đến ảnh hưởng tiêu cực của kinh tế thị
8
trường đối với đạo đức, do đó chưa đánh giá đúng tác động của kinh tế thị trường đối với
đạo đức. Trên thực tế, kinh tế thị trường tác động đến đạo đức theo cả hai hướng: tích cực
và tiêu cực.
1.1.1.3. Kinh tế thị trường tác động có tính hai mặt đối với đạo đức
Đây là quan điểm được nhiều người thừa nhận nhất và đây cũng là quan điểm chính
thống của Đảng cộng sản Việt Nam.
Trong cơ chế thị trường các chủ thể kinh tế bao giờ cũng chịu sự chi phối của các
nguyên tắc, các chuẩn mực thị trường như: sự trung thực trong kinh doanh, tôn trọng đối
tác, giữ chữ tín, bảo vệ môi trường. Nhưng các chủ thể kinh doanh không chỉ tự giác mà
còn tự nguyện thực hiện các nguyên tắc, chuẩn mực thị trường thì những chuẩn mực thị
trường sẽ chuyển hoá về chất để trở thành chuẩn mực đạo đức.
Như vậy, kinh tế thị trường tự nó đã bao chứa khả năng tác động một cách tích cực
đến đạo đức. Do đó, nó chẳng những không đối lập mà còn là một nhân tố khách quan
của việc xây dựng và phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Nếu từ trong bản chất, kinh tế thị trường tự nó đã chứa đựng khả năng tác động tích
cực đến sự phát triển đạo đức thì cũng chính từ trong bản chất, kinh tế thị trường cũng
chứa đựng khả năng tác động tiêu cực đến đạo đức. Trong văn kiện Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ VIII của Đảng (1996) đã xác định: “Mặt khác, cơ chế thị trường có những
tác động tiêu cực mâu thuẫn với chủ nghĩa xã hội”.
Chúng ta chuyển sang kinh tế thị trường chưa lâu, nhưng tác động từ mặt trái của kinh
tế thị trường đối với đạo đức đã trở thành mối lo ngại của toàn xã hội. Những biểu hiện
của sự xuống cấp đạo đức được Đảng ta chỉ ra tại Hội nghị trung ương lần thứ năm Ban
chấp hành trung ương khoá VIII.
Như vậy, trong nền kinh tế thị trường, mối quan hệ giữa đạo đức và kinh tế, kinh
doanh có hai xu hướng biến đổi. Một mặt, dưới sự tác động của kinh tế thị trường làm
cho các chủ thể kinh doanh phải trung thực trong kinh doanh, tôn trọng đối tác, giữ chữ
tín trong kinh doanh, bảo vệ môi trường để có được lợi ích lâu dài. Song cũng xuất phát
từ lợi ích mà các chủ thể kinh doanh có thể có các hành vi vô đạo đức: làm hàng giả,
hàng kém chất lượng, buôn gian bán lận, thiếu trung thực trong kinh doanh, lừa gạt khách
hàng, tàn phá môi trường,… nhằm thu được lợi nhuận tối đa - đó là kiểu kinh doanh vô
đạo đức. Vì vậy, cùng với việc chủ động, tự giác, từng bước xây dựng và hoàn thiện nền
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa cần phải tăng cường công tác bồi
dưỡng, giáo dục đạo đức, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, xây dựng bản lĩnh đạo đức doanh
nhân,… để phát huy những tác động tích cực, ngăn ngừa, hạn chế tối đa những tác động
tiêu cực của kinh tế thị trường đối với đạo đức xã hội nói chung, đạo đức kinh doanh nói
riêng.
1.1.2. Vai trò của đạo đức trong kinh tế thị trường
1.1.2.1. Quan điểm xem nhẹ vai trò của đạo đức đối với kinh doanh
9
Những người theo quan điểm này cho rằng, đạo đức chẳng có vai trò gì trong kinh
doanh cả, họ đã tách rời một cách tuyệt đối giữa đạo đức và kinh doanh, đặt đối lập hành
vi kinh doanh với hành vi đạo đức. Theo họ, kinh doanh là kinh doanh, đạo đức là đạo
đức, đã kinh doanh thì không thể nói đến đạo đức được. Do đó, hành vi kinh doanh
không có tính cách của hành vi đạo đức còn đạo đức không phải là phạm trù quan tâm
của doanh nghiệp vì nó không mang lại lợi ích thiết thực cho doanh nghiệp. Xuất phát từ
quan niệm như trên, họ đi đến kết luận: trong hoạt động thị trường, hành vi kinh doanh
với tư cách là hành vi kinh doanh chỉ chịu sự điều tiết của các nguyên tắc, các chuẩn mực
thị trường. Về cơ bản những nguyên tắc, quy tắc thị trường được pháp chế hoá thành luật
kinh doanh và những quy định có tính pháp quy đối với kinh doanh.
Với cách lập luận trên, những người xem nhẹ vai trò của đạo đức đối với hoạt động
kinh tế cho rằng, mấu chốt của vấn đề nằm ở cơ chế, chính sách, pháp luật. Vì vậy, để
giải quyết vấn đề cũng chỉ nên và chỉ cần thực hiện ở một số khâu và lĩnh vực đó. Do vậy,
việc đưa đạo đức vào kinh doanh là bất hợp pháp, không cần thiết thậm chí còn cản trở
hành vi kinh doanh, cản trở sự phát triển kinh tế.
1.1.2.2. Quan điểm đề cao vai trò của đạo đức đối với kinh doanh.
Những người theo quan điểm này cho rằng, giữa đạo đức và kinh doanh có mối quan
hệ hữu cơ không tách rời, việc tách rời tuyệt đối hành vi kinh doanh với hành vi đạo đức
là không khoa học. Trên thực tế, nếu tách rời giữa đạo đức và kinh doanh, tìm động lực
kinh doanh chỉ ở lợi nhuận và do đó, quản lý xã hội chỉ duy nhất dựa vào cơ chế, chính
sách, pháp luật để điều tiết kinh doanh thì hiệu quả điều tiết sẽ bị hạn chế. Bởi lẽ, các chủ
thể kinh doanh, trong chừng mực không có sự phát triển tương ứng về đạo đức kinh
doanh, nghĩa là không bị ràng buộc bởi các chuẩn mực đạo đức, bởi tình cảm và lương
tâm ở tầng sâu tâm lý, thì lòng hám lợi sẽ khiến họ luôn tìm mọi cách để “lách luật”, phá
hoại sự cạnh tranh trung thực, làm cho hoạt động thị trường không diễn ra một cách bình
thường, lành mạnh được. Bởi pháp luật, chính sách dẫu hoàn thiện đến đâu cũng không
tránh khỏi những khiếm khuyết nhất định. Mặt khác, hiện nay chúng ta đang trong quá
trình hoàn thiện cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Định hướng xã hội chủ
nghĩa là một điều mới mẻ, chưa có tiền lệ. Những khiếm khuyết của cơ chế, chính sách
và quản lý trong thời gian qua đã tạo điều kiện cho hàng loạt các trường hợp kinh doanh,
vừa vi phạm pháp luật, vừa vi phạm đạo đức để lại những tổn hại to lớn không chỉ đối với
công quỹ mà cả đối với bản thân các doanh nghiệp, doanh nhân đã vi phạm đạo đức trong
kinh doanh. Từ đó, những người theo quan điểm này cho rằng, bên cạnh việc hoàn thiện
cơ chế và tăng cường pháp chế trong kinh doanh, nhà nước cần chủ động và tích cực
“đạo đức hoá” lĩnh vực kinh doanh, tạo ra sự thống nhất giữa đạo đức và pháp luật trong
quản lý.
Trong điều kiện kinh tế thị trường đạo đức có vai trò to lớn đối với hoạt động kinh
doanh. Vai trò của đạo đức trong kinh doanh được thể hiện ở một số nội dung sau:
10
Thứ nhất, ý thức đạo đức bổ sung và kết hợp với ý thức pháp quyền điều chỉnh các
hành vi kinh doanh theo khuôn khổ pháp luật và quỹ đạo của các chuẩn mực đạo đức xã
hội.
Thứ hai, đạo đức kinh doanh là điều kiện cần để làm lành mạnh hoá các hoạt động
kinh doanh và để nâng cao vị thế và danh tiếng của giới doanh nhân với xã hội.
Từ sự phân tích trên có thể thấy đạo đức ngày càng có vai trò quan trọng trong kinh
doanh, đặc biệt là trong điều kiện Việt Nam gia nhập WTO và hội nhập kinh tế quốc tế.
Do đó, đẩy mạnh nghiên cứu đạo đức kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa trên cơ sở đó xây dựng và áp dụng đạo đức kinh doanh là một
trong những nhiệm vụ gắn liền với chính quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
1.2. Đạo đức kinh doanh - những nội dung cần xây dựng
1.2.1. Đạo đức kinh doanh
1.2.1.1. Khái niệm đạo đức
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội
đặc thù chỉ có ở con người và xã hội loài người. Từ điển triết học của Rôzentan định
nghĩa: “Đạo đức là một trong những hình thái ý thức xã hội, một chế định xã hội thực
hiện chức năng điều chỉnh hành vi của con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội
không trừ lĩnh vực nào”.
Ngày nay, đạo đức được định nghĩa như sau: “Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội,
là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh và đánh giá
cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được
thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội”.
Như vậy, quan điểm về đạo đức như trên có những điểm tương đồng. Do đó, khi nói
đến danh từ đạo đức cần lưu ý một số đặc điểm bản chất của nó, đó là:
Thứ nhất, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội; xét đến
cùng thì đạo đức là cái có sau và bị tồn tại xã hội quy định.
Thứ hai, chức năng cơ bản của đạo đức là điều chỉnh và đánh giá hành vi của con
người trong xã hội.
Thứ ba, cách thức điều chỉnh hành vi con người của đạo đức, dựa trên những quan
niệm và chuẩn mực xã hội.
Thứ tư, đạo đức có tính giai cấp, tính dân tộc, tính nhân loại.
1.2.1.2. Khái niệm kinh doanh
Kinh doanh là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu
tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục
đích sinh lợi cho chủ thể (kinh doanh).
11
1.2.1.3. Khái niệm đạo đức kinh doanh.
Đạo đức kinh doanh là một dạng đạo đức nghề nghiệp, được áp dụng trong lĩnh vực
kinh doanh, bao gồm các nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức có tác dụng điều chỉnh, đánh
giá và hướng dẫn hành vi của các chủ thể hoạt động kinh doanh; chúng được những
người hữu quan tự giác, tự nguyện thực hiện và sử dụng để phán xét các hành vi trong
kinh doanh là đúng hay sai, hợp đạo đức hay phi đạo đức.
1.2.2. Những nội dung của đạo đức kinh doanh cần xây dựng ở Việt Nam hiện nay
1.2.2.1. Trung thực, giữ chữ tín trong kinh doanh
Đây là tiêu chuẩn hàng đầu về đạo đức của các doanh nhân và cũng là tiêu chí cơ bản
để xây dựng đạo đức kinh doanh. Trung thực, giữ chữ tín trong kinh doanh có nghĩa là,
các doanh nhân phải luôn trung thực trong việc chấp hành luật pháp của Nhà nước, luôn
trung thực trong giao tiếp với bạn hàng (trong giao dịch, đàm phán và ký kết) và người
tiêu dùng, trung thực ngay cả với bản thân, không hối lộ, tham ô, thụt két, chiếm công vi
tư dù hàng ngày, hàng giờ vẫn va chạm trực tiếp với tiền và hàng, lại có quyền quyết định
trực tiếp trong tay và cũng có thể không ai biết được ngoài lương tâm mình.
Trung thực, giữ chữ tín trong kinh doanh còn đòi hỏi và biểu hiện thành các yêu cầu
như: tôn trọng con người (tôn trọng đối tác, đối thủ, tôn trọng người tiêu dùng…), tôn
trọng pháp luật, giao dịch hợp lý và cạnh tranh bình đẳng.
Buôn bán thật thà, kinh doanh có đạo đức, trung thực, giữ chữ tín… ngày nay đã trở
thành một trào lưu không thể đảo ngược trên thế giới. Đó là một trong những nội dung
cốt lõi của đạo đức kinh doanh xã hội chủ nghĩa.
1.2.2.2. Phấn đấu vì lý tưởng dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
Đây là một phẩm chất đạo đức, tư tưởng chính trị tiêu biểu cho các doanh nhân thời
kỳ đổi mới, thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Phấn đấu vì lý tưởng dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh cũng là lý tưởng sống của mỗi doanh
nhân Việt Nam chân chính. Bởi vì, mỗi doanh nhân Việt Nam đều hiểu rằng, lý tưởng
cuộc sống là động cơ chủ yếu và cao nhất, nó chỉ đạo mọi hoạt động của con người trong
hiện tại và quyết định các kế hoạch trong tương lai.
Kinh doanh ở Việt Nam hiện nay là kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Trong điều kiện đó, thì tiêu chuẩn cơ bản nhất về xây dựng đạo
đức doanh nhân là doanh nhân phải có lý tưởng “vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”.
1.2.2.3. Doanh nhân có tinh thần dân tộc
Tinh thần tự tôn dân tộc là một vũ khí vô cùng quý giá của mỗi quốc gia. Đối với dân
tộc ta cũng vậy, mặc dù trải qua bao thăng trầm của lịch sử nhưng trong mỗi con người
Việt Nam, tinh thần ấy vẫn không ngừng tuôn chảy. Đa số người Việt Nam hôm nay đã
hiểu được ít nhiều về điều này và họ sẽ vui vẻ ưu tiên dùng hàng Việt Nam nếu tinh thần
ấy được những doanh nhân thế hệ hôm nay khơi gợi đúng cách. Tuy nhiên, để phát huy
12
được tinh thần dân tộc và làm cho sức mạnh này bùng nổ và lan toả thì trách nhiệm chính
không phải ai khác mà chính là giới doanh nhân. Vì vậy, các doanh nhân Việt Nam hôm
nay muốn thành công cần phải biết khơi gợi tinh thần dân tộc trong nhân dân. Để làm
được điều này thì trước hết doanh nhân Việt Nam phải là những người có tinh thần dân
tộc.
1.2.2.4. Năng động, sáng tạo, nhạy bén, biết chớp thời cơ tạo cơ hội trong kinh
doanh; biết hợp tác và cạnh tranh lành mạnh để cùng phát triển
“Toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham
gia; xu thế này đang bị một số nước phát triển và các tập đoàn tư bản xuyên quốc gia chi
phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp
tác vừa có đấu tranh”. Bối cảnh đó đã tạo ra cho các doanh nghiệp nhiều cơ hội và thách
thức to lớn. Trong bối cảnh đó, những doanh nghiệp năng động, sáng tạo, nhạy bén, biết
chớp thời cơ tạo cơ hội trong kinh doanh, không ngừng nghiên cứu, tiếp cận thị trường,
dám nghĩ, dám làm, quyết tâm trong sản xuất, chịu khó, cần cù, luôn quan tâm cải tiến kỹ
thuật trong hoạt động sản xuất, cải tiến mẫu mã, tạo ra sản phẩm mới, đáp ứng thị hiếu
của người tiêu dùng, biết hợp tác và cạnh tranh lành mạnh để cùng phát triển,... sẽ tận
dụng tốt cơ hội tạo ra thế và lực mới để vượt qua thách thức, tạo ra cơ hội lớn hơn.
Ngược lại, những doanh nghiệp kém năng động, sáng tạo, không nhạy bén, không biết
chớp thời cơ thì cơ hội có thể bị bỏ lỡ, thách thức sẽ tăng lên lấn át cơ hội, cản trở sự phát
triển. Vì vậy, những doanh nhân Việt Nam hôm nay muốn vươn xa ra thị trường thế giới,
muốn đứng vững trong quá trình hội nhập quốc tế thì ngoài việc có bản lĩnh đạo đức của
người kinh doanh, cần phải có sự năng động, sáng tạo, nhạy bén, biết chớp thời cơ tạo cơ
hội trong kinh doanh; biết hợp tác và cạnh tranh lành mạnh để cùng phát triển.
1.2.2.5. Gắn lợi nhuận với đạo đức.
Ở nước ta, trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh
doanh trước hết phải vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”. Trong lĩnh vực kinh doanh điều đó có nghĩa là, phải giải quyết hài hoà, hợp lý
nhất quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội, giữa lợi nhuận và đạo đức. Việc giải
quyết một cách hợp lý mối quan hệ này chỉ có nghĩa là chủ thể kinh doanh, trong khi thực
hiện lợi ích chính đáng của mình, không làm tổn hại đến lợi ích chính đáng của người
khác, của cộng đồng, của xã hội. Các chủ thể kinh doanh trong khi hướng tới lợi ích cá
nhân mà vẫn biết tôn trọng lợi ích của người khác, của cộng đồng, của xã hội. Hơn thế,
nếu biết tôn trọng lợi ích của người khác thì lợi ích cá nhân mới ổn định và lâu dài. Theo
nghĩa đó đạo đức phải được xây dựng và trở thành nhân tố bên trong của kinh doanh,
thành nhu cầu, động lực thúc đẩy con người thực hiện các hành vi đạo đức một cách tự
giác, tự nguyện trong quá trình kinh doanh. Muốn làm được điều đó, các chủ thể kinh
doanh phải luôn gắn kết lợi nhuận với đạo đức, lợi ích cá nhân phải gắn liền với lợi ích
của xã hội.
13
1.3. Tầm quan trọng của việc xây dựng đạo đức kinh doanh
Nước ta hiện nay đang trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường.
Tuy nhiên, kinh tế thị trường ở nước ta là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
mà định hướng xã hội chủ nghĩa là một điều mới mẻ, chưa có tiền lệ. Vì vậy, cả trong
việc xây dựng cơ chế, pháp luật kinh doanh, cả trong sự quản lý của nhà nước về kinh
doanh vẫn còn những bất cập, những khiếm khuyết nhất định. Do “thiếu một hệ thống
đồng bộ các đạo luật chặt chẽ và nghiêm ngặt mà tình trạng lừa đảo, chộp giật, tham
nhũng, hối lộ, buôn lậu, trốn thuế, làm hàng giả... để làm giàu bất chính có điều kiện nảy
sinh và tồn tại”. Song, cho dù pháp luật và chính sách dẫu hoàn thiện đến đâu cũng không
tránh khỏi những khiếm khuyết nhất định. Nếu các chủ thể kinh doanh, trong chừng mực
không có sự phát triển tương ứng về đạo đức kinh doanh, nghĩa là không bị ràng buộc bởi
các chuẩn mực đạo đức, bởi sự tự giác của lý trí, bởi tình cảm và lương tâm ở tầng sâu
tâm lý, thì vì lợi nhuận họ sẽ lách qua những khiếm khuyết, những khe hở của pháp luật
và chính sách, phá hoại sự cạnh tranh trung thực, làm cho hoạt động thị trường không thể
diễn ra một cách bình thường, lành mạnh được. Vì vậy, xây dựng và phát huy vai trò của
đạo đức kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay là vấn đề có tầm quan trọng to lớn và có ý nghĩa cả về mặt đạo đức lẫn
mặt kinh tế.
Chƣơng 2
PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC KINH DOANH Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Một số vấn đề về đạo đức kinh doanh ở nƣớc ta hiện nay (qua thực tế ở Hà
Nội)
2.1.1. Nhận thức của người dân Hà Nội về đạo đức kinh doanh
Nhận thức của người dân Hà Nội về đạo đức kinh doanh nói chung và quyền lợi của
người tiêu dùng nói riêng còn nhiều vấn đề cần phải bàn. Khi được hỏi về đạo đức kinh
doanh cũng như quyền lợi của người tiêu dùng không phải ai cũng biết và hiểu được
đúng bản chất của vấn đề. Sở sĩ có tình trạng này một phần là do những tài liệu chuyên
môn viết về đạo đức kinh doanh ở Việt Nam không nhiều, hầu hết các sách được dịch từ
nước ngoài, đặc biệt là Mỹ, Austrâylia… Bên cạnh đó, việc tuyên truyền, phổ bến rộng
rãi kiến thức về đạo đức kinh doanh và các quyền của người tiêu dùng chưa được thực
hiện tốt.
Mặt khác, hầu hết các trường Đại học, Cao đẳng dạy về kinh doanh ở Việt Nam gần
đây mới chính thức đưa môn “đạo đức kinh doanh” vào giảng dạy. Vì là môn khoa học
còn khá mới mẻ nên đạo đức kinh doanh trong những năm gần đây mặc dù được bàn đến
khá nhiều song nội hàm của khái niệm này vẫn chưa có sự thống nhất trong giới học
14
thuật cũng như trong các cơ quan quản lý xã hội. Chính vì vậy, mặc dù thường được nghe
về đạo đức kinh doanh nhưng cách hiểu của người dân, của các doanh nghiệp về vấn đề
này còn khá mơ hồ.
2.1.2. Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
Hiện nay, ở Việt Nam, khái niệm trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp còn tương đối
mới mẻ. Vì vậy, việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp cho đến nay vẫn còn
nhiều hạn chế. Do chưa thấy được vai trò quan trọng cũng như lợi ích từ việc thực hiện
trách nhiệm xã hội đem lại nên nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã không làm tròn trách
nhiệm của mình đối với xã hội như xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người lao
động, người tiêu dùng, gây ô nhiễm môi trường…
Tuy nhiên, thời gian gần đây, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đang trở thành
một nội dung được quan tâm, các doanh nghiệp ngày càng chú ý nhiều hơn đến việc thực
hiện trách nhiệm xã hội bởi họ nhận thức được rằng, thực hiện trách nhiệm xã hội sẽ
mang lại cho các doanh nghiệp những lợi ích và cơ hội lớn. Nhiều doanh nghiệp đã chủ
động thực hiện trách nhiệm xã hội và nhờ đó thương hiệu của họ ngày càng được nhiều
người biết đến như: Mai Linh, Kinh Đô, Duy Lợi,.. điều đó đã và sẽ mang lại cho họ uy
tín và do đó mang lại lợi nhuận kinh tế và cả lợi ích chính trị - xã hội.
2.1.3. Vấn đề sở hữu trí tuệ ở Việt Nam
Với thời gian tồn tại chưa dài (khoảng 20 năm) so với lịch sử tồn tại hàng trăm năm
của các nước Âu - Mỹ, nên ý thức về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của người dân Việt
Nam nói chung (người dân Hà Nội nói riêng) còn rất thấp, do đó họ không mấy quan tâm
đến vấn đề này. Chính vì vậy mà sở hữu trí tuệ ở Việt Nam thường xuyên bị vi phạm.
2.1.4. Quan hệ giữa chủ doanh nghiệp và người lao động
Thời gian vừa qua, các cuộc đình công xảy ra ở nhiều địa phương trong cả nước, do
đó vấn đề quan hệ giữa chủ doanh nghiệp và người lao động cũng được đề cập đến nhiều
hơn trên các phương tiện thông tin đại chúng. Chính vì vậy mà người dân đã có ý thức
tương đối rõ ràng về vấn đề này.
Ngoài những vấn đề vừa trình bày trên đây, đạo đức kinh doanh còn có rất nhiều khía
cạnh khác. Song, trong khuôn khổ hạn hẹp của luận văn, chúng tôi không có điều kiện
trình bày tất cả.
2.2. Phƣơng hƣớng và giải pháp xây dựng đạo đức kinh doanh
2.2.1. Phương hướng xây dựng đạo đức kinh doanh
- Quán triệt quan điểm của Đảng và đạo đức Hồ Chí Minh về xây dựng đạo đức kinh
doanh ở Việt Nam
- Kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc kết hợp với tiếp
thu có chọn lọc các giá trị đạo đức của nhân loại trong quá trình xây dựng đạo đức kinh
doanh.
- Xã hội hoá công tác xây dựng đạo đức kinh doanh.
15
2.2.2. Giải pháp xây dựng đạo đức kinh doanh
Quán triệt quan điểm của Đảng và những tư tưởng cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh
về đạo đức, cùng với sự kế thừa những giá trị đạo đức truyền thống, đặc biệt là những giá
trị đạo đức kinh doanh tốt đẹp của dân tộc và sự xem xét có chọn lọc những lý luận và
thực tiễn liên quan tới vấn đề trên của thế giới và qua những ví dụ thực tế, những số liệu
thu thập được về những vấn đề đạo đức kinh doanh ở nước ta hiện nay, dưới đây chúng
tôi xin mạnh dạn đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng đạo đức kinh doanh trong điều
kiện nền kinh tế thị trường còn chưa hoàn chỉnh ở nước ta hiện nay.
- Đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa nhằm xác lập cơ sở kinh tế vững chắc cho sự phát triển của đạo đức kinh doanh.
- Bổ sung, hoàn thiện khung pháp luật Việt Nam nhằm tạo cơ sở pháp lý cho đạo đức
kinh doanh.
- Tạo lập một môi trường kinh doanh lành mạnh
- Giáo dục ý thức đạo đức kinh doanh cho doanh nhân và người dân
- Nâng cao nhận thức về đạo đức kinh doanh ở Việt Nam.
- Thực hiện xã hội hoá công tác xây dựng đạo đức kinh doanh
- Khuyến khích các doanh nghiệp nâng cao đạo đức kinh doanh của mình.
- Nâng cao vai trò giám sát của khách hàng và cộng đồng xã hội trong việc xây dựng
đạo đức kinh doanh.
Như vậy, việc xây dựng và phát huy vai trò của đạo đức kinh doanh là công việc
không chỉ của giới kinh doanh mà là công việc của toàn xã hội. Nó đòi hỏi phải có những
giải pháp đồng bộ và được triển khai trên phạm vi toàn xã hội.
KẾT LUẬN
Kinh tế thị trường đang là hiện tượng có tính toàn cầu, là điều kiện tất yếu để mọi
quốc gia thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Ngày nay, không thể nói đến phát triển
nếu không chuyển sang nền kinh tế thị trường. Ở nước ta, từ Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VI (12 - 1986) Đảng ta đã khởi xướng đường lối đổi mới toàn diện, trong đó có
đổi mới cơ chế kinh tế: từ cơ chế tập trung bao cấp chuyển sang nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Quá trình chuyển đổi đó đã tạo ra sự biến đổi to lớn về nhiều
mặt, trong đó có cả sự biến đổi mang tính hai mặt của đạo đức kinh doanh.
Đạo đức kinh doanh là một vấn đề khá mới mẻ ở nước ta. Trong các xã hội truyền
thống, đạo đức và kinh doanh là hai mặt mâu thuẫn và tách rời nhau. Chỉ khi chúng ta
chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với các mục tiêu cơ bản
là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” thì mới có các điều kiện thuận
lợi để đạo đức kinh doanh phát triển.
16
Trong nền kinh tế thị trường, đạo đức và kinh doanh có mối quan hệ chặt chẽ và tác
động qua lại lẫn nhau. Đạo đức kinh doanh, theo chúng tôi, là một dạng đạo đức nghề
nghiệp đước áp dụng trong lĩnh vực kinh doanh, bao gồm các nguyên tắc, chuẩn mực đạo
đức có tác dụng điều chỉnh, đánh giá và hướng dẫn hành vi của các chủ thể hoạt động
kinh doanh; chúng được những người hữu quan tự giác, tự nguyện thực hiện và sử dụng
để phán xét các hành vi trong kinh doanh là đúng hay sai, hợp đạo đức hay vô đạo đức.
Vai trò của đạo đức kinh doanh không chỉ thể hiện ở khả năng điều chỉnh hành vi một
cách tự giác, tự nguyện, sự mặc nhiên chấp nhận của mỗi cá nhân thông qua lương tâm
của họ và có sự tác động của dư luận xã hội mà còn là điều kiện cần để họ giữ được chữ
“tín” đối với khách hàng và tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh.
Ở nước ta hiện nay, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn chưa
hoàn thiện, định hướng xã hội chủ nghĩa là một điều còn mới mẻ, do đó, cả trong cơ chế
chính sách lẫn pháp luật còn nhiều khiếm khuyết; pháp luật chưa hoàn thiện, chưa đầy đủ
và thiếu đồng bộ. Mặt khác, dẫu kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và khung
pháp luật có hoàn thiện đến đâu đi chăng nữa cũng không tránh khỏi những khiếm khuyết
nhất định, nếu như những doanh nhân không có sự phát triển tương xứng về đạo đức thì
lòng hám lợi sẽ khích thích họ lách qua những kẽ hở, sự khiếm khuyết của pháp luật để
thu lợi bất chính cho bản thân. Chính vì vậy, vấn đề không chỉ là tiếp tục hoàn thiện cơ
chế kinh tế, pháp luật và tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước, mà cùng với nó, cần
phải đẩy mạnh việc xây dựng và phát huy vai trò của đạo đức trong kinh doanh.
Công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước cùng với quá trình hội nhập quốc
tế đang mở ra những cơ hội phát triển mới, đồng thời cũng đặt ra những thách thức mới
đòi hỏi chúng ta phải vượt qua. Đối với giới doanh nhân và hệ thống doanh nghiệp nước
ta hiện nay thì vấn đề phát huy tối đa nội lực, tận dụng tốt các nguồn ngoại lực, để nâng
cao hiệu quả kinh doanh và sức mạnh cạnh tranh, hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội đã được Đảng và Nhà nước đề ra là vấn đề quan trọng nhất. Để giải
quyết vấn đề trên, chúng ta không thể bỏ qua nhiệm vụ tạo lập và xây dựng đạo đức kinh
doanh trong xã hội.
Để xây dựng đạo đức kinh doanh, trước hết, cần xây dựng các nguyên tắc, chuẩn mực
đạo đức trong kinh doanh, trong đó, trung thực, giữ chữ tín, tự tôn dân tộc, phấn đấu vì lý
tưởng dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, năng động, sáng tạo, nhạy
bén, biết chớp thời cơ trong kinh doanh,... là những phẩm chất đặc biệt quan trọng. Mặt
khác, đạo đức và văn hoá Việt Nam chính là cơ sở và nguồn nội lực rất quan trọng đối
với sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung, của lĩnh vực kinh doanh nói riêng. Nếu biết
phát huy nguồn lực này một cách hiệu quả kết hợp với tận dụng tốt các nguồn ngoại lực
thì giới doanh nhân và hệ thống các doanh nghiệp nước ta có thể tạo ra một kiểu kinh
doanh đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam và có trình độ quốc tế, chẳng những để phục vụ
tốt các nhu cầu trong nước mà còn là lợi thế trong việc chinh phục các thị trường của các
17
nước trong khu vực và trên toàn thế giới. Bởi vậy, nghiên cứu và xây dựng đạo đức kinh
doanh trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là việc làm
cần thiết và là yêu cầu cấp bách hiện nay. Tuy nhiên, việc xây dựng đạo đức kinh doanh
là công việc không chỉ của giới kinh doanh mà là công việc của toàn xã hội. Nó đòi hỏi
phải có những giải pháp đồng bộ và phải được triển khai trên phạm vi toàn xã hội.
Cũng như văn hoá, đạo đức xã hội nói chung và đạo đức kinh doanh nói riêng là
những phạm trù phức tạp, cần có nhiều thời gian và công sức để hoàn thiện và phát triển.
Là một quốc gia đang phát triển, Việt Nam mới tham gia vào tiến trình toàn cầu hoá, hội
nhập kinh tế quốc tế, vào WTO..., nên những phạm trù như: văn hoá kinh doanh, văn hoá
doanh nghiệp, đạo đức kinh doanh còn khá mới mẻ ở nước ta. Được biết trong thời gian
tới, chính phủ Việt Nam đang có chủ trương nâng cao trình độ nhận thức cho người dân
và doanh nghiệp về các vấn đề có liên quan đến hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hoá.
Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đang khuyến cáo các trường Đại học, Cao đẳng cần đổi
mới chương trình đào tạo cho phù hợp với trình độ chung trên thế giới.
Có được những yếu tố thuận lợi này và truyền thống đạo đức lâu đời của người Việt
Nam, hy vọng trong thời gian tới, nhận thức của người Việt Nam nói chung, người dân
Hà Nội nói riêng về đạo đức kinh doanh sẽ nhanh chóng được nâng cao, góp phần duy trì
sự phát triển bền vững và nâng cao chất lượng đời sống cho người dân Việt Nam.
References.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Hoàng Ánh (2004), Vai trò của văn hoá trong kinh doanh quốc tế và vấn
đề xây dựng văn hoá kinh doanh ở Việt Nam, Luận án tiến sỹ kinh tế, Hà Nội.
2. Lê Thị Tuyết Ba (2010), Ý thức đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt
Nam, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
3. Ngọc Bảo, Huệ Linh (23/12/2010), “Nhiều sản phẩm bị ăn bớt”, Báo An ninh Thủ
đô.
4. Lâm Minh Chánh (2006), “Đạo đức với đối tác và đối thủ”, Thời báo Kinh tế Sài
Gòn, (2), tr.22-23.
5. Nguyễn Duy Chinh (biên soạn, 2009), Văn hoá doanh nghiệp, Nxb. Lao động - Xã
hội, Hà Nội.
6. Nguyễn Trọng Chuẩn (2001), “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay và những biến động trong lĩnh vực đạo đức”, Tạp chí Triết học,
(9), tr.15-19.
7. Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Phúc (đồng chủ biên, 2003), Mấy vấn đề đạo
đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
18
8. Lê Chí Công (2010), “Số phận của thương hiệu”, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, (34),
tr.25.
9. Mai Ngọc Cường, Vũ Thành Hưng, Bùi Anh Tuấn (1996), Đạo đức kinh doanh: Lý
thuyết và thực hành, Nxb. Thống kê, Hà Nội.
10. Trần Quốc Dân (2003), Tinh thần doanh nghiệp giá trị định hướng của văn hoá
kinh doanh Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Lê Văn Dũng (1999), Đạo đức kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. Luận văn
thạc sỹ Triết học, Viện Triết học.
12. Vũ Tiến Dũng (2008), “Tạo sự hài hoà về lợi ích giữa công nhân và doanh nhân ở
Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Triết học, (3), tr.72-76.
13. Lê Đăng Doanh (2009), “Một số vấn đề về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở
Việt Nam”, Tạp chí Triết học, (3), tr.29-34.
14. Đảng cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI,
Nxb. Sự thật, Hà Nội.
15. Đảng cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. Đảng cộng sản Việt Nam (1995), Nghị quyết về một số định hướng lớn trong công
tác tư tưởng hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Đảng cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Đảng cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành
Trung ương khoá VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Đảng cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. Đảng cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành
Trung ương khoá IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. Đảng cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Phạm Văn Đức (2009), “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở Việt Nam. Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách”, Tạp chí Triết học, (2), tr.16-23.
24. Ngô Đình Giao (chủ biên, 1997), Môi trường kinh doanh và đạo đức kinh doanh,
Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
25. V.E. Henderson (1996), Đạo đức trong kinh doanh, Nxb. Văn hoá, Hà Nội.
26. Đỗ Lan Hiền (2002), “Vấn đề xây dựng đạo đức trong bối cảnh phát triển kinh tế
thị trường”, Tạp chí Triết học, (4), tr.16-19.
19
27. Đỗ Thị Kim Hoa (2009), “Xây dựng đạo đức kinh doanh - Cơ sở cho việc thực hiện
trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp”, Tạp chí Triết học, (10), tr.80-84.
28. Đỗ Thị Phi Hoài (chủ biên, 2009), Văn hoá doanh nghiệp, Nxb. Tài chính, Hà Nội.
29. Mai Xuân Hợi (2005), Vấn đề đạo đức của cán bộ lãnh đạo, quản lý trong điều
kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, Luận án
tiến sĩ Triết học, Hà Nội.
30. Đỗ Đức Hùng (1995), “Từ đạo đức kinh doanh đến trách nhiệm xã hội trong kinh
doanh”, Tạp chí Phát triển Kinh tế, (69), tr.5.
31. Đỗ Huy (1996), “Văn hoá kinh doanh ở nước ta - thực trạng và những giải pháp”,
Tạp chí Triết học, (2), tr.22-25.
32. Đỗ Huy (1995), “Sự thay đổi các chuẩn mực giá trị văn hoá khi nền kinh tế Việt
Nam chuyển sang cơ chế thị trường”, Tạp chí Triết học, (1), tr.20-23.
33. Trịnh Duy Huy (2001), “Về vai trò của đạo đức kinh doanh và việc xây dựng đạo đức
kinh doanh ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Triết học, (2), tr.42 -45.
34. Trịnh Duy Huy (2009), Xây dựng đạo đức mới trong kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. Nguyễn Thế Kiệt (1996), “Quan hệ giữa đạo đức và kinh tế trong việc định hướng
các giá trị đạo đức hiện nay”, Tạp chí Triết học, (6), tr.9-11.
36. Lý Kỳ (1979), “Lợi ích và đạo đức”, Tạp chí Triết học, (5), tr.33-36.
37. Nguyễn Thị Lan (2006), “Nhìn nhận của người dân về đạo đức kinh doanh của các
chủ doanh nghiệp tư nhân”, Tạp chí Tâm lý học, (5), tr.15-22.
38. Nguyễn Lân (1998), Từ điển và từ ngữ Việt Nam, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ
Chí Minh.
39. Vương Liêm (2001), Kinh tế học Internet: từ thương mại điện tử đến Chính phủ
điện tử, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
40. Dương Thị Liễu (chủ biên, 2008), Bài giảng văn hoá kinh doanh, Nxb. Đại học
Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
41. Dương Thị Liễu (chủ biên, 2009), Văn hoá kinh doanh, Nxb. Đại học Kinh tế quốc
dân, Hà Nội.
42. Nguyễn Ngọc Long (1987), “Quán triệt mối quan hệ giữa kinh tế với đạo đức trong
việc đổi mới tư duy”, Tạp chí Nghiên cứu Lý luận, (1), tr.109-114.
43. Lê Thanh Lương, Lương Hằng, Anh Phương (2009), Đạo kinh doanh, Nxb. Tư
pháp, Hà Nội.
44. C.Mác và Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 13, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
45. C.Mác và Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 20, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
46. C.Mác và Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 23, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
47. Hồ Chí Minh (1993), Về đạo đức, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
48. Hồ Chí Minh (1993), Toàn tập, tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20
49. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 8, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
50. Nguyễn Chí Mỳ (1999), Sự biến đổi của thang giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị
trường với việc xây dựng đạo đức mới cho cán bộ quản lý ở nước ta hiện nay, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
51. Phạm Xuân Nam (chủ biên, 1996), Văn hoá và kinh doanh, Nxb. Khoa học Xã hội,
Hà Nội.
52. Trần Nhoãn (2009), Văn hoá doanh nghiệp. Giáo trình dùng cho sinh viên cao
đẳng, đại học du lịch, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.
53. Hữu Ngọc (chủ biên, 1987), Từ điển triết học giản yếu, Nxb Đại học và Trung học
chuyên nghiệp, Hà Nội.
54. Hoàng Phê (2002), Từ điển Tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, Nxb. Đà Nẵng.
55. Bùi Xuân Phong (2009), Đạo đức kinh doanh và văn hoá doanh nghiệp, Nxb.
Thông tin và Truyền thông, Hà Nội.
56. Nguyễn Văn Phúc (1996), “Vai trò của giáo dục đạo đức đối với sự phát triển nhân
cách trong cơ chế thị trường”, Tạp chí Triết học, (5), tr.15-17.
57. Nguyễn Văn Phúc (1996), “Khía cạnh đạo đức của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đối với sự phát triển nhân cách”, Tạp chí Triết học, (1), tr.13-16.
58. Nguyễn Văn Phúc (2001), “Vấn đề xây dựng đạo đức nghề nghiệp trong nền kinh
tế thị trường ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Triết học, (7), tr.8-11.
59. Nguyễn Văn Phúc (2006), “Về việc tạo ra bước chuyển mạnh mẽ trong xây dựng
đạo đức mới ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Triết học, (11), tr.3-8.
60. Trần Anh Phương (2009), “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và thực tiễn vận
dụng ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Triết học, (8), tr.23-31.
61. Thanh Phương (15/4/2004), “Tâm, tín, nhẫn của doanh nhân”, Thời báo Kinh tế Sài
Gòn.
62. Nguyễn Đăng Quang (biên soạn, 2001), Thực hành Triết học, phần “nhóm vấn đề
văn hoá và kinh doanh”, Trường Đại học Quản lý và kinh doanh Hà Nội.
63. Nguyễn Mạnh Quân (2007), Đạo đức kinh doanh và văn hoá công ty: phương pháp
môn học và phân tích tình huống, Nxb. Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
64. Nguyễn Mạnh Quân (2007), Giáo trình đạo đức kinh doanh và văn hoá công ty,
Nxb. Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
65. Ngô Minh Quân (2006), “Đưa đạo đức vào trong kinh doanh như thế nào”, Thời
báo Kinh tế Sài Gòn, (1), tr.28-29.
66. M.M Rôzentan (chủ biên, 1975), Từ điển Triết học, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva.
67. Trần Đăng Sinh và Nguyễn Thị Thọ (chủ biên, 2008), Giáo trình đạo đức học, Nxb.
Đại học Sư phạm, Hà Nội.
68. Phạm Côn Sơn (2006), Tâm đức trong kinh doanh, 99 điều cần biết, Nxb. Lao động,
Hà Nội.
21
69. Vũ Phong Tạo (biên soạn, 1999), Tư Mã Thiên với mưu lược thương trường, Nxb.
Văn học, Hà Nội.
70. Trần Thị Giang Tân (2009), “Gian lận trên báo cáo tài chính thực trạng và kiến
nghị đối với các doanh nghiệp Việt Nam”, Tạp chí Phát triển Kinh tế, (225), tr.41-
47.
71. Hà Huy Thành (chủ biên, 2000), Những tác động tiêu cực của kinh tế thị trường ở
Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
72. Tôn Thất Nguyễn Thiêm (29/12/2005), “Đạo đức kinh doanh”, Thời báo Kinh tế
Sài Gòn, tr.26-27.
73. Lê Minh Tiến (2007), “Có đạo đức tốt mới kinh doanh tốt”, TTCT, (20).
74. Lại Văn Toàn (chủ tịch hội đồng biên tập, 1996), Những vấn đề đạo đức trong điều
kiện kinh tế thị trường. Từ góc nhìn của các nhà khoa học Trung Quốc, Nxb.
Thông tin Khoa học Xã hội, Hà Nội.
75. Nguyễn Hợp Toàn (biên soạn, 2008), Giáo trình pháp luật kinh tế, Nxb. Đại học
Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
76. Phạm Quốc Toản (2002), Đạo đức kinh doanh, Nxb. Thống kê, Hà Nội.
77. Nguyễn Đình Tường (2002), “Một số biểu hiện của sự biến đổi giá trị đạo đức
trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay và giải pháp khắc phục”, Tạp chí
Triết học, (6), tr.19-22.
78. Nguyễn Văn Ý (chủ biên, 1998), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb. Văn hoá - Thông tin,
Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 02050000803_1107.pdf