Về hiện tượng hình sự hóa các quan hệ kinh tế, dân sự trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng

Chính sách hình sự của Nhà nước ta là một bộ phận của chính sách pháp luật nói chung, ngày càng hoàn thiện và góp phần không nhỏ vào tiến trình xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam trong đó có lĩnh vực tín dụng ngân hàng. Song, thực trạng lạm dụng pháp luật hìnhsự đối với các hành vi vi phạm nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng tín dụng ngân hàng thông qua việc can thiệp thái quá, không cần thiết của các cơ quan tiến hành tố tụng là rất phổ biến và gây ra những hậu quả không nhỏ cho xã hội.

pdf35 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2428 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Về hiện tượng hình sự hóa các quan hệ kinh tế, dân sự trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VỀ HIỆN TƯỢNG HÌNH SỰ HÓA CÁC QUAN HỆ KINH TẾ, DÂN SỰ TRONG LĨNH VỰC TÍN DỤNG NGÂN HÀNG NGUYỄN VĂN VÂN TS., Khoa Luật Thương mại - Đại học Luật TP.HCM Hiện tượng lạm dụng các qui định tố tụng hình sự và các qui định pháp luật hình sự để giải quyết các quan hệ kinh tế dân sự là một tình trạng khá phổ biến trong đời sống xã hội và gây những hậu quả không nhỏ, làm xói mòn niềm tin vào kỷ cương phép nước, sự công bằng của pháp luật. Theo thống kê của các cơ quan bảo vệ pháp luật trong năm 1999 và 6 tháng đầu năm 2000 có 76 vụ án và 349 bị can bị khởi tố, điều tra về các nhóm tội: Tội phạm kinh tế, xâm phạm sở hữu nhà nước, xâm phạm sở hữu công dân sau đó phải đình chỉ điều tra vì không có tội, thực chất đây là các vụ việc thuộc quan hệ dân sự, kinh tế. Cũng trong khoảng thời gian này có 115 người bị khởi tố, điều tra truy tố và đưa ra xét xử về các nhóm tội trên sau đó Tòa án xét xử và tuyên bố bị cáo không phạm tội 1. Đảng, Nhà nước và dư luận nhân dân quan tâm rất nhiều đến vấn đề này. Vừa qua, Bộ Tư pháp kết hợp với Phòng thương mại và công nghiệp VN tổ chức các tọa đàm ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh với sự tham gia của các nhà doanh nghiệp và đại diện các cơ quan bảo vệ pháp luật, có nhiều ý kiến, tham luận bổ ích xung quanh vấn đề này. Trong khuôn khổ bài viết này chúng tôi không có tham vọng nghiên cứu vấn đề một cách toàn diện cả về lý luận lẫn thực tiễn của hiện tượng này, mà chỉ khái quát một số vấn đề liên quan đến hiện tượng thường được gọi là “hình sự hóa các quan hệ kinh tế, dân sự” trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng. 1/ Khái niệm “Hình sự hoá”: Hiện nay, trong khoa học pháp lý VN chưa có một công trình nghiên cứu hoàn chỉnh nào về vấn đề hình sự hóa và phi hình sự hóa, khái niệm này là vấn đề còn bỏ ngỏ trong lý luận. Trong ngôn ngữ phổ thông, ngôn ngữ báo chí và rải rác trong một số tham luận ở các hội thảo, tọa đàm, thuật ngữ “hình sự hóa” được hiểu là trường hợp những hành vi vi phạm nghĩa vụ trong các quan hệ kinh tế, dân sự được các cơ quan, cá nhân thực thi quyền điều tra, truy tố, xét xử chuyển hóa thành các hành vi phạm tội và áp dụng pháp luật hình sự để giải quyết 2. Biểu hiện của hiện tượng hình sự hoá các quan hệ kinh tế, dân sự là việc các cơ quan pháp luật đã dùng pháp luật hình sự và các biện pháp tố tụng hình sự để giải quyết các quan hệ xã hội mà bản chất thực tế của nó là các quan hệ của hợp đồng kinh tế, dân sự. Trong các tài liệu pháp lý, về thuật ngữ “hình sự hoá”, tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau xuất phát từ các quan điểm sau: - Quan điểm thứ I: chấp nhận thuật ngữ “hình sự hoá” để chỉ một hiện tượng lạm dụng pháp luật hình sự để giải quyết các quan hệ kinh tế, dân sự. Đây là quan điểm chiếm đa số, thường gặp trên báo chí và rải rác trong một số tài liệu pháp lý. Hình sự hoá theo nghĩa này chỉ tập trung ở giai đoạn áp dụng luật, là một hành vi mang tính tiêu cực, thể hiện sự yếu kém, tiêu cực trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và xa hơn là sự lỏng lẻo của nhà nước trong quản lý kinh tế, là sự tùy tiện, lộng hành của một nhóm người nắm trong tay các công cụ quyền lực nhà nước. Chủ thể thực hiện việc hình sự hóa là các cơ quan có thẩm quyền thực hiện chức năng điều tra. Hình sự hóa, do đó phải được xem là hành vi trái luật, trái đạo đức. Vì vậy nếu hiểu hình sự hoá theo nghĩa này thì hiện tượng hình sự hoá các quan hệ dân sự kinh tế là hiện tượng vi phạm pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng xuất phát từ mục đích, động cơ cá nhân hoặc trình độ yếu kém của chính cá nhân, thực hiện công tác điều tra, truy tố…. Nguyên nhân sâu xa của hiện tượng này hoàn toàn không hẳn là hệ thống pháp luật không đồng bộ hoặc kỹ thuật lập pháp của các cơ quan soạn thảo, ban hành pháp luật yếu kém - Quan điểm II: là quan điểm của các nhà nghiên cứu, tuy không phổ biến nhưng được xây dựng trên nền tảng lý luận vững chắc. Quan điểm này cho rằng hình sự hóa là sự chuyển hoá các quan hệ pháp luật dân sự, kinh tế thành các quan hệ pháp luật hình sự thông qua việc xây dựng các qui phạm pháp luật của cơ quan có thẩm quyền 3. Trong cuộc sống xã hội, các quan hệ xã hội hình thành, phát triển, thay đổi cả về lượng và chất, mức độ nguy hiểm của một số hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực kinh tế, dân sự thay đổi theo hướng nặng hơn. Sau khi nghiên cứu đánh giá mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, tính phổ biến, mức độ trái với các qui phạm đạo đức, khả năng chứng minh về mặt tố tụng… nếu xét thấy cần thiết phải sử dụng biện pháp hình sự mới đấu tranh phòng ngừa các vi phạm, cơ quan lập pháp xác định hành vi ấy như một loại tội phạm mới trong pháp luật hình sự của quốc gia. Nếu hiểu hình sự hóa theo nghĩa này thì hiện tượng hình sự hóa là một tiến trình tích cực, hợp lý, và là công cụ thực hiện chính sách hình sự. Chủ thể thực hiện việc hình sự hoá chỉ có thể là cơ quan lập pháp. Về bản chất, đây là hoạt động thay đổi để phù hợp với nội dung chính trị- xã hội của pháp luật hình sự. Xung quanh quan điểm này cũng tồn tại hai ý kiến khác nhau 4: - Ý kiến thứ nhất: đồng nhất khái niệm hình sự hóa và khái niệm tội phạm hóa. Trong một chừng mực nào đó hai thuật ngữ này đồng nghĩa với nhau: hình sự hoá và tội phạm hoá là việc đưa vào Bộ luật hình sự các hành vi phải được qui định thành các tội phạm với tội danh cụ thể mà trước đó chưa xem là tội phạm. Hình sự hoá hay tội phạm hoá là sự qui định hoặc tuyên bố chính thức của cơ quan quyền lực nhà nước (cơ quan lập pháp) một hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội phạm. - Ý kiến thứ 2 cho rằng các khái niệm hình sự hoá và tội phạm hoá là liên quan mật thiết với nhau nhưng hoàn toàn khác nhau về bản chất, trong đó: Tội phạm hoá là việc xác định một loại hành vi này hay loại hành vi khác là tội phạm, tức là xác định sự cần thiết phải trừng trị bằng các biện pháp hình sự. Ngược lại, phi tội phạm hoá là xác định một loại hành vi nào đó không là tội phạm và không cần thiết phải trừng trị bằng pháp luật hình sự Hình sự hoá là việc qui định hình phạt, tức là xác định loại hình phạt, điều kiện quyết định hình phạt đối với loại tội phạm này hay loại tội phạm khác, ngược lại phi hình sự hoá là việc loại bỏ hay giảm hình phạt đối với loại tội phạm này hay loại tội phạm khác. Như trình bày, thuật ngữ “hình sự hoá” được hiểu với hai nghĩa hoàn toàn khác nhau, thậm chí trái ngược nhau dưới phương diện ý nghĩa pháp lý- xã hội. Thiết nghĩ, thuật ngữ hình sự hoá hiểu theo quan điểm thứ I là không hợp lý, tạo ra một cách hiểu không thống nhất, dễ nhầm lẫn giữa việc tuỳ tiện lạm dụng pháp luật hình sự để giải quyết các quan hệ kinh tế, dân sự như một hành vi tiêu cực với việc xác định một tội danh mới, một hình phạt mới trong pháp luật hình sự nhằm thực hiện chính sách hình sự như một hành vi tích cực. Xuất phát từ nhầm lẫn trên, trong một vài tham luận tại các tọa đàm, hội thảo không đi tìm bản chất và nguyên nhân của hiện tượng mà chỉ trích gay gắt Bộ luật hình sự như khởi đầu của mọi nguyên nhân. Thiết nghĩ, hiện tượng vẫn thường được gọi là “hình sự hoá” theo quan điểm I cần phải được thay thế bằng thuật ngữ “lạm dụng pháp luật hình sự trong giải quyết các quan hệ kinh tế- dân sự”, xuất phát từ các lý do sau: - Thứ nhất: thuật ngữ này diễn tả được bản chất của hành vi: đây là hành vi tiêu cực, trong một số trường hợp đó là hành vi vi phạm pháp luật và cần loại trừ. - Thứ hai: phân định sự khác nhau giữa hiện tượng hình sự hóa trong hoạt động xây dựng pháp luật hình sự với hiện tượng tùy tiện lạm dụng pháp luật hình sự giải quyết các vi phạm nghĩa vụ hợp đồng. Tuy nhiên, ở bình diện chung, việc đi tìm một thuật ngữ mới cho một hiện tượng đã tồn tại không thể hoàn toàn giải quyết những vấn đề đặt ra và bao hàm ý nghĩa thực tiễn, điều quan trọng, đồng thời cũng là nhiệm vụ nặng nề của khoa học pháp lý là phân tích các qui định pháp luật hiện hành, đi tìm nguyên nhân, bản chất của hiện tượng nhằm khắc phục. 2/ Biểu hiện của hiện tượng lạm dụng pháp luật hình sự trong giải quyết các quan hệ tín dụng ngân hàng và cơ sở phân định trách nhiệm hình sự và trách nhiệm vật chất theo hợp đồng tín dụng ngân hàng: Quan hệ tín dụng ngân hàng là quan hệ được thiết lập trên cơ sở hợp đồng, theo đó tổ chức tín dụng (TCTD - bên cho vay) chuyển cho bên đi vay sử dụng tạm thời một khoản vốn nhất định theo những điều kiện về số tiền, thời hạn, lãi suất thoả thuận trong hợp đồng, bên đi vay sử dụng vốn vay và có nghĩa vụ hoàn trả vốn và lãi cho bên cho vay. Quan hệ tín dụng ngân hàng về bản chất là một quan hệ dân sự - kinh tế tuỳ thuộc vào tư cách chủ thể tham gia quan hệ tín dụng ngân hàng và mục đích vay trên cơ sở thỏa thuận dưới hình thức hợp đồng. Xuất phát từ đặc thù của hoạt động kinh doanh tiền tệ là mang tính rủi ro cao, vì vậy, hạn chế rủi ro trong kinh doanh tiền tệ không chỉ nhằm mục đích tăng lợi nhuận cho ngân hàng mà còn đảm bảo khả năng hoàn trả cho người gửi tiền, góp phần bảo đảm an toàn hệ thống ngân hàng, tài chính - tiền tệ quốc gia. Hiện tượng lạm dụng pháp luật hình sự và tố tụng hình sự trong giải quyết các tranh chấp tín dụng ngân hàng thường biểu hiện dưới các trường hợp: Đến hạn trả nợ, người đi vay không trả được nợ cho ngân hàng, theo yêu cầu của ngân hàng, cơ quan điều tra thực hiện các thủ tục khởi tố bắt giam, điều tra, xét hỏi, theo Điều 140 BLHS Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đọat tài sản hoặc Điều 139 BLHS Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Trong các trường hợp này, vấn đề phân định ranh giới giữa trách nhiệm hình sự và trách nhiệm vật chất theo hợp đồng tín dụng đối với hành vi không trả được nợ cho ngân hàng là rất mờ nhạt và khó xác định. Thông thường, hành vi không hoàn trả vốn và lãi chỉ là vi phạm hợp đồng và chịu chế tài vật chất theo hợp đồng như áp dụng lãi suất quá hạn, phạt vi phạm hợp đồng, xử lý tài sản bảo đảm thu hồi nợ… trong trường hợp vẫn không thu hồi được nợ, TCTD có thể yêu cầu Tòa án giải quyết, kể cả yêu cầu tuyên bố phá sản theo pháp luật phá sản doanh nghiệp… mà chưa thể cấu thành nên tội chiếm đoạt và áp dụng chế tài hình sự. Chỉ có thể truy cứu trách nhiệm hình sự trong trường hợp việc không trả nợ cho ngân hàng có dấu hiệu lạm dụng tín nhiệm hoặc lừa đảo để chiếm đoạt tài sản được qui định trong Đ.140 BLHS và Đ.139 BLHS. Dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là người đi vay bội tín, lợi dụng lòng tin của ngân hàng mà vi phạm nghĩa vụ đã cam kết. Nếu như trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản bên đi vay phải thông qua các hành vi gian dối mới nhận được tài sản thì trong tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, việc ký kết hợp đồng tín dụng và chuyển giao vốn ban đầu diễn ra ngay thẳng, bên đi vay chưa xuất hiện ý định chiếm đoạt vốn của ngân hàng, đến hạn trả nợ bên đi vay không thực hiện các nghĩa vụ trong hợp đồng tín dụng mà bằng các thủ đoạn để chiếm đoạt khoản vay. Vì vậy tội phạm này chỉ có thể xảy ra trong quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng chứ không thể xảy ra ngay tại thời điểm ký kết hợp đồng. Theo khái niệm nguyên bản của tín dụng là quan hệ vay, mượn trên cơ sở tín nhiệm, tức dựa vào khả năng tài chính, khả năng kinh doanh, uy tín của người đi vay mà ngân hàng thiết lập quan hệ tín dụng dưới hình thức hợp đồng. Không tồn tại một quan hệ tín dụng ngân hàng nào không dựa trên sự tín nhiệm, điều ấy có nghĩa trong tất cả các trường hợp không trả được nợ cho ngân hàng chỉ cần có dấu hiệu chiếm đoạt thì đã hội đủ các yếu tố cấu thành theo Đ.140 BLHS. Yếu tố lừa đảo trong Đ.139 BLHS thông thường được hiểu là thủ đoạn gian dối, cố ý đưa ra thông tin không đúng sự thật, che dấu sự thật để lừa dối người khác. Lừa đảo là phương pháp đồng thời là điều kiện để người phạm tội thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Trong quan hệ tín dụng ngân hàng yếu tố lừa đảo thường biểu hiện dưới dạng: - Người đi vay dùng tài sản không thuộc sở hữu của mình, tài sản đang tranh chấp, tài sản thuộc diện bảo hiểm bắt buộc nhưng không mua bảo hiểm… để cầm cố, thế chấp ngân hàng xin vay vốn, đến hạn trả nợ, người đi vay không hoàn trả nợ, ngân hàng không thể xử lý tài sản thế chấp, cầm cố để thu hồi nợ. - Nâng giá trị tài sản thế chấp, cầm cố để đi vay của ngân hàng. Hành vi này có dấu hiệu lừa đảo chỉ khi có sự chênh lệch giữa giá trị thực của tài sản và giá trị bên đi vay khai báo tại thời điểm nhận thế chấp thông qua việc cố ý sửa đổi, che dấu giấy tờ, hoá đơn, sổ sách, hoặc những hành vi tương tự lừa dối cán bộ tín dụng hoặc Hội đồng định giá tài sản. - Cố ý cung cấp cho ngân hàng các chứng từ, giấy tờ, số liệu giả, không trung thực về tình hình tài chính, về khả năng trả nợ của người đi vay, cũng như các giấy tờ tài liệu về tính khả khi của dự án đầu tư… để được vay tiền của ngân hàng. - Thành lập các pháp nhân (doanh nghiệp, công ty con…) không với mục đích kinh doanh mà chỉ dùng tư cách pháp nhân để vay vốn ngân hàng. - Tẩu tán, bán, chuyển nhượng tài sản đang là tài sản thế chấp, cầm cố không được sự đồng ý của ngân hàng nhận thế chấp, cầm cố gây khó khăn cho việc thu hồi nợ Như vậy, trong các tội lạm dụng tín nhiệm và lừa đảo chiếm đoạt tài sản có hai yếu tố lạm dụng tín nhiệm (lừa đảo) và chiếm đoạt tài sản. Lạm dụng tín nhiệm hay lừa đảo chỉ là phương pháp, là sự chuẩn bị cho hành vi chiếm đoạt, nên nó chỉ là điều kiện cần cho định tội. Không thể truy cứu trách nhiệm hình sự trong trường hợp không có dấu hiệu chiếm đoạt. Vấn đề đặt ra ở đây: thế nào là hành vi chiếm đoạt, nội dung các yếu tố cấu thành của hành vi chiếm đoạt? Cùng một hành vi là chiếm đoạt nhưng phương pháp, cách thức (dùng bạo lực, đe doạ, lừa đảo, lạm dụng lòng tin, lợi dụng chức vụ quyền hạn…) để (nhằm) đạt đến mục đích chiếm đoạt là khác nhau thì cấu thành tội phạm khác nhau. Yếu tố chiếm đoạt không là dấu hiệu đặc thù của riêng hai tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt và lừa đảo chiếm đoạt mà của cả một số tội phạm xâm phạm sở hữu như Điều 133: tội cướp tài sản; Điều 134: tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản; Điều 136: tội cướp giật tài sản. Nếu như trong các tội cướp giật, cưỡng đoạt không cần thiết đến thời điểm hoàn thành, tức đã chiếm đoạt xong, mà chỉ cần ý định chiếm đoạt và thực hiện những hành vi nhằm mục đích chiếm đoạt thì trong khi đó, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt và lừa đảo chiếm đoạt tài sản cần thiết phải có thời điểm hoàn thành, tức là kẻ phạm tội phải chiếm đoạt được tài sản, tài sản đã được chuyển dịch bất hợp pháp, trong tín dụng ngân hàng người đi vay không trả nợ cho ngân hàng, thiệt hại cho ngân hàng là hiện hữu, có thực. Nếu chỉ dựa vào yếu tố lạm dụng tín nhiệm hoặc lừa đảo thì chưa thể hội đủ các điều kiện để áp dụng Điều 139 và Điều 140, bởi trong thực tế có rất nhiều trường hợp bằng cách thức lạm dụng tín nhiệm hoặc lừa đảo như khai khống giá trị tài sản thế chấp, cầm cố, cung cấp sai các giấy tờ chứng minh khả năng tài chính để được vay vốn ngân hàng nhưng không với ý định chiếm đoạt mà chỉ nhằm thỏa mãn nhu cầu về vốn, được sử dụng vốn của ngân hàng với ý định sẽ hoàn trả, việc không trả được nợ cho ngân hàng là do nguyên nhân khách quan thì cũng không thể cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt theo Điều 139, 140 BLHS và không thể áp dụng các biện pháp tố tụng hình sự để giải quyết các quan hệ này. Trong các tài liệu pháp lý thông thường, chiếm đoạt được hiểu là hành vi cố ý chuyển dịch một cách trái pháp luật tài sản, quyền tài sản đang thuộc sự quản lý của một chủ thể (nhà nước, tập thể hoặc cá nhân) thành tài sản của mình 5. Các đặc điểm pháp lý của hành vi chiếm đoạt bao gồm: - Về mặt khách quan, hành vi làm cho chủ tài sản mất khả năng thực tế thực hiện quyền sử dụng, quyền định đoạt, quyền sở hữu đối với tài sản. - Đối tượng chiếm đoạt là tài sản và quyền tài sản. Trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng, tài sản bị chiếm đoạt có thể là vốn dưới hình thức tiền tệ (tiền VN hoặc ngoại tệ), trong một số trường hợp có thể là quyền tài sản: các công cụ thanh toán (ngân phiếu thanh toán, séc hoặc các giấy tờ có giá bằng tiền). Các tài sản, quyền tài sản này phải có thực, thuộc sở hữu của người bị chiếm đoạt và chủ sở hữu không từ chối quyền sở hữu đối với tài sản. - Về mặt chủ quan, lỗi của người thực hiện hành vi chiếm đoạt là lỗi cố ý trực tiếp và với mục đích vụ lợi. Người đi vay nhận thức và mong muốn sự không trả nợ sẽ xảy ra, muốn biến tài sản của ngân hàng thành tài sản của mình, tước đoạt quyền sở hữu của ngân hàng đối với khoản vay. Chúng tôi chia sẻ với quan điểm của TS Nguyễn Văn Hiện: những vấn đề quan trọng trong việc xác định hành vi chiếm đoạt tài sản là 6: + Có việc cố ý không thực hiện việc hoàn trả tài sản + Chuyển dịch quyền sở hữu tài sản trái pháp luật + Chủ sở hữu có bị mất mất vĩnh viễn quyền hợp pháp của mình đối với tài sản + Một bên tham gia hợp đồng đã chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của người khác như của mình. Trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng, trên cơ sở các hướng dẫn của Tòa án tối cao và nghiên cứu, tham khảo thực tiễn xét xử, chúng tôi cho rằng, không thể coi là chiếm đoạt nếu cơ quan tiến hành tố tụng không chứng minh được các yếu tố sau: Thứ nhất, hành vi không trả nợ là cố ý trực tiếp, tức người phạm tội nhận thức được tính nguy hiểm của hành vi không trả nợ và mong muốn hậu quả xảy ra với mục đích tư lợi. Cố ý không trả nợ có thể được biểu hiện dưới hình thức không hành động: không thực hiện nghĩa vụ hoàn trả nợ gốc và lãi theo thỏa thuận trong hợp đồng khi nợ đến hạn mà không có sự chấp thuận gia hạn nợ, không được ngân hàng đồng ý xoá nợ… hoặc là hành động như cản trở việc phát mại tài sản bảo đảm để thu hồi nợ… Thứ hai, bỏ trốn nhằm gây khó khăn cho việc thu hồi nợ, ngoại trừ những trường hợp bỏ trốn vì sợ chủ nợ cưỡng bức, hành hạ… những đe dọa này, nếu có, phải có thực và nguy hiểm trực tiếp đối với con nợ. Thứ ba, người đi vay cố ý không trả nợ, mặc dù có khả năng trả nợ, hoặc có hành vi tẩu tán, chuyển dịch tài sản, che dấu doanh thu, thu nhập… nhằm mục đích trốn tránh việc trả nợ. Nguyên nhân dẫn đến việc không trả được nợ phải được xác định rõ không phải do kinh doanh thua lỗ, do biến động giá cả, bất ổn của thị trường hoặc do thiên tai và các trường hợp bất khả kháng mà là hậu quả của việc cố ý làm trái với các qui định pháp luật hiện hành trong kinh doanh như sử dụng vốn vay vào các hoạt động kinh doanh pháp luật không cho phép (dùng vốn vay đi buôn lậu, buôn bán hàng cấm, làm hàng giả, đưa hối lộ…) vi phạm các qui định pháp luật trong lĩnh vực kinh doanh, quản lý tài chính doanh nghiệp. Theo các tác giả Nguyễn Văn Hiện, Đinh Văn Quế, để xác định doanh nghiệp có thực sự thua lỗ, thông thường áp dụng phương pháp xác định đầu ra, đầu vào tức lấy tổng thu trừ đi tổng chi, phần chênh lệch nếu không chứng minh được là thua lỗ thì đó là chiếm đoạt 7 Song, vấn đề đặt ra là làm thế nào để chứng minh rằng việc không trả nợ không là hậu quả của việc kinh doanh thua lỗ, do các biến động giá cả, thị trường… bởi trong thực tế chưa có những qui định pháp luật thống nhất về chế độ hoá đơn - chứng từ trong kinh doanh, chưa có những qui định pháp luật đồng bộ, chuẩn mực về báo cáo tài chính, phương thức khấu hao tài sản cố định, phương thức tính hàng tồn kho, chế độ kế toán, kiểm toán… đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Trong một số trường hợp người đi vay sử dụng vốn vay không đúng mục đích xin vay vốn tức dùng vốn vay với mục đích ban đầu là đầu tư, kinh doanh, sản xuất để tiêu xài, xây nhà cửa, mua sắm đồ dùng, phương tiện đi lại dẫn đến không trả được nợ, khi nợ đến hạn có coi là hành vi chiếm đoạt và truy cứu trách nhiệm hình sự; xung quanh vấn đề này có nhiều quan điểm khác nhau: - Quan điểm thứ nhất cho rằng: nếu tài sản mua sắm còn lại ngang giá với khoản vay thì có thể áp dụng các chế tài vật chất và các biện pháp cưỡng chế kê biên thu hồi tài sản để trừ nợ mà chưa thể truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu con nợ không có hành vi chống lại việc kê biên, thu hồi tài sản, chỉ có thể gọi là chiếm đoạt và chịu trách nhiệm hình sự đối với khoản chênh lệnh của khoản vay so với giá trị tài sản hiện có và đối tượng của chiếm đoạt là khoản chênh lệch đó. - Quan điểm thứ hai: trường hợp người đi vay dùng vốn vay mua sắm, tiêu xài sai với mục đích xin vay, đến hạn không trả được nợ hoàn toàn hội đủ các yếu tố của hành vi chiếm đoạt tức có ý thức và cố ý biến tài sản của người khác thành tài sản của mình thông qua việc dùng tiền vay mua sắm, tiêu xài; cố ý không hoàn trả nợ khi hoàn toàn có khả năng trả nợ, có thể bán nhà, tài sản có được do mua sắm từ vốn vay; hành vi chiếm đoạt đã hoàn thành tức không hoàn trả khi khoản nợ đến hạn… Nếu đồng ý với quan điểm thứ hai, trong thực tế áp dụng sẽ gặp nhiều bất cập. Bởi vì, hiện nay đa số các hợp đồng tín dụng, điều khoản về mục đích sử dụng vốn vay ghi rất chung chung là “kinh doanh” vì vậy việc mua sắm nhà cửa, phương tiện đi lại, du lịch nước ngoài trong một chừng mực nào đó có thể gọi là kinh doanh hoặc gián tiếp nhằm mục đích kinh doanh, đặc biệt là đối với các nghĩa vụ, các khoản nợ của doanh nghiệp. Vì vậy, họ có thể sử dụng vốn vay với các mục đích khác nhau miễn là không vi phạm pháp luật. Ngoài ra, trong một số trường hợp, tùy thuộc vào vụ việc cụ thể, cơ quan điều tra phải xem xét đến ý thức trả nợ của người đi vay. Trong một số trường hợp do sử dụng vốn sai mục đích xin vay, dẫn đến khả năng mất trả nợ cho ngân hàng, khách hàng có xin gia hạn khoản vay, hoặc cam kết với ngân hàng sẽ chịu mọi chế tài do việc chậm trả nợ cho ngân hàng như áp dụng lãi suất quá hạn, phạt vi phạm hợp đồng nhưng ngân hàng vẫn không đồng ý gia hạn, thì không thể truy cứu trách nhiệm hình sự trong trường hợp này. Một số trường hợp, khi người đi vay không trả được nợ hoàn toàn do các yếu tố khách quan như bị người khác lừa đảo, chiếm đoạt… dẫn đến mất khả năng chi trả, thì không thể coi là hành vi chiếm đoạt nếu có kết luận của toà án bằng một bản án, trong đó bên đi vay với tư cách là người bị hại. Trong thực tế xảy ra một số trường hợp người đi vay cho người khác vay lại với lãi suất cao hơn để hưởng chênh lệch, sau đó không trả được nợ cho ngân hàng do bị người vay lại chiếm đoạt, tùy thuộc mức lãi suất cho vay lại có thể truy tố về tội cho vay nặng lãi và tội lừa đảo chiếm đoạt nếu hành vi hội đủ các điều kiện như lãi suất cho vay lại cao hơn mức lãi suất cao nhất mà NHNN qui định từ 10 lần trở lên (Đ142). Các trường hợp không trả được nợ nếu khoản nợ có tài sản bảo đảm ngang giá với khoản nợ thì không thể là hành vi chiếm đoạt, ngoại trừ trường hợp giá trị tài sản bảo đảm nhỏ hơn khoản nợ, trong trường hợp này đối tượng của hành vi chiếm đoạt chỉ là phần chênh lệch giữa khoản nợ và giá trị tài sản bảo đảm. Tóm lại: trong trường hợp không trả được nợ cho ngân hàng theo hợp đồng tín dụng ngân hàng, chỉ có thể truy cứu trách nhiệm hình sự theo Đ.139; Đ.140 BLHS khi người đi vay bằng phương pháp lạm dụng lòng tin hoặc lừa đảo để vay tiền và thông qua các hành vi cố ý nhằm chiếm đoạt vốn vay và lãi. Tội phạm được hoàn thành vào thời điểm thực hiện xong hành vi chiếm đoạt, tức không trả nợ cho ngân hàng khi đến hạn. Trong các trường hợp khác, việc không thực hiện nghĩa vụ trả nợ của người đi vay chỉ có thể áp dụng chế tài vật chất theo thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng hoặc theo các qui định pháp luật về hợp đồng. 3/ Các giải pháp hạn chế hiện tượng lạm dụng pháp luật hình sự trong giải quyết các quan hệ dân sự, kinh tế: Nguyên nhân của hiện tượng lạm dụng pháp luật hình sự để giải quyết các vi phạm nghĩa vụ trong các thoả thuận dân sự, kinh tế có thể xuất phát từ sự không am hiểu pháp luật của chủ nợ; tâm lý của ngân hàng muốn thu hồi nhanh các khoản nợ, muốn trừng trị con nợ; năng lực cán bộ điều tra, truy tố, xét xử yếu kém… đó là chưa kể đến các trường hợp vì mục đích, động cơ cá nhân, tư thù, tư lợi, hối lộ nhằm bóp méo, thổi phồng các vi phạm nghĩa vụ vật chất trong các quan hệ kinh tế, dân sự thành tội phạm hình sự. Trong các tài liệu nghiên cứu, các tham luận tại các Tọa đàm, Hội thảo đề cập khá nhiều về các nguyên nhân cũng như đưa ra các giải pháp với nội dung trên. Song, việc đi tìm nguyên nhân và các giải pháp chống hiện tượng hình sự hoá các quan hệ kinh tế, dân sự sẽ không đi đến một kết quả mong muốn nếu chúng ta không đi sâu nghiên cứu bản chất của hiện tượng và đề xuất các giải pháp đồng bộ, hữu hiệu. Theo chúng tôi, một trong những nguyên nhân cốt lõi, sâu xa của hiện tượng trên là hiện nay trong khoa học pháp lý Việt Nam chưa có những công trình nghiên cứu một cách hoàn chỉnh dưới phương diện lý luận về các vấn đề sau: Thứ nhất, đi tìm một thuật ngữ pháp lý phù hợp cho hiện tượng lạm dụng, áp dụng tuỳ tiện các qui định pháp luật hình sự đối với các vi phạm nghĩa vụ dân sự và nghĩa vụ theo hợp đồng kinh tế. Tránh trường hợp nhầm lẫn với hình sự hoá, tội phạm hoá trong công tác lập pháp. Thứ hai, nghiên cứu khái niệm các loại hình trách nhiệm pháp lý; trách nhiệm dân sự, trách nhiệm vật chất phát sinh từ hợp đồng kinh tế, trách nhiệm hành chính, trách nhiệm hình sự; cơ sở, điều kiện phát sinh các loại trách nhiệm pháp lý trên; cơ sở và dấu hiệu để phân định ranh giới giữa chúng với nhau. Giải quyết được vấn đề này trong học thuật chính là chìa khoá hữu hiệu, định hướng cho tiến trình hoàn thiện pháp luật, ngăn chặn hiện tượng nhầm lẫn, tuỳ tiện, lạm dụng pháp luật hình sự trong các quan hệ kinh tế, dân sự và ngược lại. Thứ ba, xây dựng nền tảng lý luận về nghĩa vụ, hậu quả pháp lý của vi phạm nghĩa vụ, các loại hình chế tài đối với các bên vi phạm hợp đồng nói chung và trong hợp đồng tín dụng ngân hàng nói riêng, các đặc thù của hợp đồng tín dụng ngân hàng. Thứ tư, nghiên cứu và hoàn thiện hệ thống lý luận về khái niệm chiếm đoạt trong các tội: lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, và các tội khác cùng có dấu hiệu chiếm đoạt như tội cưỡng đoạt tài sản (Đ.135), tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Đ.134), tội công nhiên chiếm đoạt tài sản (Đ.137), tội chiếm giữ trái phép tài sản (Đ.141)… phân tích rõ sự khác nhau giữa các tội danh này, đồng thời tổng kết thực tiễn giải quyết các tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng, công tác xét xử các tội xâm phạm sở hữu bằng hình thức chiếm đoạt. Ngoài ra, trong hoạt động lập pháp, chúng tôi tán đồng với các ý kiến cho rằng Bộ Luật Hình sự Việt Nam năm 1999 cụ thể là các Đ.139; Đ.140 được xây dựng quá chung chung, dẫn đến các khái niệm “lừa đảo chiếm đoạt” “lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt” được hiểu khác nhau và khó khăn khi áp dụng luật. Nên chăng, cần thiết phải cụ thể hoá thành các điều khoản cụ thể trong từng lĩnh vực nhằm đáp ứng được tính đa dạng các quan hệ trong nền kinh tế hàng hoá cũng như các dấu hiệu của hành vi lạm dụng tín nhiệm và lừa đảo. Trong thực tiễn lập pháp các quốc gia trên thế giới, các tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng và hoạt động ngân hàng (cạnh tranh không lành mạnh, không đảm bảo bí mật tài khoản, lừa đảo chiếm dụng vốn…) chiếm một tỷ lệ không nhỏ trong số lượng điều luật của BLHS. Trong BLHS Cộng hòa Liên bang Nga, các tội phạm liên quan đến lĩnh vực tín dụng ngân hàng nói riêng và các tội phạm kinh tế nói chung qui định khá chi tiết: ví dụ Đ.159: tội đoạt tài sản, quyền tài sản của người khác bằng lừa dối và lạm dụng lòng tin; Đ.173: Kinh doanh giả, thành lập các tổ chức kinh tế không với ý định thực hiện hoạt động kinh doanh mà nhằm mục đích vay tiền của ngân hàng, hưởng ưu đãi về thuế, và các lợi ích khác hoặc với mục đích che dấu các hoạt động kinh doanh bất hợp pháp, gây thiệt hại vật chất cho công dân, tổ chức và nhà nước; Đ176: Nhận các khoản vay không hợp pháp:1/ vay tiền hoặc vay với các điều kiện ưu đãi bằng cách cung cấp các chứng cứ giả tạo về tình hình sản xuất, tình hình tài chính gây thiệt hại cho ngân hàng; 2/ nhận các khoản vay ưu đãi của nhà nước theo các dự án một cách bất hợp pháp hoặc sử dụng các khoản vay này không đúng mục đích gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức và nhà nước; các Đ.196, 197, 195 về tội cố ý gây mất khả năng thanh toán dẫn đến phá sản; phá sản giả để không phải trả nợ…8. Kết luận: Chính sách hình sự của Nhà nước ta là một bộ phận của chính sách pháp luật nói chung, ngày càng hoàn thiện và góp phần không nhỏ vào tiến trình xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam trong đó có lĩnh vực tín dụng ngân hàng. Song, thực trạng lạm dụng pháp luật hình sự đối với các hành vi vi phạm nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng tín dụng ngân hàng thông qua việc can thiệp thái quá, không cần thiết của các cơ quan tiến hành tố tụng là rất phổ biến và gây ra những hậu quả không nhỏ cho xã hội. Đây là một trong những căn bệnh đáng báo động hiện nay, đồng thời đó cũng là biểu hiện của sự chưa hoàn thiện trong công tác nghiên cứu, xây dựng và áp dụng pháp luật. Để hạn chế và ngăn chặn hiện tượng trên, cần thiết phải nghiên cứu không chỉ dưới khía cạnh thực tiễn mà cả các vấn đề lý luận. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi chỉ dừng lại ở mức độ gợi mở một số vấn đề để cùng nghiên cứu và trao đổi. [1] Lại Việt Hợp, Thực trạng tình hình hình sự hoá giao dịch dân sự, kinh tế hiện nay, Báo Diễn đàn doanh nghiệp, số 63 ngày 6/11/2000. 2 Xem:Trần Hữu Huỳnh, Hình sự hoá các quan hệ dân sự, kinh tế: nguyên nhân và giải pháp; Vũ Thế Vậc, Một số giải pháp khắc phục tình trạng hình sự hoá các quan hệ dân sự, kinh tế trong hoạt động ngân hàng, Tham luận tại Diễn đàn doanh nghiệp “Chống hình sự hoá các giao dịch dân sự, kinh tế” TP HCM ngày 10/11/2000. 3 Nguyễn Đình Cung, Báo cáo tổng quát về hiện tượng hình sự hoá giao dịch dân sự kinh tế, Tài liệu đã dẫn. 4 Xem: Đào Trí Úc, Nhà nước và pháp luật của chúng ta trong sự nghiệp đổi mới, NXB KHXH, HN, 1997, tr.558; Lê Cảm, Tội phạm hoá và phi tội phạm hoá: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Tạp chí Toà án nhân dân, số 5, 2000; Lô Văn Lý, Tội phạm hoá và phi tội phạm hoá trong luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sỹ Luật, Trường ĐH Luật TP HCM năm 2000, tr.9 – 10. 5 Nguyễn Ngọc Hoà(Chủ biên), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, T.I, NXB Công an nhân dân, HN, 1997, tr.205. 6 Nguyễn Văn Hiên, Những biểu hiện của tình trạng hình sự hoá các giao dịch dân sự, kinh tế trong công tác xét xử và biện pháp khắc phục, Tài liệu tham luận đã dẫn. 7 Nguyễn Văn Hiện, Tài liệu đã dẫn; Đinh Văn Quế, Bình Luận án, NXB TP HCM, 1998, tr. 53. 8 M. Lisanxki và I. Maclôva, Sự điều chỉnh pháp luật quan hệ tín dụng ngân hàng, Tạp chí “Kinh tế và pháp luật” số 4 – 1999, tr.132 - 136

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf6_7364.pdf