Vấn đề xóa đói giảm nghèo trong chính sách xã hội thời kỳ đổi mới và nguyên nhân căn bản dẫn tới tình trạng tái nghèo hiện nay

PHẦN I: MỞ ĐẦU Bước sang thế kỷ XXI, đói nghèo vẫn là vấn đề có tính toàn cầu. Một bức tranh tổng thể là thế giới với gần một nửa số dân sống dưới 2USD*/ngày và cứ 8 trong số 100 trẻ em không sống được đến 5 tuổi. Vì vậy một phong trào sôi nổi và rộng khắp trên thế giới là phải làm như thế nào để đẩy lùi nghèo đói. Còn Việt Nam thì sao? Trong những năm gần đây, Việt Nam được đánh giá là một trong những nước có công tác xoá đói giảm nghèo tốt nhất theo tiêu chuẩn và phương pháp xác định đường nghèo khổ của WB, tỷ lệ nghèo ở Việt Nam giảm từ 58,1% năm 1993 xuống còn 37,4% năm 1998 và hiện nay còn khoảng 30%. Theo tiêu chuẩn quốc gia tỷ lệ nghèo đói của nước ta giảm từ 30,01% năm 1992 xuống 11% năm 2000. Tuy quy mô đói nghèo toàn quốc giảm nhanh. Nhưng thực trạng cho thấy, Việt Nam vẫn là một nước nghèo. Con số các hộ bị tái nghèo là rất lớn bình quân hàng năm khoảng 50.000 hộ (riêng năm 1996 và 1997 mỗi năm khoảng gần 100.000 hộ do bão lụt. Nếu so sánh tình trạng đói nghèo của nước ta với các nước trên thế giới thì tính bức xúc của nó là rất lớn, ngưỡng nghèo của Việt Nam vẫn xa với ngưỡng nghèo của thế giới. Vấn đề xóa đói giảm nghèo và tái nghèo đến nay vẫn là những vấn đề quan trọng và nóng bỏng, chính vì vậy nhóm chúng em lựa chọn thực hiện đề tài: “Vấn đề xóa đói giảm nghèo trong chính sách xã hội thời kỳ đổi mới và nguyên nhân căn bản dẫn tới tình trạng tái nghèo hiện nay”.

doc40 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 10319 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Vấn đề xóa đói giảm nghèo trong chính sách xã hội thời kỳ đổi mới và nguyên nhân căn bản dẫn tới tình trạng tái nghèo hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đại hội VIII đã xác định giai đoạn từ nay đến năm 2000 là bước rất quan trọng của thời kỳ phát triển mới - đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhiệm vụ của nhân dân ta là tập trung mọi lực lượng, tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách, đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phấn đấu đạt và vượt mục tiêu được đề ra trong Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000: tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền vững đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, cải thiện đời sống của nhân dân, nâng cao tích lũy từ nội bộ nền kinh tế, tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển cao hơn vào đầu thế kỷ sau. Trong các vấn đề bàn đến, vấn đề xóa đói giảm nghèo là một trong những vấn đề được Đại hội quan tâm, chú ý, đặt mục tiêu phải làm tốt trong những năm tiếp theo: - Tạo việc làm nhiều hơn số lao động tăng thêm hằng năm, giảm đáng kể thất nghiệp; xóa đói, tiếp tục giảm nghèo. - Cải thiện điều kiện ăn, ở, học hành, chữa bệnh, đi lại, nâng cao mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân, đặc biệt các vùng nông thôn, miền núi. - Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói giảm nghèo. Thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển, về mức sống giữa các vùng, các dân tộc, các tầng lớp dân cư. - Các vấn đề chính sách xã hội nói chung và xóa đói giảm nghèo nói riêng đều giải quyết theo tinh thần xã hội hóa. Nhà nước giữ vai trò nòng cốt đồng thời động viên mỗi người dân, các doanh nghiệp, các tổ chức trong xã hội, các cá nhân và tổ chức nước ngoài cùng tham gia giải quyết những vấn đề xã hội. - Thực hiện tốt chương trình xóa đói giảm nghèo, nhất là đối với vùng căn cứ cách mạng, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Xây dựng và phát triển quỹ xóa đói giảm nghèo bằng nhiều nguồn vốn trong và ngoài nước; quản lý chặt chẽ, đầu tư đúng đối tượng và có hiệu quả. - Tổ chức tốt đời sống xã hội trên từng địa bàn để trong điều kiện thu nhập bình quân đầu người còn thấp vẫn tạo được một cuộc sống khá hơn cho nhân dân. Mở rộng diện các xã có điện, có đường, có trường học, có trạm y tế, có nước sạch… - Giảm tỷ lệ nghèo đói trong tổng số hộ của cả nước từ 20-25% hiện nay xuống còn khoảng 10% vào năm 2000, bình quân giảm 3000 nghìn hộ/năm. - Trong 2-3 năm đầu của kế hoạch 5 năm, tập trung xoá về cơ bản nạn đói kinh niên. Cơ chế chính sách đối với người nghèo và xã nghèo: Hiện nay có 14 chương trình quốc gia và dự án được thực hiện có nội dung gắn với xoá đói, giảm nghèo. Từ năm 1996 sẽ lồng ghép chương trình xoá đói, giảm nghèo với các chương trình khác, trong đó lấy chương trình quốc gia về giải quyết việc làm và về phủ xanh đất trống đồi núi trọc làm nòng cốt. Bổ sung các chính sách giúp cho người nghèo, hộ nghèo, xã nghèo tổ chức sản xuất, bảo đảm cuộc sống và nâng lên khá giả, trước mắt tập trung vào các chính sách sau đây: Uỷ ban nhân dân các cấp tỉnh, huyện rà soát lại toàn bộ diện tích đất đai trên địa bàn lãnh thổ, thu hồi đất đai đã cấp không đúng đối tượng, không đúng chính sách, thu hồi đất đã cấp cho các doanh nghiệp, các cơ quan sử dụng không đúng mục đích, để giao cho các hộ nông dân nghèo chưa được giao đất hoặc giao chưa đủ mức. Vận động và giúp đỡ hộ nông dân nghèo đến các vùng kinh tế mới mau chóng ổn định sản xuất và đời sống. Mở rộng các quỹ tín dụng cho các hộ nghèo vay vốn sản xuất, với lãi suất ưu đãi. Các hộ nghèo được Uỷ ban nhân dân xã, phường chứng nhận được vay vốn không phải thế chấp. Thông qua ngân hàng phục vụ người nghèo và các quỹ hỗ trợ của các tổ chức đoàn thể bảo đảm 90-95% số hộ nghèo được vay vốn sản xuất, trong đó các hộ thuộc đối tượng chính sách, các hộ đói nghèo nhất được ưu tiên vay trước. Nguồn vốn để thực hiện mục tiêu này bao gồm vốn tự có của ngân hàng, vốn của các chương trình, vốn của quỹ xoá đói, giảm nghèo, vốn tài trợ quốc tế kể cả vốn vay, vốn hỗ trợ của ngân sách Nhà nước... Các cơ sở đào tạo và các trung tâm dạy nghề của Nhà nước thực hiện việc đào tạo nghề miễn phí đối với con em các hộ nghèo; đồng thời hỗ trợ kinh phí cho các doanh nghiệp nhận tuyển con em các hộ nghèo vào đào tạo và làm việc. Xây dựng đội ngũ những người tình nguyện, bao gồm các cán bộ kỹ thuật, sinh viên mới tốt nghiệp và những nông dân làm ăn giỏi trong vùng, để hướng dẫn cách làm ăn và phổ biến các biện pháp kỹ thuật giúp đỡ người nghèo sản xuất kinh doanh. Đối với các vùng cao, vùng sâu, vùng xa sản phẩm tiêu thụ khó khăn, giá thấp, Nhà nước thông qua các doanh nghiệp Nhà nước bao tiêu sản phẩm và trợ giá. Xây dựng chính sách tài trợ đầu tư 6 loại công trình xã hội thiết yếu cho 1.300 xã nghèo nhất (đường ôtô và đường dây điện đến trung tâm xã; nước sạch cho dân cư; phòng học cho học sinh cấp I, II, xoá lớp ca 3; trạm y tế; chợ tại xã hoặc liên xã). Con em các hộ nghèo đi học các trường phổ thông đều được miễn học phí (hoặc được cấp học bổng để đóng học phí); ở bậc tiểu học được mượn sách giáo khoa, cấp không vở viết và được miễn mọi khoản đóng góp khác. Đối với các hộ quá khó khăn có thể xét trợ cấp thêm học bổng. Tổ chức các lớp học tình thương cho con em người nghèo do những giáo viên tình nguyện giảng dạy. Các học sinh giỏi là con em các hộ nghèo, nhất là con em đồng bào các dân tộc ít người, được ưu tiên xét chọn vào các trường dân tộc nội trú, các trường đại học, cao đẳng và ưu tiên xét học bổng hằng năm. Cấp miễn phí thẻ bảo hiểm y tế cho các hộ nghèo theo số người trong gia đình. Các tỉnh, thành phố có điều kiện, có thể thành lập cơ sở khám chữa bệnh nhân đạo cho người nghèo. Phối hợp các chương trình xã hội khác như: Dân số, kế hoạch hoá gia đình, chống sốt rét, bướu cổ, tiêm chủng mở rộng, phòng chống tệ nạn xã hội và chương trình hành động quốc gia vì trẻ em 1991 - 2000 để chăm sóc sức khoẻ cho người nghèo. Tổ chức điều tra xác định số hộ nghèo đói do mất khả năng lao động và xây dựng tiêu chuẩn chính sách trợ cấp cụ thể theo chính sách cứu tế xã hội nhằm ổn định đời sống lâu dài cho họ. 5. Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ IX Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam diên x ra từ ngày 19/4 đến ngày 22/4/2001 Tại Hà Nội Nhiệm vụ của Đại hội là nhìn lại chặng đường 71 năm cách mạng Việt Nam; tổng kết năm năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII; 15 năm đổi mới đất nước, mười năm thực hiện chiến lược kinh tế - xã hội; rút ra bài học kinh nghiệm sâu sắc, từ đó phát triển và hoàn thiện đường lối, định ra chiến lược phát triển đất nước trong hai thập kỷ đầu của thế kỷ 21; hoạch định phương hướng nhiệm vụ xây dựng Đảng ta ngang tầm đòi hỏi của dân tộc trong thời kỳ mới; sửa đổi, bổ sung Điều lệ Đảng. Mục tiêu của Đảng: Hoạch định Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm (2001-2010), với mục tiêu tổng quát là: Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại... Đại hội đã thông qua Điều lệ Đảng bổ sung, sửa đổi. Đại hội Đảng lần thứ IX (4-2001) và các Hội nghị Trung ương Khoá IX đã cụ thể hoá và bổ sung các quan điểm về chính sách xã hội của Đại hội VIII, với những nội dung cơ bản về vấn đề xóa đói giảm nghèo trong chính sách xã hội: - Giải quyết chính sách xã hội phải gắn liền với quá trình xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt là “phát triển thị trường lao động; người lao động được tìm và tạo việc làm ở mọi nơi trong nước; đẩy mạnh xuất khẩu lao động với sự tham gia của các thành phần kinh tế” - Trong giải quyết các chính sách xã hội, Nhà nước vừa là người điều tiết, vừa là nhà đầu tư. - Coi trọng công bằng trong hưởng thụ các dịch vụ xã hội, đặc biệt là công bằng trong thụ hưởng dịch vụ giáo dục và chăm sóc y tế, với việc tạo cơ hội cho những đối trọng, những vùng còn khó khăn có cơ hội được chăm sóc tốt hơn.   - Xã hội hoá việc giải quyết các vấn đề xã hội, động viên toàn xã hội tham gia giải quyết các vấn đề xã hội. - Thực hiện các chính sách xã hội hướng vào phát triển và lành mạnh hoá xã hội. Đại hội xác định mô hình kinh tế tổng quát của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội IX của Đảng nêu rõ: Đẩy mạnh CNH, HĐH, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đưa nước ta trở thành nước công nghiệp; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng XHCN; phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng - an ninh. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội mười năm 2001 - 2010 nhằm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao. 6. Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ X Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam X, được gọi chính thức là Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X là đại hội lần thứ mười của Đảng Cộng sản Việt Nam, được tổ chức từ ngày 18 đến 25 tháng 4 năm 2006 tại Hà Nội. 1.176 đại biểu, đại diện cho 3,1 triệu đảng viên đã tham dự lễ khai mạc. Đại hội đã thông qua Báo cáo Chính trị với tiêu đề: "Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển". Đại hội chủ trương phải kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, địa phương. Trong điều kiện Việt Nam gia nhập WTO, hội nhập sâu rộng hơn vào hệ thống kinh tế quốc tế, Hội nghị TW 4, khóa X (tháng 1 – 2007) nhấn mạnh phải giải quyết tốt các vấn đề xã hội nảy sinh trong quá trình thực thi các cam kết với WTO. Xây dựng cơ chế đánh giá và cảnh báo định kỳ về tác động của việc gia nhập WTO đối với lĩnh vực xã hội để có biện pháp xử lý chủ động, đúng đắn, kịp thời. Hội nghị TW 9 (khóa X) họp từ ngày 5 đến 13-1-2009 kiểm điểm nửa đầu nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng đã đánh giá sự nghiệp đổi mới tiếp tục được đẩy mạnh trên mọi lĩnh vực. Chính trị - xã hội ổn định. Cơ bản ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao. An sinh xã hội được chăm lo nhiều hơn. Hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế được đẩy mạnh. Quốc phòng - an ninh được tăng cường. Chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững. Đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân, quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội X của Đảng trong bối cảnh tình hình quốc tế và trong nước có nhiều khó khăn, thách thức. Đảng ta đã đưa ra những chương trình rộng lớn để tập trung giải quyết là “Chương trình về xóa đói, giảm nghèo”. Trên cơ sở đó, Đảng và Nhà nước cũng đã có hàng chục chương trình cấp quốc gia và dự án đang được thực thi có nội dung gắn với xóa đói, giảm nghèo. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về việc xóa đói giảm nghèo: Một số luận điểm và chính sách cụ thể của Đảng và Nhà nước: Một là: xóa đói giảm nghèo vừa là nhiệm vụ cơ bản lâu dài, vừa là nhiệm vụ trọng tâm trước mắt. Tính lâu dài của xóa đói giảm nghèo là do: - Thứ nhất, xóa đói giảm nghèo là nội dung, và nhiệm vụ cần thực hiện để bảo đảm công bằng xã hội. Thực tiễn cho thấy, có những nguyên nhân nảy sinh nghèo đói không phải do môi trường xã hội, không do điều kiện kinh tế - địa lý, mà do hoàn cảnh và đặc điểm của từng cá nhân, từng hộ gia đình. Những trường hợp này luôn có khả năng xuất hiện và việc xóa đói giảm nghèo mang tính thường trực. - Thứ hai, chủ trương của Đảng ta phát triển kinh tế nhiều thành phần là một định hướng chiến lược. Nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường luôn có xu hướng phân hóa hai cực giàu nghèo. Vì vậy, cùng với việc tăng cường sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa thường xuyên và liên tục, lâu dài, thì nhiệm vụ xóa đói giảm nghèo, nhất là giảm nghèo, cũng là vấn đề liên tục và lâu dài mới giải quyết được. - Thứ ba, dân giàu nước mạnh là mục tiêu cơ bản của chủ nghĩa xã hội. Thực hiện mục tiêu này là một quá trình phấn đấu gian khổ, lâu dài. Xóa đói giảm nghèo vừa có tính cơ bản và cần thực hiện liên tục, lâu dài, lại là một công việc cần kíp, trước mắt, bởi vì sự nghiệp cách mạng và công cuộc đổi mới luôn đặt ra nhiệm vụ: mỗi bước phát triển kinh tế - xã hội là một bước cải thiện đời sống của nhân dân; bởi vì đây không chỉ là việc thực hiện truyền thống, đạo lý của dân tộc “thương người như thể thương thân”, mà còn là nhiệm vụ để bảo đảm ổn định xã hội, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc. Hai là, tăng trưởng kinh tế là điều kiện giúp cho việc xóa đói giảm nghèo, nhưng đây là hai nhiệm vụ có tính độc lập tương đối và không phải là một. Có người cho rằng, muốn xóa đói giảm nghèo trước hết phải đầu tư phát triển sản xuất để tăng trưởng kinh tế. Chỉ đến khi kinh tế đã phát triển đến giai đoạn nhất định sẽ hết đói nghèo, vì thế không nên đặt vấn đề xóa đói giảm nghèo là nhiệm vụ lâu dài và trọng yếu. Thực ra tăng trưởng kinh tế có ảnh hưởng đến việc giải quyết vấn đề nghèo đói, bởi vì nguyên nhân chính yếu của đói nghèo nói chung là do kinh tế chưa phát triển. Tuy nhiên, đói nghèo lại do nhiều nguyên nhân khác mang tính đặc thù. Vả lại trong điều kiện kinh tế nước ta hiện nay, chúng ta chấp nhận kinh tế nhiều thành phần cùng vận động, phát triển cũng là phải chấp nhận tình trạng phân hóa giàu nghèo tương đối. Vì vậy, xóa đói giảm nghèo không những là công việc cần thiết mà là nhiệm vụ cấp bách và quan trọng. Chúng ta xác định sự phân hóa giàu nghèo không thể tránh khỏi, nên cũng quyết tâm không để xảy ra tình trạng làm giàu vô tội vạ trên lưng người khác, cũng như tình trạng “kẻ ăn không hết, người lần không ra”, không thể để người nghèo bị bỏ rơi trước con mắt của cộng đồng. Ba là, xóa đói giảm nghèo và thực hiện công bằng xã hội không có nghĩa là kìm hãm sự phát triển kinh tế, không có nghĩa là cào bằng. Kinh nghiệm của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu trước đây đã cho thấy, nếu đặt công bằng xã hội lên trên hết và tách rời với phát triển kinh tế thì trước hết dẫn tới sự triệt tiêu các động lực phát triển. Tuy nhiên, nếu đặt hiệu quả kinh tế là mục tiêu duy nhất thì sẽ làm tăng tình trạng phân hóa hai cực, làm tăng sự khốn khó đối với không ít quần chúng nhân dân. Bởi vậy, trong khi thực hiện bài toán phát triển đất nước, làm sao phải tạo mọi điều kiện và tăng nguồn lực cho sự phát triển, đồng thời hạn chế mặt tiêu cực của nó, đặt vấn đề xóa đói giảm nghèo thành công việc thường xuyên, liên tục. Bốn là, xóa đói giảm nghèo là công việc của toàn xã hội. Cần khẳng định một cách mạnh mẽ rằng, xóa đói giảm nghèo không dừng lại ở việc thực hiện chính sách xã hội, không phải việc riêng của ngành lao động - xã hội hay một số ngành khác, mà là nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, là nhiệm vụ chung của toàn Đảng, toàn dân. Muốn thực hiện thành công việc xóa đói giảm nghèo, tất cả mọi cán bộ đảng, chính quyền đều phải quan tâm cùng giải quyết, thực hiện các giải pháp một cách đồng bộ và phải có sự tham gia của toàn thể cộng đồng. 7. Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ XI Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI tổ chức tại Hà Nội từ 12-19/1/2011. Trong phát biểu mở đầu Đại hội, đồng chí Trương Tấn Sang, Uỷ viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư nêu rõ, Đại hội lần này sẽ thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011); Quyết định Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020; Kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng; Bàn phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015; Kiểm điểm sự lãnh đạo của Ban Chấp hành TƯ Đảng khóa X; Bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng và bầu Ban Chấp hành TƯ Đảng khóa XI. Mục tiêu về vấn đề xóa đói giảm nghèo trong chính sách xã hội. Tỉ lệ hộ nghèo giảm bình quân 1,5- 2%/năm; phúc lợi xã hội, an sinh xã hội và chăm sóc sức khỏe cộng đồng được bảo đảm. Thu nhập thực tế của dân cư gấp khoảng 3,5 lần so với năm 2010; thu hẹp khoảng cách thu nhập giữa các vùng và nhóm dân cư. Xoá nhà ở đơn sơ, tỉ lệ nhà ở kiên cố đạt 70%, bình quân 25 m2 sàn xây dựng nhà ở tính trên một người dân.(CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI 2011-2020) Tạo môi trường và điều kiện để mọi người lao động có việc làm và thu nhập tốt hơn. Có chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ tạo động lực để phát triển; điều tiết hợp lý thu nhập trong xã hội. Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá nghèo bền vững; giảm dần tình trạng chênh lệch giàu - nghèo giữa các vùng, miền, các tầng lớp dân cư. Hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội. Thực hiện tốt chính sách đối với người và gia đình có công với nước. Chú trọng cải thiện điều kiện sống, lao động và học tập của thanh niên, thiếu niên, giáo dục và bảo vệ trẻ em. Chăm lo đời sống những người cao tuổi, neo đơn, khuyết tật, mất sức lao động và trẻ mồ côi. Hạn chế, tiến tới đẩy lùi tội phạm và giảm tác hại của tệ nạn xã hội. Bảo đảm quy mô hợp lý, cân bằng giới tính và chất lượng dân số. ( CƯƠNG LĨNH XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI (BỔ SUNG, PHÁT TRIỂN NĂM 2011). Tiếp tục đẩy mạnh phát triển các vùng kinh tế, lãnh thổ trọng điểm tạo động lực cho nền kinh tế. Tăng cường chính sách hỗ trợ phát triển các vùng còn nhiều khó khăn, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. (Báo cáo chính trị) Ý kiến Ông ĐỒNG SĨ NGUYÊN (nguyên ủy viên Bộ Chính trị, nguyên phó thủ tướng): Làm giàu cho dân nghèo Đại hội XI sẽ tiếp tục con đường đổi mới. Tôi mong rằng việc thảo luận và thông qua các văn kiện tại đại hội sẽ nhấn mạnh, làm nổi bật nội dung “dân giàu”. Lâu nay chúng ta thường nói “dân giàu, nước mạnh”, nhưng lần này phải tạo đột phá về cải thiện đời sống người dân. Nói một cách cụ thể, tôi mong đại hội tập trung trí tuệ để đề ra được một chương trình tầm cỡ quốc gia “làm giàu cho dân nghèo”, nhất là nông dân, công nhân và trí thức ở thành thị cũng như nông thôn. Đây phải là một chương trình có tầm nhìn dài hạn cỡ 20-30 năm, nghĩa là chúng ta mở một cuộc trường chinh mới, không những xóa đói nghèo mà còn tiến lên từng bước làm giàu cho người dân ở nhiều mức khác nhau, sao cho khi kết thúc chương trình thì người dân có mức sống trung lưu trở lên. 8. Một số chính sách xóa đói giảm nghèo ở nước ta: 8.1. Chính sách 134: Chương trình 134 tên gọi khác là chương trình hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn mà Chính phủ Việt Nam áp dụng từ năm 2004 nhằm mục đích cùng với việc thực hiện các chương trình kinh tế - xã hội, Nhà nước trực tiếp hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo để có điều kiện phát triển sản xuất, cải thiện đời sống, sớm thoát nghèo. Đối với sản xuất: Mức giao đất sản xuất tối thiểu một hộ là 0,5ha đất nương, rẫy hoặc 0,25 ha đất ruộng lúa nước một vụ hoặc 0,15 ha đất ruộng lúa nước 2 vụ. Căn cứ quỹ đất cụ thể của từng địa phương, khả năng lao động và số nhân khẩu của từng hộ và khả năng của ngân sách địa phương, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có thể xem xét, quyết định giao đất sản xuất cho hộ đồng bào với mức cao hơn. Việc hỗ trợ đất sản xuất và đất ở đối với hộ đồng bào dân tộc Khơme nghèo do đặc thù của vùng đồng bằng sông Cửu Long, Nhà nước sẽ có chính sách riêng. Về nhà ở: Đối với các hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo tại chỗ (kể cả đồng bào dân tộc Khơme) hiện chưa có nhà ở hoặc nhà ở quá tạm bợ và đã hư hỏng, dột nát thì thực hiện phương châm: Nhân dân tự làm, Nhà nước hỗ trợ và cộng đồng giúp đỡ. a. Ngân sách Trung ương hỗ trợ với mức 5 triệu đồng/hộ để làm nhà ở. Căn cứ tình hình và khả năng ngân sách, các địa phương hỗ trợ thêm và huy động sự giúp đỡ của cộng đồng. b. Đối với các địa phương có rừng, có huy hoạch, kế hoạch khai thác gỗ theo quy định để hỗ trợ đồng bào làm nhà ở. Mức gỗ hỗ trợ cụ thể cho mỗi hộ làm nhà ở do Ủy ban cấp tỉnh quyết định. Nghiêm cấm việc lợi dụng khai thác gỗ hỗ trợ làm nhà ở để chặt phá rừng. 3. Về hỗ trợ giải quyết nước sinh hoạt: a. Đối với các hộ đồng bào dân tộc ở phân tán vùng cao, núi đá, khu vực khó khăn về nguồn nước sinh hoạt ngân sách Trung ương hỗ trợ 0,5 tấn xi măng/hộ để xây dựng bể chứa nước mưa hoặc hỗ trợ 300.000 đồng /hộ để đào giếng hoặc tạo nguồn nước sinh hoạt. b. Đối với công trình cấp nước sinh hoạt tập trung: Ngân sách Trung ương hỗ trợ 100% cho các thôn, bản có từ 50% số hộ là đồng bào dân tộc thiểu số trở lên; hỗ trợ 50% đối với các thôn, bản có từ 20% đến dưới 50% số hộ đồng bào dân tộc thiểu số. Các địa phương khi xây dựng các công trình cấp thoát nước sinh hoạt tập trung cho các đồng bào phải bảo đảm tính bền vững và hiệu quả. Kết quả thực hiện chính sách 134: Theo dự kiến ban đầu, chính sách sẽ được triển khai trong 2 năm (2004- 2006). Đây là một chính sách lớn, với 4 nội dung chủ yếu là hỗ trợ nhà ở, đất ở, đất sản xuất và nước sinh hoạt cho các hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn. Hết giai đoạn I, Thủ tướng Chính phủ đồng ý cho tiếp tục chương trình trong 2 năm nữa (2006 – 2008). Nhưng bước sang năm 2008- năm cuối cùng thực hiện chính sách, những kết quả đạt được vẫn dừng lại ở các con số rất khiêm tốn. Việc hỗ trợ đất sản xuất triển khai chậm và đạt kết quả rất thấp (30% kế hoạch). Việc hỗ trợ nước sinh hoạt phân tán và các công trình nước tập trung cũng chỉ đạt khoảng 50% kế hoạch. Riêng tỷ lệ hỗ trợ nhà ở đạt mức khá cao (98%). Tuy nhiên, theo Phó chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội Bùi Sỹ Lợi, cần phải xem lại tính thực chất của con số này, bởi thực tế, ở nhiều nơi, bà con các dân tộc thiểu số vẫn chưa có nhà ở. Và có những ngôi nhà chỉ được đầu tư ở mức thấp, dẫn đến tình trạng quay vòng, nhà xây xong nhưng chỉ một thời gian sau đã phải xây lại. Giải quyết nhu cầu nhà ở đã khó, nhu cầu về đất sản xuất lại càng khó hơn. Ngay ở những địa phương dồi dào về tài nguyên đất như Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long, vẫn còn hàng nghìn hộ thiếu đất sản xuất. Đó là những thực trạng được nhìn nhận qua các cuộc giám sát của Hội đồng Dân tộc và Ủy ban của Quốc hội. Không những thế, số liệu báo cáo về mức hỗ trợ nhà ở, đất ở, đất sản xuất và nước sinh hoạt của các bộ, ngành cũng chưa khớp nhau, dẫn đến tình trạng thiếu thống nhất, thậm chí mỗi bộ, ngành nêu ra những nguyên nhân và giải pháp riêng. Một trong những nguyên nhân căn bản của tình trạng này là do nhiều địa phương chưa thực hiện tốt việc lồng ghép các chương trình trên địa bàn, chưa thực hiện đúng nguyên tắc vàng của việc thực hiện chính sách là Nhà nước hỗ trợ, cộng đồng giúp đỡ, nhân dân tự làm mà chỉ sử dụng duy nhất nguồn vốn được nhà nước phân bổ. Nói cho công bằng, các địa phương có muốn cũng khó mà thực hiện được. Theo Chính sách 134, các địa phương phải bổ sung ít nhất là 20% nguồn vốn đối ứng để thực hiện, nhưng những địa phương được hỗ trợ đều là những vùng thuộc diện đặc biệt khó khăn, việc cân đối nguồn vốn nhiều khi vượt quá khả năng của họ. Lồng ghép các  chương trình mục tiêu như thế nào để tránh chồng chéo vừa đạt hiệu quả chung, vừa đạt mục tiêu riêng là một khó khăn lớn với các địa phương nếu không có sự chỉ đạo, hướng dẫn kịp thời từ phía Trung ương. Đơn cử, riêng giải quyết vấn đề nước sạch đã có tới mấy chương trình khác nhau của Bộ NN và PTNT, Bộ Y tế, Bộ Tài nguyên- Môi trường và của Chính sách 134. Hiện nay, có 3 nhóm chính sách lớn đang được thực hiện đối với vùng đồng bào dân tộc, nhưng trong số đó lại được chia thành rất nhiều chính sách nhỏ khác nhau và mỗi chính sách lại có một mục tiêu, phương thức thực hiện riêng. Thế nên mới có chuyện ở cùng một xã lại xây dựng tới 2 trạm y tế, vì 2 trạm y tế này của  2 chương trình khác nhau. Hay việc huy động nguồn lực của cộng đồng thì cộng đồng là ai, chuyển đổi sản xuất ở những vùng thiếu đất sản xuất sang các ngành nghề phi nông nghiệp là trách nhiệm của ai cần được chỉ rõ để làm căn cứ thực hiện. 8.2. Chính sách 135 Chương trình 135 là chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số và miền núi, là một trong các chương trình xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam do Nhà nước Việt Nam triển khai từ năm 1998. Chương trình được biết đến rộng rãi dưới tên gọi Chương trình 135 do Quyết định của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam phê duyệt thực hiện chương trình này có số hiệu văn bản là 135/1998/QĐ-TTg. Theo kế hoạch ban đầu, chương trình sẽ kéo dài 7 năm và chia làm hai giai đoạn; giai đoạn 1 từ năm ngân sách 1998 đến năm 2000 và giai đoạn 2 từ năm 2001 đến năm 2005. Tuy nhiên, đến năm 2006, Nhà nước Việt Nam quyết định kéo dài chương trình này thêm 5 năm, và gọi giai đoạn 1997-2006 là giai đoạn I. Tiếp theo là giai đoạn II (2006-2010). Mục tiêu của chương trình 135 giai đoạn I Mục tiêu tổng quát: tạo sự chuyển biến nhanh về sản xuất, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất gắn với thị trường; cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào các dân tộc ở các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn một cách bền vững, giảm khoảng cách phát triển giữa các dân tộc và giữa các vùng trong cả nước. Phấn đấu đến năm 2010, trên địa bàn cơ bản không còn hộ đói, giảm hộ nghèo xuống còn dưới 30% theo chuẩn nghèo quy định tại Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg ngày 08 tháng 7 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ. Mục tiêu cụ thể: - Về phát triển sản xuất: nâng cao kỹ năng và xây dựng tập quán sản xuất mới cho đồng bào các dân tộc, tạo sự chuyển dịch về cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nâng cao thu nhập, giảm nghèo bền vững. - Phấn đấu trên 70% số hộ đạt được mức thu nhập bình quân đầu người trên 3,5 triệu đồng/năm vào năm 2010. - Về phát triển cơ sở hạ tầng: các xã có đủ cơ sở hạ tầng thiết yếu phù hợp quy hoạch dân cư và quy hoạch sản xuất bảo đảm phục vụ có hiệu quả nâng cao đời sống và phát triển sản xuất tăng thu nhập. Các chỉ tiêu cụ thể: phấn đấu trên 80% xã có đường giao thông cho xe cơ giới (từ xe máy trở lên) từ trung tâm xã đến tất cả thôn, bản; trên 80% xã có công trình thủy lợi nhỏ đảm bảo năng lực phục vụ sản xuất cho trên 85% diện tích đất trồng lúa nước; 100% xã có đủ trường, lớp học kiên cố, có lớp bán trú ơ nơi cần thiết; 80% số thôn, bản có điện ở cụm dân cư, giải quyết và đáp ứng yêu cầu cơ bản về nhà sinh hoạt cộng đồng; 100% xã có trạm y tế kiên cố đúng tiêu chuẩn. - Về nâng cao đời sống văn hóa, xã hội cho nhân dân ở các xã đặc biệt khó khăn. Phấn đấu trên 80% số hộ được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh, trên 80% số hộ được sử dụng điện sinh hoạt; kiểm soát, ngăn chặn ccas dịch bệnh nguy hiểm; tăng tỷ lệ hộ có hố xí hợp vệ sinh lên trên 50%; trên 95% số học sinh tiểu học, 75% học sinh trung học cơ sở trong độ tuổi đến trường; trên 95% người dân có nhu cầu trợ giúp pháp lý được giúp đỡ pháp luật miễn phí. - Về phát triển nâng cao năng lực: trang bị, bổ sung những kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao nhận thức pháp luật, nâng cao kiến thức quản lý đầu tư và kỹ năng quản lý điều hành để hoàn thành nhiệm vụ cho các bộ, công chức cấp xã và trưởng thôn, bản. Nâng cao năng lực của cộng đồng, tạo điều kiện cộng đồng tham gia có hiệu quả vào việc giám sát hoạt động về đầu tư và các hoạt động khác trên địa bàn. Giai đoạn II của chương trình: Chính phủ Việt Nam đã xác định có 1.946 xã và 3.149 thôn, buôn, làng, bản, xóm ấp đặc biệt khó khăn thuộc các xã khu vực II thuộc 45 tỉnh, thành được đưa vào phạm vi của Chương trình 135. Mục tiêu tổng quát Tạo chuyển biến nhanh về sản xuất Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất gắn với thị trường. Cải thiện nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân. Giảm khoảng cách phát triển giữa các dân tộc và giữa các vùng trong nước. Đến năm 2010: trên địa bàn không có hộ đói, giảm hộ nghèo xuống còn 30%. Nội dung chính của chương trình - Hỗ trợ phát triển sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao trình độ sản suất của đồng bào các dân tộc. Đào tạo cán bộ khuyến nông thôn bản. Khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư. Xây dựng các mô hình sản xuất có hiệu quả, phát triển công nghiệp chế biến bảo quản. Phát triển sản xuất: Kinh tế rừng, cây trồng có năng suất cao, chăn nuôi gia súc, gia cầm có giá trị. - Phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu ở các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn. Làm đường dân sinh từ thôn, bản đến trung tâm xã phù hợp với khả năng nguồn vốn, công khai định mức hỗ trợ nhà nước. Xây dựng kiên cố hóa công trình thủy lợi: Đập, kênh, mương cấp 1-2, trạm bơm, phục vụ tưới tiêu sản xuất nông nghiệp và kết hợp cấp nước sinh hoạt. Làm hệ thống điện hạ thế đến thôn, bản; nơi ở chưa có điện lưới làm các dạng năng lượng khác nếu điều kiện cho phép. Xây dựng các công trình cấp nước sinh hoạt cho cộng đồng. Xây dựng nhà sinh hoạt cộng đồng thôn, bản (tùy theo phong tục tập quán) ở nơi cấp thiết. - Đào tạo bồi dưỡng cán bộ cơ sở, kiến thức kĩ năng quản lý điều hành xã hội, nâng cao năng lực cộng đồng. Đào tạo nghề cho thanh niên 16 - 25 tuổi làm việc tại các nông lâm trường, công trường và xuất khẩu lao động. - Hỗ trợ các dịch vụ, nâng cao chất lượng giáo dục, đời sống dân cư hợp vệ sinh giảm thiểu tác hại môi trường đến sức khỏe người dân. Tiếp cận các dịch vụ y tế, bảo hiểm và chăm sóc sức khỏe cộng đồng. Kết quả thực hiện chương trình 135: Sau 3 năm triển khai Chương trình 135 trên địa bàn 43 tỉnh, thành phố, hơn 1 triệu hộ nông dân đã được hỗ trợ sản xuất, với trên 2.300 tấn giống cây lương thực, cây công nghiệp ngắn ngày, trên 100.000 máy móc thiết bị, công cụ phục vụ sản xuất; tổ chức tập huấn khuyến nông, khuyến lâm, hướng dẫn cách làm ăn, chuyển giao khoa học kỹ thuật cho khoảng 210.000 lượt người… Tổng kinh phí của Dự án hỗ trợ phát triển sản xuất đã giải ngân sau 3 năm đạt gần 700 tỷ đồng, hoàn thành trên 83% kế hoạch giao. Riêng về việc triển khai các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, chương trình đã đầu tư xây dựng trên 8.200 công trình hạ tầng thiết yếu. Chương trình 135 đã góp phần giảm tỷ lệ nghèo các xã đặc biệt khó khăn từ 47% năm 2005 (trước khi thực hiện Chương trình 135 giai đoạn II) xuống còn 35,6% năm 2008, mỗi năm giảm được từ 3-4% hộ nghèo. Kết thúc năm 2008, có trên 93% xã cơ bản đã được đầu tư xây dựng đầy đủ các công trình hạ tầng thiết yếu.. 8.3. Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP Chương trình hỗ trợ các huyện nghèo, tên gọi đầy đủ là Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo, là một chương trình phát triển kinh tế - xã hội của Chính phủ Việt Nam nhằm tạo ra sự chuyển biến nhanh về đời sống vật chất và tinh thần cho các hộ nghèo, người các dân tộc thiểu số ở 61 huyện nghèo trong cả nước (những huyện có tỷ lệ hộ nghèo trong tổng số hộ của huyện lớn hơn 50%) sao cho đến năm 2020 có thể ngang bằng với các huyện khác trong khu vực. Ngày 27 tháng 12 năm 2008, Chính phủ Việt Nam ra Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP[1] bắt đầu chính thức triển khai Chương trình này. Theo thống kê của Bộ Lao động, thương binh và xã hội, đến cuối năm 2006 toàn Việt Nam còn 58 huyện (thuộc 19 tỉnh) có tỷ lệ hộ nghèo trong tổng số hộ của huyện trên 50%.[3] Những thay đổi về hành chính (chia tách huyện) sau đó đã đưa số huyện nghèo lên thành 61 huyện (thuộc 20 tỉnh). Tuy nhiên, có tài liệu cho rằng số huyện nghèo tại thời điểm tháng 2 năm 2009 lên tới 63 huyện (thuộc 20 tỉnh) trong đó có 43 huyện ở vùng Tây Bắc.[4] 61 huyện nghèo bao gồm 797 xã và thị trấn, phần lớn tại khu vực miền núi và biên giới. Tỷ lệ hộ nghèo ở đây cao gấp 3,5 lần mức bình quân của cả nước. Dân số các huyện nghèo là 2,4 triệu người, trong đó có tới 90% là người các dân tộc thiểu số. Thu nhập bình quân đầu người ở đây chỉ khoảng 2,5 triệu đồng/năm, có được chủ yếu là nhờ sản xuất nông nghiệp lạc hậu. Với mức thu ngân sách bình quân hàng năm là 3 tỷ đồng, chính quyền huyện không đủ nguồn lực tài chính để xóa đói giảm nghèo cho các hộ 1. Mục tiêu tổng quát Tạo sự chuyển biến nhanh hơn về đời sống vật chất, tinh thần của người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số thuộc các huyện nghèo, bảo đảm đến năm 2020 ngang bằng các huyện khác trong khu vực. Hỗ trợ phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp bền vững, theo hướng sản xuất hàng hoá, khai thác tốt các thế mạnh của địa phương. Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phù hợp với đặc điểm của từng huyện; chuyển đổi cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất có hiệu quả theo quy hoạch; xây dựng xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hoá dân tộc; dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ; bảo đảm vững chắc an ninh, quốc phòng. 2. Mục tiêu cụ thể đến năm 2010 Giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống dưới 40% (theo chuẩn nghèo quy định tại Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg ngày 8 tháng 7 năm 2005); cơ bản không còn hộ dân ở nhà tạm; cơ bản hoàn thành việc giao đất, giao rừng; trợ cấp lương thực cho người dân ở những nơi không có điều kiện tổ chức sản xuất, khu vực giáp biên giới để bảo đảm đời sống. Tạo sự chuyển biến bước đầu trong sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, kinh tế nông thôn và nâng cao đời sống nhân dân trên cơ sở đẩy mạnh phát triển nông nghiệp, bảo vệ và phát triển rừng, đẩy mạnh một bước xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn; tăng cường nghiên cứu và chuyển giao tiến bộ khoa học - kỹ thuật, tạo bước đột phá trong đào tạo nhân lực; triển khai một bước chương trình xây dựng nông thôn mới; tỷ lệ lao động nông thôn qua đào tạo, tập huấn, huấn luyện đạt trên 25%. 3. Mục tiêu cụ thể đến năm 2015 Giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống mức ngang bằng mức trung bình của tỉnh. Tăng cường năng lực cho người dân và cộng đồng để phát huy hiệu quả các công trình cơ sở hạ tầng thiết yếu được đầu tư, từng bước phát huy lợi thế về địa lý, khai thác hiệu quả tài nguyên thiên nhiên; bước đầu phát triển sản xuất theo hướng sản xuất hàng hóa quy mô nhỏ và vừa, người dân tiếp cận được các dịch vụ sản xuất và thị trường tiêu thụ sản phẩm một cách thuận lợi; lao động nông nghiệp còn dưới 60% lao động xã hội; tỷ lệ lao động nông thôn qua đào tạo, tập huấn, huấn luyện đạt trên 40%. 4. Mục tiêu cụ thể đến năm 2020 Giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống mức ngang bằng mức trung bình của khu vực. Giải quyết cơ bản vấn đề sản xuất, việc làm, thu nhập để nâng cao đời sống của dân cư ở các huyện nghèo gấp 5 - 6 lần so với hiện nay. Lao động nông nghiệp còn khoảng 50% lao động xã hội, tỷ lệ lao động nông thôn qua đào tạo, tập huấn, huấn luyện đạt trên 50%; số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới khoảng 50%. Phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn, trước hết là hệ thống thuỷ lợi bảo đảm tưới tiêu chủ động cho toàn bộ diện tích đất lúa có thể trồng 2 vụ, mở rộng diện tích tưới cho rau màu, cây công nghiệp; bảo đảm giao thông thông suốt 4 mùa tới hầu hết các xã và cơ bản có đường ô tô tới các thôn, bản đã được quy hoạch; cung cấp điện sinh hoạt cho hầu hết dân cư; bảo đảm cơ bản điều kiện học tập, chữa bệnh, sinh hoạt văn hoá, tinh thần, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. Chính phủ đề ra 4 nhóm biện pháp để thực hiện các mục tiêu đã đề ra: - Hỗ trợ sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập (bao gồm cả đưa người lao động ở huyện nghèo đi lao động ở nước ngoài) - Đào tạo, dạy nghề, nâng cao dân trí. - Bổ sung nguồn lực con người ở các cấp quản lý và các tổ chức công tác. - Đầu tư cơ sở hạ tầng ở cả cấp thôn/ bản, xã, huyện. II. NGUYÊN NHÂN CĂN BẢN DẪN TỚI TÌNH TRẠNG TÁI NGHÈO HIỆN NAY: Thực trạng vấn đề tái nghèo ở nước ta hiện nay: Việt Nam được thế giới thừa nhận là một điển hình về thành tích xóa đói giảm nghèo. Tuy nhiên, nguy cơ tái nghèo đang trở thành hiện thực bởi tác động của suy thoái kinh tế toàn cầu và những bất cập của Chương trình 135. Trong các cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, người nghèo bao giờ cũng chịu tổn thương đầu tiên, và nặng nề nhất. Ngay cả khi kinh tế phát triển, người nghèo dù được hưởng lợi, nhưng lại rất ít, so với những bộ phận còn lại của xã hội. Nguy cơ tái nghèo đang hiển hiện đòi hỏi có sự thay đổi các chính sách cho phù hợp. Theo số liệu của Bộ LĐ-TB&XH, đến cuối năm 2007, tỷ lệ hộ nghèo toàn quốc chỉ còn 8,5%, nhưng do ảnh hưởng suy giảm kinh tế trong nước và cùng với đó là thiên tai, dịch bệnh liên tục trong thời gian gần đây, năm 2008 tỷ lệ hộ nghèo đã lên tới 12,5%, nhóm hộ cận nghèo gia tăng rất mạnh. Trong số đó, không ít hộ từ xóa nghèo lại tái nghèo. Điều này cũng khẳng định rằng Việt Nam nằm trong nhóm những nước có nguy cơ rủi ro cao nhất về tình trạng tái nghèo, theo đánh giá của World Bank. Lịch sử xóa đói giảm nghèo cho thấy các hộ dân đã được báo cáo xoá đói giảm nghèo để rồi chỉ một thời gian ngắn sau lại tiếp tục…tái nghèo. Ví dụ, trong năm 2002, Quảng Nam có 10.629 hộ thoát nghèo thì lại có 9.387 hộ tái nghèo; Lâm Đồng có 2.948 hộ thoát nghèo thì lại có 4.510 hộ tái nghèo... Như vậy, nếu tính bình quân, có đến 60 - 70% tái nghèo, tức là tình trạng nghèo đói tăng cấp số cộng so với kết quả xóa đói giảm nghèo. Còn hiện tại, theo Sở LĐ-TB&XH Quảng Ngãi từ đầu năm đến nay tỉnh này có trên 400 hộ tái nghèo nâng số hộ nghèo lên con số 83.500 theo chuẩn mới. Đấy là tại các tỉnh có kinh tế khó khăn, còn tại các thành phố lớn, tái nghèo cũng xuất hiện. Theo kết quả đợt rà soát mới nhất tình hình hộ nghèo trên địa bàn TP.HCM của Ban chỉ đạo xóa đói giảm nghèo và việc làm TP cho thấy từ đầu năm đến nay, TP đã phát sinh thêm 186 hộ nghèo (có thu nhập bình quân dưới 6 triệu đồng/người/năm), nâng tổng số hộ nghèo TP lên 17.219 hộ, chiếm 1,35% tổng số hộ dân TP. Tái nghèo cũng đang trở thành mối lo toàn cầu. Trong một báo cáo gần đây của Ngân hàng Thế giới cho thấy Việt Nam nằm trong số 40/107 nước đang phát triển có nguy cơ bị ảnh hưởng cao bởi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Theo đó tăng trưởng kinh tế năm 2009 chậm sẽ làm khoảng 46 triệu người không thoát được nghèo, với thu nhập ở mức 1,25 USD/ngày, và khoảng 53 triệu người khác sẽ vẫn nằm dưới 2 USD/ngày. 2. Nguyên nhân căn bản dẫn tới tình trạng tái nghèo hiện nay: Theo giải thích của Bộ Lao động – Thương binh và xã hội là vì, mức độ đầu tư vốn của nhà nước so với kế hoạch và yêu cầu còn thấp, sử dụng vốn chưa hướng vào những nguyên nhân nghèo đói bức xúc nhất; thu nhập của hộ cận nghèo còn bấp bênh; đã và đang xảy ra tình trạng ỷ lại vào chính sách ưu đãi và sự đầu tư của nhà nước và sự hỗ trợ của cộng đồng... Tuy nhiên, có lẽ vấn đề xóa nghèo chưa thật sự hiệu quả là thiếu chính sách vĩ mô hợp lý để kích thích được sự phát triển chung của xã hội. Nhiều ý kiến khác lại cho rằng bản chất vấn đề nằm ở các chính sách xóa đói giảm nghèo. Các chính sách luôn hướng từ trên xuống theo một giải pháp tồn tại mấy chục năm nay: rót vốn cho người nghèo để họ có thêm tiền để thoát nghèo (theo tiêu chí). Còn việc người nghèo sử dụng đồng vốn đó như thế nào, bản thân người nghèo thụ hưởng các chính sách xóa đói giảm nghèo như thế nào, tâm lý người nghèo trước các chính sách phát triển kinh tế - xã hội ra sao... vẫn chưa được đánh giá, thẩm định đúng mức, thậm chí không hề được quan tâm. Người nghèo sau khi nhận được số tiền đền bù từ mảnh ruộng của mình trong các dự án quy hoạch, họ không biết sử dụng hoặc sử dụng không hiệu quả dẫn đến hệ quả là: Thứ nhất, chỉ thoát được cảnh đói nghèo trong một thời gian ngắn. Khi đã sử dụng hết số tiền mà họ có được do bán đất và đền bù, giải tỏa thì họ lại tái nghèo. Thứ hai, khi diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp một số lao động trong nông nghiệp không tìm được việc làm mới, thất nghiệp gia tăng và vì vậy họ rất khó khăn trong việc tự mình thoát khỏi đói nghèo. Thứ ba, khi giá đất tăng lên do tác động của đô thị hóa, người nông dân bán đất ồ ạt, nhiều ngôi nhà mới được xây dựng nhưng đó là những ngôi nhà của những người ở nơi khác đến, có nhiều tiền còn nông dân thì bị đẩy vào sâu hơn và đất canh tác cũng thu hẹp lại, vì vậy người nông dân khó có cơ hội để duy trì hoạt động sản xuất nông nghiệp của mình nếu như họ không có kế họach sử dụng đồng vốn kiếm được từ việc bán đất một cách có hiệu quả và cuối cùng cảnh đói nghèo vẫn tiếp tục ở lại với họ. Chính sách xóa đói nghèo giảm luôn được coi như một chính sách hành chính chứ chưa hẳn là một chính sách xã hội. Các báo cáo thành tích luôn đính kèm thành tích xóa đói giảm nghèo, điều đó dẫn đến thực tế là rất nhiều người nghèo được xóa nghèo trên giấy, trong khi thực tế cuộc sống nghèo của họ không một chút thay đổi dù có thêm những khoản hỗ trợ. Do đó, khi có những tác động từ biến động tình hình kinh tế - xã hội (thiên tai, dịch bệnh, lạm phát...) đến những biến động trong chính gia đình (bệnh tật, thay đổi công việc...), người nghèo rơi vào tình hình khó khăn hơn. Các chính sách xóa đói giảm nghèo cho đến nay vẫn chưa có những giải pháp hiệu quả. Và đây là nguyên nhân chính làm phát sinh hộ nghèo, tái nghèo cũng như gia tăng khoảng cách giàu nghèo, kể cả ở những địa phương luôn được đánh giá là “làm tốt và có hiệu quả nhất” các chính sách xóa đói giảm nghèo. Tại miền Trung nguyên nhân tái nghèo còn do… thiên tai. Thực tế này cũng là tình hình chung của khu vực. Năm nào miền Trung cũng bị bão lũ trong mùa đông và hạn hán trong mùa hè. Tất nhiên, việc sống chung với thiên tai dường như vẫn còn là bài toán nan giải. Vấn đề di dời những ngôi nhà nằm dọc theo vùng sạt lở, vùng trũng bị lũ lụt uy hiếp chưa thực hiện rốt ráo. Còn tại các thành phố lớn nguyên nhân chính được cho là do tình hình lạm phát, chỉ số tiêu dùng (CPI) tăng cao đã ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập và chi tiêu của người nghèo, dẫn đến nguy cơ tái nghèo, phát sinh hộ nghèo mới. Tóm lại, tuy tốc độ giảm nghèo của Việt Nam đạt nhanh nhưng vẫn thiếu bền vững, tỷ lệ hộ cận nghèo khá đông rất dễ tái nghèo do những bất cập trong xây dựng chiến lược, triển khai các dự án cụ thể, xây dựng các quy hoạch ở nông thôn. Ngân hàng Thế giới cho rằng các nước có nguy cơ cao về tái nghèo cần tập trung tài chính để ngay trên từng địa bàn nông thôn: 1- tạo công ăn việc làm, 2- cung cấp các dịch vụ cơ bản, 3- cơ sở hạ tầng, và 4- các chương trình an sinh xã hội cho những người dễ bị ảnh hưởng nhất. Giải quyết căn cơ được 4 vấn đề trên, thì không chỉ giảm được áp lực tái nghèo ở nông thôn mà còn tránh được các hệ lụy về di dân và môi trường. III. GIẢI PHÁP CHO VẤN ĐỀ XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO VÀ TÁI NGHÈO HIỆN NAY: 1. Nhóm các giải pháp thuộc về quan điểm nhận thức. - Làm tốt công tác tuyên truyền để các tổ chức đảng, đoàn thể, cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội và người nghèo nhận thức rõ ý nghĩa của chương trình xoá đói giảm nghèo, chống lại tư tưởng trông chờ, ỷ lại, lười lao động của 1 bộ phận dân cư, phát huy khả năng tự cứu của người nghèo, cùng nhau phát triển kinh tế , làm giàu chính đáng. - Các địa phương phải nâng cao nhận thức sâu sắc hơn nữa về công tác xoá đói giảm nghèo để từng huyện, xã, phường có kế hoạch thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo chi tiết cụ thể, đúng đối tượng để xã nghèo hộ nghèo sớm vượt qua đói nghèo, phấn đấu làm giàu bằng chính sức lực và tiềm năng của từng hộ và từng địa phương. 2. Nhóm các giải pháp thuộc về tổ chức thực hiện. - Nhà nước cần tiến hành đánh giá, khẳng định những kết quả đạt được để tiếp tục phát huy; chỉ ra những yếu kém, tồn tại, những chỉ tiêu chưa đạt được, phân tích nguyên nhân, để có biện pháp phù hợp phấn đấu thực hiện. Đồng thời chủ động đề ra các biện pháp phấn đấu quyết liệt, vượt qua khó khăn thách thức, tranh thủ thời cơ, thuận lợi để phát triển kinh tế xã hội - Kiện toàn về tổ chức, nâng cao vai trò trách nhiệm, hiệu quả của ban chỉ đạo xoá đói giảm nghèo từ cấp TƯ đến cấp cở sở, thực hiện tốt hơn nữa chức năng, nhiệm vụ được Đảng, chính quyền phân công trong lĩnh vực xoá đói giảm nghèo. - Các huyện thị và xã phường phải nâng cao nhận thức sâu sắc hơn nữa về công tác xoá đói giảm nghèo để từng huyện, xã, phường có kế hoạch thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo chi tiết cụ thể, đúng đối tượng để xã nghèo hộ nghèo sớm vượt qua đói nghèo , phấn đấu làm giàu bằng chính sức lực và tiềm năng của từng hộ và từng địa phương. - Thực hiện tốt chính sách định canh, định cư, di dân để xây dựng các cơ sở chế biến nông lâm sản sau thu hoạch, tổ chức các thông tin về giá cả, thị trường tiêu thụ sản phẩm, phát triển các dịch vụ tư vấn. - Chính sách tín dụng đối với người nghèo: Tăng khả năng tiếp cận của người nghèo với hệ thống tín dụng chính thức thay thế cho ngân hàng phục vụ người nghèo để kích thích người nghèo thi đua sản xuất bình đẳng. 3. Nhóm các giải pháp thuộc về năng lực thực hiện. - Nhà nước cần phát huy lợi thế về vị trí địa lý, đất đai, tài nguyên, du lịch, tài nguyên khoáng sản phong phú, để phát triển công nghiệp xi măng, vật liệu xây dựng, khai khoáng, thủy điện, chế biến nông sản, trồng rừng, chăn nuôi, du lịch, dịch vụ, vận tải cần chỉ đạo đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư xây dựng cơ bản, kiên cố hóa trường học, cơ sở y tế; tổ chức thực hiện có hiệu quả chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với những địa phương còn yếu kém. - Đẩy mạnh phát triển ngành du lịch sẵn có. - Tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ làm công tác xoá đói giảm nghèo, sơ kết việc thực hiện Quyết định số 42/QĐ-TTG của thủ tướng chính phủ về việc tăng cường đội ngũ cán bộ cho các xã làm công tác xoá đói giảm nghèo để từ đó khắc phục những tồn tại, bổ sung hoàn thiện cơ chế chính sách và đúc rút kinh nghiệm. - Nâng cao trách nhiệm, tính chủ động linh hoạt của các chủ dự án từ việc xây dựng kế hoạch thực hiện dự án đến việc huy động nguồn vốn và triển khai thực hiện dự án. - Huy động tối đa nguồn vốn lồng ghép của các chương trình mục tiêu quốc gia và chính trị. - Đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội với tốc độ cao, toàn diện và vững chắc, tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hình thành các vùng sản xuất, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Sử dụng có hiệu qủa mọi nguồn lực sẵn có. - Thường xuyên có biện pháp nâng cao khả năng tự cứu của hộ đói nghèo, đồng thời có sự giúp đỡ tích cực của đoàn thể, cộng đồng, khai thác nội lực từ cơ sở để phục vụ cho nhiệm vụ xoá đói giảm nghèo. - Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng gắn với phát triển kinh tế, tiếp tục ưu tiên phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu cho các xã nghèo, vùng nghèo, thực hiện cơ chế: Xã có công trình dân có việc làm, đảm bảo đầu tư đúng mục tiêu, đúng đối tượng, có hiệu quả công khai không thất thoát. 4 Nhóm các giải pháp thuộc về hình thức hỗ trợ. - Tăng cường tranh thủ sự hỗ trợ các nguồn lực của trung ương và các bộ ngành được phân công giúp đỡ tỉnh còn nhiều hộ nghèo. Đồng thời khai thác triệt để các nguồn tài trợ nước ngoài cho chương trình xoá đói giảm nghèo. - Khuyến khích phát triển các ngành nghề truyền thống ở nông thôn, phát triển tiểu thủ công nghiệp, đưa công nghiệp nhỏ vào nông thôn, trước mắt là công nghiệp chế biến nông lâm sản, sản xuất hàng tiêu dùng xuất khẩu để tạo ra nhiều việc làm, tăng thu nhập cho người nghèo. - Hỗ trợ người nghèo tư liệu và phương tiện sản xuất, dịch vụ, nâng cao thu nhập, có chính sách điều tiết lại quỹ đất cho người nghèo, tổ chức di dân đi xây dựng vùng kinh tế mới. Hỗ trợ phát triển sản xuất và nhân rộng những mô trang trại làm ăn có hiệu quả để thu hút lao động. - Có chính sách hỗ trợ giáo dục, ytế, kế hoạch hoá gia đình cho người nghèo, giáo viên tiểu học ở các xã nghèo, ưu tiên xây dựng các trường mầm non, tiểu học, trung học cơ sở ở các xã nghèo bằng các chương trình, dự án, ngân sách của địa phương, ngân sách gióa dục được tiết kiệm hàng năm. Tạo điều kiện để người nghèo được cung cấp các dịch vụ y tế cơ bản, tất cả các xã nghèo đều có trạm y tế được xây dựng kiên cố, có nữ hộ sinh. Xây dựng các cụm trạm xá xã đa khoa khu vực miền núi, miễn giảm phí khám chữa bệnh và dịch vụ kế hoạch hoá cho xã nghèo. - Thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội như cứu trợ xã hội thướng xuyên, đột xuất, phòng chống thiên tai, hoả hoạn. 5 Nhóm các giải pháp thuộc về theo dõi đánh giá. Tăng cường công tác, kiểm tra giám sát việc triển khai thực hiện chương trình nghiêm chỉnh thông qua chế độ thông tin, báo cáo, sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm, biểu dương, khen thưởng kịp thời những cá nhân, địa phương làm tốt công tác xoá đói giảm nghèo. PHẦN III: KẾT LUẬN Vấn đề nghèo đói và xóa đói giảm nghèo từ lâu là vấn đề mà Đảng và Nhà nước rất quan tâm, là một trong những nhiệm vụ được thực hiện hàng đầu. Quan điểm xuyên suốt trong cương lĩnh phát triển đất nước của Đảng ta là tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng thời kỳ và từng chính sách phát triển. Từ quan điểm ấy, nhiều năm qua xóa đói giảm nghèo đã trở thành một chính sách xã hội trọng điểm trong suốt quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Nhìn lại thành tựu của sự nghiệp đổi mới, cùng với các chỉ số lạc quan về tăng trưởng kinh tế, không thể không nói đến những đóng góp quan trọng của sự nghiệp giảm nghèo. Trên các diễn đàn trong nước và quốc tế, kết quả xóa đói giảm nghèo của Việt Nam luôn được khẳng định là thành tựu hiện hữu từ nhiều phương diện đánh giá khác nhau. Mặc dù trong bối cảnh nguồn lực có hạn nhưng nước ta đã triển khai toàn diện nhiều chính sách, chương trình, dự án nhằm hướng đến 3 mục tiêu trọng tâm: thứ nhất, tăng cường khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của người nghèo (y tế, giáo dục, dạy nghề, nhà ở, nước sinh hoạt); thứ hai, tạo việc làm và thu nhập thông qua các chính sách bảo đảm đất sản xuất, ưu đãi tín dụng, khuyến nông - lâm - ngư, phát triển ngành nghề; thứ ba, phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu cho các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công, diễn biến nghèo đói của Việt Nam vẫn đang đặt ra không ít thách thức đối với bài toán giảm nghèo bền vững của Việt Nam trong tương lai.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docVấn đề xóa đói giảm nghèo trong chính sách xã hội thời kỳ đổi mới và nguyên nhân căn bản dẫn tới tình trạng tái nghèo hiện nay.doc
Luận văn liên quan