MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhà nước là chủ thể duy nhất trong xã hội ban hành pháp luật. Nhà nước với tư cách là một chủ thể công quyền duy nhất trong xã hội, được hình thành từ nhân dân và thực hiện quyền điều hành, quản lý xã hội trong đó có những nhiệm vụ bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức khi những quyền và lợi ích hợp pháp này bị xâm phạm. Để có thể thực hiện được những nhiệm vụ này, Nhà nước phải thông qua các cơ quan đại diện cho mình ở các ngành, các cấp chính quyền mà cụ thể là thông qua việc thực thi công vụ của công chức nhà nước. Trong quá trình Nhà nước thực hiện các công việc thuộc thẩm quyền của mình thông qua hành vi của đội ngũ công chức thì một điều tất yếu là có thể gây thiệt hại cho bất kỳ cá nhân, tổ chức nào. Ngoài việc gây thiệt hại trong quá trình thực thi công vụ, thực tiễn còn đặt ra nhiều tình huống cụ thể mà trong đó Nhà nước có thể trực tiếp hay gián tiếp gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức. Vấn đề đặt ra là nếu cá nhân, tổ chức bị thiệt hại do nguyên nhân từ phía cá nhân, chủ thể khác thì được cá nhân, tổ chức đó bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật, vậy nếu Nhà nước gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức thì Nhà nước có phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại hay không hay Nhà nước được miễn trừ trách nhiệm? Thực tiễn Việt Nam hiện nay đã có các văn bản quy phạm pháp luật quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước: cụ thể là các quy định trong Bộ luật Dân sự 1995 và nay là Bộ luật Dân sự 2005 quy định về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước (Điều 619 và Điều 620 Bộ luật Dân sự 2005 quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của các cơ quan nhà nước trong trường hợp cán bộ, công chức gây thiệt hại và trách nhiệm bồi thường thiệt hại của các cơ quan tiến hành tố tụng trong trường hợp người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây thiệt hại) và các văn bản dưới luật khác quy định về vấn đề này. Trong thời gian gần đây, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH ngày 17 tháng 3 năm 2003 (sau đây gọi tắt lả Nghị quyết số 388) về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong tố tụng hình sự gây ra. Như vậy, về mặt thực tiễn pháp lý, Việt Nam đã thừa nhận trách nhiệm của Nhà nước trong các trường hợp cụ thể song về mặt thực thi các quy định của pháp luật thì không hiệu quả. Sự ra đời của Nghị quyết số 388 dù đã góp phần là cơ sở pháp lý quan trọng để cá nhân, tổ chức có thể bảo vệ quyền lợi của mình nhưng chưa đầy đủ, bao quát và toàn diện.
Chính từ thực tiễn như vậy, việc nghiên cứu có hệ thống một số vấn đề lý luận cơ bản, cũng như đánh giá một cách toàn diện nội dung và quá trình thực thi pháp luật hiện hành về trách nhiệm của Nhà nước sẽ là cơ sở để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước một cách toàn diện, đầy đủ, góp phần hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của Nhà nước.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu có một số chuyên đề nghiên cứu và bài viết liên quan đến nội dung của đề tài như:
- Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Lê Mai Anh: "Những vấn đề cơ bản về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong Bộ luật Dân sự". Luận văn này nghiên cứu nhiều vấn đề, trong đó có những nội dung liên quan đến đề tài nghiên cứu của tác giả như: tiếp cận vấn đề trách nhiệm dân sự, khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và đặc điểm pháp lý.
- Bài viết "Lỗi và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng" của TS Phùng Trung Tập - Trưởng bộ môn Luật Dân sự, Khoa Luật Dân sự, Trường Đại học Luật Hà Nội. Trong bài viết này có đề cập đến nhiều vấn đề trong đó có nội dung có tính chất tham khảo quan trọng cho việc nghiên cứu đề tài của tác giả như: việc phân tích những hành vi có lỗi trong một số loại trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng (về cơ sở xác định lỗi, hình thức lỗi), hay khi xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cần phải xác định yếu tố lỗi để có căn cứ quy trách nhiệm cho người có hành vi trái pháp luật.
- Luận án Tiến sĩ của tác giả Lê Mai Anh: "Bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra". Nội dung của Luận án đề cập đến nhiều vấn đề có tính tham khảo quan trọng cho việc thực hiện đề tài nghiên cứu của tác giả như: đặc điểm, nội dung, bản chất của trách nhiệm nhà nước trong việc bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra khi tiến hành các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử.
Ngoài ra, còn có nhiều chuyên đề, bài viết, bài nghiên cứu của một số tác giả làm công tác xây dựng pháp luật với nội dung đề cập đến nhiều vấn đề cơ bản phục vụ cho quá trình soạn thảo Luật Bồi thường Nhà nước (trong chương trình chuẩn bị trong năm 2006 của Quốc hội khóa 11) cũng là những tài liệu nghiên cứu quan trọng được tác giả lựa chọn tham khảo khi thực hiện đề tài nghiên cứu.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Luận văn nghiên cứu những vấn đề sau:
- Một số vấn đề lý luận cơ bản về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước cho cá nhân, tổ chức khi cá nhân, tổ chức bị thiệt hại trong quá trình thực thi công vụ của công chức nhà nước, khi Nhà nước ra những quyết định trái pháp luật và một số trường hợp cụ thể khác;
- Pháp luật của một số quốc gia về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước;
- Nội dung và thực tiễn thi hành pháp luật hiện hành của Việt Nam về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn được thực hiện trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, ứng dụng cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử.
Để thực hiện việc nghiên cứu đề tài, luận văn còn sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học tin cậy khác như: phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp và một số phương pháp nghiên cứu khoa học phù hợp khác.
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
a) Mục đích
- Phân tích những cơ sở lý luận và thực tiễn để khẳng định rằng Nhà nước phải chịu trách nhiệm bồi thường cho những thiệt hại đã gây ra cho cá nhân, tổ chức trong một số trường hợp cụ thể;
- Trên cơ sở những vấn đề lý luận đã nghiên cứu về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước, liên hệ với thực tiễn của Việt Nam để khẳng định sự cần thiết của việc thừa nhận trách nhiệm của Nhà nước và phải thiết lập một cơ chế thực thi nghiêm chỉnh và đầy đủ;
- Phân tích những bất cập, hạn chế của pháp luật Việt Nam hiện hành về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước và của thực tiễn thi hành;
- Kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật Việt Nam về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước.
b) Nhiệm vụ
- Nghiên cứu để tìm hiểu sơ lược về lịch sử hình thành của tư tưởng về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước;
- Bước đầu phân tích một số vấn đề lý luận để thừa nhận trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước; nêu và đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước ở Việt Nam;
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật hiện hành của Việt Nam về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước;
- Trình bày, phân tích và so sánh một số chế định cơ bản trong pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước của một số quốc gia trên thế giới;
- Kiến nghị để hoàn thiện pháp luật của Việt Nam về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
- Trên cơ sở những phân tích một số vấn đề lý luận cơ bản, luận văn khẳng định việc thừa nhận trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước là hoàn toàn phù hợp, đồng thời luận văn đưa ra cách tiếp cận mới về trách nhiệm của Nhà nước;
- Luận văn đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật của Việt Nam về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 2 chương:
Chương 1: Khái quát chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước và một số kiến nghị
71 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5804 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Về lý luận và thực tiễn về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiệt hại do tổn thất
về tinh thần; Điều 6. Thiệt hại về vật chất trong trường hợp người bị oan chết;
46
Điều 7. Thiệt hại về vật chất trong trường hợp người bị oan bị tổn hại về sức
khỏe; Điều 8. Trả lại tài sản và bồi thường thiệt hại trong trường hợp tài sản
bị xâm phạm; Điều 9. Thiệt hại do thu nhập thực tế bị mất của người bị oan;
Nghị quyết số 388) để trên cơ sở đó các bên thương lượng, đồng thời là căn
cứ để Tòa án áp dụng khi giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại giữa các bên.
Việc chi trả tiền bồi thường được thực hiện "ngay sau khi có quyết định bồi
thường thiệt hại trong trường hợp thương lượng thành hoặc có bản án, quyết
định của Tòa án về việc bồi thường thiệt hại có hiệu lực pháp luật"; về kinh
phí bồi thường thì "cơ quan có trách nhiệm bồi thường thiệt hại phải có văn
bản đề nghị bồi thường thiệt hại gửi cơ quan chủ quản ở Trung ương để xem
xét tổng hợp và đề nghị Bộ Tài chính cấp kinh phí bồi thường thiệt hại. Trong
văn bản cần ghi đầy đủ cụ thể người được bồi thường thiệt hại, các khoản tiền
bồi thường đối với các khoản thiệt hại cụ thể và tổng số tiền đề nghị Bộ Tài
chính cấp để thực hiện việc bồi thường thiệt hại." (Mục VI, khoản 2 Thông tư
số 01). Đặc biệt trong nội dung của Nghị quyết số 388 có các quy định về thủ
tục khôi phục danh dự cho người bị thiệt hại. Đối với người bị oan, "cơ quan
có trách nhiệm bồi thường thiệt hại phải xin lỗi, cải chính công khai cho
người bị oan"; việc xin lỗi, cải chính công khai được thực hiện bằng hình thức
"trực tiếp xin lỗi, cải chính công khai tại nơi cư trú hoặc nơi làm việc của
người bị oan có sự tham dự của đại diện chính quyền địa phương nơi người bị
oan cư trú, đại diện cơ quan nơi người bị oan làm việc, đại diện của một tổ
chức chính trị - xã hội mà người bị oan là thành viên" và "đăng trên một tờ
báo trung ương và một tờ báo địa phương trong ba số liên tiếp" (Điều 4 Nghị
quyết số 388).
Có thể nói, Nghị định số 47, Nghị quyết số 388 và Thông tư số 01 đã
quy định khá đầy đủ về phương thức bồi thường, cụ thể bao gồm các hình
thức bồi thường bằng tiền, hình thức khôi phục danh dự cho người bị thiệt
hại, trình tự thủ tục và những cá nhân, tổ chức cụ thể có trách nhiệm thực hiện
việc khôi phục danh dự. Tuy nhiên, một số học giả cho rằng phương thức bồi
47
thường mà pháp luật hiện nay quy định vẫn chưa tạo điều kiện thuận lợi cho
người bị thiệt hại:
Thủ tục bồi thường rườm rà, phức tạp. Nghị định 47/CP quy
định thành lập Hội đồng tư vấn giải quyết bồi thường, tuy nhiên thủ
tục mang nặng tính hành chính, chưa tạo cơ chế phù hợp để bên
thiệt hại và cơ quan tiến hành tố tụng thương lượng về việc bồi
thường. Khắc phục tình trạng này, Nghị quyết số 388 đề cao trách
nhiệm của cơ quan giải quyết bồi thường trong thương lượng với
người bị thiệt hại, tuy nhiên, thời hạn giải quyết quá dài. Bên cạnh
đó, thủ tục chi trả tiền bồi thường còn phức tạp, chưa tạo điều kiện
thuận lợi cho người bị thiệt hại [13, tr. 7].
Mặc dù có những đánh giá như vậy, nhưng cho đến nay vẫn chưa có
được một thống kê nào về quá trình thực hiện Nghị định 47/CP, thậm chí dư
luận xã hội còn phản ánh rằng văn bản này đã hoàn toàn không được thực thi,
áp dụng trên thực tiễn.
2.1.4. Nghĩa vụ hoàn trả
Nghĩa vụ hoàn trả của công chức là vấn đề khá nhạy cảm có liên quan
đến chính sách pháp lý của mỗi quốc gia về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
của Nhà nước.
Vậy có nên đặt ra quy định về nghĩa vụ hoàn trả hay không? Nếu đặt
ra nghĩa vụ hoàn trả thì ở mức độ nào thì hợp lý? Trước hết, cần thiết phải đặt
ra vấn đề hoàn trả đối với công chức vì "nếu không đặt vấn đề trách nhiệm
cho công chức thì tất yếu dẫn đến tâm lý không hay của công chức là luôn
nghĩ rằng mình không phải bồi thường hoặc đã có Nhà nước bồi thường thay
nên sẽ làm việc tuỳ tiện, tất yếu dẫn đến lạm dụng" [19, tr. 4]. Tuy nhiên, nếu
đưa ra nghĩa vụ hoàn trả một cách tuyệt đối - luôn luôn phải hoàn trả 100% -
thì hoàn toàn không hiệu quả, sẽ tác động tiêu cực đến các hoạt động của Nhà
nước mà cụ thể là tâm lý lo sợ, e ngại của công chức là phải bồi hoàn một
48
khoản tiền rất lớn cho Nhà nước trong khi năng lực tài chính của mình không
cho phép. Bên cạnh đó, Nhà nước là chủ thể được hưởng lợi ích khi công
chức thực hiện công việc mà Nhà nước phân công, chính vì vậy "Nhà nước là
người hưởng lợi khi công chức thực hiện công vụ nên Nhà nước phải chịu rủi
ro" [32, tr. 7]. Về nguyên tắc, công chức - với tư cách là người của một pháp
nhân, là người làm thuê của Nhà nước - không bao giờ phải hoàn trả 100% số
tiền mà Nhà nước đã bỏ ra để bồi thường. Nếu trong mọi trường hợp mà công
chức đều phải bồi hoàn 100% số tiền mà Nhà nước đã bỏ ra thì vô hình chung
đó là một quy định gián tiếp chối bỏ trách nhiệm của Nhà nước.
Bộ luật Dân sự 1995 cũng như Bộ luật Dân sự 2005 đã quy định về
nghĩa vụ hoàn trả rất hợp lý, cụ thể, Điều 619 quy định: Cơ quan, tổ chức
quản lý cán bộ, công chức có trách nhiệm yêu cầu cán bộ, công chức phải
hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật, nếu cán bộ, công chức
có lỗi trong khi thi hành công vụ" và Điều 620 quy định: "Cơ quan tiến hành
tố tụng có trách nhiệm yêu cầu người có thẩm quyền đã gây thiệt hại phải
hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật, nếu người có thẩm
quyền có lỗi trong khi thi hành nhiệm vụ". Như vậy, theo quy định của Bộ
luật Dân sự thì điều kiện để buộc công chức phải có trách nhiệm hoàn trả số
tiền mà cơ quan công quyền bỏ ra để bồi thường là đã có lỗi đối với việc gây
thiệt hại trong khi thi hành công vụ. Đối với những thiệt hại mà công chức
gây ra nhưng hoàn toàn không có lỗi trong khi thi hành công vụ thì công chức
không phải hoàn trả lại cho cơ quan số tiền mà cơ quan đã bỏ ra để bồi thường.
Nghị định số 47/CP quy định về nghĩa vụ hoàn trả từ Điều 12 đến
Điều 18. Việc hoàn trả được thực hiện trên cơ sở các quyết định của Hội đồng
xét hoàn trả bồi thường thiệt hại do "thủ trưởng cơ quan nhà nước, cơ quan
tiến hành tố tụng thành lập" (Điều 13). Hội đồng này bao gồm "đại diện lãnh
đạo cơ quan của người gây thiệt hại là Chủ tịch Hội đồng, Chủ tịch công đoàn
cơ sở, Thủ trưởng trực tiếp của người gây thiệt hại, Kế toán trưởng, một số
chuyên gia về ngành kinh tế - kỹ thuật và pháp lý có liên quan" (Điều 14) và
49
có nhiệm vụ "giúp cho Thủ trưởng cơ quan xem xét, đánh giá thiệt hại, xác
định mức độ lỗi và khả năng kinh tế của công chức, viên chức nhà nước, người
có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng và kiến nghị với Thủ trưởng cơ
quan về mức hoàn trả và phương thức hoàn trả bồi thường thiệt hại". Hội
đồng xét hoàn trả bồi thường thiệt hại hoạt động theo trình tự:
Chủ tịch Hội đồng công bố thành phần tham gia, cử thư ký;
Hội đồng nghe giải trình của người gây thiệt hại; Hội đồng nghe ý
kiến của Chủ tịch công đoàn cơ sở, ý kiến của Thủ trưởng trực tiếp
của người gây thiệt hại và ý kiến của Kế toán trưởng; Hội đồng thảo
luận và quyết định theo đa số. Kiến nghị của Hội đồng được lập
thành văn bản và gửi cho lãnh đạo cơ quan có thẩm quyền xem xét
quyết định (Điều 16).
Trên cơ sở các hoạt động và những kiến nghị của Hội đồng xét hoàn
trả bồi thường thiệt hại thì "mức hoàn trả do Thủ trưởng cơ quan đó quyết
định" (Điều 12). Một điểm đáng chú ý là Nghị định 47/CP đã quy định về
trường hợp nếu trừ dần vào thu nhập của công chức để thực hiện việc hoàn trả
thì không dưới 10% và không vượt quá 30% tổng thu nhập từ tiền lương và
phụ cấp hàng tháng, nếu có (Điều 17). Quy định này giúp cho công chức một
mặt vẫn thực hiện được nghĩa vụ đối với cơ quan công quyền, mặt khác vẫn
bảo đảm ổn định cuộc sống của mình.
Có thể nói, việc xét hoàn trả quy định trong Nghị định 47/CP cũng
giống như việc xét giải quyết bồi thường là cũng được thực hiện thông qua
một hội đồng. Về nguyên tắc, việc hoàn trả được thực hiện thông qua quyết
định đơn phương của Hội đồng xét hoàn trả bồi thường thiệt hại, nhưng nếu
"công chức, viên chức nhà nước, người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành
tố tụng không đồng ý với quyết định của Thủ trưởng cơ quan về việc hoàn trả
bồi thường thiệt hại hoặc không thực hiện nghĩa vụ hoàn trả thì các bên có
quyền yêu cầu Tòa án giải quyết" (Điều 18).
50
Nghị quyết số 388 cũng có quy định về nghĩa vụ hoàn trả song khá
đơn giản. Điều 16 quy định: "Người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng
hình sự gây oan do lỗi của mình trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét
xử, thi hành án hình sự có nghĩa vụ hoàn trả theo quy định của pháp luật".
Như vậy, so với Nghị định 47/CP thì Nghị quyết này quy định rõ hơn, theo
đó, người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng chỉ phải hoàn trả số
tiền cho cơ quan tiến hành tố tụng trong trường hợp họ có lỗi khi gây thiệt hại
trong quá trình thực hiện công vụ. Người có thẩm quyền quyết định việc hoàn trả
của cơ quan tiến hành tố tụng là thủ trưởng cơ quan tiến hành tố tụng, theo đó:
Thủ trưởng cơ quan đã thực hiện việc bồi thường thiệt hại có
trách nhiệm quyết định mức hoàn trả, phương thức hoàn trả mà
người có nghĩa vụ hoàn trả phải thực hiện. Trong trường hợp thủ
trưởng cơ quan có trách nhiệm bồi thường thiệt hại là người có
nghĩa vụ hoàn trả, thì thủ trưởng cơ quan cấp trên trực tiếp của
người đó có trách nhiệm quyết định mức hoàn trả, phương thức
hoàn trả (Điều 17).
Tuy nhiên, một hạn chế của Nghị quyết số 388 khi quy định về trách
nhiệm hoàn trả là đã hành chính hóa hoạt động giải quyết tranh chấp về nghĩa
vụ hoàn trả, cụ thể là "trong trường hợp người có nghĩa vụ hoàn trả không
đồng ý với quyết định về việc hoàn trả thì có quyền khiếu nại với thủ trưởng
cấp trên trực tiếp của người đã ra quyết định về việc hoàn trả. Quyết định giải
quyết khiếu nại của thủ trưởng cấp trên trực tiếp là quyết định cuối cùng"
(Điều 17).
Có thể nói, chế định pháp luật hiện hành của Việt Nam về trách nhiệm
bồi thường thiệt hại của Nhà nước đã được hình thành dù mới chỉ ở dạng
trách nhiệm bồi thường của các cơ quan công quyền; chế định này đã quy
định một cách tương đối đầy đủ những nội dung cơ bản, cần thiết. Về ưu điểm,
hiệu quả điều chỉnh của các văn bản này đã thể hiện được qua những mặt nhất
51
định: Thứ nhất, ghi nhận trách nhiệm bồi thường của các cơ quan nhà nước
đối với những thiệt hại do cán bộ, công chức gây ra cho tổ chức, cá nhân
khác; thứ hai, quy định một cách chung nhất các điều kiện làm phát sinh trách
nhiệm bồi thường và những vấn đề khác có liên quan đến trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của Nhà nước (các loại thiệt hại, điều kiện bồi thường, nghĩa
vụ chứng minh, trình tự, thủ tục bồi thường v.v..); thứ ba, quy định được một số
trường hợp được bồi thường trong lĩnh vực tố tụng hình sự (Nghị quyết số 388).
Tuy nhiên, bên cạnh những hiệu quả đạt được, chế định này đã bộc lộ nhiều
hạn chế, cụ thể là:
a) Cơ chế bồi thường thiệt hại hiện hành về cơ bản không có lợi cho
người bị thiệt hại
Pháp luật hiện hành quy định khi một cán bộ, công chức gây thiệt hại
trong quá trình thực hiện công vụ thì trách nhiệm bồi thường thuộc về cơ quan,
tổ chức quản lý công chức đó. Quy định này dẫn đến hệ quả là: (1) không tạo
thuận lợi cho người bị thiệt hại thực hiện quyền yêu cầu bồi thường của mình
do có sự đùn đẩy trách nhiệm giải quyết bồi thường giữa các cơ quan có trách
nhiệm liên đới trong việc gây ra thiệt hại vì trong nhiều trường hợp việc gây
ra thiệt hại có thể do lỗi của các cán bộ, công chức của nhiều cơ quan khác
nhau và khó xác định ranh giới trách nhiệm; (2) thiếu khách quan trong giải
quyết bồi thường vì nhiều trường hợp thủ trưởng cơ quan, đơn vị thực hiện
bồi thường lại chính là người đã gây ra thiệt hại.
b) Các văn bản mới chủ yếu quy định những nội dung mang tính
nguyên tắc mà thiếu tính cụ thể, thống nhất và đồng bộ
Tiếp theo Bộ luật Dân sự 1995, Bộ luật Dân sự 2005 cũng chỉ quy
định hai điều luật có tính nguyên tắc về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong
trường hợp cán bộ, công chức gây thiệt hại trong quá trình thi hành công vụ
(Điều 619, 620); Nghị định số 47/CP có phạm vi áp dụng hẹp, chỉ quy định
trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước trong lĩnh vực hành chính;
52
Nghị quyết số 388 thì quy định áp dụng riêng trong lĩnh vực tố tụng hình sự
nhưng cũng chỉ dừng lại ở trường hợp bị oan; Bộ luật Tố tụng hình sự mới chỉ
quy định một điều để áp dụng cho các trường hợp ngoài phạm vi điều chỉnh
của Nghị quyết số 388 (Điều 30 - Người bị thiệt hại do cơ quan hoặc người
có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra có quyền được bồi
thường thiệt hại), Bộ luật Tố tụng dân sự tại Điều 13 cũng đã quy định trách
nhiệm bồi thường cho Tòa án (Điều 13 - Người tiến hành tố tụng dân sự có
hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho cá nhân, cơ quan, tổ chức thì Tòa án
phải bồi thường cho người bị thiệt hại và người tiến hành tố tụng có trách
nhiệm bồi hoàn cho Tòa án theo quy định của pháp luật). Đáng tiếc là sau khi
có hai quy định này của Bộ luật Tố tụng hình sự và Bộ luật Tố tụng dân sự
cho đến nay chưa có điều kiện thi hành vì thiếu hướng dẫn cụ thể.
c) Hình thức văn bản có giá trị pháp lý thấp
Những nội dung cơ bản, có tính nguyên tắc tuy được quy định trong
các văn bản luật, tuy nhiên, các nội dung cụ thể nhằm thiết lập nên một cơ chế
bồi thường hiệu quả lại chỉ được quy định tại các văn bản dưới luật. Trách
nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước có những đặc thù riêng, do vậy đòi
hỏi phải được quy định tại những văn bản có hiệu lực pháp lý cao để xác lập
cơ chế bồi thường hiệu quả.
d) Nhiều quy định có nội dung không hợp lý, do đó trên thực tế
chưa tạo ra cơ chế hữu hiệu thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại
của Nhà nước trên thực tế, cụ thể:
(1) căn cứ hình thành trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
chưa được quy định để phù hợp với những đặc thù riêng của chế định này (Bộ
luật dân sự mới chỉ dừng lại ở căn cứ hình thành trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng nói chung, Nghị định số 47/CP và Nghị quyết số 388 mới
chỉ quy định các trường hợp được bồi thường, không được bồi thường); (2) Thủ
tục bồi thường còn rườm rà, phức tạp. (Nghị định số 47/CP quy định thành
53
lập Hội đồng tư vấn giải quyết bồi thường, tuy nhiên thủ tục mang nặng tính
hành chính, chưa tạo cơ chế phù hợp để bên bị thiệt hại và cơ quan bồi thường
tiến hành thương lượng về việc bồi thường. Nghị quyết số 388 đã khắc phục
tình trạng này thông qua việc quy định cơ chế thương lượng tuy nhiên vẫn
còn hạn chế là thời hạn giải quyết yêu cầu bồi thường quá dài, thủ tục chi trả
tiền bồi thường còn phức tạp, chưa tạo thuận lợi cho người bị thiệt hại).
Tóm lại, với những ưu điểm, hạn chế của chế định pháp luật hiện hành
thì việc hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà
nước là một yêu cầu cấp thiết trong giai đoạn hiện nay.
2.2. KIẾN NGHỊ VỀ MÔ HÌNH THỰC HIỆN TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG
THIỆT HẠI CỦA NHÀ NƯỚC
2.2.1. Cơ sở pháp lý và một số yêu cầu cơ bản đối với chế định pháp
luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước cho việc hoàn
thiện mô hình thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
Theo Nghị quyết số 12/2002/QH 11 ngày 16/12/2002 của Quốc hội về
Chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khóa XI
(2002-2007) và năm 2003; Quyết định số 35/2003/QĐ-TTg ngày 06/03/2003
của Thủ tướng Chính phủ về việc phân công cơ quan chủ trì, cơ quan phối
hợp soạn thảo các Dự án Luật, Pháp lệnh của Chính phủ nhiệm kỳ Quốc hội
khóa XI (2002-2007) và năm 2003, Dự án Luật Bồi thường nhà nước được
đưa vào Chương trình xây dựng pháp luật của Quốc hội. Sau đó, tại kỳ họp
Quốc hội cuối năm 2005, Nghị quyết số 49/2005/NQ-QH11 ngày 19 tháng 11
năm 2005 về Chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh của Quốc hội năm 2006
đưa Dự án Luật Bồi thường nhà nước vào Chương trình chuẩn bị. Dự án Luật
này đang được kỳ vọng sẽ là một bước hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm
bồi thường thiệt hại của Nhà nước ở Việt Nam.
Mục đích cơ bản và quan trọng nhất của chế định pháp luật về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước là phải bảo vệ được quyền và lợi ích
54
hợp pháp của các cá nhân, tổ chức chịu thiệt hại bởi các hoạt động công
quyền. Tuy nhiên, để thực sự đảm bảo tính khả thi trên thực tế, chế định này
phải không chỉ là cơ sở pháp lý vững chắc để cá nhân, tổ chức tự bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của mình mà còn là công cụ quan trọng để Nhà nước
kiểm soát hoạt động của mình và phòng ngừa vi phạm pháp luật của đội ngũ
cán bộ, công chức; đồng thời, khi xây dựng chế định pháp luật này, cần phải
tính đến những đặc thù trong chức năng, nhiệm vụ cũng như đối tượng điều
chỉnh của nó, cụ thể là:
(1) Mâu thuẫn phát sinh giữa hai vấn đề: đảm bảo quyền, lợi ích hợp
pháp của công dân và bảo đảm tính năng động, tích cực trong hoạt động công
quyền. Việc giải quyết một cách hài hòa mâu thuẫn giữa những vấn đề này
mới thực sự đạt được hiệu quả điều chỉnh của chế định.
Một điều tất yếu là khi thực thi chế định này thì đối tượng "vui mừng"
nhất là các cá nhân, tổ chức trong xã hội. Ngược lại, ở đối tượng khác - công
chức - sẽ nảy sinh tâm lý e ngại, lo sợ sẽ phải chịu trách nhiệm nếu gây thiệt
hại cho cá nhân, tổ chức trong quá trình thực thi công vụ - đây chính là mặt
trái của chế định pháp luật này. Chính vì tâm lý lo ngại này mà các công chức
có thể sẽ hạn chế hoạt động của mình, thậm chí trong nhiều trường hợp sẽ
không thực hiện công việc mà mình được phân công. Vì vậy, nếu chế định
này nghiêng về một phía nào đó thì tất yếu mặt trái của chế định này sẽ "phát
huy tác dụng" và khi đó vai trò của Luật Bồi thường sẽ không được phát huy.
(2) Chế định này chỉ giải quyết được yêu cầu bồi thường trên một số
lĩnh vực hoạt động cụ thể của Nhà nước, còn đối với những lĩnh vực khác thì
không thể hoặc điều chỉnh không hiệu quả.
Các hoạt động của Nhà nước được thể hiện trên ba lĩnh vực cơ bản là:
lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tuy nhiên, mỗi lĩnh vực lại có những đặc thù
riêng và do đó tác dụng của chế định bồi thường nhà nước trong các lĩnh vực
này không phải bao giờ cũng hiệu quả như nhau, cụ thể là: lĩnh vực lập pháp
55
khi bị đánh giá về chất lượng sẽ bị đổ lỗi cho hoạt động hình thành nên cơ
quan lập pháp - hoạt động bầu cử - hay nói cách khác, người ta sẽ viện dẫn
ngay lý do biện minh cho sự kém hiệu quả hoạt động là do người dân, vì
chính người dân là người bỏ phiếu bầu ra cơ quan lập pháp, bên cạnh đó,
phần lớn các hoạt động có tính quyết định trong lĩnh vực lập pháp là hoạt
động có tính tập thể (thông qua phương thức bỏ phiếu hay biểu quyết thông
qua công khai tại các kỳ họp) vì vậy việc có quy trách nhiệm cho cá nhân
từng đại biểu hay không cũng cần phải tính đến. Đối với lĩnh vực hành pháp,
đây là lĩnh vực mà Nhà nước - thông qua các cơ quan, các công chức của
mình - tiếp xúc với người dân nhiều nhất, có thể nói là hàng ngày, hàng giờ,
đặc biệt là hoạt động hành chính luôn thể hiện tính tích cực (chủ động điều
hành công việc), vì vậy đây là lĩnh vực mà Nhà nước dễ gây thiệt hại cho
người dân nhiều nhất. Trong lĩnh vực tư pháp lại hoàn toàn khác, hoạt động tư
pháp luôn thể hiện tính thụ động (hoàn toàn khác với hoạt động hành chính),
Tòa án chỉ thụ lý đơn yêu cầu, tiến hành xét xử trên cơ sở yêu cầu của các
đương sự (trong tố tụng dân sự), hay chỉ tiến hành xét xử khi đã có kết luận
điều tra và bản cáo trạng của cơ quan công tố đã chuyển sang (trong tố tụng
hình sự).
Từ những đặc thù trên của từng lĩnh vực, việc xác định cơ chế điều
chỉnh như thế nào để đạt được hiệu quả điều chỉnh là điều rất quan trọng và
cần thiết.
(3) Hiện nay, nhiều quốc gia trên thế giới đều đã có luật về trách
nhiệm nhà nước. Tuy nhiên, có thể nói, pháp luật của các nước lại rất khác
nhau khi quy định về những nội dung cụ thể. Ví dụ: Hoa Kỳ vẫn tồn tại
nguyên tắc về quyền miễn trừ nhà nước, do vậy Nhà nước sẽ không thể bị
kiện nếu không có sự đồng ý của chính Nhà nước - thông qua các quyết định
của Quốc hội về không áp dụng nguyên tắc miễn trừ trong từng trường hợp.
Trên nguyên tắc của hệ thống pháp luật thông lệ, vào năm 1946 Quốc hội Hoa
56
Kỳ đã ban hành Luật khiếu kiện bồi thường thiệt hại của liên bang (sau đây
viết tắt là FTCA) quy định phủ quyết nguyên tắc miễn trừ trách nhiệm quốc
gia đối với một số vụ việc về bồi thường thiệt hại. Theo quy định tại FTCA,
nhà nước Hoa Kỳ có trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với thiệt hại do cán
bộ, nhân viên của các cơ quan chính quyền liên bang gây ra trong khi thi hành
công vụ. Một ví dụ khác, Luật Bồi thường nhà nước của Trung Quốc thì chỉ
quy định trách nhiệm bồi thường trong hai lĩnh vực là hành chính và tư pháp,
không điều chỉnh lĩnh vực lập pháp v.v..
Như vậy có thể thấy, mỗi quốc gia xuất phát từ những đặc thù riêng
của mình mà đưa ra các quy định đặc thù trong các lĩnh vực pháp luật trong
đó chế định pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước. Đây
cũng là kinh nghiệm cho Việt Nam khi xây dựng Luật Bồi thường Nhà nước.
Từ những lưu ý trên, chế định pháp luật về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại của Nhà nước phải bảo đảm được những yêu cầu cơ bản sau đây:
Thứ nhất, phải cân bằng được những lợi ích: một là, bảo đảm quyền
lợi của cá nhân, tổ chức bị thiệt hại; hai là, đảm bảo tính tích cực, chủ động
trong hoạt động của các cơ quan nhà nước;
Thứ hai, chế định này cần phải tính đến đặc thù của từng lĩnh vực
hoạt động cụ thể của Nhà nước, qua đó xác lập các cơ chế điều chỉnh cho phù
hợp với từng lĩnh vực;
Thứ ba, khi xây dựng chế định này, cần phải tính đến những điều kiện
cụ thể của Việt Nam để đạt được hiệu quả điều chỉnh tối ưu nhất, cũng như phù
hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam trong từng thời kỳ.
2.2.2. Kiến nghị về một số vấn đề cụ thể của mô hình thực hiện
trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
Hoàn thiện mô hình thực hiện trách nhiệm nhà nước là nhu cầu cấp
thiết hiện nay, để thực hiện tốt công việc này cần phải xác định những nội
57
dung cơ bản cũng như cách tiếp cận phù hợp. Việc hoàn thiện mô hình thực
hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước đòi hỏi không chỉ phải
hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước mà
còn phải hoàn thiện các yếu tố đảm bảo thực hiện trách nhiệm nhà nước.
a) Kiến nghị về hoàn thiện pháp luật
Hiện nay có quan điểm cho rằng, Luật Bồi thường nhà nước chỉ nên
kế thừa và phát triển trên cơ sở những quy định sẵn có của Nghị quyết số 388,
theo đó chỉ điều chỉnh trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước trong
lĩnh vực tư pháp hình sự mà thôi [43, tr. 44]. Tuy nhiên, đa số quan điểm còn
lại cho rằng cần phải xây dựng Luật Bồi thường nhà nước theo hướng điều
chỉnh trách nhiệm nhà nước trên phạm vi rộng hơn mà không chỉ bó hẹp trong
tư pháp hình sự [18, tr. 2-3], [22, tr. 2-3]. Trong hai cách tiếp cận trên thì cách
tiếp cận trách nhiệm nhà nước trên phạm vi rộng là phù hợp vì tư pháp hình
sự tuy là lĩnh vực nhạy cảm, tác động trực tiếp đến quyền tự do thân thể của
cá nhân, nhưng so với hoạt động quản lý hành chính thì có thể nói hoạt động
hành chính mới thực sự là hoạt động gây ra thiệt hại nhiều nhất cho các cá
nhân, tổ chức trong xã hội.
Các vấn đề cơ bản cần xác định trong quá trình xây dựng Luật Bồi
thường nhà nước bao gồm: Chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường; phạm vi các
lĩnh vực hoạt động mà Nhà nước chịu trách nhiệm bồi thường; điều kiện phát
sinh trách nhiệm bồi thường; cơ chế thực trách nhiệm bồi thường thiệt hại của
Nhà nước; cơ quan đại diện Nhà nước thực hiện trách nhiệm bồi thường;
nghĩa vụ hoàn trả.
Về chủ thể của trách nhiệm bồi thường thiệt hại
Chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước được hình
thành để điều chỉnh quan hệ bồi thường phát sinh giữa một bên là Nhà nước
và một bên là cá nhân, tổ chức bị thiệt hại gây ra bởi Nhà nước trong quá trình
thực hiện quyền lực công. Tuy nhiên, do cách tiếp cận của luật thực định khác
58
nhau đã đặt ra vấn đề là trách nhiệm thực chất thuộc về chủ thể nào? Trách
nhiệm thuộc về Nhà nước, hay cơ quan nhà nước cụ thể hay thuộc về cá nhân
công chức thi hành công vụ? Tham khảo pháp luật của một số quốc gia có thể
thấy các nước có cách tiếp cận rất khác nhau; Luật về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quy định trách nhiệm bồi thường
thiệt hại thuộc về các cơ quan nhà nước cụ thể (xem Điều 9, 10, 13, 14 trong
Chương Bồi thường hành chính, xem Điều 19, 20 trong Chương Bồi thường
hình sự) [17]. Giống như pháp luật của Trung Quốc, pháp luật thực định Việt
Nam cũng quy định trách nhiệm này thuộc về các cơ quan nhà nước cụ thể.
Bộ luật dân sự 1995 và tiếp sau đó là Bộ luật Dân sự 2005 kế thừa đã quy định
trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước tại các Điều 623 và Điều 624
(Bộ luật dân sự 1995); tại Điều 619 và Điều 620 (Bộ luật Dân sự 2005). Các
điều luật này đều quy định trách nhiệm thuộc về cơ quan quản lý cán bộ, công
chức, viên chức nhà nước. Luật Bồi thường nhà nước của Nhật Bản lại có
cách tiếp cận hoàn toàn khác với pháp luật Trung Quốc và Việt Nam, theo đó
trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về Nhà nước nói chung mà không phải
là một cơ quan nhà nước cụ thể nào (tham khảo Điều 1 Luật Bồi thường nhà
nước Nhật Bản), hệ quả của quy định này trên thực tiễn áp dụng Luật Bồi
thường nhà nước Nhật Bản là nếu một người bị thiệt hại bởi một công chức
gây ra thì họ không thể khởi kiện công chức đã gây thiệt hại cũng như cơ
quan quản lý công chức đó mà phải khởi kiện Nhà nước [31, tr. 6]. Pháp luật
của Philippine lại có cách tiếp cận khác, cụ thể là trách nhiệm bồi thường
thuộc về cá nhân công chức chứ không thuộc về Nhà nước - Nhà nước được
miễn trừ trách nhiệm đối với những thiệt hại xảy ra - vì "Nhà nước chỉ có thể
nói và hành động theo pháp luật, tất cả những gì Nhà nước làm đều phải đúng
theo pháp luật. Do vậy, những gì không đúng theo pháp luật thì không phải là
lời nói hay hành động của Nhà nước" [4, tr. 3]. Một số học giả Philippine còn
cho rằng, lý do của cách tiếp cận trên còn là "nếu người dân kiện Nhà nước
thì thực ra là họ đang cố gắng kiện chính mình cũng như kiện những người
59
dân khác được đại diện bởi chính phủ chung của họ - một tình huống thật sự
khó xử" [4, tr. 25].
Chúng tôi cho rằng, trong quan hệ bồi thường nhà nước, chủ thể có
trách nhiệm bồi thường là Nhà nước dù công chức trực tiếp thực hiện hành vi
gây thiệt hại thuộc quyền quản lý của cơ quan nào đi nữa. Để thực hiện được
chức năng của mình, Nhà nước phải thông qua một hệ thống các cơ quan, tổ
chức chuyên biệt của mình để quản lý trên từng lĩnh vực cụ thể. Các cơ quan, tổ
chức của Nhà nước luôn nhân danh Nhà nước để thực hiện nhiệm vụ của mình.
Các cơ quan, tổ chức của Nhà nước cũng phải thông qua hoạt động của đội ngũ
công chức do mình quản lý. Như vậy, các công chức để thực hiện nhiệm vụ
của mình phải nhân danh Nhà nước chứ không thể nhân danh chính mình, hay
nói cách khác "công chức là cánh tay nối dài của Nhà nước" [32, tr. 6]. Như
vậy, trách nhiệm bồi thường phải thuộc về Nhà nước hay nói cách khác chủ
thể có trách nhiệm bồi thường trong quan hệ bồi thường nhà nước là Nhà nước.
Luật Bồi thường nhà nước cần phải quy định chủ thể chịu trách nhiệm
bồi thường là Nhà nước (nói chung), không nên quy định trách nhiệm bồi
thường thuộc về các cơ quan nhà nước cụ thể. Tất nhiên cần có sự phân biệt
hai vấn đề: trách nhiệm bồi thường thuộc về ai và việc thực hiện trách nhiệm
thuộc về ai. Về nguyên tắc pháp lý, trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về
Nhà nước, tuy nhiên việc thực hiện trách nhiệm bồi thường có thể do từng cơ
quan công quyền cụ thể thực hiện. Điều quan trọng là phải ghi nhận về mặt
nguyên tắc: trách nhiệm bồi thường thuộc về Nhà nước.
Về phạm vi các lĩnh vực hoạt động mà Nhà nước phải chịu trách
nhiệm bồi thường
Như đã phân tích ở trên, phạm vi các lĩnh vực hoạt động của Nhà
nước bao gồm ba lĩnh vực cơ bản: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Xu hướng
chung của thế giới là hạn chế áp dụng pháp luật bồi thường nhà nước đối với
hoạt động lập pháp (xem lại Mục 1.2.2 Chương 1). Sự hạn chế áp dụng này
60
được thể hiện thông qua việc công khai loại trừ trách nhiệm nhà nước đối với
lĩnh vực này (Hoa Kỳ, Trung Quốc...), hoặc không công khai loại trừ nhưng
trên thực tiễn áp dụng thì cơ quan có thẩm quyền quyết định về trách nhiệm
bồi thường rất hạn chế áp dụng pháp luật đối với những yêu cầu bồi thường
nhà nước trong lĩnh vực lập pháp (Nhật Bản). Đối với hai lĩnh vực còn lại thì
đa số các quốc gia không loại trừ trách nhiệm nhà nước.
Về cơ bản, pháp luật Việt Nam không có quy định nào loại trừ trách
nhiệm bồi thường đối với những thiệt hại gây ra bởi cơ quan lập pháp. Tuy
nhiên, ở các văn bản quy phạm pháp luật "dưới luật" thì chỉ có quy định về
lĩnh vực hành pháp, tư pháp; bên cạnh đó, một thực tế tồn tại hiện nay ở Việt
Nam là thẩm quyền giải thích và áp dụng pháp luật của Tòa án các cấp là rất
hạn chế, đa số các trường hợp nếu không có văn bản hướng dẫn thì tòa án
"không dám" chủ động giải thích pháp luật để giải quyết vụ việc mà phải
thông qua "con đường công văn xin ý kiến" Tòa án nhân dân tối cao hoặc
phải chờ đến khi có hướng dẫn chính thức bằng văn bản. Chính vì vậy, mặc
dù pháp luật không công khai loại trừ nhưng thực tiễn đã trả lời "có" cho câu
hỏi trách nhiệm bồi thường có được đặt ra cho cơ quan lập pháp ở Việt Nam
hay không.
Tóm lại, hoạt động lập pháp là hoạt động có tính nhạy cảm cao mà các
quốc gia đều hạn chế áp dụng pháp luật bồi thường nhà nước để điều chỉnh.
Vì vậy, Luật Bồi thường nhà nước nên loại trừ lĩnh vực lập pháp ra khỏi phạm
vi điều chỉnh. Riêng đối với lĩnh vực tư pháp, tính cho đến thời điểm hiện tại
chỉ có Nghị quyết số 388 điều chỉnh trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà
nước trong lĩnh vực tư pháp hình sự. Vì vậy, Luật Bồi thường nhà nước cần phải
mở rộng thêm phạm vi điều chỉnh sang cả lĩnh vực tư pháp dân sự, hành chính.
Một đặc thù ở Việt Nam là ngoài hoạt động lập pháp - hoạt động ban
hành văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội còn có "hoạt động lập quy"
(cách gọi của đa số các học giả hiện nay) để chỉ hoạt động ban hành văn bản
61
quy phạm pháp luật "dưới luật". Vậy nếu loại trừ trách nhiệm đối với hoạt
động lập pháp thì liệu có loại trừ trách nhiệm đối với hoạt động lập quy hay
không? Về lý luận, quyền lập pháp chỉ thuộc về một cơ quan, tuy nhiên trong
một số trường hợp quyền này có thể do một cơ quan không phải là cơ quan
lập pháp thực hiện. Cơ quan này chỉ được thực hiện quyền lập pháp khi có sự
ủy quyền của cơ quan lập pháp. Sự ủy quyền có thể được thể hiện thông qua
bằng một quy định cụ thể trong một đạo luật hoặc thông qua một đạo luật
giao thẩm quyền (ở Việt Nam việc ủy quyền này được thực hiện thông qua
các quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật).
Luật Bồi thường nhà nước nên loại trừ trách nhiệm nhà nước khỏi
hoạt động lập pháp (hoạt động của Quốc hội) tuy nhiên nên quy định trách
nhiệm này đối với hoạt động lập quy vì: ở Việt Nam hoạt động lập quy chiếm
đại đa số trong các hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật, hầu hết
các văn bản này tác động trực tiếp đến mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội,
ngoài ra quy định trách nhiệm đối với hoạt động này cũng là góp phần nâng
cao hiệu quả của hoạt động này.
Về cơ chế thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
Như đã phân tích ở trên, pháp luật Việt Nam hiện tại đã quy định đầy
đủ về điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước. Tuy
nhiên, yếu tố lỗi lại không được coi là một trong những điều kiện phát sinh
trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước mà chỉ là điều kiện quyết định
vấn đề nghĩa vụ hoàn trả của công chức. Điểm cần phải lưu ý khi quy định cụ
thể hơn về điều kiện phát sinh trách nhiệm trong Luật Bồi thường nhà nước là
yếu tố lỗi, theo đó, yếu tố lỗi không chỉ là điều kiện xác định trách nhiệm
hoàn trả mà còn là cơ sở để xây dựng cơ chế bồi thường trong các trường hợp
khác nhau.
Trường hợp công chức cố ý hoặc vô ý gây thiệt hại trong quá trình thi
hành công vụ thì cơ chế bồi thường là cơ chế dân sự, theo đó các bên có thể
62
thông qua thương lượng để giải quyết yêu cầu bồi thường; nếu không thể
thương lượng thì các bên có thể yêu cầu Tòa án giải quyết.
Trường hợp công chức đã gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức trong khi
thi hành công vụ nhưng hoàn toàn không có lỗi, các hành vi mà công chức
được thực hiện hoàn toàn tuân thủ các quy định của pháp luật nhưng xét về
hậu quả vẫn là trái pháp luật (vẫn gây ra thiệt hại) thì cơ chế bồi thường ở đây
là cơ chế hành chính, theo đó, Nhà nước sẽ chủ động bồi thường cho người bị
thiệt hại. Đối với công chức đã gây thiệt hại thì không đặt vấn đề về trách
nhiệm hoàn trả đối với họ vì trên thực tế họ đã hoàn toàn không có lỗi, hành
vi mà họ thực hiện là hoàn toàn đúng pháp luật nhưng không thể tránh khỏi
việc gây ra thiệt hại cho cá nhân, tổ chức.
Về cơ quan đại diện Nhà nước thực hiện trách nhiệm bồi thường
Như đã khẳng định, cần có sự phân biệt giữa hai vấn đề: trách nhiệm
bồi thường thuộc về ai và việc thực hiện trách nhiệm bồi thường thuộc về ai
(xem lại điểm a, Mục 2.2.3, Chương 2). Pháp luật cần phải quy định trách
nhiệm bồi thường cho các thiệt hại gây ra bởi hoạt động công quyền thuộc về
Nhà nước, tuy nhiên khi thi hành trách nhiệm bồi thường trên thực tế thì Nhà
nước lại phải thông qua cơ quan đại diện của mình để thực hiện.
Cơ quan đại diện Nhà nước thực hiện trách nhiệm bồi thường có thể là
một cơ quan duy nhất có chức năng giúp Nhà nước trong các vụ việc yêu cầu
bồi thường nhà nước, hoặc có thể là những cơ quan đã gây thiệt hại, tuy nhiên
những cơ quan này khi thực hiện trách nhiệm bồi thường phải nhân danh Nhà
nước chứ không phải nhân danh chính mình.
Đứng ở góc độ người bị thiệt hại thì mong muốn của những cá nhân,
tổ chức này luôn mong muốn mình được bồi thường thỏa đáng, còn việc giao
trách nhiệm cho một cơ quan chuyên trách hay giao trách nhiệm cho từng cơ
quan cụ thể thì chắc chắn đó không phải là điều họ quan tâm. Tuy nhiên, đặt
trong điều kiện của Việt Nam khi mà trách nhiệm bồi thường được giao cho
63
từng cơ quan cụ thể đã nảy sinh tình trạng "đùn đẩy trách nhiệm, chậm trễ
trong việc tiếp nhận và giải quyết đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại" [38, tr. 8].
Việc hình xây dựng mô hình cơ quan thực hiện trách nhiệm bồi thường không
đồng thời là cơ quan đã gây thiệt hại sẽ góp phần "khắc phục tình trạng đùn
đẩy trách nhiệm" và "tăng cường tính khách quan trong việc giải quyết bồi
thường" [13, tr. 4].
Tóm lại, cần phải xây dựng cơ chế giao trách nhiệm bồi thường về
một cơ quan chuyên trách trong lĩnh vực pháp luật thì sẽ hình thành nên cơ
chế vận hành chuyên nghiệp, góp phần giải quyết nhanh chóng yêu cầu bồi
thường của người bị thiệt hại bởi hoạt động công quyền.
Về nghĩa vụ hoàn trả của công chức nhà nước
Nghĩa vụ hoàn trả của công chức nhà nước đối với Nhà nước hệ quả
của việc xác lập hai cơ chế bồi thường: một là, cơ chế bồi thường trong
trường hợp công chức cố ý hoặc vô ý gây thiệt hại trong quá trình thi hành
công vụ; hai là, cơ chế bồi thường trong trường hợp công chức dù đã thực
hiện công vụ hoàn toàn đúng pháp luật nhưng về kết quả vẫn gây thiệt hại cho
các chủ thể khác; vì vậy, việc quy định nghĩa vụ hoàn trả cần phải tương ứng
với từng cơ chế bồi thường.
Trong trường hợp công chức có lỗi đối với việc gây thiệt hại của mình
thì công chức phải có trách nhiệm bồi hoàn lại cho Nhà nước. Tuy nhiên, với
tư cách là chủ thể được hưởng lợi ích từ việc thực hiện công vụ của công chức
vì vậy Nhà nước cũng phải cùng công chức gánh chịu rủi ro, điều này đồng
nghĩa với nghĩa vụ hoàn trả của công chức không bao giờ là 100% số tiền mà
Nhà nước đã bỏ ra để bồi thường cho người bị thiệt hại. Tất nhiên bao giờ
cũng có ngoại lệ nhất định nhưng những ngoại lệ này sẽ phụ thuộc vào chính
sách pháp lý cụ thể của từng quốc gia, kể cả Việt Nam cũng vậy. Việc xác
định các trường hợp công chức phải bồi hoàn 100% số tiền sẽ do Quốc hội
quyết định.
64
Trường hợp công chức tuy đã thực hiện các hành vi công quyền hoàn
toàn đúng pháp luật nhưng xét về hậu quả vẫn gây ra thiệt hại cho cá nhân, tổ
chức thì trường hợp này công chức không phải thực hiện nghĩa vụ hoàn trả.
Toàn bộ số tiền đền bù sẽ do Nhà nước chi trả bằng tiền từ ngân sách nhà
nước. Tuy nhiên, việc đền bù này phải được thực hiện một cách chủ động từ
phía Nhà nước.
b) Kiến nghị về các điều kiện bảo đảm cho việc áp dụng pháp luật về
trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
Một trong những yếu tố góp phần quan trọng để bất kỳ một đạo luật
nào sau khi được ban hành có thể dễ dàng đi vào cuộc sống là các điều kiện
bảo đảm cho việc áp dụng và thực hiện đạo luật đó.
Những điều kiện bảo đảm áp dụng phải được hình thành ngay từ quá
trình xây dựng pháp luật cho đến quá trình áp dụng và thực thi pháp luật. Bên
cạnh đó, các điều kiện này không đơn thuần được hình thành một cách chủ
quan mà phải bảo đảm sự phù hợp với thực trạng kinh tế xã hội, truyền thống
pháp luật cũng như xu thế phát triển của pháp luật (trong cùng một lĩnh vực)
trên thế giới v.v...
Đối với lĩnh vực pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của
Nhà nước thì cần thiết phải đảm bảo những điều kiện cơ bản sau: chính sách
pháp lý; khả năng tài chính; chế tài kỷ luật đảm bảo việc thực thi nghiêm
chỉnh các quy định của pháp luật của công chức.
Về chính sách pháp lý, các nhà lập pháp cần phải làm rõ những nội
dung cơ bản sau:
Thứ nhất, pháp luật cần phải quy định rõ trách nhiệm thuộc về chủ thể
nào. Trách nhiệm thuộc về Nhà nước, cơ quan nhà nước hay công chức nhà nước.
Thứ hai, trách nhiệm bồi thường của Nhà nước là trách nhiệm bồi
thường do gây thiệt hại khi thực hiện công vụ hay bao gồm cả trách nhiệm bồi
thường do vi phạm hợp đồng.
65
Thứ ba, Nhà nước chỉ phải bồi thường trong trường hợp gây thiệt hại
trái pháp luật hay Nhà nước phải bồi thường cả trường hợp dù đã thực hiện
mọi hoạt động đúng pháp luật nhưng vẫn gây thiệt hại.
Thứ tư, các lĩnh vực hoạt động (lập pháp, hành pháp, tư pháp) của Nhà
nước chịu sự điều chỉnh của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của
Nhà nước.
Thứ năm, về trách nhiệm bồi hoàn của công chức, công chức phải có
trách nhiệm hoàn trả đối với Nhà nước trong những trường hợp nào, hay công
chức phải có trách nhiệm hoàn trả đối với Nhà nước trong mọi trường hợp.
Về khả năng tài chính, đây là điều kiện có tác động rất lớn đến hiệu
quả của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước. Nếu
pháp luật không có quy định về mức giới hạn bồi thường thì những người bị
thiệt hại sẽ được lợi, vì họ có thể được bồi thường toàn bộ thiệt hại của mình,
đồng thời cũng là phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự
là thiệt hại phải được bồi thường kịp thời và đầy đủ. Bên cạnh đó, tùy vào khả
năng ngân sách mà các nhà lập pháp có thể quy định về mức bồi thường cụ
thể trong từng trường hợp cụ thể.
Về chế tài kỷ luật đối với công chức, pháp luật sau khi được ban hành
phải được thực hiện nghiêm chỉnh, đặc biệt là từ phía đội ngũ công chức nhà
nước.Tình trạng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ
các quyết định của cơ quan có thẩm quyền về việc thực hiện trách nhiệm bồi
thường đối với cá nhân, tổ chức bị thiệt hại sẽ dẫn tới tình trạng quyền lợi của
người bị thiệt hại không được bảo đảm, đồng thời cũng dẫn tới thái độ không
tôn trọng người dân, bỏ mặc quyền lợi của người bị thiệt hại của công chức.
Chính vì vậy, cần xác định các chế tài kỷ luật đối với công chức để pháp luật
được thực thi nghiêm chỉnh.
66
KẾT LUẬN
Chế định pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
là một chế định khá phức tạp và có nhiều nội dung liên quan trực tiếp đến
chính sách pháp lý của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, với nỗ lực mong muốn bảo
vệ triệt để các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức bị xâm phạm bởi
hoạt động công quyền; kiểm soát, ngăn ngừa hành vi vi phạm pháp luật, xu
hướng lạm dụng quyền lực của những người thực hiện công quyền mà việc
xây dựng và hoàn thiện chế định pháp luật này là hoàn toàn cần thiết.
Sau một quá trình nghiên cứu, tác giả rút ra một số kết luận cơ bản sau:
1. Trong thời đại hiện nay cần phải công nhận trách nhiệm bồi thường
thiệt hại của Nhà nước không chỉ ở việc thể hiện thông qua pháp luật mà còn
phải là ý thức thường trực của mỗi công dân cũng như chính đội ngũ công
chức nhà nước.
2. Việc xây dựng và hoàn thiện chế định pháp luật về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của Nhà nước là phù hợp với đòi hỏi tất yếu của thời đại cũng
như xu thế chung của thế giới, đồng thời đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước
pháp quyền của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.
3. Chế định pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà
nước luôn chịu ảnh hưởng, tác động của chính sách pháp lý cũng như những
điều kiện cụ thể của từng quốc gia.
4. Về bản chất, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước là trách
nhiệm dân sự về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, là trách nhiệm trực tiếp
của Nhà nước với tư cách là Nhà nước nói chung chứ không phải là trách
nhiệm của bất cứ cơ quan cụ thể nào.
5. Hiện nay ở Việt Nam đã hình thành cơ chế bồi thường cho những
cá nhân, tổ chức bị thiệt hại bởi hoạt động công quyền, tuy nhiên về pháp luật
67
thực định cũng như thực tiễn thi hành thì chế định này chưa phát huy hiệu
quả, chưa bảo vệ triệt để được các quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân,
tổ chức. Chính vì vậy cần phải hoàn thiện chế định pháp luật về trách nhiệm
bồi thường thiệt hại của Nhà nước.
6. Những kiến nghị cụ thể
Thứ nhất, pháp luật cần phải quy định rõ chủ thể của trách nhiệm bồi
thường cho những thiệt hại xảy ra bởi hoạt động công quyền là Nhà nước;
Thứ hai, trong các lĩnh vực hoạt động của Nhà nước, pháp luật cần
quy định trách nhiệm nhà nước trong hai lĩnh vực hành pháp và tư pháp, pháp
luật nên loại trừ lĩnh vực lập pháp ra khỏi phạm vi áp dụng của chế định trách
nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước;
Thứ ba, pháp luật cần phải xác định rõ ràng hai cơ chế bồi thường phù
hợp tương ứng với hai trường hợp là cơ chế bồi thường đối với hành vi gây
thiệt hại có lỗi và cơ chế bồi thường trong trường hợp công chức không có lỗi
khi gây thiệt hại;
Thứ tư, cần phải thành lập một cơ quan chuyên trách thực hiện việc giải
quyết yêu cầu Nhà nước bồi thường để khắc phục những bất cập của thực tiễn;
Thứ năm, nghĩa vụ hoàn trả của công chức cần phải được xác định
phù hợp với hai cơ chế bồi thường (cơ chế bồi thường trong trường hợp gây
thiệt hại trái pháp luật trong quá trình thi hành công vụ; cơ chế bồi thường
trong trường hợp công chức dù đã thực hiện công vụ hoàn toàn đúng pháp
luật nhưng vẫn gây ra thiệt hại), theo đó, công chức chỉ phải hoàn trả trong
trường hợp họ có lỗi khi gây thiệt hại và ngược lại.
68
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Mai Anh (1997), Những vấn đề cơ bản về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng trong Bộ luật dân sự, Luận văn thạc sĩ Luật học,
Trường Đại học Luật Hà Nội.
2. Lê Mai Anh (2002), Bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ
quan tiến hành tố tụng gây ra, Luận án tiến sĩ Luật học, Trường Đại
học Luật Hà Nội.
3. Lê Mai Anh (2004), Bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ
quan tiến hành tố tụng gây ra, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.
4. Arnel Cezar (2006), "Luật và chính sách về trách nhiệm của Nhà nước của
Philippine", Hội thảo: Pháp luật và chính sách về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của Nhà nước, Văn phòng Quốc hội, Hà Nội.
5. Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao
(2004), Kỷ yếu các Tọa đàm tổ chức tại Việt Nam trong khuôn khổ
dự án Jica giai đoạn 2000 - 2003, Hà Nội.
6. "Bồi thường thiệt hại do bị bắt giữ, xét xử oan sai ở Việt Nam và một số
nước trên thế giới" (2001), Thông tin khoa học pháp lý, (2).
7. Chính phủ (1997), Nghị định số 47/CP ngày 03-5 về việc giải quyết bồi
thường thiệt hại do công chức, viên chức nhà nước, người có thẩm
quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra, Hà Nội.
8. Christian A. Brendel (2006), "Luật và chính sách về trách nhiệm nhà nước ở
Cộng hòa Liên bang Đức, trách nhiệm pháp lý của Nhà nước Đức đối
với các hành vi trái luật", Hội thảo: Pháp luật và chính sách về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước, Văn phòng Quốc hội, Hà Nội.
9. Nguyễn Đăng Dung (2006), "Bồi thường thiệt hại của lập pháp", Hội thảo:
Pháp luật và chính sách về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà
nước, Văn phòng Quốc hội, Hà Nội.
69
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Chỉ thị số 53-CT/TW ngày 21/3 của Bộ
Chính trị về một số công việc cấp bách của các cơ quan tư pháp cần
thực hiện trong năm 2000, Hà Nội.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01
của Bộ Chính trị. về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp
trong thời gian tới, Hà Nội.
12. Trần Thị Hiền (2006), "Bàn về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà
nước khi công chức thi hành công vụ gây thiệt hại trong lĩnh vực
hành pháp", Hội thảo: Pháp luật và chính sách về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của Nhà nước, Văn phòng Quốc hội, Hà Nội.
13. Dương Đăng Huệ (2006), "Thực trạng pháp luật hiện hành về bồi thường
thiệt hại do cán bộ, công chức nhà nước gây ra và một số vấn đề cơ
bản của dự án Luật Bồi thường nhà nước tại Việt Nam", Hội thảo:
Pháp luật và chính sách về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà
nước, Văn phòng Quốc hội, Hà Nội.
14. Inosentius Samsul (2006), "Khung pháp lý về trách nhiệm nhà nước ở
nước cộng hòa Inđônêsia", Hội thảo: Pháp luật và chính sách về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước, Văn phòng Quốc
hội, Hà Nội.
15. Luật Bồi thường nhà nước Nhật Bản (1947).
16. Luật Đền bù hình sự Nhật Bản (1950).
17. Luật về Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước của Cộng hòa
nhân dân Trung hoa (1994).
18. Ngô Đức Mạnh (2006), "Báo cáo dẫn đề", Hội thảo: Pháp luật và chính
sách về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước, Văn phòng
Quốc hội, Hà Nội.
19. Morishima (2006), Báo cáo kết quả tọa đàm về Luật Bồi thường nhà nước
ngày 28, 29 tháng 3 năm 2006, Dự án Jica, Nhật Bản và Bộ Tư pháp
Việt Nam.
70
20. Morishima (2006), Báo cáo kết quả tọa đàm về Luật Bồi thường nhà nước
ngày 30 tháng 3 năm 2006, Dự án Jica, Nhật Bản và Bộ Tư pháp
Việt Nam.
21. Nhà pháp luật Việt - Pháp (2006), Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của
Nhà nước, (Bản dịch từ tài liệu tiếng pháp), Hà Nội.
22. Nguyễn Như Phát (2006), "Mấy vấn đề lý thuyết về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của Nhà nước", Hội thảo: Pháp luật và chính sách
về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước, Văn phòng Quốc
hội, Hà Nội.
23. Quốc hội (1959), Hiến pháp, Hà Nội.
24. Quốc hội (1980), Hiến pháp, Hà Nội.
25. Quốc hội (1988), Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội.
26. Quốc hội (1992), Hiến pháp (đã sửa đổi, bổ sung), Hà Nội.
27. Quốc hội (1995), Bộ luật dân sự, Hà Nội.
28. Quốc hội (2003), Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội.
29. Quốc hội (2004), Bộ luật tố tụng dân sự, Hà Nội.
30. Quốc hội (2005), Bộ luật dân sự, Hà Nội.
31. Taro Morinaga (2005), Báo cáo kết quả tọa đàm về Luật Bồi thường nhà
nước ngày 19 tháng 12 năm 2005, Dự án Jica, Nhật Bản và Bộ Tư
pháp Việt Nam).
32. Taro Morinaga (2006), Báo cáo kết quả tọa đàm về Luật Bồi thường nhà
nước ngày 28, 29 tháng 4 năm 2006, Dự án Jica, Nhật Bản và Bộ Tư
pháp Việt Nam.
33. Taro Morinaga (2006), Báo cáo kết quả tọa đàm về Luật Bồi thường nhà nước
tháng 5 năm 2006, Dự án Jica, Nhật Bản và Bộ Tư pháp Việt Nam.
34. Taro Morinaga (2006), Báo cáo kết quả tọa đàm về Luật Bồi thường nhà nước
tháng 6 năm 2006, Dự án Jica, Nhật Bản và Bộ Tư pháp Việt Nam.
71
35. Taro Morinaga (2006), "Bồi thường nhà nước tại Nhật Bản", Hội thảo:
Pháp luật và chính sách về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà
nước, Văn phòng Quốc hội, Hà Nội.
36. Thông tư liên tịch số 01/2004/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC-BTP-BQP
về hướng dẫn thi hành một số quy định của Nghị quyết số
388/2003/NQ-UBTVQH11 về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do
người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra, Hà Nội.
37. Nguyễn Thanh Tịnh (2006), "Bàn về sự cần thiết quy định trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của Nhà nước tại Việt Nam", Dân chủ và pháp luật.
38. Trần Văn Trung (2006), "Thực tiễn áp dụng Nghị quyết số 388 về bồi thường
thiệt hại cho người bị oan trong tố tụng hình sự của ngành kiểm sát và
một số kiến nghị, đề xuất", Hội thảo: Pháp luật và chính sách về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước, Văn phòng Quốc hội, Hà Nội.
39. Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ luật học,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
40. Đặng Thanh Tùng (2006), "Thực trạng pháp luật về bồi thường thiệt hại
do cán bộ, công chức trong bộ máy hành chính gây ra và hướng hoàn
thiện", Hội thảo: Pháp luật và chính sách về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại của Nhà nước, Văn phòng Quốc hội, Hà Nội.
41. Nguyễn Trọng Tỵ (2006), "Suy nghĩ về Nghị quyết số 388", Dân chủ và
pháp luật,
42. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2003), Nghị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH11
ngày 17-3 về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm
quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra, Hà Nội.
43. Chu Thị Trang Vân (2006), "Giải pháp cho một dự án Luật về bồi thường
oan, sai trong tư pháp hình sự", Nghiên cứu lập pháp,
44. Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb Từ
điển bách khoa - Nxb Tư pháp, Hà Nội.
45. Nguyễn Như Ý (1998), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa thông tin,
Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Về lý luận và thực tiễn về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của nhà nước.pdf