I. Một số vấn đề lí luận về thừa kế
II. Hàng thừa kế theo điều 676 bộ luật dân sự.
III.Thực tiễn áp dụng thừa kế theo hàng
21 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 8526 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Về hàng thừa kế qui định tại điều 676 BLDS - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Với bản chất là một quan hệ tài sản,quan hệ thừa kế dưới tác động của nền kinh tế thị trường cũng trở nên phong phú và phổ biến trong các giao lưu dân sự. Chính vì vậy chế định thừa kế có vị trí quan trọng và thực sự cần thiết trong hệ thống các quy phạm pháp luật dân sự Việt Nam. Điều này được minh chứng từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời cho đến nay luôn bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân, được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992. Từ đó đến nay, quy định pháp luật về thừa kế nước ta không ngừng hoàn thiện và mở rộng để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của công dân cũng như việc giải quyết các tranh chấp trên thực tế ngày càng hiệu quả hơn.
Chế định thừa kế ở nước ta hiện nay được quy định khá đầy đủ trong bộ luật dân sự nhưng chưa thể dự liệu hết được những trường hợp, tình huống xảy ra trên thực tiễn số lượng các vụ án tồn đọng chưa được giải quyết trên phạm vi toàn quốc hàng năm tăng cao. Trong đó có những tranh chấp kéo dài, số vụ việc tranh chấp về thừa kế luôn chiếm tỷ lệ lớn trong các tranh chấp dân sự và có tính phức tạp. Sở dĩ còn tồn tại những bất cập như pháp luật thừa kế và những quy định pháp luật khác có liên quan đến thừa kế chưa thật sự đồng bộ thống nhất. Ngoài ra có những sai sót của tòa án xảy ra trong việc xác định người thừa kế theo pháp luật…đã gây ảnh hưởng nhất định tới quan hệ thừa kế đôi khi còn xâm phạm đến quyền thừa kế theo pháp luật của công dân. Với tính cấp thiết như vậy, sự cần thiết của việc nghiên cứu chế định về quyền thừa kế mà cụ thể là hàng thừa kế có ý nghĩa sâu sắc trên cả phương diện lý luận và thực tiễn. Trên cơ sở đó em đã chọn đề tài số 21 “Về hàng thừa kế qui định tại điều 676 BLDS- một số vấn đề lý luận và thực tiễn”. Để tập trung đi sâu phân tích những quy định của pháp luật về hàng thừa kế hiện hành.
I. Một số vấn đề lí luận về thừa kế
1. Các quan niệm về thừa kế
Là một thực thể trong xã hội, con người không thể tồn tại và phát triển nếu tách rời những cơ sở vật chất nhất định. Nói chách khác, con người không thể sống khi không có tài sản để thỏa mãn các nhu cầu thiết yếu. Nếu tư liệu tiêu dùng là phương tiện sinh hoạt, tư liệu sản xuất là phương tiện để thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh thì tài sản nói chung là phương tiện sống của con người. Khi sống, con người khai thác công dụng của tài sản để thỏa mãn cho nhu cầu của mình. Khi chết, tài sản còn lại của họ được dịch chuyển cho người còn sống. Quá trình dịch chuyển đó được gọi là thừa kế.
Nhìn một cách tổng quát nhất thì thừa kế là việc dịch chuyển tài sản của người đã chết cho người còn sống. Về mặt ngữ nghĩa thì thừa kế là thừa hưởng một cách kế tục. Theo phương diện này, từ điển tiếng Việt đã định nghĩa “ Thừa kế là hưởng của người chết để lại cho”. Về mặt nội dung thì thừa kế là quá trình dịch chuyển di sản từ người chết cho người còn sống.
Quá trình dịch chuyển tài sản của người đã chết cho người còn sống được hình thành ở bất cứ một xã hội nào và dĩ nhiên, khi chưa có nhà nước và pháp luật, nó được thục hiện theo tập tục xã hội nên được gọi là thừa kế. Khi nhà nước xuất hiện, bằng pháp luật nhà nước tác động đến quá trình di chuyển tài sản như trên. Trong đó quyền để lại tài sản cũng như quyền hưởng di sản của các nói trên. Trong đó, quyền để lại tài sản cũng như quyền hưởng di sản của các chủ thể được nhà nước ghi nhận và đảm bảo thực hiện bằng pháp luật nên từ đó quá trình dịch chuyển di sản được gọi là quyền thừa kế.
Nói cách khác khái niệm quyền thừa kế là một phạm trù pháp lý mà nội dung của nó là xác định phạm vi các quyền, các nghĩa vụ của các chủ thể trong lĩnh vực thừa kế. quyền thừa kế chỉ xuất hiện và tồn tại trong xã hội đã có nhà nước. Bên cạnh nội dung kinh tế quyền thừa kế còn bao hàm ý chí của nhà nước. Nghĩa là việc dịch chuyển tài sản của người đã chết cho người con sống phải hoàn toàn tuân thủ sự quy định của pháp luật.
2. Thừa kế theo pháp luật
Điều 675 bộ luật dân sự năm 2005 quy định : “ Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định” Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong những trường hợp sau:
1.Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong những trường hợp sau đây:
a. không có di chúc
b. Di chúc không hợp pháp
c. Những người thừa kế theo di chúc đều chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn vào thười điểm mở thừa kế;
d. Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối quyền nhận di sản.
2. Thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với các phần di sản sau đây:
a. Phần di sản không được định đoạt trong di chúc
b. Phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực pháp luật
c. Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không có quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc nhưng không còn vào thời điểm mở thừa kế.
II. Hàng thừa kế theo điều 676 bộ luật dân sự.
Căn cứ xác lập thừa kế
Căn cứ vào mối quan hệ giữa người để lại di sản với người khác, Điều 676 bộ luật dân sự năm 2005 đã xác định phạm vi những người thừa kế theo pháp luật theo mối quan hệ hôn nhân, quan hệ nuôi dưỡng và quan hệ huyết thông.
Quan hệ hôn nhân là quan hệ giữa vợ chồng được xác nhận thông qua việc kết hôn hợp pháp hay trong trường hợp kết hôn thực tế được pháp luật công nhận
Quan hệ nuôi dưỡng được xác lập thông qua việc nhận con nuôi, việc nuôi con nuôi phải được dăng ký và làm thủ tục tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật hôn nhân gia đình và pháp luật về hộ tịch
Quan hệ huyết thống là quan hệ giữa những người có cùng dòng máu về trực hệ (cụ, ông, bà, cha đẻ, mẹ đẻ và các con của người chết) hoặc bàng hệ ( anh ruôt, chị ruột của người chết, cháu của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cô ruột, dì ruột) được xác định thông qua sự kiện sinh đẻ.
Phạm vi những người thừa kế di sản được xác định thông qua các mối quan hệ nói trên được quyết định thành từng hàng thừa kế theo trật tự: Người nào có quan hệ gần gũi hơn với người chết sẽ đứng ở hàng thừa kế trước. Vì vậy bộ luật dân sự đã chia hàng thừa kế thành 3 hàng sau:
Điều 676 bộ luật dân sự quy định:
1.Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết;cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột,cậu ruột, cô ruột,dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng thừa kế hoặc từ chối nhận di sản.
=>Như vậy theo điều 676 bộ luật dân sự thì thừa kế được chia làm ba hàng:
Về hàng thừa kế thứ nhất: Điểm a khoản 1 điều 676 bộ luật dân sự năm 2005 quy định hàng thừa kế thứ nhất bao gồm “ vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”
Ở hàng thừa kế thứ nhất những người thuộc bề trên bao gồm ông, bà; ngang bậc: vợ, chồng và bề dưới: các con. Những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất này có nghĩa vụ chăm sóc , nuôi dưỡng nhau và là đại diện đương nhiên của nhau theo bộ luật dân sự năm 2005 và luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Nếu họ vi phạm nghĩa vụ theo quy định của luật hôn nhân và gia đình và bộ luật dân sự thì họ bị tước quyền thừa kế theo khoản 1 điều 643 bộ luật dân sự năm 2005.
Khác với pháp luật thức định, pháp luật thời phong kiến quy định hàng thừa kế thứ nhất chỉ có con cái, vợ hoặc chồng không được quy định trong một hàng thừa kế cố định nào và vị trí của người vợ bao giờ cũng bị xem nhẹ. Bởi theo quan niệm của người Việt Nam lúc bấy giờ “ nhập gia tùy tục, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử” nên quyền lực gia đình tập trung vào người chồng. Khi một người phụ nữ kết hôn thì người chồng đương nhiên trở thành chủ sở hữu của tất cả tài sản trong gia đình, thạm chí là sở hữu luôn cả tài sản của người vợ đem về nhà chồng khi kết hôn. Về vấn đề này quốc triều hình luật có điểm tiến bộ hơn, những tài sản do vợ chồng làm ra thì chia đôi, người còn sống sở hữu ½ phần của người chết sẽ chia thừa kế. Trước khi chia thừa kế phải dành lại 1/20 điền sản làm hương hỏa, tuy tiến bộ hơn song vị trí người phụ nữ trong xã hội phong kiến vẫn không được cải thiện. Đến 97-SL thì con cháu, vợ chồng của người để lại di sản được hưởng thừa kế. Từ đó đến nay vợ chồng bao giờ cũng được ghi nhận ở hàng thừa kế thứ nhất.
Ở hàng thừa kế thứ nhất có hai mối quan hệ giữa những người có quyền hưởng di sản của nhau:
Quan hệ thừa kế giữa vợ và chồng: Vợ - chồng là mối quan hệ giữa một người đàn ông với một người đàn bà trên cơ sở hôn nhân được pháp luật thừa nhận. Quan hệ thừa kế giữa vợ và chồng là một quan hệ thừa kế mang tính hai chiều hay còn gọi là “thừa kế đối nhau”, “ thừa kế của nhau”, nghĩa là trong đó, khi bên này chết thì bên kia là người thừa kế ở hàng thứ nhất và ngược lại, khi bên kia chết thì bên này là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất. Căn cứ xác định quan hệ thừa kế giữa vợ và chồng là quan hệ hôn nhân. Theo điều 8, luật hôn nhân và gia đình Việt Nam 2000 thì “ hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết hôn”. Mặt khác cũng tại điều 8 của luật trên quy định “ kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn”. Vì thế, vợ - chồng được thừa kế di sản của nhau khi một bên chết, nếu vào thời điểm mở thừa kế mà quan hệ hôn nhân giữa họ về mặt pháp lý vẫn còn tồn tại. Tuy nhiên việc thừa nhận nam và nữ có quan hệ hôn nhân để theo đó xác định họ là vợ chồng, được thừa kế di sản của nhau theo hàng thừa kế thứ nhất rất khác nhau trong các giai đoạn lịch sử nhất định. Chẳng hạn, kể từ khi luật hôn nhân và gia đình 1959 của nước ta có hiệu lực ( luật này có hiệu lực kể từ ngày 13 tháng 1 năm 1960) thì chế độ hôn nhân tiến bộ với một vợ một chồng mới được xác lập ở nước ta. Vì vậy, trong giai đoạn này phải chấp nhận hậu quả của chế độ đa thê về hôn nhân do chế độ cũ để lại nên một người mà có nhiều vợ mà các quan hệ hôn nhân đó được xác lập trước ngày 13 tháng 1 năm 1960 vẫn phải được thừa nhận giữa họ có quan hệ thừa kế di sản của nhau theo quan hệ hôn nhân.
Chính vì thế khi xác định quan hệ thừa kế theo pháp luật giữa vợ và chồng cần lưu ý các trường hợp sau đây:
Trường hợp thứ nhất, vợ chồng đã chia tài sản chung nhưng không ly hôn, sau đó một bên chết thì về mặt pháp lý, quan hệ hôn nhân của họ vẫn tồn tại. Do đó người còn sống vẫn được thừa kế di sản của người đã chết.
Trường hợp thứ hai, vợ chồng đã ly thân và về mặt tình cảm hầu như tình yêu giữa họ đã “chết” nhưng vì một lý do tế nhị nào đó nên họ không ly hôn thì dù về mặt tình cảm, hôn nhân giữa họ “đã chết” nhưng về mặt pháp lý, hôn nhân giữa họ vẫn đang tồn tại. Vì vậy, người còn sống vẫn được hưởng di sản của người đã chết.
Trường hợp thứ ba,… khi một bên chết, dù người còn sống đang sống chung với người khác như vợ chồng một cách bất hợp pháp thì người đó vẫn được hưởng di sản của người đã chết.
Trường hợp thứ tư,… vợ chồng đang xin ly hôn mà chưa được tòa án cho ly hôn hoặc đã đượ tòa án cho ly hôn nhưng quyết định hoặc bản án cho ly hôn chưa có hiệu lực pháp luật mà một bên chết thì người còn sống vẫn được thừa kế di sản của người đã chết.
Trường hợp thứ năm,… nếu một người có nhiều vợ mà tất cả các cuộc hôn nhân đó đều được tiến hành trước ngày 13 tháng 1 năm 1960 ở miền Bắc ( ngày luật hôn nhân và gia đình 1959 có hiệu lực pháp luật) và trước ngày 25 tháng 3 năm 1977 ở miền Nam ( ngày áp dụng thống nhất các văn bản pháp luật trên toàn quốc) thì khi người chồng chết trước tất cả các bà vợ ( nếu còn sống vào thời điểm người chồng chết) đều là người thừa kế ở hàng thứ nhất của người chồng. Ngược lại, chồng là người thừa kế thứ nhất của những người vợ đã chết trước người chồng đó.
Trường hợp thứ sáu, nếu cán bộ, chiến sĩ đã có vợ ở miền Nam, sau khi tập kết ra miền Bắc, lấy vợ ở miền bắc mà việc kết hôn sau không bị hủy bỏ bằng một bản án có hiệu lực pháp luật thì những người vợ đó đều là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất của người chồng khi người chồng chết trước, và ngược lại khi những người vợ chết trước người chồng thì người chồng là người thừa ở hàng thứ nhất của người vợ đã chết.
Trường hợp thứ bảy, đối với các trường hợp hôn nhân không dăng ký kết hôn nhưng được thừa nhận là hôn nhân thực tế ( gồm các cuộc hôn nhân đwọc tiến hành trước ngày luật hôn nhân và gia đình 1986 có hiệu lực pháp luật có đủ điều kiện kết hôn nhưng không dăng ký kết hôn) thì quan hệ vợ chồng giữa họ vẫn được thừa nhận và do vậy họ là người thừa kế theo pháp luật của nhau ở hàng thừa kế thứ nhất.
Trường hợp thứ tám, hai vợ chồng đã ly hôn nhưng sau đó quay lại sống chung với nhau trước ngày luật hôn nhân và gia đình 1986 có hiệu lực pháp luật mà cuộc sống chung đó không bị hủy bỏ bằng một bản án có hiệu lực pháp luật thì họ vẫn được thừa nhận là có quan hệ vợ chồng theo hôn nhân nên vẫn là người thừa kế theo pháp luật của nhau ở hàng thừa kế thứ nhất.
Quan hệ thừa kế giữa cha, mẹ và con: Quan hệ thừa kế giữa một bên là cha, mẹ với một bên là con cũng là quan hệ thừa kế mang tính hai chiều. Quan hệ này được xác định theo một trong hai căn cứ. Nếu căn cứ vào quan hệ huyết thống thì đó là những người có cùng dòng máu trực hệ trong phạm vi hai đời liền kề nhau. Trong đó, cha đẻ, mẹ đẻ của một người là người đã sinh ra người đó và được pháp luật thừa nhận. Vì vậy, cha, mẹ của người do mình sinh ra dù trong hay ngoài giá thú nhưng được pháp luật thừa nhận đều là người thừa kế ở hàng thứ nhất để hưởng di sản theo pháp luật khi người con chết. Và ngược lại, người con trong hay ngoài giá thú đều là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất để hưởng di sản do cha, mẹ mình để lại. Nếu căn cứ vào quan hệ nuôi dưỡng thì đó là quan hệ giữa những người nuôi dưỡng lẫn nhau theo cha - con, mẹ - con hoặc theo cha, mẹ - con. Cha nuôi, mẹ nuôi của một người là đã nhận người đó làm con nuôi của mình theo quy định của pháp luật. Cha nuôi, mẹ nuôi là những người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất của con nuôi khi người con nuôi đó chết và ngược lại, con nuôi là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất của cha, mẹ nuôi khi cha, mẹ nuôi chết.
Trong trường hợp một người vừa có con nuôi vừa có con đẻ thì họ vừa là người thừa kế ở hàng thứ nhất để hưởng di sản của người con nuôi khi người con nuôi đó chết, vừa là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất để hưởng di sản của con đẻ khi người con đẻ đó chết. Ngược lại,một người đang là con nuôi của người khác thì họ vừa là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất để hưởng di sản của cha, mẹ nuôi khi cha, mẹ nuôi chết, vừa là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất để hưởng di sản của cha, mẹ đẻ khi ch, mẹ đẻ chết.
Đối với trường hợp người nhận nuôi con không đăng ký việc nhận nuôi con nuôi con nuôi theo đúng quy định của pháp luật thì cha, mẹ nuôi với con nuôi chỉ là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất của nhau khi được công nhận là con nuôi thực tế.
Cần lưu ý rằng cụm từ “ cha, mẹ và con” còn được dùng để chỉ các quan hệ khác như quan hệ giữa cha, mẹ của một người với vợ của người đó ( quan hệ này còn được gọi là cha, mẹ chồng với con dâu) hoặc giữa cha, mẹ của một người với chồng của người đó ( quan hệ này được gọi là cha, mẹ vợ với con rể). nhưng trong các trường hợp nói trên, không có căn cứ để xác định mối quan hệ thừa kế theo pháp luật giữa họ. Vì thế, con dâu không phải là người thừa kế theo pháp luật của cha, mẹ chồng, con rể không phải là người thừa kế theo pháp luật của cha, mẹ vợ. Tuy nhiên, nếu người con dâu tham gia lao động chung trong gia đình cha, mẹ chồng, góp công sức trong việc xây dựng khối tài sản của gia đình cha, mẹ chồng thì người con dâu đó có quyền hưởng phần tài sản tương xứng với công lao đóng góp của mình trong khối tài sản chung hiện có với tư cách là một đòng chủ sở hữu. Vì vậy, trước khi chia di sản của cha, mẹ chồng cho những người thừa kế cần phải tách từ khối tài sản đó phần tài sản thuộc quyền của người con dâu. Người con rể trong trường hợp tương tự trên cũng được đảm bảo quyền lợi như người con dâu.
Ngoài ra, cụm từ trên còn được dùng để chỉ quan hệ giữa con của một người với vợ kế của người đó hoặc giữa con của một người với chồng kế của người đó. Các quan hệ này được BLDS (cả 1995 và 2005) gọi là “quan hệ giữa con riêng với bố dượng mẹ kế”
Khi xác định về quan hệ thừa kế giữa những người này, điều 679 BLDS năm 2005 đã quy định: “Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản theo quy định tại điều 676 và điều 677 bộ luật này”.
Điều luật trên quy định về hai mối quan hệ: quan hệ giữa con riêng với bố dượng: là quan hệ giữa người chồng với con riêng của người vợ. Quan hệ giữa con riêng với mẹ kế: là quan hệ giữa người vọ với con riêng của chồng. các bên trong hai mối quan hệ nói trên không có quan hệ huyết thống nên về nguyên tắc thì họ không phải là người thừa kế theo pháp luật của nhau. Tuy nhiên, nếu giữa họ có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng lẫn nhau thì họ được xác định tương tự như cha mẹ nuôi với con nuôi và vì thế họ sẽ là người thừa kế ở hàng thứ nhất của nhau nhưng không đương nhiên mang tính hai chiều như quan hệ thừa kế giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi. Cụ thể là: nếu bố dượng chăm sóc, nuôi dưỡng và coi con riêng cả vợ như con của mình thì khi người con đó chết, bố dượng sẽ là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất của người con đó. Nếu con riêng của người vợ chăm sóc, nuôi dưỡng và coi bố dượng như cha mình thì khi bố dượng chết, con riêng của người vợ mới được coi là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất của bố dượng. quan hệ thừa kế giữa con riêng của chồng với mẹ kế cũng được xem xét tương tự như trên. Tuy nhiên, như thế nào được coi là có “ quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con” là một vấn đề hết sức khó khăn trong thực tiễn. thực tế cho thấy khi con riêng và mẹ kế cũng như con riêng và bố dượng không ở chung và sinh hoạt cùng một gia đình thì không thể xác định giữa họ có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng trong khi những người con đó thật sự về mặt tình cảm đã coi mẹ kế như mệ đẻ, coi bố dượng như bố đẻ của mình và mặc dù không sống cùng nhà nhưng họ luôn luôn quan tâm và thường gửi tiền cũng như các vật chất khác để phụng dưỡng bố dượng mẹ kế. ngược lại có trường hợp tuy ở cùng nhà với nhau nhưng giữa họ “ bằng mặt nhưng không bằng lòng” nên việc xác định giữa họ có chăm sóc, nuôi dưỡng nhau “như cha con, mẹ con” là hết sức khó khăn. Thiết nghĩ vấn đề này cần có văn bản hướng dẫn thêm.
Khác với pháp luật nước ta pháp luật Nhật bản chịu ảnh hưởng của hệ thống pháp luật Đức nên không xếp vợ chồng vào một hàng thừa kế nào. Bởi lẽ pháp luật Nhật bản quy định hàng thừa kế ths nhất dựa trên quan hệ huyết thống trực hệ. do vậy, vợ chồng không thuộc hàng thừa kế thứ nhất do vợ chồng không có quan hệ huyết thống. thế nhưng những người này có tư cách thừa kế theo pháp luật và được hưởng một phần di sản được ấn định theo mối liên hệ thân thuộc giữa người chết và những người thừa kế được gọi là do huyết thống. ngoài ra pháp luật Nhật bản không coi quan hệ nuôi dưỡng là cơ sở xác định diện và hàng thừa kế. có trường hợp những người được hưởng thừa kế cùng một lúc nhưng lại không được hưởng di sản như nhau. Trong trường hợp có hai người thừa kế cùng hàng thì phần của người chồng và người vợ để lại di sản sẽ được hưởng theo nguyên tắc nhất định. Ví dụ trong trường hợp ở hàng thừa kế thứ nhất thì phần của các con là 2/3 và của vợ chồng là 1/3.
So với pháp luật các nước, quy định về hàng thừa kế thứ nhất của nước ta rất phù hợp với truyền thống gia đình Việt Nam. Những người thuộc hàng thứ nhất có mối quan hệ thân thuộc gần gũi nhất được xây dựng trên nền tảng gia đình. Trong đó các thành viên trong gia đình có bổn phận và trách nhiệm cùng nhau duy trì cuộc sống gia đình và nuôi dạy con cái. Ngược lại, con cái có nghĩa vụ yêu thương, kính trọng và phụng dưỡng cha mẹ. pháp luật thừa kê Việt Nam còn thể hiện tính nhân đạo trong việc chia di sản thừa kế trong trường hợp nếu việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của một bên vợ hoặc chồng. vì vậy tại khoản 3 điều 131 luật HNGĐ 2000 và nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của HĐTP tòa án nhân dân tối cao quy định nếu việc chia di sản gây khó khăn như không có chỗ ở, mất nguồn tư liệu sản xuất thì tòa án cần giải thích cho những người chia di sản là họ mới chỉ có quyền yêu cầu xác định phần di sản mà họ được hưởng. sau thời hạn 3 năm mới có quyền yêu cầu chia di sản. trong thời gian này bên còn sống là vợ hoặc chồng của người chết chưa kết hôn với người khác. Quy định này nhằm đảm bảo cuộc sống của vợ hoặc chồng của người chết lúc khó khăn mang đầy ý nghĩa nhân đạo của pháp luật Việt Nam.Tóm lại hàng thừa kế thứ nhất họ được hưởng di sản ngang nhau và là những người được thừa kế đầu tiên theo pháp luật khi mở thừa kế. chỉ khi nào không có ai trong số họ hoặc có nhưng không thuộc trường hợp tại khoản 1 điều 643 BLDS năm 2005 hoặc bị truất quyền hưởng di sản hoạc từ chối quyền hưởng di sản thì pháp luật mới xét đến hàng thừa kế thứ hai.
Về hàng thừa kế thứ hai: điểm b khoản 1 điều 676 BLDS năm 2005 quy định những người thuộc hàng thừa kế thứ hai bao gồm: “ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết;cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;”
Trong đó, những người thuộc bề trên bao gồm: ông bà nội ngoại. Ngang bậc: anh, chị, em ruột và bề dưới: các cháu. Những người thuộc hàng thừa kế thứ hai được xét trên mối quan hệ nuôi dưỡng này sẽ được ưu tiên hưởng di sản theo pháp luật khi không ai nhận thừa kế theo thứ tự ở hàng thừa kế thứ nhất. có thể nhận thấy rằng những người thuộc hàng thừa kế thứ hai có mối quan hệ thân thiết khá gần với người để lại di sản. tuy nhiên, ông bà, anh chi em ruột, các cháu không thể đặt vị trí ngang hàng với cha mẹ, vợ chồng, con của người để lại di sản được.
Ở hàng thừa kế thứ hai có hai mối quan hệ giữa những người có quyền hưởng di sản của nhau
Quan hệ thừa kế giữa ông bà với cháu: Theo điểm b khoản 1 điều 676 BLDS năm 2005 thì căn cứ để xác định mối quan hệ thừa kế này là hoàn toàn dựa vào quan hệ huyết thống mà không dựa vào quan hệ nuôi dưỡng. Pháp luật không đương nhiên thừa nhận giữa cha đẻ, mẹ đẻ của một người với người con nuôi của người đó có quan hệ thừa kế. vì vậy ông nội, bà nội của một người là người đã sinh ra cha đẻ của người đó, ông ngoại, bà ngoại của một người là người đã sinh ra mẹ đẻ của người đó. Trước đây, trong bộ luật dân sự năm 1995 không xếp cháu vào hàng thừa kế thứ hai của ông bà nên quan hệ thừa kế này chỉ có một chiều, nhưng theo BLDS năm 2005 thì quan hệ thừa kế này là thừa kế hai chiều vì cháu đã được xếp vào hàng thừa kế thứ hai của ông, bà. Do vậy, nếu ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại còn sống vào thời điểm người cháu của mình chết sẽ là người thừa kế theo pháp luật ở hàng thừa kế thứ hai của người cháu đó. Ngược lại, khi ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại chết thì cháu của người chết sẽ là người thừa kế theo pháp luật ở hàng thừa kế thứ hai của người đó. Cũng theo quy định của điểm b nói trên thì khi ông, bà chết chỉ có cháu ruột mới được thừa kế di sản của ông, bà ở hàng thừa kế thứ hai. Tuy nhiên cũng cần bàn thêm rằng khi cháu chết thì ông, bà nuôi(cha, mẹ nuôi của cha, mẹ đẻ người chết hoặc cha, mẹ của cha, mẹ nuôi người chết) có được hưởng di sản của người cháu đó theo hàng thừa kế thứ hai không, vì vấn đề này điểm b nói trên chưa quy định cụ thể. Nếu theo tinh thần của Nghị quyết 02/HĐTP ngày 19 tháng 10 năm 1991 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn: “ con nuôi không đương nhiên trở thành cháu của cha mẹ của người nuôi dưỡng” thì con nuôi của một người muốn được xác định có quan hệ ông cháu, bà cháu với cha, mẹ của cha, mẹ nuôi của mình phải được sự thừa nhận của người đó. Tuy nhiên, khi giải quyết thừa kế theo mối quan hệ này, nên xác định thành hai trường hợp:
Thứ nhất, nếu ông, bà là cha, mẹ nuôi của cha, mẹ đẻ người chết thì cần xác định ông, bà là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ hai của người đó.
Thứ hai, nếu người chết là con nuôi của con đẻ hay con nuôi của ông, bà thì ông, bà không đương nhiên là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ hai của người chết.
Quan hệ thừa kế giữa anh ruột, chị ruột với em ruột:Đây là quan hệ thừa kế giữa hai bên, trong đó một bên hoặc là anh ruột hoặc là chị ruột hoặc là cả anh ruột, chị ruột và một bên là em ruột. quan hệ thừa kế này được hình thành theo một căn cứ duy nhất là quan hệ huyết thống, bao gồm những người có quan hệ huyết thống trực hệ cùng một đời. tuy nhiên, như thế nào được gọi là “anh, chị, em ruột” còn có nhiều cách hiểu khác nhau. Pháp luật phong kiến Việt Nam cũng như một số văn bản pháp luật trước đây của nước ta như thông tư 81 xác định “anh, chị, em cùng cha khác mẹ, anh, chị, em cùng mẹ khác cha” là khác với “anh, chị, em ruột”(nói như vậy vì thông tư 81 quy định hàng thừa kế thứ hai bao gồm: “ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại; anh, chị, em ruột; anh, chị, em cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha…” theo đó, người ta vẫn thường hiểu rằng chỉ có anh, chị, em cùng cha cùng mẹ mới được coi là anh, chị, em ruột. thiết nghĩ những người có liên quan về huyết thống với nhau thì được coi là ruột dù huyết thống giữa họ chỉ về bên người cha hay chỉ về bên người mẹ. Theo cách hiểu này thì một người sinh ra bao nhiêu người con thì tất cả những người đó đều là anh, chị em ruột của nhau. Như vậy, anh, chị, em ruột bao gồm: những người có cùng cha, cùng mẹ, những người có cùng mẹ tuy khác cha, những người có cùng cha tuy khác mẹ. Quan hệ thừa kế giữa anh, chị, em ruột với nhau là quan hệ thừa kế hai chiều. nghĩa là trong quan hệ này nếu anh hoặc chị hoặc cả anh, chị chết thì em ruột sẽ là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ hai để hưởng di sản của anh, chị đã chết. ngược lại nếu em chết thì anh, chị sẽ là những người ở hàng thừa kế thứ hai để hưởng di sản của người em đã chết.
Cần lưu ý rằng không hình thành quan hệ thừa kế giữa anh, chị, em từ quan hệ nuôi dưỡng, vì vậy trong trường hợp một người vừa có con nuôi, vừa có con đẻ thì giữa con nuôi và con đẻ của người đó không phải là anh, chị, em ruột của nhau nên họ không phải là người thừa kế theo pháp luật của nhau.
Khác với nước ta, hàng thừa kế thứ hai của Nhật bản bao gồm những người có quan hệ huyết thống trực hệ bề trên, với điều kiện giữa những người đứng ở mức độ khác nhau trong mối quan hệ huyết thống thì người nào gần hơn sẽ được ưu tiên hưởng di sản. Do vậy có thể suy đoán bố mẹ đẻ, ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, cụ nội, cụ ngoại là những người bề trên thuộc hàng thừa kế thứ hai theo pháp luật Nhật bản. Trong đó bố mẹ đẻ có quan hệ huyết thống gần nhất nên sẽ được ưu tiên hưởng di sản của người chết.
Về hàng thừa kế thứ ba: theo điểm c khoản 1 điều 676 BLDS năm 2005 những người thuộc hàng thừa kế thứ ba bao gồm: : “cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột,cậu ruột, cô ruột,dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.”
Tương tự ở hàng thừa kế thứ hai, BLDS 2005 đã bố sung thêm “chắt ruột…” quy định này thay thế cho sự bất hợp lý về quyền lợi của chắt khi không thuộc diện thừa kế của cụ nội, cụ ngoại tại điều 679 BLDS năm 1995.
ở hàng thừa kế thứ ba gồm hai mối quan hệ sau đây:
Quan hệ thừa kế giữa cụ với chắt: Nếu xét đơn thuần về huyết thống thì cụ nội với một người đã sinh ra ông nội hoặc bà nội của người đó. Cụ ngoại của một người là người đã sinh ra ông ngoại hoặc bà ngoại của người đó. Như vậy, các cụ của một người là những người đã sinh ra ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại của người đó, người đó là chắt của các cụ. Điểm c khoản 1 điều 676 đã phân biệt các cụ thành cụ nội, ngoại trong khi việc phân biệt nội, ngoại không quan trọng và không cần đặt ra vì các cụ ngang quyền nhau khi hưởng di sản mà chát để lại. các cần phải xác định là cụ ruột hay không thì điểm c nói trên lại không quy định cụ thể. Căn cứ để xác định quan hệ thừa kế giữa cụ với chắt cũng giống căn cứ để xác định quan hệ thừa kế giữa ông, bà với cháu. Quan hệ giữa ông, bà với cháu cũng như quan hệ giữa cụ với chắt là quan hệ ngành dọc theo một chuỗi thế hệ từ đời thứ nhất đến đời thứ ba( ông, bà,- cháu), hoặc đến đời thứ tư(cụ - chắt). Trong chuỗi thế hệ đó chỉ đơn thuần là huyết thống nhưng cũng rất nhiều trường hợp có thể đan xen cả huyết thống, cả nuôi dưỡng. Chẳng hạn, đời thứ nhất(A) đối với đời thứ hai(B) là quan hệ nuôi dưỡng nhưng đời thứ hai đối với đời thứ ba(C) là quan hệ huyết thống, đời thứ ba đối với đời thứ tư(D) lại là quan hệ nuôi dưỡng (B là con nuôi của A nhưng C lại là con đẻ của B và D là con nuôi của C). Về mặt pháp lý, luật chỉ quy định rằng khi chắt đứng vào hàng thừa kế thứ ba để hưởng di sản của cụ thì phải là “chắt ruột của người chết” còn khi cụ ở hàng thừa kế thứ ba để hưởng di sản của chắt thì luật chưa xác định là cụ ruột hay không. Từ đó chúng ta thấy rằng việc xác định giữa cụ và chắt có quan hệ thừa kế với nhau trong trường hợp nào là một việc hết sức khó khăn. Theo nguyên tắc bình đẳng trong thừa kế nên nếu là chắt ruột mới được hưởng di sản của cụ thì cũng phải là cụ ruột thì mới được hưởng di sản của chắt. Tuy nhiên, do sự đan xen về huyết thống và nuôi dưỡng nói trên nên trong thực tế nếu mọi trường hợp nhất nhất đều áp dụng theo nguyên tắc sẽ có nhiều bất cập.
Theo quy định của điểm c khoản 1 điều 676 BLDS năm 2005 thì quan hệ thừa kế giữa các cụ và chắt được xác định như sau: khi chắt chết, các cụ là người thừa kế ở hàng thứ ba của chắt và ngược lại, khi cụ chết, chắt ruột là người thừa kế ở hàng thứ ba để hưởng di sản thừa kế của người cụ đã chết để lại.
Quan hệ thừa kế giữa bác ruột, chú ruột, cô ruột, cậu ruột, dì ruột với cháu ruột: Mỗi một địa phương có cách gọi, xưng hô giữa các thành viên trong một đại gia đình một cách khác nhau. Chẳng hạn, cũng là chị của mẹ nhưng ở vùng Trung du Bắc bộ được gọi là “bá” ở vùng châu thổ sông Hồng gọi là “già”, em gái của mẹ gọi là “dì”…nhưng ở miền Trung thì em gái hay chị gái của mẹ đều được gọi là “dì” (vì thế, các con của chị em gái được gọi là : “đôi bạn con dì”). Hoặc, “bác” ở miền Trung có nghĩa là anh trai của bố, nhưng ở một số nơi khác thì “ bác” có thể là chị gái của bố hoặc chị gái của mẹ .Vì vậy, hiểu một cách chung nhất thì bác ruột, chú ruột, cô ruột, cậu ruột, dì ruột của một người là anh ruột, chị ruột, em ruột của cha đẻ hoặc mẹ đẻ của người đó. Cơ sở hình thành mối quan hệ thừa kế giữa những người này là quan hệ huyết thống bàng hệ giữa hai đời liền kề nhau. Đây là những người có quyền hưởng di sản của nhau theo hàng thừa kế thứ ba, nghĩa là khi cháu chết trước thì chú, bác, cô, dì, cậu ruột nếu còn sống là những người thừa kế ở hàng thừa kế thứ ba của cháu. Ngược lại, nếu cô, dì, chú, bác, cậu ruột chết thì cháu là người thừa kế ở hàng thứ ba của người chết.
Về nguyên tắc, những cá nhân thuộc hàng thừa kế được hưởng phần di sản ngang nhau. Thứ tự ưu tiên hưởng di sản theo hàng là thứ tự tuyệ đối không bao giờ có trường hợp hai cá nhân thuộc hai hàng thừa kế khác nhau cùng hưởng di sản theo pháp luật. Những cá nhân không được quyền hưởng di sản theo quy đinh của pháp luật, những cá nhân từ chối nhận di sản một cách hợp pháp thì không được hưởng thừa kế theo hàng. Tóm lại thứ tự ưu tiên ở ba hàng thừa kế là tuyệt đối những người ở hàng sau sẽ được hưởng di sản khi không còn hoặc không có người được hưởng di sản ở hàng trước. Có thể nói, cách chỉ định những người thuộc các hàng thừa kế là do pháp luật quy định. Bây giờ có tách bậc thừa kế nào ra theo quan hệ nào đó cũng chỉ là quan điểm lập pháp chứ không còn là trình độ lập pháp nữa. Quan điểm lập pháp chịu tác động của nền kinh tế xã hội và do truyền thống văn hóa của mỗi quốc gia quy định.
III.Thực tiễn áp dụng thừa kế theo hàng
Mỗi vụ án thừa kế theo pháp luật thường nảy sinh khá nhiều vấn đề phức tạp cần xác định như: thời hiệu khởi kiện về thừa kế, di sản thừa kế, hàng thừa kế… Nhìn chung các tòa án luôn bảo đảm xác định chính xác hàng thừa kế, bảo vệ quyền lợi của tất cả những người thừa kế liên quan. Tuy nhiên, do trình độ hiểu biết pháp luật của người dân còn hạn chế cộng với tính chất phức tạp của vụ việc thừa kế có không ít bản án giải quyết tranh chấp thừa kế bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, thậm chí giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Dưới đây là một vụ án đã xét xử:
Bản án số 107/DSPT ngày 24/10/2001 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang về việc chia thừa kế giữa:
Nguyên đơn: chị Đồng Thị Tư
Bị đơn : anh Hoàng Gia Lương
Nội dung vụ án: ông Hoàng Văn Sinh và bà Phạm Thị Kim sinh được 4 người con là Hoàng Thị Thành, Hoàng Gia Lương, Hoàng Gia Kinh, Hoàng Thị Thản. ngoài ra ông Sinh còn có một người con riêng là Hoàng Gia Cường.
Năm 1983 ông Sinh chết
Năm 1997 bà Kim chết
Năm 1999 anh Kinh chết
(vợ chồng anh Kinh và chị Tư sinh được 3 người con chung)
Tại bản án sơ thẩm số 13/DSST ngày 19/6/2001 của Tòa án nhân dân huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang đã quyết định:
Thời điểm mở thừa kế là năm 1997
Hàng thừa kế thứ nhất gồm có 5 người con(4 con chung và 1 con riêng) Hoàng Thị Thành, Hoàng Gia Lương, Hoàng Gia Kinh(giao cho chị Tư quản lý tài sản thừa kế của 3 con chung) Hoàng Thị Thản, Hoàng Gia Cường.
Tại bản án phúc thẩm số 107/DSPT ngày 24/10/2001 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang đã quyết định:
Thời điểm mở thừa kế là năm 1997
Hàng thừa kế thứ nhất gồm 5 người con(4 con chung và một con riêng) Hoàng Thị Thành, Hoàng Gia Lương,Hoàng Gia Kinh( chết năm 1999, nay 3 con hưởng thế vị) Hoàng Thị Thản, Hoàng Gia Cường.
Nhận xét: cả hai bản án sơ thẩm và phúc thẩm đều xác định thời điểm mở thừa kế là năm 1997 là chưa chính xác. Theo thời gian thì vụ án trên có 3 thời điểm mở thừa kế.
Thời điểm mở thừa kế lần thứ nhất là năm 1983 khi ông Sinh chết: hàng thừa kế thứ nhất gồm 6 người là bà Phạm Thị Kim, Hoàng Thị Thành, Hoàng Gia Lương, Hoàng Gia Kinh, Hoàng Thị Thản, Hoàng Gia Cường( vợ, 4 con chung và 1 con riêng)
Thời điểm mở thừa kế lần thứ hai là vào năm 1997 bà Kim chết: khi đó hàng thừa kế thứ nhất gồm 4 người con là Hoàng Thị Thành, Hoàng Gia Lương, Hoàng Gia Kinh, Hoàng Thị Thản(4 con đẻ của bà Kim. Riêng anh Hoàng Gia Cường là con riêng của ông Sinh chỉ được thừa kế di sản của bà Kim(mẹ kế) khi chứng minh được mối quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng như mẹ con.
Thời điểm mở thừa kế lần thứ ba là năm 1999 khi anh Kinh chết: khi đó hàng thừa kế gồm 4 người là chị Tư và 3 con chung của vợ chồng chị.
Bản án phúc thẩm coi 3 người con chung của chị Tư và anh Kinh được hưởng thừa kế thế vị là không chính xác như đã phân tích ở trên phải xác định đúng thời điểm mở thừa kế đồng thời phải xác định diện và hàng thừa kế chính xác.
Những vấn đề cần rút kinh nghiệm khi tòa án giải quyết tranh chấp về thừa kế
Qua thực tiễn, đánh giá kết quả xét xử của Tòa án về những vụ án chia thừa kế cho thấy những sai sót của Tòa án thường xảy ra trong việc xác định người thừa kế theo pháp luật, di sản thừa kế, người được hưởng di sản và người thừa kế thế vị…tỷ lệ án sửa, hủy của tòa án các cấp vẫn còn cao chủ yếu là các vi phạm: điều tra chưa đầy đủ, xác định sai tư cách người tham gia tố tụng, xác định không đúng và chưa đầy đủ quan hệ pháp luật cũng như những người tham gia tố tụng, xác định chưa chính xác thời điểm mở thừa kế…dẫn đến thụ lý và giải quyết vụ án sai quy định của pháp luật.
Từ thực tiễn trên có thể rút rá những vấn đề cần chú ý khi giải quyết những tranh chấp liên quan đến thừa kế theo pháp luật như sau:
Xác định khối di sản thừa kế: các thẩm phán hay mắc phải sai sót khi xác định khối di sản thừa kế, nhất là trong những vụ án có nhiều tình tiết, chứng cứ cần xem xét, xác minh điều tra.
Việc xác định thời điểm mở thừa kế và những người thừa kế theo pháp luật các Tòa án thường vẫn thiếu sót, nhất là trong những vụ án có nhiều thời điểm mở thừa kế. bên cạnh đó việc xác định những người được hưởng thừa kế theo quy định của pháp luật trong trường hợp có con chung, con riêng, con ngoài giá thú của tòa án còn nhiều thiếu sót. Từ đó, dẫn đến xác định không đầy đủ những người thừa kế theo pháp luật, quyền lợi của những người thừa kế không bảo đảm.
Kết luận
Thừa kế là sự dịch chuyển tài sản của người chết sang cho người còn sống là một trong những căn cứ làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền sở hữu – một thứ quyền năng cơ bản của con người. từ xa xưa, thừa kế đã xuất hiện như một tất yếu khách quan của lịch sử và ngày càng phổ biến cùng với sự phát triển của xã hội. điều chỉnh quan hệ thừa kế cũng như điều chỉnh mọi quan hệ liên quan đến quyền sở hữu và chuyển dịch tài sản khác là một trong những quan hệ phức tạp. trong quá trình phát triển đa dạng các quan hệ sở hữu các loại tài sản và hội nhập ngày càng sâu rộng như hiện nay, chế định thừa kế - một bộ phận quan trọng của pháp luật dân sự, với những quy định chung về thừa kế và các quy định cụ thể về hai hình thức thừa kế là thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật là những căn cứ pháp lý điều chỉnh các vấn đề nảy sinh trong quan hệ thừa kế. trong thừa kế theo pháp luật, quy định ba hàng thừa kế đã là bước tiến trong quá trình lập pháp ở nước ta và bảo vệ các quyền, lợi ích chính đáng của người thừa kế có quan hệ huyết thống với người để lại di sản. pháp luật về thừa kế ở nước ta luôn bảo vệ quyền thừa kế di sản của bố, mẹ, vợ, chồng, các con chưa trưởng thành và các con tuy đã trưởng thành nhưng không có khả năng lao động, là người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc. Những quy định về quyền thừa kế theo pháp luật của công dân nước ta nói riêng từ năm 1945 đến nay đã góp phần quan trọng vào việc loại bỏ chế độ đa thê, bảo vệ quan hệ hôn nhân tiến bộ một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng. bảo vệ quyền thừa kế của các con, các cháu, các chắt của người để lại di sản trong trường hợp bố, mẹ của cháu, chắt chết trước hoặc chết cùng vào thời điểm với bà nội, ngoại, các cụ nội, cụ ngoại. những quy định về thà kế theo pháp luật đã góp phần giao dục ý thức tuân theo pháp luật của công dân trong cuộc sống, đồng thời sống có trách nhiệm với những người thân thuộc và tôn trọng pháp luật, tôn trọng đạo đức xã hội.
Danh sách tài liệu tham khảo
1.Giáo trình luật Dân Sự Việt Nam Trường đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, 2007
2.Bộ luật dân sự Việt nam. NXB chính trị Quốc gia, Hà Nội 2007
3.hỏi- đáp về pháp luật thừa kế. luật sư Trần hữu Biển.P.T.S Đinh Văn Thanh. NXB công an nhân dân, 1996
4. thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam từ năm 1945 đến nay.
5. Diện và hàng thừa kế theo quy định của BLDS năm 2005. Luận văn thạc sỹ luật học Phan Thị Kim Chi. Trường đại học luật Hà Nội, 2006
6. thừa kế theo pháp luật trong BLDS Việt Nam. Luận án T.S luật học, Nguyễn Thị Vinh. Trường đại học luật Hà Nội, 1996
7.Thừa kế quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng, Phạm Văn Tuyết, Nxb Chính trị quốc gia,2007
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Về hàng thừa kế qui định tại điều 676 BLDS- một số vấn đề lý luận và thực tiễn.doc