- Phải thường xuyên hơn nữa tổ chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật, đặc biệt là các chính sách liên quan trực tiếp đến cuộc sống người dân, các quy định mới trong quá trình hội nhập kinh tế, tham gia WTO, cải cách hành chính, đất đai, môi trường, bầu cử Đại biểu Quốc hội.
- Phối hợp với trường học ở cơ sở, đặc biệt là các học sinh THPT để đưa chương trình pháp luật vào giảng dạy ở nhà trường, hoặc có thể trong các buổi ngoại khoá, giao lưu biểu diễn văn nghệ
- Mở rộng, nâng cao chất lượng các loại hình tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý miễn phí cho các đối tượng chính sách, vùng đặc biệt khó khăn.
Như vậy, việc phổ biến, giáo dục pháp luật không chỉ là trách nhiệm của Cơ quan Tư pháp nói chung hay Sở Tư pháp nói riêng mà là trách nhiệm của tất cả các cấp, các ngành và cũng là trách nhiệm của mọi người dân để nhằm nâng cao hơn nữa công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong tỉnh nói chung,cán bộ, nhân dân trong xã nói riêng. Nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân, xây dựng xã hội sống và làm việc theo Hiến pháp và Pháp luật đó là mục tiêu không chỉ của riêng Đảng, Nhà nước và các cấp chính quyền mà còn là nguyện vọng chính đáng của mọi người dân trong xã hội, vì một xã hội an ninh trật tự và thực sự là của dân, do dân, vì dân./.
35 trang |
Chia sẻ: tienthan23 | Lượt xem: 2376 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Vận dụng phương pháp phát triển cộng đồng góp phần nâng cao ý thức pháp luật của người dân trên địa bàn xã Vũ Chính TP Thái Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ổ chức và người thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật; hình thành các chuẩn mực, quy tắc nghề nghiệp trong công tác này; huy động nguồn lực bảo đảm hoạt động và tăng cường công tác quản lý nhà nước nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật;
- Thống nhất quản lý nhà nước về lĩnh vực phổ biến, giáo dục pháp luật vào một hệ thống cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương là ngành Tư pháp, với cơ quan trực tiếp thực hiện là đơn vị làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở trung ương và địa phương. Ngành Tư pháp vừa có nhiệm vụ quản lý Nhà nước thống nhất trong phạm vi cả nước về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, vừa là Cơ quan thường trực của Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của Chính phủ. Tăng cường sự chủ động và cơ chế phối hợp hiệu quả giữa các bộ, ngành, đoàn thể trong công tác PBGDPL. Phân cấp mạnh mẽ hoạt động PBGDPL cho địa phương với phương châm hướng công tác PBGDPL về cơ sở.
- Tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, kế thừa những quy định của pháp luật hiện hành về phổ biến, giáo dục pháp luật; tham khảo, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm phổ biến, giáo dục pháp luật của các nước trên thế giới.
- Sự cần thiết xây dựng Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật.
Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật là khâu đầu tiên của quá trình thi hành pháp luật và có vai trò hết sức quan trọng trong việc tăng cường pháp chế XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Xuất phát từ vai trò, ý nghĩa quan trọng của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến công tác này. Trong rất nhiều văn kiện của Đảng và pháp luật của Nhà nước đã đề cập đến công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.
Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định: “Triển khai mạnh mẽ công tác tuyên truyền và giáo dục pháp luật; huy động lực lượng của các đoàn thể chính trị, xã hội, nghề nghiệp, các phương tiện thông tin đại chúng tham gia các đợt vận động thiết lập trật tự, kỷ cương và các hoạt động thường xuyên xây dựng nếp sống và làm việc theo pháp luật trong cơ quan nhà nước và trong xã hội’’. Nghị quyết số 08–NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới chỉ rõ cần: “Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật với nhiều hình thức phong phú, sinh động, đặc biệt là thông qua các phiên toà xét xử lưu động và bằng những phán quyết công minh để tuyên truyền, nâng cao ý thức pháp luật cho cán bộ và nhân dân”.
Hiến pháp năm 1992 giao Chính phủ nhiệm vụ: “Tổ chức và lãnh đạo công tác tuyên truyền, giáo dục Hiến pháp và pháp luật trong nhân dân”. Nhiều văn bản pháp luật của Thủ tướng Chính phủ đã đề cập đến việc tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật như: Chỉ thị số 02/1998/CT-TTg ngày 07/01/1998 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay, Quyết định số 03/1998/QĐ-TTg về việc ban hành Kế hoạch triển khai công tác phổ biến, giáo dục pháp luật từ năm 1998 đến năm 2002 và thành lập Hội đồng Phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật Đặc biệt, Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân (Chỉ thị số 32-CT/TW) đã khẳng định: “Phổ biến, giáo dục pháp luật là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng”.
3. THỰC TRẠNG HIỂU BIẾT VÀ Ý THỨC PHÁP LUẬT CỦA NGƯỜI DÂN TRÊN ĐỊA BÀN XÃ vũ chính.
3.1. Khái quát về địa bàn xã vũ chính.
3.1.1. Về điều kiện địa lý, tự nhiên, dân số.
Xã vũ chính TP Thái Bình, cách trung tâm thành phố chừng 3,5 km, có vị trí địa lý ở phía Nam thành phố,địa giới hành chính phía Đông Nam giáp xã Vũ Ninh (huyện Kiến Xương); phía Đông giáp xã Vũ Lạc; phía Đông Bắc và phía Bắc giáp phường Trần Lãm; phía Bắc giáp phường Kỳ Bá; phía Tây Bắc giáp phường Quang Trung; phía Tây giáp xã Vũ Phúc; phía Nam giáp với xã Việt Thuận và xã Vũ Hội huyện Vũ Thư.
Vũ Chính có diện tích là 558 hecta với dân số ước khoảng 12.700 người gồm hàng chục dòng họ, trong đó đông nhất là ba họ Nguyễn Xuân (Nguyễn Ngọc), Phan Văn, Vũ Đình. Mỗi dòng họ có trên dưới 1.000 người. Dân cư sống tập trung ở thành 3 làng Tống Vũ (phía Đông xã gồm các thôn Tống Vũ, Tây Sơn, Hòa Hải, Đông Hải, Tống Vũ, tổ dân phố 2, dân số ước tính trên 5.000 người), làng Tống Văn (phía Tây xã gồm các thôn Tống Văn, Nam Hùng, Trấn Tây, Quyến, Trung Hòa, Tiên Sơn, tổ dân phố 1, dân số ước tính 7.000 người), làng Lạc Chính (phía Tây Bắc, đồng thời cũng là thôn Lạc Chính có khoảng 1.000 người). Tổng cộng xã có 12 thôn và 2 tổ dân phố bao gồm các thôn:
Tống Văn (xóm 6+7 cũ)
Nam Hùng (xóm 8 cũ)
Trấn Tây (xóm 9+10 cũ)
Quyến (xóm 11 cũ)
Trung Hòa (xóm 12 cũ)
Lạc Chính (xóm 13 cũ)
Tiên Sơn (xóm 14 cũ)
Tống Vũ (xóm 5 cũ)
Tây Sơn (xóm 4 cũ)
Hòa Hải (xóm 3 cũ)
Đông Hải (xóm 2 cũ)
Vũ Trường (xóm 1 cũ)
Tổ dân phố 1 (xóm 15 cũ)
Tổ dân phố 2 (gồm 1 bộ phận của xóm 1 và xóm 2 cũ.
Xã Vũ Chính gồm 3 làng Tống Vũ, Tống Văn, Lạc Chính. Vùng đất Vũ Chính hình thành vào khoảng 400 năm về trước, đầu thế kỷ 17, di dân từ các nơi đã lập lên làng Tống Vũ và làng Lạc Chính. Đến khoảng thế kỷ 19, làng Tống Vũ tách thành Tống Vũ và Tống Văn. Thời Pháp thuộc, tại Thái Bình làng được gọi là xã, hai xã Tống Vũ và Tống Văn thuộc tổng Hội Khê, xã Lạc Chính thuộc tổng Lạc Đạo đều thuộc huyện Vũ Tiên, phủ Thư Trì, Đến sau cách mạng tháng 8-1945, xã Tống Văn và xã Lạc Chính được hợp nhất thành xã Vũ Chính. Xã Tống Vũ và xã Lạc Đạo (tổng Lạc Đạo) được hợp thành xã Vũ Lãm. Ngày 18-12-1976, xã Vũ Chính và xã Vũ Lãm được thành lập thành xã Chính Lãm, lúc này xã Chính Lãm rộng khoảng 800ha, dân số lên đến 15 ngàn người. Ngày 5-04-1982, thôn Lạc Đạo xã Chính Lãm được tách ra để thành lập phường Trần Lãm, xã Chính Lãm được đổi tên thành xã Vũ Chính. Xã Vũ Chính lúc này còn diện tích 558ha, dân số có trên 10.000 ngườii chia làm 15 xóm từ 1-15, trong đó làng Tống Vũ gồm 5 xóm từ 1-5, làng Lạc Chính là xóm 13, một phần nhỏ các xóm 12, 14. Làng Tống Văn gồm gần 8 xóm.
Ngày 25-06- 1986 xã Vũ Chính được nhập về vào thị xã Thái Bình (Nay là thành phố Thái Bình).Đến năm 2004, xã được điều chỉnh lại thành 12 thôn và 2 tổ dân phố như hiện nay.
Về giao thông, cắt ngang qua phía Tây của xã Vũ Chính (qua làng Tống Văn) là đoạn cuối của đường Lý Bôn (ngã ba chợ Tông), tức là đường 223. Hiện trên địa bàn xã đang triển khai xây dựng đường vành đai thành phố. Tuyến đường vành đai qua xã dài trên 7 km sẽ đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế - văn hóa địa phương. Bên cạnh đó, xã Vũ Chính có hệ thống đường giao thông liên xã, liên thôn tương đối hiện đại đáp ứng được nhu cầu sinh hoạt và sản xuất của nhân dân.
3.1.2. Tình hình kinh tế, văn hóa - xã hội
Là một đơn vị ngoại thành, xã Vũ Chính có điều kiện phát triển tương đối toàn diện cả về nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Về nông nghiệp, Vũ Chính là một trong những nơi đầu tiên của cả nước xây dựng được cánh đồng 100 triệu/ha, nổi tiếng với rau màu và trồng hoa cung cấp cho thành phố Thái Bình. Về dịch vụ - tiẻu thủ công nghiệp, xã có hàng chục cơ sở tiểu thủ công nghiệp đan, may.... giải quyết công việc cho hàng trăm lao động. Ngoài ra, xã có khoảng 1000 lao động đang làm việc tại các nhà máy ở thành phố Thái Bình. Tổng thu nhập toàn xã một năm ước đạt 300 tỷ đồng, bình quân đầu người đạt 23 triệu/người/năm.
Địa bàn xã hiện nay cũng nằm trong quy hoạch xây dựng nhiều cơ quan, doanh nghiệp của tỉnh
Người dân xã Vũ Chính nổi tiếng với truyền thống thơ ca và tính tếu táo hay đùa. Chẳng hạn về kinh nghiệm lập gia đình, người thôn Tống Văn có câu:
"Trai đô Tống Vũ, gái mềm cọi khê"
Ngụ ý chọn chồng thì lấy con trai làng Tống Vũ vì sức khỏe (làng Tống Vũ trước đây chuyên sản xuất gạch). Lấy vợ thì phải xuống làng Cọi Khê (xã Vũ Hội) vì con gái ở đây đảm đang, giỏi buôn bán.
Tếu táo hơn, người Vũ Chính có câu:
"Hỡi em mặc áo xanh xanh
Có về Vũ Chính quê anh thì về
Quê anh lắm ruộng nhiều nghề
Sáng trồng cải bắp, tối về trồng khoai"
Ngụ ý nói về xã Vũ Chính là địa phương chuyên trồng màu.
Một bài thơ thất truyền khác được cho là của một tác giả người Vũ Chính khi địa phương có phong trào trồng cà vào những năm 2000
"Bà con toàn thể xã ta Đồng tâm hiệp lực giồng cà dái dê Dái dê to mập dài ghê Năm sau ta cứ dái dê ta trồng".
3.1.3. Sự thể hiện vai trò, chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức chính trị, đoàn thể xã hội trên địa bàn xã.
* Vai trò,nhiệm vụ,chức năng của Hội đồng nhân dân xã vũ chính.
Hội đồng nhân dân xã là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đồng thời là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân ở địa phương.
Hội đồng nhân dân xã quyết định các biện pháp thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, an toàn xã hội tại địa phương; quyết định các biện pháp phát triển hoạt động văn hóa, giáo dục, y tế; quyết định các biện pháp thực hiện chính sách dân tộc và tôn giáo, quyết định biện pháp bảo đảm việc thi hành pháp luật ở địa phương, quyết định những vấn đề thuộc thẩm quyền của Hội đồng nhân dân xã trong lĩnh vực xây dựng chính quyền địa phương và quản lý địa giới hành chính.
Trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, vai trò của Hội đồng nhân dân được tăng cường đổi mới nhằm đáp ứng điều kiện thực tiễn, thể hiện cụ thể trong các hoạt động sau:
- Giám sát hoạt động của cơ quan hành chính và những công việc do cấp trên thực hiện trên địa bàn, nhất là việc sử dụng đất đai, quỹ công, tài sản công, kể cả các quỹ do dân đóng góp; bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức danh do Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn.
- Các đại biểu Hội đồng nhân dân, ngoài việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong các kỳ họp, còn được phân công tham gia các hoạt động thường xuyên, gắn bó với dân như tham gia hoạt động của Ban thanh tra nhân dân, tổ hoà giải, các tổ chức tự quản khác của dân...
* Vai trò,nhiệm vụ của Ủy ban nhân dân xã vũ chính.
Ủy ban nhân dân xã là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân cùng cấp, là cơ quan hành chính ở địa phương, có nhiệm vụ thực hiện quản lý nhà nước một cách toàn diện trên địa bàn xã, tổ chức thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp.
UBND xã xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội hàng năm tại địa phương mình; thực hiện các biện pháp bảo đảm an ninh quốc phòng, an ninh trật tự; thực hiện các chính sách về dân tộc, tôn giáo và bảo đảm thi hành pháp luật ở địa phương.
Vai trò của Uỷ ban nhân dân xã trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn thể hiện trong các nội dung:
- Hướng dẫn việc thực hiện, chương trình, kế hoạch, đề án khuyến khích phát triển nông, lâm, ngư nghiệp theo quy định của cấp trên. Tổ chức thực hiện các biện pháp ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ để phát triển sản xuất, hướng dẫn nông dân chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cây trồng, vật nuôi trong sản xuất theo quy hoạch, kế hoạch chung.
- Đào tạo nâng cao trình độ đội ngũ công chức xã và thực hiện chế độ bổ nhiệm có thời hạn. Tiếp tục đổi mới cải cách hành chính, giảm bớt phiền hà cho người dân, đẩy mạnh phân cấp và tạo điều kiện cho chính quyền cấp xã hoạt động có hiệu quả.
Thời cơ và thách thức trên đặt ra vấn đề phải giải quyết đồng bộ có hiệu quả các vấn đề về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, củng cố phát triển hệ thống chính trị ở nông thôn tạo cơ sở để thúc đẩy quá trình CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn, thực hiện thành công mục tiêu đưa nước ta cơ bản thành một nước công nghiệp vào năm 2020.
* Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã.
Ủy ban Mặt trận tổ quốc xã có vị trí đặc biệt quan trọng trong đời sống chính trị ở cơ sở, có vai trò đoàn kết nhân dân, chăm lo lợi ích của các thành viên, thực hiện dân chủ và đổi mới xã hội, thực thi quyền và nghĩa vụ của công dân, thắt chặt mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Với những yêu cầu, nhiệm vụ của quá trình CNH, HĐH, ý thức được vai trò của mình, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã đã có những nội dung hoạt động phù hợp, phát động được những phong trào tích cực sản xuất, xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã có vai trò quan trọng trong việc phối hợp với các tổ chức Đảng và chính quyền cơ sở tham gia tích cực thực hiện các nhiệm vụ về phát triển nông nghiệp, nông thôn; giải quyết những vấn đề cụ thể để phát triển kinh tế - xã hội như chuyển đổi cơ cấu kinh tế, vấn đề vay vốn, giống và áp dụng khoa học, kỹ thuật, bảo vệ môi trường, tiêu thụ sản phẩm; tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động “Toàn dân xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” đáp ứng với những yêu cầu mới của thực tiễn.
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã đã phối hợp với chính quyền cải tiến nội dung và quy trình tiếp dân, xử lý đơn, thư khiếu nại, tố cáo và bước đầu phối hợp với chính quyền triển khai xây dựng và thực hiện Pháp lệnh dân chủ tại địa phương nhằm thực hiện quyền dân chủ trực tiếp của dân, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước.
* Hội Nông dân.
Hội Nông dân xã là tổ chức chính trị - xã hội rộng rãi của giai cấp nông dân, Hội Nông dân đã phối hợp với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tín chấp cho nông dân vay vốn phát triển kinh tế; vận động nông dân đoàn kết, tương trợ giúp nhau sản xuất kinh doanh; tham gia phong trào thi đua xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn và đã đạt được kết quả to lớn. Hội Nông dân ở xã đã tích cực phối hợp cùng với các cấp chính quyền, các ngành chức năng phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; tham gia thực hiện hiệp thương dân chủ, giới thiệu nhân sự ứng cử vào Hội đồng nhân dân ở xã. Ngoài ra, Hội nông dân ở xã còn đóng vai trò quan trọng trong công tác hoà giải ở cơ sở.
* Hội Phụ nữ.
Hội Liên hiệp Phụ nữ xã là tổ chức với mục đích hoạt động vì sự bình đẳng và phát triển của phụ nữ, chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của phụ nữ. Trong quá trình CNH. HĐH nông nghiệp, nông thôn, Ban chấp hành - Chi hội phụ nữ ở xã đóng vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn các tổ chức, địa phương thực hiện Luật bình đẳng giới, lồng ghép các yêu cầu bình đẳng giới trong mọi kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội; tăng cường sự tham gia và hưởng lợi của phụ nữ trong quá trình bàn bạc, quyết định, thực hiện và giám sát các kế hoạch phát triển cộng đồng, địa phương.
Bên cạnh đó, vai trò của Ban chấp hành - Chi hội phụ nữ ở xã còn thể hiện trong việc vận động và phát huy các quan hệ truyền thống xây dựng cộng đồng nông thôn đoàn kết, gắn bó. Tăng cường và phát huy các mối quan hệ, mối liên kết mang tính gia đình, dòng họ, làng xã vốn có truyền thống lâu đời.
* Hội Cựu chiến binh.
Hội Cựu chiến binh ở xã có chức năng đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền lợi chính đáng của cựu chiến binh ở địa phương. Hội có vai trò tham mưu giúp cấp ủy Đảng và là lực lượng nòng cốt tập hợp, đoàn kết, vận động cựu chiến binh thực hiện các nhiệm vụ chính trị - xã hội của cách mạng, của Hội; tham gia giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ viên chức nhà nước ở địa phương. Hội có các nhiệm vụ: tập hợp, đoàn kết, bồi dưỡng, động viên cựu chiến binh; tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, chính quyền, chế độ, thực hiện Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã. tổ chức chăm lo và giúp đỡ nhau nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, bảo vệ quyền lợi ích chính đáng và hợp pháp của cựu chiến binh; góp phần giáo dục thế hệ trẻ; tham gia hoạt động đối ngoại nhân dân.
3.1.4. Các vấn đề xã hội và tình hình thực hiện chính sách xã hội, an sinh xã hội trên địa bàn xã.
- Trên địa bàn xã vũ chính tệ nạn xã hội diễn biến cũng hết
sức tinh vi và phức tạp, thông qua nhiều phương thức hoạt động khác nhau
mà các cấp, các ngành chức năng khó có thể kiểm soát được.
Hiện nay xã vũ chính đang bước vào quá trình phát triển nền
kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, do vậy mà xã đang đứng
trước những khó khăn và thách thức lớn đó là sự phát triển cao của nền
kinh tế- xã hội đang đạt đến những đỉnh cao mới của văn minh, tệ nạn xã
hội lẽ ra phải ngày càng giảm nhưng trái lại nó vẫn phát triển và biểu hiện
dưới những hình thức đa dạng hơn, khác lạ hơn, khó trị hơn. Từ những
biểu hiện lẻ tẻ, rời rạc, các tệ nạn xã hội trở nên có tổ chức hơn như tệ nạn
ma tuý, mại dâm, cờ bạcxảy ra liên tiếp làm ảnh hưởng rất lớn đến
đời sống, tâm lý và đe dọa sự sống của người dân ở trong địa phương và xã hội.
Thấy được tầm quan trọng của vấn đề này nên nhiều năm qua Đảng
bộ và Chính quyền xã vũ chính đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo chặt
chẽ, đề ra nhiều chủ trương, biện pháp nhằm ngăn ngừa, đấu tranh ngăn
chặn chúng với mục đích đem lại cuộc sống hòa bình ấm no cho nhân dân.
- Tại xã vũ chính, vấn đề xóa đói giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội trên địa bàn xã luôn được xác định là nhiệm vụ trọng tâm, cấp thiết. Những năm qua, xã đã chỉ đạo thực hiện tập trung, thống nhất các chương trình, dự án có liên quan đến mục tiêu giảm nghèo nhằm huy động tối đa mọi nguồn lực xã hội hỗ trợ giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội có hiệu quả nhất. Đặc biệt là ưu tiên nguồn lực đối tượng khó khăn nhất. Thực hiện xây dựng nông thôn mới để mọi người dân thực sự được thụ hưởng thành quả của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bởi vậy, công tác giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội trên địa bàn xã đã đạt được những kết quả tích cực. Nhiều hộ vượt qua ngưỡng đói nghèo, một số hộ vươn lên khá giả Năm 2010, tỷ lệ hộ nghèo trên địa bàn là 11,16%, hộ cận nghèo là 6,83%; năm 2013, tỷ lệ hộ nghèo trên địa bàn xã giảm xuống còn 6,42%, hộ cận nghèo là 6,37%. Đến cuối năm 2014, tỷ lệ hộ nghèo trên địa bàn xã giảm xuống còn 5,3% đến cuối năm 2015 tỷ lệ hộ nghèo ước còn khoảng 4,7% theo chuẩn nghèo hiện tại. Bình quân giai đoạn 2011 - 2015, mỗi năm giảm được gần 1,3%. Đặc biệt, trong giai đoạn qua đã giảm khoảng cách chênh lệch hộ nghèo ở các các khu vực,thôn xóm.
Bên cạnh thành quả đạt được, kết quả giảm nghèo của xã vẫn chưa thật sự vững chắc, vẫn còn xảy ra tình trạng tái nghèo. Công tác dạy nghề chưa thực sự gắn với nhu cầu của thị trường; cho vay tín dụng ưu đãi chưa gắn với hỗ trợ và hướng dẫn về sản xuất, khuyến nông một cách hiệu quả.người dân ở một số nơi vẫn khó tiếp cận với dịch vụ y tế do chi phí khám chữa bệnh cao, đi lại khó khăn, chất lượng khám chữa bệnh còn thấp
3.2. Thực trạng hiểu biết, ý thức pháp luật của người dân và công tác giáo dục, truyền thông nâng cao ý thức pháp luật của người dân trên địa bàn xã .
Trong những năm gần đây ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân từng bước được nâng lên, đồng bào đã có nhiều chuyển biến về mặt nhận thức, ý thức được vai trò pháp luật đối với cuộc sống của mình. Công tác truyền thông pháp luật kết hợp với nhiều cơ quan ban ngành khác đã triển khai một cách nghiêm túc các kế hoạch, hình thức truyền thông phong phú chuyển tải kịp thời các văn bản pháp luật đến với nhân dân đi vào cuộc sống để nhân dân cảnh giác tránh xa tội lỗi.
Do một số bộ phận người dân còn khó khăn,mải lao động kiếm sống dẫn đến không hiểu biết pháp luật là không thể tránh khỏi.. Mặc dù mấy năm gần đây đời sống kinh tế có phần được cải thiện,song tỷ lệ đói nghèo vẫn còn cao, bên cạnh đó tệ nạn xã hội như Ma tuý, mại dâm, cờ bạc, mê tín dị đoan và các vi phạm pháp luật về hôn nhân gia đình, tranh chấp đất đai, vi phạm pháp luật giao thông chưa giảm. Điều đáng báo động là tình trạng trẻ em chưa thành niên phạm tội ngày càng nhiều, đặc biệt là các tệ nạn như mại dâm, vi phạm các quy định về an toàn giao thông, cố ý gây thương tích Có những đối tượng mặc dù nhận thức được khá đầy đủ về sự nguy hiểm của hành vi của mình nhưng do hoàn cảnh khó khăn, bị kích động, xuí giục nên vẫn phạm tội.
Bên cạnh đó việc truyền thông pháp luật lại còn có nhiều hạn chế do kinh phí còn hạn hẹp, cán bộ còn thiếu, công tác chưa thực sự hiệu quả, ngay cả những đợt sinh hoạt chính trị, pháp lý có quy mô lớn, có kế hoạch từ trung ương và có kinh phí hoạt động nhưng việc tổ chức cũng còn nhiều hạn chế dẫn đến việc thông tin chuyển tải đến người dân quá chậm và không đạt hiệu quả. Tình hình trên đây đòi hỏi ngành tư pháp cũng như những cơ quan hữu quan khác phải nghiên cứu, đánh giá một cách khách quan, có cơ sở khoa học về thực trạng phổ biến, giáo dục pháp luật cho phù hợp, có sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành, các cấp trong công tác này để đạt hiệu quả cao.
3.2.1. Những kết quả đạt được về công tác giáo dục, truyền thông nâng cao ý thức pháp luật của người dân trên địa bàn xã.
Công tác truyền thông, phổ biến và giáo dục pháp luật tác động vào ý thức đối tượng cần được phổ biến và giáo dục, nhằm nâng cao nhận thức, tác động trực tiếp đến ý thức của đối tượng thông qua nhiều hình thức, biện pháp khác nhau. Đó là, tạo ra sự quan tâm đối với pháp luật của người dân, từ chỗ không để ý đến sự tồn tại của pháp luật, đối tượng được phổ biến, giáo dục bắt đầu dành sự quan tâm của mình đối với pháp luật, đồng thời nâng cao sự hiểu biết về pháp luật Nhà nước thông qua hệ thống pháp luật để quản lý xã hội và cũng qua các quy định của pháp luật người dân tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật giúp cho đối tượng nhận thức được những giá trị của pháp luật và biết sử dụng như một phương tiện hữu hiệu vào cuộc sống hàng ngày, tạo được niềm tin của họ vào pháp luật. Từ đó có ý thức pháp luật, văn hoá pháp luật và đạo đức, có ý thức phê phán, lên án những hành vi ,vi phạm pháp luật. Khi đã có niềm tin, đối tượng sẽ biết tự điều chỉnh hành vi của mình theo đúng các quy định của pháp luật, không những thế họ còn có ý thức tuyên truyền niềm tin pháp luật cho một bộ phận đối tượng khác rộng hơn.
Giáo dục pháp luật còn là khâu đầu tiên trong quá trình triển khai và thực hiện pháp luật. Sự khẳng định vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội, gắn với quá trình không ngừng nâng cao ý thức và tính tích cực tham gia của mọi tầng lớp nhân dân trong việc bảo vệ pháp luật.
3.2.2. Những hạn chế về về công tác giáo dục, truyền thông nâng cao ý thức pháp luật của người dân trên địa bàn xã.
ý thức học tập, nghiên cứu pháp luật trong cán bộ đảng viên và quần chúng còn thấp. Đồng thời hình thức, phương pháp tiến hành truyền thông, phổ biến giáo dục pháp luật chưa cụ thể rõ ràng, còn lúng túng hạn chế về chiều rộng và cả chiều sâu đến việc thiếu thu hút người nghe. Trình độ người dân còn hạn chế, chưa nhận thức đầy đủ về ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác truyền thông, phổ biến giáo dục pháp luật. Chưa xây dựng được chương trình, kế hoạch, biện pháp truyền thông, phổ biến giáo dục cho phù hợp. Cán bộ, báo cáo viên của địa phương còn kiêm nhiệm công tác khác nên ít thời gian nghiên cứu các văn bản pháp luật và đổi mới biện pháp thực hiện, dẫn đến hiệu quả tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật chưa cao . Công tác truyền thông thiếu thường xuyên, không mang tính cập nhật, chỉ làm qua một lần, nội dung ít nhắc đi nhắc lại nên việc nhận thức về chính sách pháp luật trong quần chúng nhân dân dẫn đến hạn chế .Vì thế công tác truyền thông phổ biến giáo dục pháp luật chưa mang lại hiệu quả cao. Các hình thức tổ chức và biện pháp truyền thông phổ biến pháp luật đến các đối tượng còn nhiều bất cập về hình thức, nội dung, phương pháp và thời gian, địa điểm truyền thông .
3.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác giáo dục, truyền thông nâng cao ý thức pháp luật của người dân trên địa bàn xã.
- yếu tố kinh tế : Yếu tố kinh tế hiểu theo nghĩa rộng bao gồm tổng thể các điều kiện, hoàn cảnh về kinh tế xã hội, hệ thống chính sách kinh tế, chính sách xã hội và việc triển khai thực hiện, áp dụng chúng trong lĩnh vực xã hội. Nền kinh tế xã hội phát triển năng động, bền vững sẽ là điều kiện thuận lợi cho hoạt động thực hiện pháp luật, tác động tích cực tới việc nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức pháp luật của tầng lớp xã hội. Ngược lại, nền kinh tế xã hội chậm phát triển, kém năng động và kém hiệu quả sẽ có thể ảnh hưởng tiêu cực tới việc thực hiện pháp luật của các chủ thể pháp luật. Yếu tố kinh tế là nền tảng của sự nhận thức hiểu biết pháp luật và thực hiện pháp luật nên có tác động mạnh mẽ tới hoạt động thực hiện pháp luật của các chủ thể pháp luật.
- yếu tố tâm lý: Truyền thống trọng tình, duy tình của người dân được tạo nên từ lối sống, từ tập tính sinh hoạt, sản xuất có từ lâu đời đã giúp cho người dân đoàn kết tạo nên sức mạnh cộng đồng để xây dựng và bảo vệ cộng đồng trước sự khắc nghiệt của thiên nhiên và các thế lực ngoại xâm, để tồn tại và phát triển và tạo ra bản sắc văn hóa của dân tộc. Đây là một trong những thuận lợi tạo nên tính tự nguyện cao của các chủ thể có liên quan trong quá trình thực hiện pháp luật. Tuy nhiên, nó cũng chính là một yếu tố có khả năng tác động xấu đến quá trình thực hiện pháp luật. Người ta dễ dị ứng với pháp luật, chỉ coi pháp luật là một giải pháp không thể tránh được. Đạo đức là một loại quy phạm không thể thiếu trong đời sống xã hội vì nó cũng là những chuẩn mực về cái thiện, cái ác, cái tốt, cái xấu, về lương tâm, trách nhiệm hay bổn phận con người.
- yếu tố văn hóa- đời sống bao giờ cũng thuộc về một môi trường văn hóa- xã
hội nhất định gắn liền với một phạm vi không gian- xã hội nhất định, nơi các cá nhân và cộng đồng người tổ chức các hoạt động sống, lao động, sinh hoạt, cùng nhau tạo dựng, thừa nhân và chia sẻ các giá trị văn hóa, lối sống phong tục tập quán, lễ nghi Với những mặt, những khía cạnh biểu hiện của mình, cá yếu tố văn hóa có ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạt động thực hiện pháp luật
- Cùng với trình độ pháp luật, ý thức pháp luật của các chủ thể trong quan hệ pháp luật là yếu tố đặc biệt quan trọng ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật trên thực tế. Trong mối quan hệ giữa pháp luật và ý thức pháp luật thì ý thức pháp luật là nhân tố thúc đẩy việc thực hiện pháp luật trong đời sống xã hộivà ý thức pháp luật là cơ sở bảo đảm cho việc áp dụng đúng đắn các quy phạm pháp luật.
3.2.4. Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giáo dục, truyền thông nâng cao ý thức pháp luật của người dân trên địa bàn xã .
Thực tế cho thấy, một trong những nguyên nhân dẫn đến hành vi vi phạm pháp luật là trình độ hiểu biết pháp luật, ý thức pháp luật, sự tôn trọng pháp luật của một bộ phận nhân dân còn hết sức hạn chế. Trong thời gian qua, việc truyền thông pháp luật thông qua các phương tiện thông tin đại chúng và các phương tiện khác đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, so với yêu cầu nâng cao trình độ, ý thức pháp luật cho nhân dân thì những kết quả đó vẫn chưa tương xứng. Chính vì vậy, việc nâng cao trình độ pháp luật cho nhân dân trong địa bàn xã theo yêu cầu quản lý nhà nước bằng pháp luật hiện nay là vấn đề cấp thiết.Để nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân trong thời gian tới cần đề ra một số giải pháp sau đây:
a/. Nâng cao năng lực hoạt động phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật các cấp:
- Tăng cường sự lãnh đạo, quản lý của cấp ủy Đảng, chính quyền đối với hoạt động của Hội đồng, đặc biệt là giao nhiệm vụ, mục tiêu cụ thể trong từng năm và cung cấp kinh phí đầy đủ, đảm bảo cho Hội đồng triển khai và hoàn thành nhiệm vụ của mình.
- Số lượng các văn bản do trung ương và địa phương ban hành quá nhiều, do vậy Hội đồng các cấp cần phải căn cứ vào tình hình thực tế của địa phương tổ chức hoạt động thường xuyên để chuyển tải kịp thời các văn bản đến với nhân dân. Việc xây dựng tổ chuyên viên có đầy đủ năng lực về pháp luật để tham mưu cho Hội đồng và trực tiếp triển khai các nhiệm vụ truyền thông, phổ biến đặt ra là hết sức cần thiết.
b/. Tổ chức điều tra, khảo sát để biết được tình hình trong thực tế về trình độ hiểu biết pháp luật của nhân dân:
Sự hiểu biết pháp luật của mỗi cá nhân khác nhau, sự hiểu biết đó phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: nghề nghiệp, khu vực sống, trình độ văn hóa, giới tính... Vì vậy, khảo sát, điều tra thực trạng trình độ hiểu biết pháp luật căn cứ vào các yếu tố như vậy mới có thể xác định được nhu cầu cụ thể của từng nhóm đối tượng, từ đó đề ra mức độ truyền thông như thế nào là phù hợp và nâng dần trình độ hiểu biết pháp luật của họ.
Kết quả điều tra, khảo sát là cơ sở thực tế để Hội đồng phối hợp công tác phổ biến pháp luật các cấp lập kế hoạch tuyên truyền, phổ biến pháp luật phù hợp và đảm bảo đạt được kết quả cao.
c/. Nội dung truyền thông pháp luật cần thiết thực, đơn giản, dễ hiểu:
Nội dung truyền thông, phổ biến pháp luật hiện nay rất rộng: thông tin về pháp luật, thông tin về thực hiện pháp luật, về tình hình phạm pháp... Đối tượng truyền thông, phổ biến pháp luật là toàn dân, trình độ hiểu biết pháp luật chưa cao và mục tiêu của truyền thông, phổ biến pháp luật là làm cho các công dân hiểu mình là ai, mình làm gì và làm như thế nào, công dân hiểu và nắm được các quy định của pháp luật để giải quyết công việc, để bảo vệ quyền lợi của mình trước các cơ quan nhà nước. Do vậy nội dung truyền thông cần được giải thích bằng ngôn ngữ đơn giản, càng dễ hiểu bao nhiêu càng tốt để tiếp cận được mọi đối tượng một cách hiệu quả, đặc biệt là các nội dung liên quan đến kiến thức pháp luật cơ bản, các khái niệm, các quy phạm pháp luật...
d/. Triển khai đồng bộ các hình thức truyền thông, phổ biến pháp luật:
Hiện nay hình thức truyền thông, phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn rất đa dạng: truyền thông trên các phương tiện thông tin đại chúng, truyền thông thông qua các hội nghị, truyền thông thông qua công tác hoà giải ở cơ sở, qua công tác xét xử của Tòa án, qua tủ sách pháp luật, qua sinh hoạt Câu lạc bộ pháp luật, qua các hội thi... Bên cạnh việc phát huy ngày càng hiệu quả các hình thức này, đối với các vùng nông thôn, cần lựa chọn những hình thức thích hợp như: phát sách hướng dẫn thực hiện pháp luật; tổ chức nói chuyện thường xuyên về pháp luật ở các tụ điểm dân cư; tăng cường các hình thức phát sóng đa dạng, liên tục, hấp dẫn trên hệ thống đài truyền thanh xã....
4. VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC, TRUYỀN THÔNG NÂNG CAO Ý THỨC PHÁP LUẬT CỦA NGƯỜI DÂN TRÊN ĐỊA BÀN XÃ .
4.1. Cơ sở lựa chọn, triển khai chương trình nâng cao ý thức pháp luật của người dân trên địa bàn xã vũ chính TP Thái bình:
Thực hiện kế hoạch hướng dẫn cho sinh viên cuối khoá của khoa CTXH Trường Đại học sư phạm hà nội nhằm giới thiệu sinh viên năm cuối về thực tập làm bài điều kiện tại các đơn vị ở địa phương với mong muốn một mặt giúp cho sinh viên trước khi ra trường được cọ sát thực tế, làm quen với môi trường thực sự và vận dụng một phần kiến thức nhà trường vào công việc thực tế tại một số địa phương, tránh tình trạng bỡ ngỡ thiếu thực tế chỉ có lý thuyết suông của một số sinh viên khi mới ra trường. Mặt khác, tạo điều kiện cho sinh viên có thể định hướng cho công việc, ngành nghề khi ra trường phù hợp với nguyện vọng và trình độ của mình.
Sau 4 năm học tập và nghiên cứu tại trường em đã tiếp thu được các phương pháp nghiên cứu khoa học, thu thập được nhiều kiến thức từ các buổi lên lớp, tự nghiên cứu, tiếp thu các văn bản pháp luật để có thể rút ra được những kiến thức pháp luật cơ bản nhất. Theo kế hoạch của nhà trường đã đề ra, em được phân công về địa phương xã vũ chính –thành phố thái bình để tìm hiểu thực trạng và giải pháp nâng cao ý thức pháp luật cho người dân trên địa bàn để làm bài điều kiện tốt nghiệp . Quá trình thực tìm hiểu tại đây em đã nhận được sự giúp đỡ, chỉ đạo của cán bộ, lãnh đạo xã trong việc tạo điều kiện cho sinh viên phát huy tốt những kiến kiến thức đã học để có thể vận dụng một cách linh hoạt vào cuộc sống.
4.2. Tiến trình thực hiện chương trình.
4.2.1. Tên chương trình, phạm vi và thời gian thực hiện chương trình.
- Vai trò của hoạt động truyền thông phổ biến giáo dục pháp luật đối với việc xây dựng, nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân có ý nghĩa vô cùng quan trọng, đặc biệt trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong tình hình mới. Công tác phổ biến giáo dục pháp luật ngày càng khẳng định được vị trí, vai trò của mình và được coi là bộ phận trung tâm trong hệ thống giáo dục chính trị, tư tưởng đặt dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam. Với nhiều chính sách, chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng và nhà nước cũng như sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của các cấp, các ngành từ trung ương xuống địa phương công tác truyền thông phổ biến giáo dục pháp luật ngày càng phát triển mạnh mẽ đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ. Do đó em chọn đề tài “ vận dụng phương pháp phát triển cộng đồng, giáo dục truyền thông nâng cao ý thức pháp luật người dân trên địa bàn xã ” là nội dung chính trong bài điều kiện của mình.
- Phạm vi thực hiên chương trình: Điều đầu tiên khi tiến hành công tác phổ biến, giáo dục pháp luật là cần phải tìm hiểu phong tục tập quán tâm lý xã hội của người dân địa phương. Bên cạnh đó điều kiện tự nhiên khó nhăn, phức tạp với phần đông là gia đình đi làm ăn lao động tự do, một số trình độ học vấn thấp... Trong thời gian qua UBND,ban tư pháp đã có nhiều cố gắng chủ động đưa thông tin pháp luật đến với nhân dân qua các hình thức phương pháp khác nhau phù hợp với điều kiện của từng thôn ,xóm với những đối tượng cụ thể. Thấy rõ được rằng mặc dù đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, trình độ dân trí còn nhiều hạn chế nhưng như vậy thì việc truyền thông, giáo dục pháp luật, đưa các thông tin về chính sách của Đảng và nhà nước cần thiết hơn bao giờ hết làm cho họ thêm tin và đi theo Đảng, nghe theo cách mạng là việc làm hết sức quan trọng và phải luôn được đặt ra hàng đầu.UB xã trong thời gian qua không những chủ động trong việc tổ chức và phối hợp chỉ đạo công tác phổ biến, giáo dục pháp luật theo sát các nhiệm vụ chính trị của trung ương cũng như của địa phương đặt ra, chủ động phối hợp với các nghành như Sở giáo dục, sở VH-TT, Hội phụ nữ, hội cựu chiến binh, Công an, Đoàn thanh niênđể tổ chức việc truyền thông có hiệu quả đến mọi tầng lớp nhân dân.
-Hình thức tuyên truyền:
Tùy theo đặc điểm của từng khu vực và từng nhóm đối tượng để lựa chọn những hình thức truyền thông phù hợp, đạt hiệu quả cao nhất, bao gồm các hình thức sau:
+ Truyền thông qua các buổi nói chuyện chuyên đề, kết hợp truyền thông trong các buổi họp dân, các buổi sinh hoạt đoàn thể và cộng đồng tại địa phương.
+ Thông qua mạng lưới truyền thanh tại cơ sở; phát hành bản tin, tờ rơi nội bộ, kết hợp với báo, đài xây dựng tiểu phẩm, làm các chương trình, phóng sự chuyên đề.
+ Lồng ghép truyền thông, phổ biến thông qua các buổi nói chuyện thời sự, tập huấn kỹ thuật sản xuất cho nông dân; tại các buổi hội thảo, hội nghị đầu bờ; tổ chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật, xây dựng các mô hình thí điểm tại thôn.
+ Thông qua hoạt động của câu lạc bộ tư vấn pháp luật, trung tâm trợ giúp pháp lý và hòa giải... để kết hợp triển khai phổ biến, truyền thông pháp luật tới người dân.
+ Hỗ trợ địa phương xây dựng tủ sách pháp luật ở thôn.
- Theo kế hoạch thời gian thực hiện chương trình từ tháng 6 đến tháng 8 năm 2015. Trong thời gian tìm hiểu tại địa phương xã vũ chính em đã được tiếp xúc và tìm hiểu với rất nhiều các quy định của đảng và nhà nước về vấn đề này, cũng như các hoạt động cụ thể tại địa phương.
4.2.2. Mục đích, mục tiêu cụ thể của chương trình.
Mục đích chung: Qua nghiên cứu đề tài, người viết mong muốn đóng góp một số ý kiến về việc hoàn thiện, nâng cao hoạt động truyền thông phổ biến giáo dục pháp luật góp phần nâng cao ý thức pháp luật cho cán bộ, nhân dân,tại địa phương trong tình hình mới hiện nay. Thông qua việc đưa ra một số kiến nghị về các quy định của pháp luật, cách thức triển khai thực hiện trên thực tế đối với công tác phổ biến giáo dục pháp luật nhằm nâng cao ý thức chấp hành pháp luật trong nhân dân. Lồng ghép trong hoạt động văn hóa, văn nghệ, sinh hoạt của tổ chức chính trị và các đoàn thể, câu lạc bộ, tủ sách pháp luật và các thiết chế văn hóa khác ở cơ sở.
Gắn công tác phổ biến tuyên truyền với việc truyền thông các chủ chương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, phổ biến kịp thời , đầy đủ, những nội dung pháp luật liên quan đến cuộc sống của các tầng lớp nhân dân do đó đã nâng cao ý thức tự giác, chủ động tìm hiểu và chấp hành pháp luật của cán bộ và nhân dân. Nội dung các văn bản pháp luật được lựa chọn để truyền thông phổ biến cơ bản là đầy đủ, kip thời trong từng giai đoạn nhất định, phù hợp với từng đối tượng, từng địa phương. ban tư pháp đã chú trọng phổ biến các quy định pháp luật cụ thể như hướng dẫn trình tự thủ tục pháp luật nhằm nâng cao nhận thức và hiểu biết của cán bộ và nhân dân trong triển khai và thực thiện pháp luật. Ngoài ra còn có sự phối hợp giữa các ngành liên quan trong công tác phổ biến giáo dục pháp luật. Coi trọng giữa thực thi công vụ kết hợp với phổ biến giáo dục pháp luật như qua công tác giải quyết tranh chấp đất đai, giải phóng mặt bằng, chế độ chính sách, công tác thi hành án, công tác xét xử lưu động, công tác hoà giải ở cơ sở.
Mục đích cụ thể: đề tài tìm hiểu, nghiên cứu và hướng tới các mục tiêu cụ thể sau: - Những vấn đề mang tính chất lý luận chung về Ý thức pháp luật và hoạt động Truyền thông phổ biến giáo dục pháp luật. - Mối quan hệ biện chứng giữa Ý thức pháp luật với Pháp luật và hoạt động tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật. - Vai trò của hoạt động tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật đối với việc xây dựng, nâng cao ý thức pháp luật. - Sự ghi nhận và quy định trong hệ thống văn bản pháp luật của Việt Nam đối với vấn đề ý thức pháp luật và hoạt động truyền thông phổ biến giáo dục pháp luật. - Phân tích, đánh giá thực trạng ý thức pháp luật và kết quả đạt được của hoạt động truyền thông phổ biến giáo dục pháp luật của nước ta trong giai đoạn hiện nay. - Đưa ra một số giải pháp, kiến nghị hoàn thiện, nâng cao chất lượng của hoạt động truyền thông phổ biến giáo dục pháp luật nhằm góp phần xây dựng, nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân.
4.2.3. Đối tượng tham gia, quản lý và hưởng lợi từ chương trình.
Đối tượng tham gia thực hiện công tác truyền thông phổ biến giáo dục pháp luật bao gồm: đội ngũ tuyên truyền viên, Ban tư pháp của xã, ban văn hóa,hội phụ nữ, đoàn thanh niên... Ngoài ra còn có sự tham gia của tổ trưởng dân phố,trưởng các thôn ,xóm
Đối tượng hưởng lợi truyền thông phổ biến pháp luật là tất cả cán bộ, người dân nói chung và cán bộ, nhân dân trên địa bàn xã nói riêng. Tuy nhiên, vẫn phải tiếp tục dành sự quan tâm cho các nhóm đối tượng ưu tiên là: nông dân, phụ nữ, thanh thiếu niên; trẻ em lang thang, người dân có trình độ học vấn thấp.
4.2.4. Nguồn lực thực hiện chương trình.
Khai thác các tiềm năng về nhân lực, vật lực và tài lực trong xã hội. Phát huy và sử dụng có hiệu quả các nguồn nội lực có sẵn trong các đoàn thể chính trị, xã hội, các phương tiện thông tin đại chúng nhằm đạt được các mục tiêu của chương trình
Nguồn kinh phí chủ yếu vẫn là ngân sách nhà nước đã được cấp. tăng cường, huy động sự đóng góp kinh phí xã hội hóa từ các tổ chức, cá nhân,các doanh nghiệp trên địa bàn...
4.2.5. Thuận lợi, khó khăn xây dựng và thực hiện chương trình.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng song công tác phổ biến giáo dục pháp luật vẫn còn một số hạn chế, cụ thể như sau:
- Công tác truyền thông và giáo dục pháp luật mặc dù thường xuyên được quan tâm tiến hành nhưng vẫn chưa thực sự đúng trọng điểm,việc tổ chức các hoạt động truyền thông ở các cấp, các ngành nhiều lúc còn mang tính hình thức, nặng nề về phong trào và chưa đi vào thực chất, chưa đáp ứng được yêu cầu về chất lượng và tiến độ nhất là ở cơ sở dẫn đến việc đạt được hiệu quả chưa cao. Hình thức triển khai ở cấp cơ sở còn nghèo nàn chủ yếu là tuyên truyền miệng.
- Một số đơn vị, địa phương còn thụ động trông chờ, ỷ lại vào hướng dẫn của cấp trên, vào ngành tư pháp, chưa làm tốt vai trò tham mưu đề xuất với cấp Uỷ Đảng, chính quyền cùng cấp và lãnh đạo để chỉ đạo và tổ chức triển khai công tác truyền thông.
- Việc cấp kinh phí cho công tác tuyên truyền vẫn chưa được quan tâm đúng mức dẫn đến việc mở các hội nghị truyền thông đều phải xin kinh phí bổ sung dẫn đến bị động trong việc triển khai.
- Đội ngũ cán bộ chuyên trách, báo cáo viên, Tuyên truyền viên pháp luật, hoà giải viên tuy đã được củng cố có kiện toàn đông đảo về số lượng nhưng chưa tương xứng với yêu cầu thực tiễn đặt ra. Đội ngũ báo cáo viên ở cơ sở chưa đồng đều, một số còn hạn chế về trình độ.
- Bên cạnh đó nhận thức của đối tượng truyền thông còn nhiều hạn chế, đặc biệt là một số người dân còn chịu nhiều ảnh hưởng của luật tục, hủ tục, tập quán dân tộc nên việc đưa pháp luật đến với họ còn gặp nhiều khó khăn. mặt khác do điều kiện kinh tế, xã hội còn nhiều khó khăn. Địa bàn dân cư rộng, đi lại khó khăn cho việc tuyên truyền.
4.2.6. Dự toán kinh phí chi tiết của chương trình.
Stt
Nội dung
Đơn vị tính
Số lượng
Mức chi/đồng
Thành tiền/đồng
1
Tổ chức hội nghi chuyên đề truyền thông,phổ biến, giaó dục ý thức pháp luật.
Buổi
2
3.000.000
6.000.000
2
Chi tiền in ấn tài liệu tuyên truyền.
Tờ
1500
1200
1.800.000
3
Truyền thanh.
Lần
30
50.000
1500.000
4
Pano,áp phích,khẩu hiệu.
Tờ
20
250.000
5.000.000
5
Bổ xung tủ Sách pháp luật.
Cuốn
10
300.000
3000.000
6
Tổng chi
17.300.000
4.2.7. Tiến độ thực hiện chương trình truyền thông phổ biến pháp luật .
- 1/7/2015 - 3/7/2015 xây dựng kế hoạch trình UBND xã xin chủ trương
- 3/7/2015 – 8/7/2015 tổ chức điều tra khảo sát biết được tình hình thực tế về trình độ hiểu biết pháp luật của người dân trên địa bàn.
- 8/7/2015 – 10/7/2015 phối hợp với các ban, nghành,đoàn thể lập kế hoạch truyền thông phổ biến pháp luật phù hợp đạt hiệu quả cao.
- 10/7/2015 – 12/7/2015 tổ chức hội nghị chuyên đề,phát tài liệu tuyên truyền.
- 12/7/2015 – 29/7/2015 tổ chức truyền thông qua các cuộc thi tìm hiểu pháp luật, qua đài truyền thanh, cáp phát tờ rơi,tủ sách pháp luật
- 30/7/2015 tổng kết công tác,đánh giá kết quả thực hiện từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm cần thiết để triển khai tốt công tác truyền thông phổ biến, giáo dục pháp luật trong giai đoạn tiếp theo.
- Công tác truyền thông phổ biến giáo dục pháp luật cơ bản đã được triển khai, sự quan tâm đối với pháp luật của người dân, từ chỗ không để ý đến sự tồn tại của pháp luật, đối tượng được phổ biến, giáo dục bắt đầu dành sự quan tâm của mình đối với pháp luật, đồng thời nâng cao sự hiểu biết về pháp luật Nhà nước thông qua hệ thống pháp luật để quản lý xã hội và cũng qua các quy định của pháp luật người dân tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
4.2.8. Dự báo kết quả đạt được của chương trình theo mục tiêu xác định.
Thực tiễn công tác phổ biến giáo dục pháp luật ở xã vũ chính cho thấy: Với sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao kịp thời của cấp Uỷ Đảng, chính quyền các cấp, sự phối hợp cộng đồng của cả hệ thống chính trị, công tác này đã có nhiều chuyển biến tích cực, việc truyền thông không chỉ được chú trọng đến nội dung phong phú , hình thức truyền thông phù hợp mà việc truyền thông đã được chú trọng theo chiều sâu. nhiều văn bản pháp luật được phổ biến kịp thời đến mọi người dân như: Luật bầu cử, Luật bình đẳng giới, luật hôn nhân và gia đình, luật đất đai, luật dân sự ban tư pháp,văn hóa ở địa phương đã làm tốt vai trò của mình, tích cực chủ động phối hợp với các thôn, xóm, tổ dân phố trong công tác truyền thông, giáo dục pháp luật. Có thể nói rằng công tác phổ biến giáo dục pháp luật đã bước đầu tạo nên ý thức học tập pháp luật, tìm hiểu pháp luật, chấp hành pháp luật trong cán bộ và nhân dân.
- Việc truyền thông đã được mở rộng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống nhất là các lĩnh vực liên quan trực tiếp tới đời sống xã hội như: luật HN-GĐ, Luật đất đai, luật khiếu nại tố cáo, tìm hiểu về ma tuý và các tác hại của ma tuý, luật bình đẳng giới
- Các hình thức phổ biến truyền thông pháp luật ngày càng phong phú, đa dạng phù hợp với đối tượng truyền thông, đặc biệt đã chú trọng đến các hình thức phổ biến giáo dục pháp luật có hiệu qủa như tuyên truyền miệng, phát thanh trên đài, tờ rơi
Nhận xét và kiến nghị
1. Đánh giá chung về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật tại địa bàn xã.
Với các công việc đã thực hiện được như đã nêu ở trên, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật nâng cao ý thức pháp luật cho người dân tại địa phương không những ngày càng được quan tâm đúng mức mà hiệu quả của công tác này mang lại là rất lớn trong việc nâng cao ý thức chấp hành pháp luật trong nhân dân, góp phần không nhỏ vào việc giữ gìn trật tự, an ninh chính trị và an toàn xã hội trong đời sống chính trị đang có nhiều biến động như hiện nay.
Sự phối hợp giữa các ban, ngành đang thực sự có hiệu quả và mang lại ngày càng nhiều những kinh nghiệm trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cũng như hiệu quả của công tác này đối với mọi người dân. đặc biệt là công tác đưa pháp luật vào cuộc sống , vùng đặc biệt khó khăn theo chủ trương phương hướng của Uỷ ban nhân dân Tỉnh đã đề ra.
2. một số đề xuất kiến nghị.
Để thực hiện tốt công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong thời gian tới. kịp thời giải quyết các yêu cầu cấp bách đang đặt ra đối với công tác này và chịu sự chuyển biến tích cực về ý thức tôn trọng pháp luật và nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân trong tỉnh, góp phần giữ vững ổn định chính trị, an toàn xã hội ở địa phương. Em xin mạnh dạn đề xuất một số giải pháp sau để có thể góp phần nâng cao hơn nữa vai trò của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong việc nâng cao pháp chế xã hội chủ nghĩa, cụ thể như sau:
Luôn bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng và chính quyền địa phương :
Trước yêu cầu của công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật không thể coi đó chỉ là nhiệm vụ trong tâm trước mắt, mà còn là nhiệm vụ lâu dài, thường xuyên, liên tục. Đây là nhiệm vụ của toàn Đảng và cả hệ thống chính trị. Tất cả các cán bộ, người đứng đầu cơ quan, đơn vị phải nêu cao trách nhiệm, quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, chủ động làm tốt công tác này trong thời gian tới nhất là trong bối cảnh nước ta đang hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới như hiện nay.
Yêu cầu về chuyên môn:
Cần kiện toàn hơn nữa tổ chức hoạt động, nâng cao năng lực hoạt động của các cơ quan tư pháp ở địa phương. đảm bảo công tác phổ biến, giáo dục pháp luật luôn là nhiệm vụ chính trị của địa phương. Uỷ ban nhân dân chỉ đạo trực tiếp, thường xuyên bằng chương trình kế hoạch, chỉ thị hàng năm hoặc đột xuất, trọng điểm theo yêu cầu nhiệm vụ cụ thể.
Cần chú ý củng cố, kiện toàn và thường xuyên bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ vừa chỉ đạo vừa trực tiếp thực hiện công tác phổ biến, giáo dục ở cấp mình phụ trách. Quan tâm xây dựng lực lượng báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật và cộng tác viên tham gia phổ biến, giáo dục pháp luật ở cơ sở.
Hàng năm sở tư pháp phải thường xuyên lựa chọn nội dung và hình thức phổ biến cho phù hợp với nhu cầu của người dân trong tỉnh. Lồng ghép có hiệu quả việc phổ biến giáo dục pháp luật với việc thực hiện các chương trình phát triển kinh tế- xã hội, với các phong trào thi đua, các cuộc tuyên truyền, vận động chấp hành pháp luật theo chủ đề
Hoàn thiện hơn nữa cơ chế phối hợp, trong đó cần kiện toàn tổ chức hoạt động của tuyên truyền viên để vừa tăng cường vai trò đầu mối tổ chức các hoạt động phối hợp của cơ quan tư pháp,vừa phát huy tính cộng đồng trách nhiệm.
- Tăng cường với đài phát thanh, truyền hình, báo chí thường xuyên xây dựng các chuyên mục về tìm hiểu pháp luật, hỏi đáp pháp luật; Tập san chuyên ngành trong phổ biến và giáo dục pháp luật.
- Hoàn thiện hơn nữa Tủ sách pháp luật thường xuyên nâng cao đầu sách với nội dung cập nhật và phù hợp với tình hình cụ thể, đảm bảo cơ chế quản lý, khai thác sử dụng có hiệu quả.
- Biên soạn phát hành rộng rãi các tài liệu pháp luật ; tập huấn bồi dưỡng, phổ biến nội dung theo chuyên đề.
- Phải thường xuyên hơn nữa tổ chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật, đặc biệt là các chính sách liên quan trực tiếp đến cuộc sống người dân, các quy định mới trong quá trình hội nhập kinh tế, tham gia WTO, cải cách hành chính, đất đai, môi trường, bầu cử Đại biểu Quốc hội.
- Phối hợp với trường học ở cơ sở, đặc biệt là các học sinh THPT để đưa chương trình pháp luật vào giảng dạy ở nhà trường, hoặc có thể trong các buổi ngoại khoá, giao lưu biểu diễn văn nghệ
- Mở rộng, nâng cao chất lượng các loại hình tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý miễn phí cho các đối tượng chính sách, vùng đặc biệt khó khăn.
Như vậy, việc phổ biến, giáo dục pháp luật không chỉ là trách nhiệm của Cơ quan Tư pháp nói chung hay Sở Tư pháp nói riêng mà là trách nhiệm của tất cả các cấp, các ngành và cũng là trách nhiệm của mọi người dân để nhằm nâng cao hơn nữa công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong tỉnh nói chung,cán bộ, nhân dân trong xã nói riêng. Nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân, xây dựng xã hội sống và làm việc theo Hiến pháp và Pháp luật đó là mục tiêu không chỉ của riêng Đảng, Nhà nước và các cấp chính quyền mà còn là nguyện vọng chính đáng của mọi người dân trong xã hội, vì một xã hội an ninh trật tự và thực sự là của dân, do dân, vì dân./.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trịnh Thị Hương Giang, Tập bài giảng Pháp luật đại cương, trường ĐHSP Hà Nội 2007
2. Nguyễn Thanh Bình, Trịnh Hương Giang, Đặng Huyền Oanh, Tập bài giảng Tổ chức và phát triển cộng đồng, Trường ĐHSP Hà Nội 2009
3. Nguyễn An Lịch, Giáo trình Công tác xã hội nhóm, Nhà xuất bản Lao độn, 2013
4. Nguyễn Duy Nhiên, Nhập môn Công tác xã hội, Nhà xuất bản Lao động, 2008
5. Nguyễn Văn Cư, Nguyễn Duy Nhiên, Bùi Thị Thảo, Giáo trình Dân số và sức khỏe sinh sản, Nxb Đại học Sư phạm, 2008
6. Lê Bạch Dương, Đặng Nguyên Anh, Khuất Thu Hồng, Lê Hoài Trung, Robert Leroy Bach, Bảo trợ xã hội cho những nhóm thiệt thòi ở Việt Nam, Nxb Thế giới, H.2005
7. Học viện Hành Chính Quốc gia, Huyện ủy huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh, Xóa đói giảm nghèo, phát triển cộng đồng bền vững ở huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2004.
8.Nghiệp vụ phổ biến, giáo dục pháp luật (của Bộ Tư pháp – Nhà xuất bản thanh niên).
9. Nghiệp vụ tư pháp cấp xã - Bộ Tư pháp
10.Báo cáo tổng kết chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật của Chính phủ từ năm 2003 – 2007.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thoai_dieu_kien_tot_mghiep_ctxh_phat_trien_cong_dong_y_thuc_phap_luat_cua_nguoi_dan_447.doc