Lời mở đầu
Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ thiên tài, người anh hùng giải phóng dân tộc, nhà tư tưởng, danh nhân văn hoá lớn của thế giới. Tư tưởng của Người luôn là tấm gương sáng cho toàn Đảng, toàn dân, đặc biệt là đội ngũ cán bộ phấn đấu học tập và noi theo. Với sự hiểu biết sâu rộng, là kiến trúc sư và linh hồn của khối đoàn kết dân tộc, Người cũng đã để lại cho nhân dân ta nhiều bài học quý giá về việc xây dựng đội ngũ cán bộ. Giá trị cao quý của nó không những là các chỉ dẫn lý luận mang tính sáng tạo, thiết thực mà còn có ý nghĩa thực tiễn chỉ đạo và định hướng trực tiếp cho công tác cán bộ của hệ thống chính trị ở nước ta trong giai đoạn hiện nay và mai sau.Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy chúng ta rằng "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần phải có những con người xã hội chủ nghĩa". Đó là một con người phát triển toàn diện, có tư tưởng và tình cảm đẹp, có tri thức và năng lực làm chủ xã hội, làm chủ bản thân có cuộc sống tập thể và cuộc sống cá nhân hài hòa, có sự phát triển đầy đủ về các mặt: tri thức, đạo đức, thể chất và thẩm mỹ. "Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và của chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng" ,nên hơn ai hết, họ phải có đủ năng lực, phẩm chất của một con người xã hội chủ nghĩa để lãnh đạo đất nước và phục vụ nhân dân. Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã, đang diễn ra sâu sắc và toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước, tiến đến mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh". Từ đó đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cấp có đức, có tài, vừa hồng vừa chuyên, ngang tầm, đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng. Vì lí do đó mà tôi chọn đề tài : Vận dụng tư tưởng Hồ Chi Minh về cán bộ trong công tác đánh giá cán bộ hiện nay. Đề tài được chia làm ba phần , thứ nhất là tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ, thứ hai là thực trạng cán bộ hiện nay và cuối cùng là vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đánh giá cán bộ.
Mục Lục
Lời mở đầu 2
Nội dung 3
Chương 1.Tư tưởng hồ chí minh về cán bộ và công tác cán bộ 3
1.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của cán bộ 3
1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của công tác cán bộ 4
1.3. Yêu cầu đối với cán bộ cách mạng 4
1.4. Quan điểm của Hồ Chí Minh về công tác cán bộ 8
Chương 2 . Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ trong công tác đánh giá cán bộ hiện nay 14
2.1. Thực trạng chung 14
2.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao công tác đánh giá cán bộ 16
2.2.1. Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý, đội ngũ làm công tác tổ chức cán bộ vững mạnh 16
2.2.2. Đánh giá cán bộ một cách toàn diện, chú trọng lấy kết quả hoàn thành nhiệm vụ theo chức trách được giao làm thước đo 17
2.2.3. Đánh giá cán bộ phải xem xét cả một quá trình. 19
2.2.4. Mở rộng dân chủ, công khai, minh bạch trong đánh giá cán bộ. Để cho tập thể và quần chúng tham gia đánh giá cán bộ. 19
2.2.5. Để cán bộ tự đánh giá và thực hiện công khai hóa kết quả đánh giá cán bộ. 20
2.2.6. Sáng suốt, tinh tường trong phân định cán bộ tốt và cán bộ kém. 21
Kết luận 23
Tài liệu tham khảo 24
24 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4125 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Vận dụng tư tưởng Hồ Chi Minh về cán bộ trong công tác đánh giá cán bộ hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục Lục
---------------------oo0oo------------------
Lời mở đầu
Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ thiên tài, người anh hùng giải phóng dân tộc, nhà tư tưởng, danh nhân văn hoá lớn của thế giới. Tư tưởng của Người luôn là tấm gương sáng cho toàn Đảng, toàn dân, đặc biệt là đội ngũ cán bộ phấn đấu học tập và noi theo. Với sự hiểu biết sâu rộng, là kiến trúc sư và linh hồn của khối đoàn kết dân tộc, Người cũng đã để lại cho nhân dân ta nhiều bài học quý giá về việc xây dựng đội ngũ cán bộ. Giá trị cao quý của nó không những là các chỉ dẫn lý luận mang tính sáng tạo, thiết thực mà còn có ý nghĩa thực tiễn chỉ đạo và định hướng trực tiếp cho công tác cán bộ của hệ thống chính trị ở nước ta trong giai đoạn hiện nay và mai sau.Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy chúng ta rằng "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần phải có những con người xã hội chủ nghĩa". Đó là một con người phát triển toàn diện, có tư tưởng và tình cảm đẹp, có tri thức và năng lực làm chủ xã hội, làm chủ bản thân có cuộc sống tập thể và cuộc sống cá nhân hài hòa, có sự phát triển đầy đủ về các mặt: tri thức, đạo đức, thể chất và thẩm mỹ. "Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và của chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng" ,nên hơn ai hết, họ phải có đủ năng lực, phẩm chất của một con người xã hội chủ nghĩa để lãnh đạo đất nước và phục vụ nhân dân. Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã, đang diễn ra sâu sắc và toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước, tiến đến mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh". Từ đó đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cấp có đức, có tài, vừa hồng vừa chuyên, ngang tầm, đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng. Vì lí do đó mà tôi chọn đề tài : Vận dụng tư tưởng Hồ Chi Minh về cán bộ trong công tác đánh giá cán bộ hiện nay. Đề tài được chia làm ba phần , thứ nhất là tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ, thứ hai là thực trạng cán bộ hiện nay và cuối cùng là vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đánh giá cán bộ.
Nội dung
Chương 1.Tư tưởng hồ chí minh về cán bộ và công tác cán bộ
1.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của cán bộ
Hồ Chí Minh là một trong những người tham gia thành lập Đảng cộng sản Pháp năm 1920; là người sáng lập Đảng cộng sản Việt Nam đầu năm 1930; là cán bộ của Ban Phương Đông Quốc tế Cộng sản. Hồ Chí Minh là lãnh tụ của Đảng cộng sản Việt Nam, suốt cả cuộc đời chăm lo lãnh đạo, rèn luyện Đảng, đồng thời là một chiến sĩ kiên cường của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Trong hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh luôn luôn chú trọng đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ để có đủ sức mạnh hoàn thành sự nghiệp vẻ vang của Đảng. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Về vị trí của cán bộ, Hồ Chí Minh cho rằng, cán bộ là giây chuyền của bộ máy Đảng, Nhà nước, đoàn thể nhân dân, “là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng” Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, Tập 5, tr. 269.
. Như vậy, cán bộ có vị trí chủ thể của sự nghiệp cách mạng nước ta do Đảng lãnh đạo. Vị trí lãnh đạo, vị trí chủ thể của cán bộ là do Đảng, Nhà nước, đoàn thể phân công, và quyền lực của cán bộ cũng như nhiệm vụ của người cán bộ là do nhân dân giao cho.
Về vai trò của cán bộ, Hồ Chí Minh khẳng định rằng: cán bộ là cái gốc của mọi công việc; muôn việc thành công hay thất bại đều là do cán bộ tốt hay kém. Với ý nghĩa như vậy, chúng ta có thể hiểu rằng, cán bộ là lực lượng tinh tuý nhất của xã hội, có vị trí vừa tiên phong vừa là trung tâm của xã hội và có vai trò cực kỳ quan trọng của hệ thống chính trị nước ta.
Luận điểm khái quát nhất của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của cán bộ là: cán bộ vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ thật trung thành, là trâu ngựa của nhân dân.
1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của công tác cán bộ
Trong quá trình xây dựng Đảng, công tác cán bộ là một trong những công tác chiếm vị trí quan trọng hàng đầu, có vai trò quyết định thành công tới toàn bộ công tác xây dựng lực lượng cách mạng của Đảng. Khi nào, nơi nào làm tốt công tác cán bộ thì khi đó, nơi đó cách mạng sẽ có nhiều thuận lợi và giành được thắng lợi, và ngược lại. Với quan điểm đó, cả cuộc đời mình, Hồ Chí Minh luôn luôn chú trọng đến công tác cán bộ, từ đánh giá, lựa chọn, huấn luyện, thử thách, rèn luyện, sử dụng, đãi ngộ. Sau năm 1920, khi đã trở thành người cộng sản, tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn, Hồ Chí Minh đã tích cực chuẩn bị cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam. Một trong những nhiệm vụ quan trọng của Hồ Chí Minh là tìm kiếm những thanh niên Việt Nam yêu nước, đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện họ trong tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên; gửi những người ưu tú hoặc có nhiều triển vọng tốt vào đạo tại các trường của Trung Quốc và của Quốc tế Cộng sản. Từ khi thành lập Đảng cộng sản Việt Nam đầu năm 1930 trở đi, Hồ Chí Minh luôn luôn chú ý huấn luyện và xây dựng lực lượng cán bộ. Chính do như vậy, cho nên Đảng đã lãnh đạo thành công Cách mạng Tháng Tám năm 1945, lãnh đạo thắng lợi hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
1.3. Yêu cầu đối với cán bộ cách mạng
Yêu cầu về tư cách. Có ba nội dung chủ yếu nhất sau đây có tính bao quát toàn bộ các mặt của nó mà Hồ Chí Minh hay nêu:
Một là: Cán bộ phải suốt đời phấn đấu hy sinh cho lý tưởng của Đảng.
Hai là: Người cán bộ phải đặt quyền lợi của Đảng, của Tổ quốc lên trên hết và lên trước hết, “ngoài lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc, thì Đảng không có lợi ích gì khác. Cho nên Đảng phải ra sức tổ chức nhân dân, lãnh đạo nhân dân để giải phóng nhân dân và để nâng cao sinh hoạt, văn hoá, chính trị của nhân dân. Vì toàn dân được giải phóng, tức là Đảng được giải phóng” Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, Tập 5, tr. 250.
. Hồ Chí Minh đề ra nguyên tắc: “Lợi ích cá nhân nhất định phải phục tùng lợi ích của Đảng. Lợi ích của mỗi bộ phận nhất định phải phục tùng lợi ích của toàn thể. Lợi ích tạm thời nhất định phải phục tùng lợi ích lâu dài” Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, Tập 5 5, tr. 250.
.
Trong việc chống chủ nghĩa cá nhân, Hồ Chí Minh rất coi trọng lợi ích cá nhân, miễn là lợi ích cá nhân của cán bộ là phù hợp với lợi ích của Đảng, của cách mạng. Trong cuộc sống, nhiều khi lợi ích cá nhân phù hợp với lợi ích của Đảng, nhưng cũng có lúc không, vì thế Hồ Chí Minh khẳng định: “Nếu gặp khi lợi ích chung của Đảng mâu thuẫn với lợi ích riêng của cá nhân, thì phải kiên quyết hy sinh lợi ích của cá nhân cho lợi ích của Đảng. Khi cần đến tính mệnh của mình cũng phải vui lòng hy sinh cho Đảng” Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, Tập 5 ,tr. 251.
; đảng viên và cán bộ “phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết, lên trước hết…Vô luận lúc nào, vô luận việc gì, đảng viên và cán bộ phải đặt lợi ích của Đảng ra trước, lợi ích của cá nhân lại sau. Đó là nguyên tắc cao nhất của Đảng. Đó là “tính Đảng”” Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, Tập 5 , tr. 251.
.
Ba là: Người cán bộ phải có một đời tư trong sáng, phải là một tấm gương sáng trong cuộc sống. Điểm nổi bật của Hồ Chí Minh so với nhiều danh nhân khác ở trong nước và trên thế giới là toàn bộ cuộc đời của Người là tấm gương sáng về đạo đức. Sức mạnh của đạo đức đã lan toả, thẩm thấu trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc, trở thành giá trị cốt lõi, vĩnh hằng của văn hoá trong các thế hệ các dân tộc ở trên đất nước Việt Nam. Nếu cán bộ không có một đời tư trong sáng thì sẽ không thuyết phục, vận động được nhân dân trong các phong trào cách mạng. Người cán bộ, ngoài việc phải hoàn thành tốt công việc chung của Đảng đã được phân công, lại phải còn là một thành viên tốt của gia đình, là một người công dân tốt, kiểu mẫu ở khu dân cư và ngoài xã hội, sống cuộc sống chan hoà, gần gũi với mọi người chung quanh trong cùng bản làng, phum, sóc, thôn xóm…
Yêu cầu về phẩm chất, năng lực. Trước hết, cán bộ phải có đạo đức cách mạng. Đây là yêu cầu “gốc”, “nguồn” đúng như Hồ Chí Minh đã nêu. Đây cũng chính là quan điểm xuất phát, một yêu cầu có tính chất tiên quyết đối với cán bộ cách mạng. Không ít lần, Hồ Chí Minh lưu ý rằng: “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài” Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, Tập 5, tr. 249.
, người cán bộ cách mạng không phải là người “làm quan cách mạng”, không phải vào Đảng, không phải làm cán bộ là để “thăng quan tiến chức”, không phải như dưới thời thực dân-phong kiến “một người làm quan cả họ được nhờ”, không phải làm cán bộ để “đè đầu cưỡi cổ dân chúng như dưới thời thực dân-phong kiến”, v.v. Người cán bộ phải tận tụy với sự nghiệp cách mạng, phải trung thành với Đảng, với Tổ quốc, “phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng” Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, Tập 5, tr. 249.
. Trung thành ở đây trước hết đòi hỏi cán bộ phải hoàn thành tốt, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình được giao, kể cả trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và kể cả khi thời bình, xây dựng đất nước; khi gặp thắng lợi thì không kiêu căng, chủ quan, tự mãn; khi gặp khó khăn, gian khổ, trở ngại thì không hoang mang, dao động; “vô luận hoàn cảnh thế nào, lòng họ cũng không thay đổi” Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, Tập 5, tr. 278.
; phải luôn luôn có ý thức và hành động bảo vệ Đảng, bảo vệ Tổ quốc. Trung thành với cách mạng là phải hết lòng, hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân, là việc gì có lợi cho dân, dù nhỏ, cũng gắng sức làm, việc gì có hại cho dân, dù nhỏ, cũng hết sức tránh.
Đồng thời, về năng lực, cán bộ phải có năng lực lãnh đạo, tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân. Muốn thế, phải “chuyên”. Đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, quyết định của đoàn thể chỉ biến thành hiện thực trong cuộc sống, ngoài yêu cầu về việc đường lối, chủ trương, chính sách, quyết định đó phải đúng đắn, còn có việc phải tổ chức lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân ra sức thực hiện thắng lợi. Không như thế thì đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, quyết định của đoàn thể nhân dân chỉ nằm trên giấy.
Cán bộ phải có mối liên hệ mật thiết với nhân dân. Đây là yêu cầu đối với cán bộ ở tất cả các thời kỳ cách mạng, nhưng trong thời kỳ Đảng cầm quyền càng đặc biệt quan trọng hơn. Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng, người cán bộ, bằng hành động thực tế của mình, phải làm cho dân tin, dân yêu, dân kính, dân phục; đừng có mang danh cộng sản để đè đầu cưỡi cổ nhân dân; phải yêu dân, kính dân; phải việc gì có lợi cho dân dù nhỏ cũng cố gắng làm, việc gì có hại cho dân dù nhỏ cũng cố tránh; phải khổ trước thiên hạ và vui sau thiên hạ; phải vừa là người lãnh đạo vừa là người đày tớ thật trung thành của nhân dân.
Cán bộ phải luôn luôn học tập để nâng cao trình độ về mọi mặt. Học suốt đời, học không biết chán, dạy không biết mỏi (Nho giáo); học, học nữa và học mãi (V.I.Lênin)… đó là những điều mà Hồ Chí Minh đã chú ý vận dụng vào trong cuộc sống của chính bản thân mình và giáo dục, rèn luyện cho cán bộ, đảng viên. Hồ Chí Minh quan niệm: một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Hồ Chí Minh cho rằng, ngày nay không thể lãnh đạo chung chung được nữa, rằng, chỉ có lòng nhiệt tình không thôi thì chưa đủ, mà còn phải có tri thức nữa. Hồ Chí Minh suốt đời chăm chỉ học tập, già rồi, cuối đời rồi vẫn còn học; học ở nhà trường, học trong cuộc sống, và quan niệm của Hồ Chí Minh học không phải là để có bằng cấp, để thăng chức.
Cán bộ phải có phong cách tốt. Theo Hồ Chí Minh, muốn có phong cách công tác tốt, phải phòng và chống tác phong chủ quan, tác phong quan liêu, đại khái, ham chuộng hình thức, phô trương cho oai, làm đại khái, qua loa. Phải sâu sát, tỷ mỉ; nắm việc lớn, phải giải quyết bắt dầu từ những việc cơ bản, không cận thị (tức là chỉ nhìn gần mà không nhìn xa trông rộng được), có đầu óc quan sát; phải chân đi, miệng nói, tay làm, không như thế thì đầy túi quần thông cáo, đầy túi áo công văn nhưng công việc không chạy.
Hồ Chí Minh đã nêu lên những vấn đề lý luận cơ bản nhất về quy luật Đảng thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn bản thân mình. Điều này đúng như điều tất yếu mà Hồ Chí Minh đã nêu: Đảng ta không phải trên trời sa xuống. Nó ở trong xã hội mà ra, do đó, Đảng phải thường xuyên phải tự đổi mới, tự chỉnh đốn, và đó chính là quy luật phát triển của một Đảng Mác – Lênin, một Đảng chiến đấu dưới lá cờ của chủ nghĩa cộng sản, vì một xã hội tốt đẹp, vì sự nghiệp cao cả là giải phóng con người.
Riêng về phong cách công tác của cán bộ, Hồ Chí Minh nhấn mạnh tới các vấn đề chủ yếu: Sửa cách lãnh đạo về công tác cán bộ; Biết chọn trình tự ưu tiên công việc; Thường xuyên tổng kết công tác; Phải luôn luôn có sáng kiến; Sâu sát, gần gũi nhân dân, có tinh thần phụ trách trước dân; Phải kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ; Có lãnh đạo chung, nhưng có chỉ đạo điểm.
1.4. Quan điểm của Hồ Chí Minh về công tác cán bộ
Phạm vi của vấn đề công tác cán bộ trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất rộng, nhưng tập trung chủ yếu một số nội dung sau đây:
- Hiểu và đánh giá đúng cán bộ để lựa chọn và sử dụng đúng cán bộ. Đây là yêu cầu xuất phát để tiến hành các mặt khác của công tác cán bộ. Nếu không đánh giá đúng cán bộ và tình hình công tác cán bộ thì không thể đề ra chính sách cán bộ một cách đúng đắn được. Hồ Chí Minh cho rằng, cứ mỗi lần xem xét lại cán bộ, một mặt sẽ tìm thấy những nhân tài mới, mặt khác thì những người yếu kém sẽ bị lòi ra. Hiểu và đánh giá đúng cán bộ và tình hình công tác cán bộ phải có những yêu cầu riêng. Đồng thời, hiểu và đánh giá đúng cán bộ phải có có những chuẩn mực phù hợp với từng thời kỳ, từng địa phương, từng lĩnh vực, đánh giá một cách hoàn toàn công minh, khách quan. Yêu cầu về mặt này cho chúng ta thấy không thể đem cái thước đo chất lượng của cán bộ vùng thành thị để đo chất lượng cán bộ vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa; không thể đem thước đo chất lượng cán bộ lĩnh vực này vào đo chất lượng cán bộ ở lĩnh vực khác.
Người làm công tác cán bộ khi đánh giá, xem xét cán bộ phải “tự biết mình”, tức là biết được “sự phải trái của mình”, sửa chữa những khuyết điểm của mình, để “mình càng ít khuyết điểm thì cách xem xét cán bộ càng đúng”, như thế mới không phạm những căn bệnh: 1. Tự cao tự đại; 2. Ưa người ta nịnh mình; 3. Do lòng yêu, ghét của mình mà đối với người; 4. Đem một cái khuôn khổ nhất định, chật hẹp mà lắp vào tất cả mọi người khác nhau. Hồ Chí Minh cho rằng, nếu phạm một trong bốn bệnh đó thì người làm công tác cán bộ cũng như mắt đã mang kính có màu, không bao giờ thấu rõ cái mặt thật của những cái mình trông.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng, xem xét một người cán bộ không nên chỉ xem xét mặt bên ngoài, xem xét qua một việc, mà phải xem xét kỹ cả toàn bộ công việc của người cán bộ đó. Quan niệm của Hồ Chí Minh là: trong thế giới, cái gì cũng biến hoá, tư tưởng con người cũng vậy, cho nên xem xét cán bộ phải toàn diện, xem xét cả một quá trình công tác của người cán bộ. Có người trước đây có sai lầm nhưng nay đã sửa chữa được, có người nay không có sai lầm nhưng sau lại mắc sai lầm, có người trước đây đi theo cách mạng nay lại phản cách mạng, ngược lại có người trước đây không theo cách mạng nay lại tham gia cách mạng… nghĩa là quá khứ, hiện tại, tương lai của mọi người không phải luôn luôn giống nhau. Do đó, xem xét cán bộ phải xem xét cả lịch sử của họ, toàn bộ công việc của họ.
Hồ Chí Minh nêu lên quan điểm: “Ai mà hay khoe công việc, hay a dua, tìm việc nhỏ mà làm, trước mặt thì theo mệnh lệnh, sau lưng thì trái mệnh lệnh, hay công kích người khác, hay tự tâng bốc mình, những người như thế, tuy họ làm được việc, cũng không phải cán bộ tốt. Ai cứ cắm đầu làm việc, không ham khoe khoang, ăn nói ngay thẳng, không che giấu khuyết điểm của mình, không ham việc dễ, tránh việc khó, bao giờ cũng kiên quyết làm theo mệnh lệnh của Đảng, vô luận hoàn cảnh thế nào, lòng họ cũng không thay đổi, những người như thế, dù công tác kém một chút cũng là cán bộ tốt. Người ở đời, ai cũng có chỗ tốt và chỗ xấu. Ta phải khéo nâng cao chỗ tốt, khéo sửa chữa chỗ xấu cho họ”Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, Tập 5, tr. 278 – 279
.
Phải “khéo dùng cán bộ”, “dùng người đúng chỗ, đúng việc”. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: dùng người như dùng gỗ, người thợ khéo thì gỗ to, nhỏ, thẳng, cong đều tùy chỗ mà dùng được. Hồ Chí Minh phê bình rằng, thường chúng ta không biết tùy tài mà dùng người, thí dụ: thợ rèn thì bảo đi đóng tủ, thợ mộc thì bảo đi rèn dao, thành thử hai người đều lúng túng, nếu biết tùy tài mà dùng người thì hai người đều thành công.
Hồ Chí Minh phê bình nghiêm khắc tệ “kéo bè kéo cánh” trong công tác cán bộ. Tệ này phát sinh từ bệnh bè phái, ai hợp với mình thì thì dù người xấu cũng cho là tốt, việc dở cũng cho là hay, rồi che đậy cho nhau, ủng hộ lẫn nhau; ai không hợp với mình thì người tốt cũng cho là người xấu, việc hay cũng cho là dở, rồi tìm cách dèm pha, nói xấu, tìm cách dìm người đó xuống. Khuyết điểm này, như Hồ Chí Minh chỉ ra, nó rất tai hại, nó làm Đảng bớt mất nhân tài và không thực hành được đầy đủ chính sách của mình, làm hại sự thống nhất, nó làm mất sự thân ái, đoàn kết đồng chí, gây ra những mối nghi ngờ…
Hồ Chí Minh nêu ra quan điểm toàn diện khi xem xét để đề bạt, bổ nhiệm cán bộ: Khi cất nhắc một cán bộ, cần phải xét rõ người đó có gần gụi quần chúng, có được quần chúng tin cậy và mến phục không. Lại phải xem người ấy xứng với việc gì. Nếu người có tài mà dùng không đúng tài của họ, cũng không được việc. Nếu cất nhắc không cẩn thận, không khỏi đem người bô lô ba la, chỉ nói mà không biết làm, vào những địa vị lãnh đạo, như thế rất có hại.
Hồ Chí Minh phê phán những bệnh sau đây: 1. Ham dùng người bà con, anh em quen biết, bầu bạn, vì cho họ tốt hơn người bên ngoài; 2. Ham dùng những kẻ khéo nịnh hót mình mà chán ghét những người chính trực; 3. Ham dùng những người tính tình hợp với mình mà tránh những người tính tình không hợp với mình.
Hồ Chí Minh đưa ra quan điểm dùng cán bộ đúng với 5 nội dung:
- Phải có độ lượng vĩ đại thì mới có thể có thái độ và tinh thần chí công vô tư đối với cán bộ, không có thành kiến, khiến cán bộ không bị bỏ rơi.
- Phải có tinh thần rộng rãi mới có thể gần gụi với những người mà mình không ưa.
- Phải có tính chịu khó dạy bảo mới có thể nâng đỡ những cán bộ còn kém, giúp cho họ tiến bộ.
- Phải sáng suốt mới khỏi bị bọn vu vơ bao vây mà cách xa cán bộ tốt.
- Phải có thái độ vui vẻ, thân mật, cán bộ mới vui lòng gần gụi mình.
- Phải chống chủ nghĩa biệt phái, cục bộ, địa phương, hẹp hòi. Hồ Chí Minh hay nhấn mạnh đến việc chống cánh hẩu, họ hàng, thân quen trong công tác cán bộ nói chung cũng như trong chính sách cán bộ nói riêng. Người phê bình một cách nghiêm khắc việc ưa kẻ nịnh người làm công tác cán bộ, tìm cách lợi dụng chức quyền để đưa anh em, họ hàng, bạn bè thân quen vào chức này chức nọ. Hồ Chí Minh chỉ rõ tác hại của bệnh hẹp hòi, bệnh địa phương cục bộ. Theo Người, những bệnh chủ nghĩa địa phương, chủ nghĩa bản vị, chủ nghĩa cá nhân, khuynh hướng tham danh vọng, tham địa vị, dìm người giỏi, v.v. đều do bệnh hẹp hòi mà ra.
Trong vấn đề này, Hồ Chí Minh cũng đề cập việc kết hợp cán bộ tại chỗ với cán bộ do cấp trên điều về. Người phê bình do hẹp hòi mà cán bộ cấp trên phái đến và cán bộ địa phương không đoàn kết chặt chẽ. Hồ Chí Minh cho rằng, phải chữa cho “tiệt nọc” bệnh hẹp hòi, khắc phục kèn cựa, mất đoàn kết giữa cán bộ trên điều về và cán bộ tại chỗ. Người viết: “Phải biết rằng: chỉ có hai hạng cán bộ đó đoàn kết chặt chẽ và chỉ có cán bộ địa phương ngày càng thêm nhiều, thì nền tảng của Đảng mới phát triển vững vàng. Cán bộ phái đến, trình độ thường cao hơn, kinh nghiệm nhiều hơn. Nhưng cán bộ địa phương lại biết rõ nhân dân, quen thuộc công việc hơn. Hai hạng cán bộ phải giúp đỡ nhau, bồi đắp nhau, thì công việc mới chạy” Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, Tập 5, tr. 236
. Theo quan điểm của Người, tốt nhất là kiếm cán bộ tại chỗ, đào tạo, bồi dưỡng, đề bạt, sử dụng cán bộ tại chỗ; song nếu không có hoặc thiếu thì điều động cán bộ ở nơi khác về. Chúng ta thấy rằng, đây chính là thực hiện quan điểm coi Đảng ta là một cơ thể sống, đội ngũ cán bộ là một đội ngũ thống nhất, cán bộ có thể và cần phải được bố trí công tác ở bất cứ địa bàn nào miễn là người cán bộ đó có đủ đức và tài, có tính đến đặc điểm, yêu cầu của từng vùng, từng lĩnh vực.
Vấn đề giải quyết mối quan hệ giữa cán bộ mới và cán bộ cũ cũng được Hồ Chí Minh đề cập không ít trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng. Hồ Chí Minh chỉ rõ tính tất yếu, tự nhiên, hợp quy luật của vấn đề này, khi cho rằng: “Số cán bộ cũ có ít, không đủ cho Đảng dùng. Đồng thời, theo luật tự nhiên, già thì phải yếu, yếu thì phải chết. Nếu không có cán bộ mới thế vào, thì ai gánh vác công việc của Đảng” Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, Tập 5, tr. 237
. Hồ Chí Minh phân tích rằng, cán bộ mới “vì công tác chưa lâu, kinh nghiệm còn ít, có nhiều khuyết điểm. Nhưng họ lại có những ưu điểm hơn cán bộ cũ: họ nhanh nhẹn hơn, thường giàu sáng kiến hơn” Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, Tập 5, tr. 237
. Do đó, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Cán bộ cũ phải hoan nghênh, dạy bảo, dìu dắt, yêu mến cán bộ mới…Hai bên phải tôn trọng nhau, giúp đỡ nhau, học lẫn nhau, đoàn kết chặt chẽ với nhau…Cán bộ cũ thường giữ địa vị lãnh đạo. Vì vâỵ, nếu từ nay, quan hệ giữa hai hạng cán bộ ấy không ổn thoả, thì cán bộ cũ phải chịu trách nhiệm nhiều hơn. Như thế mới chữa khỏi bệnh hẹp hòi” Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, Tập 5, tr. 237
.
- Phải chú trọng đến công tác đề bạt cán bộ. Hồ Chí Minh lưu ý việc phải xem xét thật kỹ trước khi đề bạt cán bộ, sau khi đã đề bạt rồi thì phải theo dõi, giúp đỡ, kiểm tra người cán bộ đó; nếu không như thế thì hỏng việc. Hồ Chí Minh viết rõ: cất nhắc cán bộ không nên làm theo lối giã gạo, nghĩa là trước khi cất nhắc không xem xét kỹ, khi cất nhắc rồi thì không giúp đỡ họ, khi họ sai lầm thì đẩy họ xuống, chờ lúc họ làm khá lại cất nhắc lên; một cán bộ bị nhắc lên thả xuống ba lần như thế là hỏng cả đời. Hồ Chí Minh bày tỏ quan điểm quý trọng cán bộ khi cho rằng: “Đảng phải nuôi dạy cán bộ, như người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu. Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một người có ích cho công việc chung của chúng ta” Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, Tập 5, tr. 273
.
- Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Trong công tác cán bộ, phải chú ý việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, mà Hồ Chí Minh cho rằng, đây là công việc gốc của Đảng khi đặt trong mối quan hệ với nội dung vai trò của cán bộ. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là một công việc quan trọng, phải được tiến hành thường xuyên. Ở đây, có mấy điểm đáng chú ý mà Hồ Chí Minh đã nêu:
- Học phải thiết thực, “lấy tự học làm cốt. Do thảo luận và chỉ đạo giúp vào” Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, Tập 5, tr. 273
.
- Học phải đi đôi với hành, lý luận phải gắn với thực tế.
- Sắp xếp thời gian và bài học phải hợp lý.
- Tuyệt đối chống bệnh chủ quan, hẹp hòi, ba hoa.
- Các tài liệu huấn luyện phải do cơ quan lãnh đạo xét kỹ.
- Những giờ học tập đều tính như những giờ làm việc.
- Khi cất nhắc cán bộ, phải xem kết quả học tập cũng như kết quả công tác khác mà định.
- Phải lựa chọn rất cẩn thận những nhân viên phụ trách việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
- Những người lãnh đạo phải tham gia giảng dạy các lớp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của Đảng.
- Đầu tư cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải có kinh phí tương xứng với yêu cầu, “không nên bủn xỉn về các khoản chi tiêu trong việc huấn luyện” Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, Tập 5, tr. 273
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ có ý nghĩa và thực tiễn sâu sắc. Đó là những quan điểm cơ bản chỉ đạo chung vào công tác đổi mới và chỉnh đốn Đảng trong tất cả các thời kỳ hoạt động của Đảng, đặc biệt trong thời kỳ cách mạng hiện nay, thời kỳ Đảng tiếp tục cầm quyền lãnh đạo sự nghiệp phát triển đất nước vì những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
Chương 2 . Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ trong công tác đánh giá cán bộ hiện nay
2.1. Thực trạng chung
Nếu nói cán bộ là một trong những khâu quan trọng quyết định thành công hay thất bại của công tác, thì đánh giá là khâu rất quan trọng trong việc sử dụng cán bộ. Đánh giá cán bộ chính xác là cơ sở cho việc bố trí, bổ nhiệm, đề bạt cán bộ. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy, mỗi lần xem xét lại nhân lực, một mặt thì tìm thấy những nhân tài mới, mặt khác sẽ tìm ra những cán bộ thiếu năng lực và tư cách...
Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII về Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã xác định: “Trách nhiệm đánh giá cán bộ thuộc về cấp ủy, tổ chức đảng nơi cán bộ sinh hoạt, cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp của cán bộ và bản thân cán bộ tự đánh giá”. Đồng thời, Nghị quyết cũng yêu cầu “Cán bộ được thông báo ý kiến nhận xét của cơ quan có thẩm quyền về bản thân mình, được trình bày ý kiến, có quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp trên, nhưng phải chấp hành ý kiến kết luận của cơ quan có thẩmquyền”.
Thời gian qua, chúng ta đã triển khai tương đối đồng bộ các khâu trong công tác cán bộ như đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng và thực hiện chính sách cán bộ. Qua sơ kết, tổng kết công tác cán bộ của các địa phương, ban, ngành và trong cả nước thời gian qua cho thấy, công tác này có những chuyển biến trong nhận thức, trong quan điểm về đánh giá cán bộ. Đánh giá cán bộ không đơn thuần chỉ căn cứ vào thành tích cũ, quá trình công tác, trình độ học lực, thành phần lý lịch, mà đã chú trọng hơn về tiêu chuẩn cán bộ, nhất là về phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực, kiến thức, lấy hiệu quả thực hiện nhiệm vụ, chức trách được giao trong điều kiện công tác cụ thể làm thước đo chủ yếu. Công tác đánh giá cán bộ đã có sự phối hợp chặt chẽ hơn với các cấp ủy và đã thực hiện tốt hơn nguyên tắc tập thể, dân chủ, công khai tự phê bình và phê bình; cá nhân được đánh giá đã nghiêm túc tự đánh giá, quần chúng bước đầu tham gia đánh giá cán bộ, đánh giá cán bộ có văn bản; một số nơi cán bộ được thông báo ý kiến nhận xét của cơ quan có thẩm quyền... Song nhiều nơi đều thừa nhận công tác đánh giá cán bộ là một khâu rất khó và còn nhiều yếu kém. Đại hội X của Đảng cũng nêu rõ: “Nhiều khuyết điểm, yếu kém trong công tác cán bộ chậm được khắc phục... Chậm đổi mới cơ chế, phương pháp và quy trình đánh giá, bổ nhiệm, miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ”. Vì khó và yếu nên nhiều nơi nhận xét, đánh giá cán bộ chưa thật sự khách quan, đầy đủ, chính xác.
Quan điểm và phương pháp đánh giá cán bộ một số nơi chưa đổi mới. Trong nhận xét, đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý theo nhiệm kỳ hằng năm và cuối nhiệm kỳ, hay trước khi bổ nhiệm, một số nơi chưa căn cứ vào nhiệm vụ chính trị, năng lực thực tế, hiệu quả hoàn thành nhiệm vụ, phẩm chất đạo đức, chưa đúng quy trình, có nơi chưa thành nền nếp, còn biểu hiện hình thức, chủ quan, tình cảm, nể nang, nhất là chưa phát huy được nguyên tắc tập trung dân chủ. Có những nơi cấp ủy, tổ chức đảng nơi cán bộ sinh hoạt, thậm chí là người lãnh đạo, quản lý trực tiếp và cơ quan quản lý cấp trên chưa sâu sát, chưa nắm chắc, chưa quản lý chặt chẽ, thiếu thông tin và chưa thực sự hiểu biết toàn diện, sâu sắc về cán bộ. Có những nơi, những người có trách nhiệm đánh giá cán bộ, nhưng chưa thật sự công tâm, khách quan, vì động cơ cá nhân, hoặc định kiến, chấp nhặt đối với cán bộ, nên đánh giá cán bộ nhiều lúc, nhiều nơi vẫn nặng về ý chí, chủ quan, cảm tính của người đứng đầu. Do vậy, đánh giá không thể đúng đắn, chính xác về cán bộ, không ít trường hợp đánh giá hoàn toàn không đúng về cán bộ. Nhiều nơi, nhiều người chưa thực hiện chế độ tự phê bình và phê bình một cách thành khẩn, ráo riết, thường xuyên, còn tình trạng nể nang, ngại đụng chạm, “bằng mặt nhưng không bằng lòng”, không dám đấu tranh; hoặc cũng có tình trạng lợi dụng phê bình để hạ bệ, bôi nhọ, công kích nhau bằng cả những thủ đoạn đê hèn, những thông tin thiếu chuẩn xác, thậm chí đơm đặt, dựng chuyện... không được điều tra xác minh cụ thể, hoặc có thì cũng làm lỡ nhịp hay cơ hội để đề bạt sử dụng.
Có những nơi hằng năm đều tiến hành nhận xét, đánh giá cán bộ nhưng qua loa, chiếu lệ. Không ít nơi chưa thực hiện dân chủ, công khai trong thảo luận, bàn bạc, nhận xét cán bộ; gần như kết quả đánh giá cán bộ của cơ quan có thẩm quyền được giữ kín, không thông báo cho cán bộ được đánh giá. Vì vậy, nhiều cán bộ thực sự không biết được cấp trên đã nhận xét, đánh giá về bản thân mình như thế nào; cho nên họ cũng không có cơ hội trình bày ý kiến khi có nhận xét chưa chính xác về mình, tạo ra sự hoài nghi, hoang mang, không yên tâm và mất lòng tin ở cán bộ .
Từ chỗ đánh giá, nhận xét cán bộ chưa chính xác, nên có những nơi đại đa số cán bộ đều đạt xuất sắc hoặc tiên tiến, nhưng nhiệm vụ chung của đơn vị lại chưa có chuyển biến tích cực, hoặc chưa hoàn thành. Một số cán bộ được đề bạt, bổ nhiệm nhưng phát huy tác dụng không cao; cán bộ bất tài, kém đức, cơ hội, trục lợi cá nhân chậm bị thay đổi, hoặc được điều chuyển đến vị trí tốt hơn, thậm chí được nhanh chóng “thăng quan tiến chức”, còn những người thực đức, thực tài thì bị bỏ sót, không được trọng dụng, thậm chí bị vùi dập bởi những thủ đoạn khác nhau. Tệ hơn nữa, có người đã phải thốt lên rằng, khuyết điểm chính của người nọ, người kia không được trọng dụng là vì “bộc lộ trình độ hơn sếp”.
2.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao công tác đánh giá cán bộ
2.2.1. Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý, đội ngũ làm công tác tổ chức cán bộ vững mạnh
Đây là đội ngũ có vai trò rất quan trọng trong xây dựng đội ngũ cán bộ, trong việc đánh giá, sắp xếp, bố trí, bổ nhiệm, đề bạt cán bộ. Do vậy, đội ngũ này phải thật sự là những người hội đủ cả đức lẫn tài, phải vừa có tâm vừa có tầm; phải biết nhìn xa, trông rộng, phải hiểu biết về con người, thực sự quan tâm và yêu thương cán bộ, phải thật sự vô tư trong sáng, phải có tư chất của người làm công tác tổ chức cán bộ, phải được đào tạo, huấn luyện nghiệp vụ về công tác này.... Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, đội ngũ này phải tránh những chứng bệnh “tự cao, tự đại”, “ưa nịnh”, “do lòng yêu ghét của mình mà đối với người”, “Đem một cái khuôn khổ nhất định, chật hẹp mà lắp vào tất cả mọi người khác nhau”. Theo Người, cán bộ lãnh đạo mà phạm một trong bốn bệnh đó thì cũng như mắt đã mang kính màu, không bao giờ thấu rõ mặt thật của những cái mình trông. Bởi vì, người lãnh đạo mà không khiêm tốn, luôn tự cao, tự đại thì không nhìn thấy, không thừa nhận người khác tài giỏi hơn mình; thậm chí có nhìn thấy nhưng lại sinh lòng đố kỵ, sợ người khác hơn mình, nên muốn dìm người giỏi, hại người ngay.
Bệnh thích xu nịnh dễ đưa đến lựa chọn lầm lẫn, cất nhắc nhầm kẻ xấu, bất tài, lại giỏi nịnh hót người trên, không muốn cất nhắc, đề bạt hoặc bỏ sót người ngay thẳng, tài giỏi thật sự. Đối xử với cán bộ mà dựa vào tình cảm cá nhân, vị kỷ cũng khiến nhìn người không đúng. Hơn nữa, xét người phải có cái nhìn rộng rãi, thoáng đạt, không nên nhìn mọi người theo một khuôn khổ chật hẹp, suy nghĩ nông cạn, phiến diện, chủ quan.
Muốn hiểu biết đúng những phải trái ở người khác, hiểu biết cán bộ, thì đội ngũ lãnh đạo và làm công tác tổ chức cán bộ, trước hết phải biết rõ sự phải trái của mình, không hiểu được mình thì khó mà có thể hiểu người. Đội ngũ này phải biết sửa chữa khuyết điểm của mình vì “mình càng ít khuyết điểm thì cách xem xét cán bộ càng đúng”, và mình phải là những người “độ lượng vĩ đại”; phải thật sự công tâm, khách quan, phải xác định rõ công tác cán bộ không phải là việc riêng ai, mà là việc chung cho nhân dân, cho đất nước; phải có bản lĩnh và am hiểu, thực hiện đúng quy trình, quy chế trong công tác đánh giá cán bộ.
2.2.2. Đánh giá cán bộ một cách toàn diện, chú trọng lấy kết quả hoàn thành nhiệm vụ theo chức trách được giao làm thước đo
Để làm tốt việc đánh giá cán bộ, trước hết từng cấp, từng ngành, từng địa phương, đơn vị phải trên cơ sở tiêu chuẩn chung để xác định tiêu chuẩn về mọi mặt cho từng chức danh cán bộ; cán bộ căn cứ vào đó tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu; đồng thời phải có cơ chế phân công, giao trách nhiệm rõ ràng trên tinh thần “cá nhân phụ trách”. Trên cơ sở những tiêu chuẩn đó, cũng như hiệu quả hoàn thành nhiệm vụ công tác thực tế theo chức trách được giao của cán bộ mà xem xét đánh giá. Chỉ có dựa vào tiêu chuẩn, hiệu quả của toàn bộ công việc mà xét chất lượng người cán bộ, mới thấy rõ mặt mạnh, mặt yếu, mặt đúng và mặt chưa đúng ở cán bộ.
Đánh giá năng lực cán bộ nên lưu ý các khía cạnh về kiến thức, sự hiểu biết và sự vận dụng kiến thức đó vào cuộc sống. Ngăn ngừa, khắc phục những biểu hiện chưa đúng đắn, những tác động, chi phối không cần thiết trong đánh giá cán bộ; tránh những định kiến chủ quan trong đánh giá cán bộ. Điều này Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhắc nhở “phê bình việc” chứ không phải “phê bình người”, tức là nhận xét, đánh giá công việc cán bộ làm, chứ không phải kẻ vạch, công kích vào tính cách riêng của bản thân người cán bộ.
Trong thời kỳ mới, phải đặc biệt quan tâm giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên để họ thật sự là tấm gương sáng về phẩm chất đạo đức. Khi đánh giá về đạo đức phải xem xét ở các khía cạnh về lối sống, sinh hoạt, đối nhân xử thế, ý thức kỷ luật.... Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: việc nhận xét cán bộ phải bao quát mọi mặt, từ công tác, sinh hoạt đến cách đối xử của họ. Người nói: “Chẳng những xem xét công tác của họ, mà còn phải xét cách sinh hoạt của họ. Chẳng những xem xét cách viết, cách nói của họ, mà còn phải xem xét việc làm của họ có đúng với lời nói, bài viết của họ hay không. Chẳng những xem xét họ đối với ta thế nào, mà còn phải xem xét họ đối với người khác thế nào.... Phải biết ưu điểm của họ, mà cũng phải biết khuyết điểm của họ”.
Để làm được như lời chỉ dẫn ấy, đòi hỏi người làm công tác này phải tiến hành công việc một cách công phu, thận trọng, luôn sâu sát, am hiểu cán bộ, khắc phục bệnh quan liêu của cơ quan lãnh đạo và người đứng đầu cơ quan lãnh đạo, cơ quan tham mưu trong công tác cán bộ để không còn tình trạng quản lý cán bộ lỏng lẻo, nắm cán bộ không sát, thiếu thông tin chính xác...
Công tác đánh giá cán bộ nhất thiết còn phải thực hiện nghiêm túc theo yêu cầu của Đại hội X của Đảng là “lấy hiệu quả hoàn thành nhiệm vụ chính trị làm thước đo phẩm chất và năng lực cán bộ. Đánh giá cán bộ lãnh đạo phải căn cứ vào hiệu quả công tác, khả năng đoàn kết, quy tụ, phát huy sức mạnh của tập thể, tạo ra sự tiến bộ và kết quả cụ thể trong ngành, lĩnh vực, địa phương, đơn vị mình phụ trách; không tham nhũng, lãng phí, quan liêu và kiên quyết chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu”.
2.2.3. Đánh giá cán bộ phải xem xét cả một quá trình.
Khi đánh giá cán bộ không thể chỉ xét một lúc, một thời điểm, một thời gian ngắn, hoặc chỉ thấy hiện tại, mà cần có thời gian dài, có một quá trình. Bởi vì, mọi việc đều có sự biến chuyển, con người cũng có sự thay đổi về nhiều mặt, cho nên nhận xét về một con người không thể cố định bất biến mà phải trong quá trình vận động, biến đổi. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Trong thế giới, cái gì cũng biến hóa. Tư tưởng của người cũng biến hóa. Vì vậy cách xem xét cán bộ, quyết không nên chấp nhất, vì nó cũng phải biến hóa....
Một người cán bộ khi trước có sai lầm, không phải vì thế mà sai lầm mãi. Cũng có cán bộ đến nay chưa bị sai lầm, nhưng chắc gì sau này không phạm sai lầm? Quá khứ, hiện tại và tương lai của mọi người không phải luôn giống nhau”. Muốn đánh giá cán bộ đúng đắn, chính xác, người có trách nhiệm phải kiên nhẫn tìm hiểu, theo dõi cán bộ trong một thời gian dài. Do đó, người làm công tác này phải có kế hoạch thật chặt chẽ, hợp lý trong quản lý cán bộ, phải có các bước đánh giá phù hợp, khoa học, phải hợp lực với nhiều người, tham khảo ý kiến số đông trong đánh giá cán bộ. Muốn vậy, phải thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng và quần chúng.
2.2.4. Mở rộng dân chủ, công khai, minh bạch trong đánh giá cán bộ. Để cho tập thể và quần chúng tham gia đánh giá cán bộ.
Mỗi một con người có nhiều mối quan hệ ngang dọc, trên dưới, trong ngoài. Cán bộ là một thành viên của một tập thể, một cộng đồng, cùng làm việc, cùng sinh hoạt với nhau, nên cũng có rất nhiều mối liên hệ. Công việc mà cán bộ phụ trách thường liên quan đến nhiều việc, nhiều người. Do vậy, khi đánh giá cán bộ, bên cạnh ý kiến nhận xét của cán bộ lãnh đạo quản lý, của cơ quan tham mưu, còn phải coi trọng ý kiến của tập thể cán bộ và ý kiến của đông đảo quần chúng. Nếu chỉ riêng ý kiến nhận xét, đánh giá của cán bộ lãnh đạo quản lý, cán bộ phụ trách công tác tổ chức cán bộ thì sẽ không thể thấy hết mọi mặt của người cán bộ, mọi vấn đề có liên quan đến cán bộ. Những đồng nghiệp cùng làm việc với cán bộ từng thường xuyên cộng tác, gánh vác, chia sẻ trách nhiệm với nhau, gần gũi, trao đổi với nhau nhiều việc, nhiều vấn đề, cho nên họ hiểu nhau hơn là giữa cán bộ lãnh đạo với cấp dưới. Mỗi cán bộ cũng có nhiều mối quan hệ với quần chúng qua công tác, qua sinh hoạt và nhiều hoạt động khác. Quần chúng là đối tượng mà cán bộ hướng tới phục vụ. Vì vậy, ý kiến nhận xét của đông đảo quần chúng thường rất xác đáng. Ngoài việc mình nhận xét họ tốt hay xấu, còn phải xét số nhiều người khác đánh giá về họ như thế nào? Đối với cán bộ trong các ngành có đối tượng phục vụ đông đảo rất cần quan tâm đến ý kiến của đối tượng ấy. Chẳng hạn như ngành giáo dục - đào tạo, ngành y, các tổ chức đoàn thể.... khi đánh giá cán bộ không thể không tham khảo ý kiến nhận xét của học sinh, sinh viên, học viên, bệnh nhân, các cộng đồng xã hội....
2.2.5. Để cán bộ tự đánh giá và thực hiện công khai hóa kết quả đánh giá cán bộ.
Không ai có thể hiểu mình hơn chính bản thân mình. Do đó, trong công tác này phải để cho cán bộ tự đánh giá. Người lãnh đạo phải biết cách gợi mở, động viên, khuyến khích cán bộ tự đánh giá, đồng thời phải thực sự trân trọng, tin tưởng ở cán bộ, biết lắng nghe cán bộ. Có như vậy cán bộ mới cảm thấy yên tâm, không có điều gì băn khoăn, e ngại, và thực sự tự giác, bình tĩnh, thành khẩn trong nhận xét những ưu khuyết điểm ở mình. Trước khi đề bạt, bổ nhiệm, cất nhắc cán bộ cũng nên tạo cơ hội cho cán bộ tự nhận xét, đánh giá khả năng của mình trong việc đảm đương nhiệm vụ mới sắp tới. Các nơi cần thực hiện tốt hơn công khai hóa việc đánh giá cán bộ cho tập thể cơ quan, đơn vị đều biết. Cá nhân cán bộ được đánh giá nhất thiết phải được biết ý kiến đánh giá của tập thể, của những người có thẩm quyền, của lãnh đạo cấp trên về mình. Đồng thời cán bộ phải được có ý kiến phản hồi về những nhận xét chưa chính xác, chưa đúng đắn và có quyền đòi hỏi phải được điều chỉnh, sửa đổi, nhận xét lại về mình.
Mở rộng và phát huy dân chủ, thực hiện công khai và minh bạch trong đánh giá cán bộ sẽ huy động được tối đa trí tuệ của tập thể một cách thực chất, khắc phục những ảnh hưởng của ý chí, chủ quan của cá nhân, đồng thời góp phần đắc lực vào việc phát huy hiệu quả yếu tố cán bộ - quyết định mọi thắng lợi của công cuộc cách mạng nói chung, công tác cụ thể của từng cơ quan, tổ chức nói riêng.
2.2.6. Sáng suốt, tinh tường trong phân định cán bộ tốt và cán bộ kém.
Đội ngũ cán bộ nói chung là lực lượng chủ chốt của cách mạng, là tài sản quý báu của đất nước. Nhưng trong thực tế không phải người người đều tốt, mọi việc đều hay, không ít trường hợp “trắng - đen, vàng – thau” lẫn lộn; kẻ gian giảo lại quá khéo léo tinh vi che đậy những suy nghĩ, hành vi chưa đúng của mình, người chính trực lại thật thà, bộc trực dễ làm mất lòng người khác.... Thực tế muôn vàn phức tạp đó làm cho người lãnh đạo dễ bị nhầm lẫn, khó có thể xác định người tốt, kẻ xấu, huống chi trường hợp người lãnh đạo lại thiếu công tâm, khách quan.
Có nhiều cách thức, kinh nghiệm khác nhau khi nhìn nhận về con người. Những ai đã từng trải nghiệm, lăn lộn với cuộc sống, từng cộng tác, tiếp xúc, va chạm với nhiều hạng người... thường tích lũy những kinh nghiệm hay về nhìn nhận con người. Vốn là người đã từng bôn ba khắp năm châu, bốn biển, rất có kinh nghiệm về việc này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giúp chúng ta nhận diện những tính cách, hành vi của từng loại cán bộ, của người tốt, kẻ xấu:
“Ai mà hay khoe công việc, hay a dua, tìm việc nhỏ mà làm, trước mặt thì theo mệnh lệnh, sau lưng thì trái mệnh lệnh, hay công kích người khác, hay tự tâng bốc mình, những người như thế, tuy họ làm được việc, cũng không phải cán bộ tốt”
“Ai cứ cắm đầu làm việc, không ham khoe khoang, ăn nói ngay thẳng, không che giấu khuyết điểm của mình, không ham việc dễ, tránh việc khó, bao giờ cũng kiên quyết làm theo mệnh lệnh của Đảng, vô luận hoàn cảnh thế nào, lòng họ cũng không thay đổi, những người như thế, dù công tác kém một chút cũng là cán bộ tốt”.
Hoặc là, khi nói chữ chính trong các đức tính của con người Việt Nam thời đại mới, Người cũng giải thích rõ rằng, trên quả đất có hàng muôn triệu người và có thể chia làm hai hạng là người thiện và kẻ ác; trong xã hội tuy có trăm công nghìn việc, song những công việc ấy có thể chia làm hai thứ là việc chính và việc tà. “Làm việc chính, là người thiện. Làm việc tà là người ác”, “siêng năng (cần), tần tiện (kiệm), trong sạch (liêm), chính là thiện. Lười biếng, xa xỉ, tham lam, là tà, là ác”. Sự hiểu biết, óc quan sát tinh tường về con người, về cán bộ như vậy, chắc chắn sẽ giúp cho việc nhận xét, phân định cán bộ chính xác, rõ ràng, khoa học hơn.
Kết luận
Vấn đề cốt yếu trong tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một cuộc cách mạng mang tính toàn diện bao gồm 3 lĩnh vực: Chính trị tư tưởng, Cơ cấu kinh tế, Văn hóa xã hội. Nhưng muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội thì trước hết phải hoàn thiện được yếu tố chủ đạo là tư tưởng và con người xã hội chủ nghĩa , trong đó người cán bộ rất quan trọng bởi: “Con người xã hội chủ nghĩa là con người có đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, một lòng một dạ phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng”. Công tác đánh giá cán bộ là hết sức quan trọng trong thời đại ngày nay khi mà cả nước đang tiến lên theo con đường xã hội chủ nghĩa. Qua đó chúng ta càng thấm nhuần tư tưởng của Người trong công tác đánh giá cán bộ.
Tài liệu tham khảo
Đảng Cộng sản Việt Nam (2003): Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa IX - Văn kiện Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII .
3. Hồ Chí Minh,(2000), Toàn tập, tập 4, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội.
4. Hồ Chí Minh,(2000), Toàn tập, tập 5, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội.
5. Hồ Chí Minh,(2000), Toàn tập, tập 6, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội.
6. Hồ Chí Minh,(2000), Toàn tập, tập 7, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội.
7. Hồ Chí Minh,(2000), Toàn tập, tập 8, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội.
8. Hồ Chí Minh,(2000), Toàn tập, tập 12, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Vận dụng tư tưởng Hồ Chi Minh về cán bộ trong công tác đánh giá cán bộ hiện nay.doc