Về nguyên tắc khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật - Thực trạng và phương hướng hoàn thiện

A.PHẦN MỞ ĐẦU Nhà nước ta có những quy định pháp lý nhằm điều chỉnh hoạt động xét xử của Tòa án bằng việc ghi nhận những nguyên tắc cơ bản, trong đó có nguyên tắc “ khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Nguyên tắc “ khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” là một trong những nguyên tắc quan trọng, có tác động trực tiếp đến hiệu quả hoạt động xét xử của Tòa án. Nguyên tắc này đã được ghi nhận từ rất sớm và phát triển cùng với sự phát triển của Hiến pháp và pháp luật. Trong phạm vi bài viết này xin trình bày về nguyên tắc “ khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” - thực trạng và phương hướng hoàn thiện. B.PHẦN NỘI DUNG I. Một số vấn đề lý luận và pháp lý về nguyên tắc “ Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”: 1. Cơ sở pháp lý của nguyên tắc “ Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” Điều 130 Hiến pháp 1992 quy định: “ Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Trong suốt lịch sử lập hiến Việt Nam, nguyên tắc này luôn được xem như một trong những nguyên tắc Hiến pháp điều chỉnh hoạt động của tổ chức Tòa án. Mặc dù trên thực tế nguyên tắc này đã được giải thích và áp dụng giống như tính khách quan của Tòa án, song điều khoản Hiến pháp nói trên vẫn được xem như nền tẳng hiến định cho nguyên tắc “ khi xét xử, thẩm phán và

doc10 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5168 | Lượt tải: 6download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Về nguyên tắc khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật - Thực trạng và phương hướng hoàn thiện, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A.PHẦN MỞ BÀI: Nhà nước ta có những quy định pháp lý nhằm điều chỉnh hoạt động xét xử của Tòa án bằng việc ghi nhận những nguyên tắc cơ bản, trong đó có nguyên tắc “ khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Nguyên tắc “ khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” là một trong những nguyên tắc quan trọng, có tác động trực tiếp đến hiệu quả hoạt động xét xử của Tòa án. Nguyên tắc này đã được ghi nhận từ rất sớm và phát triển cùng với sự phát triển của Hiến pháp và pháp luật. Trong phạm vi bài viết này xin trình bày về nguyên tắc “ khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” - thực trạng và phương hướng hoàn thiện. B.PHẦN THÂN BÀI: I. Một số vấn đề lý luận và pháp lý về nguyên tắc “ Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”: 1. Cơ sở pháp lý của nguyên tắc “ Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” Điều 130 Hiến pháp 1992 quy định: “ Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Trong suốt lịch sử lập hiến Việt Nam, nguyên tắc này luôn được xem như một trong những nguyên tắc Hiến pháp điều chỉnh hoạt động của tổ chức Tòa án. Mặc dù trên thực tế nguyên tắc này đã được giải thích và áp dụng giống như tính khách quan của Tòa án, song điều khoản Hiến pháp nói trên vẫn được xem như nền tẳng hiến định cho nguyên tắc “ khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Không những được quy định trong Hiến pháp thành một điều khoản riêng, nguyên tắc này còn được thể hiện trong tất cả các văn bản pháp luật cụ thể hóa Hiến pháp về tổ chức và hoạt động của Tòa án, ví dụ Luật tổ chức và hoạt động của Tòa án năm 2002, Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 và Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004. 2. Mục đích, ý nghĩa: Đã từ lâu, sự độc lập của hoạt động xét xử đã được ghi nhận trong pháp luật Việt Nam, cụ thể là trong Hiến pháp 1946 và điều này đã trở thành một trong những nguyên tắc quan trọng nhất của hệ thống tư pháp. Sự độc lập trong hoạt động xét xử của Tòa án đặt ra xuất phát từ nhu cầu khách quan, từ bản chất của hoạt động xét xử. Hoạt động xét xử khác với hoạt động lập pháp và hoạt động hành pháp chính là ở mục đích của nó. Đây là hoạt động tài phán, bảo vệ công lý, nghĩa là xem xét các vụ việc thực tế trong những trường hợp có sự vi phạm pháp luật hay có tranh chấp về các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, từ đó đưa ra phán quyết nhằm bảo đảm pháp luật đã được thực thi trên thực tế, bảo vệ công bằng xã hội và lẽ phải. Nói cách khác, Tòa án xét xử độc lập là sự bảo vệ một cách đầy đủ, hiệu quả nhất quyền tự do, dân chủ của nhân dân. Nguyên tắc này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong hoạt động xét xử của Tòa án. Có thể khái quát ý nghĩa của nguyên tắc này thành ba nhóm như sau: Ý nghĩa chính trị xã hội: Nguyên tắc xác định vai trò, vị trí của cơ quan Tòa án trong hệ thống các cơ quan nhà nước nói chung và cơ quan tư pháp nói riêng. Tư pháp độc lập là một trong những yếu tố để thực hiện công bằng xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mọi công dân đều sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, pháp luật sẽ được chấp hành nghiêm chỉnh. Ý nghĩa pháp lý: nguyên tắc là cơ sở pháp lý để Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân tiến hành xét xử được khách quan, đúng pháp luật. Đây cũng là cơ sở đảm bảo Hiến pháp và pháp luật được thực thi một cách nghiêm túc bởi những người thi hành pháp luật và những người xét xử hành vi vi phạm pháp luật. Ý nghĩa đối với hoạt động thực tiễn: Nguyên tắc này loại bỏ các sự tác động không cần thiết, thậm chí tiêu cực của các cơ quan, tổ chức khác đến hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm và đảm bảo sự bình đẳng, độc lập giữa các thành viên của Hội đồng xét xử. 3. Nội dung của nguyên tắc: Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải độc lập với nhau và độc lập với các yếu tố tác động bên ngoài. Trước hết cần hiểu sự “ độc lập” trong nguyên tắc này được hiểu như thế nào? Độc lập là việc không cơ quan tổ chức hoặc cá nhân nào được can thiệp vào công việc xét xử. Mọi sự can thiệp từ bên ngoài đều bị gọi là bất hợp pháp. Nếu Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân bị chi phối, phải tuân theo những chỉ thị nào đó thì Hội đồng xét xử không còn trách nhiệm gì đối với việc làm của mình nữa và như vậy phiên tòa sẽ trở thành hình thức. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử không thể vì thế mà có quyền tùy tiện xét xử theo ý mình mà gắn liền với quyền độc lập xét xử, đó là Hội đồng xét xử phải nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, do đó pháp luật càng hoàn chỉnh, càng ổn định và cụ thể thì đó là cơ sở để Hội đồng xét xử thực hiện quyền độc lập xét xử. Có thể hiểu độc lập bao gồm những khía cạnh sau: - Sự độc lập của Tòa án với các cơ quan nhà nước. Các cơ quan nhà nước không can thiệp vào những vụ án cụ thể mà Tòa án xét xử. - Độc lập giữa các Tòa án các cấp, Tòa án cấp dưới không chịu sự chỉ đạo của Tòa án cấp trên. - Độc lập giữa các thành viên Hội đồng xét xử với nhau. Thể hiện qua việc Hội thẩm có ngang quyền như Thẩm phán. Mặc dù, đề tài chỉ đưa ra vấn đề “độc lập” nhưng ở đây chúng ta cần hiểu ở cả góc độ “tuân theo pháp luật” nữa, bởi hai luận điểm này có quan hệ chặt chẽ với nhau. Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập không có nghĩa là xét xử tùy tiện mà việc xét xử phải tuân theo pháp luật. Độc lập là biểu hiện của tuân thủ pháp luật. Nếu Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, không chịu bất cứ tác động nào thì phán quyết của Hội đồng xét xử mới có tính khách quan, vô tư, quyết định của Hội đồng xét xử phải đảm bảo đúng pháp luật. Mặt khác, tuân theo pháp luật là cơ sở để thể hiện tính độc lập trong xét xử. Xét khía cạnh thuần túy của tính độc lập, để có thể tự mình đưa ra phán quyết, Thẩm phán và Hội thẩm phải có kiến thức pháp luật và phải chấp hành quy định của pháp luật. Từ sự phân tích ở trên, có thể nói rằng, yếu tố độc lập và chỉ tuân theo pháp luật có mối quan hệ biện chứng với nhau, độc lập trong sự thống nhất với việc tuân theo pháp luật. II. Thực tiễn thực hiện nguyên tắc “ khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” hiện nay: 1. Khái quát chung về thực trạng đảm bảo nguyên tắc “ khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” hiện nay: Trong những năm qua nhiều Nghị quyết của Đảng đã được quán triệt thành các kế hoạch hành động thể hiện quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta trong việc cải cách tư pháp. Những văn bản có tính chất chiến lược cho phép các cơ quan pháp luật xem xét đánh giá và xây dựng kế hoạch chiến lược đáp ứng yêu cầu hội nhập hiện nay. Hệ thống các văn bản pháp luật được ban hành khá đầy đủ, tương đối phù hợp với thực tiễn làm cơ sở cho các cơ quan áp dụng pháp luật xét xử các vụ án hình sự, dân sự và hôn nhân gia đình. Sau khi các văn bản luật được ban hành, cơ quan có thẩm quyền đã có những hướng dẫn chi tiết và tập huấn cho các cán bộ tư pháp nắm bắt kịp thời và áp dụng thống nhất pháp luật. Trên thực tế, nguyên tắc “ Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” đã được các chủ thể của hoạt động xét xử tuân thủ và ngày càng phát huy ý nghĩa tích cực của nguyên tắc, bảo đảm hoạt động xét xử của Tòa án được khách quan, đúng pháp luật, hạn chế đến mức tối đá án oan sai, thiếu chính xác. Điều này được thể hiện rất cụ thể trong báo cáo của Tòa án nhân dân tối cao tại Hội nghị triển khai công tác năm 2010 của ngành Tòa án nhân dân. Theo đánh giá chung của ông Trương Hòa Bình – Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, các phán quyết của Tòa án căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng, trên cơ sở xem xét khách quan, toàn diện các chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, nên chất lượng xét xử được đảm bảo. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt đã đạt được thì vẫn tồn tại nhiều mặt hạn chế, những biểu hiện của việc làm trái nguyên tắc, ảnh hưởng đến chất lượng xét xử của Tòa án, xâm phạm đến quyền và lợi ích của công dân, gây dư luận xấu và bất bình trong quần chúng nhân dân. 2. Một số yếu tố tác động tới sự độc lập của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân trong thực tế hiện nay: Xét xử là chức năng của Tòa án đã được quy định trong Hiến pháp. Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử còn có rất nhiều các yếu tố tác động làm ảnh hưởng đến các phán quyết của Tòa án. Thứ nhất, cách thức tổ chức hệ thống Tòa án có tác động mạnh mẽ đến sự độc lập của Tòa án khi xét xử. Kết quả nghiên cứu của các học giả trong và ngoài nước cho thấy rõ cách thức tổ chức bộ máy nhà nước theo nguyên tắc phân quyền hay tập quyền thì việc phân định rạch ròi giữa quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp là đòi hỏi khách quan, cần thiết để hạn chế lạm dụng quyền lực, đảm bảo cho bộ máy nhà nước hoạt động thống nhất và hiệu quả. Ở nước ta, hệ thống Tòa án được tổ chức theo cấp hành chính (lãnh thổ), với cách thức tổ chức hệ thống Tòa án theo tiêu chí lãnh thổ thì bên cạnh những ưu điểm như hoạt động xét xử của Tòa án bám sát nhiệm vụ chính trị, xã hội của địa phương, giữa chính quyền địa phương và Tòa có mối quan hệ gần gũi….nhưng còn bộc lộ những hạn chế làm ảnh hưởng đến tính độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm khi xét xử. Những hạn chế này có nguyên nhân từ việc Tòa án có những mức độ khác nhau phải chịu sự chi phối của chính quyền địa phương… Chính sự rang buộc này đã tác động đến tính độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Thứ hai, ngân sách cho Tòa án và hoạt động xét xử. Ngân sách cho hoạt động của Tòa án là yếu tố quan trọng bảo đảm độc lập xét xử. Ở nước ta, nhiều năm qua, Nhà nước đã có nhiều cố gắng bố trí nguồn tài chính để đảm bảo hoạt động của Tòa án. Tuy nhiên, nguồn tài chính được bố trí chưa đủ đảm bảo để Tòa án thực hiện nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập, chưa có sự ưu tiên về tài chính cho hoạt động của Tòa án. Khắc phục hạn chế này Nghị quyết 49 NQ/TW “ Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” khẳng định: “Nhà nước đảm bảo điều kiện vật chất cho hoạt động tư pháp phù hợp với đặc thù của từng cơ quan tư pháp và khả năng của đất nước”. Việc đảm bảo cơ sở vật chất cho hoạt động tư pháp nói chung và hoạt động xét xử nói riêng là điều kiện để Thẩm phán và Hội thẩm được độc lập trong quá trình giải quyết vụ án. Thứ ba, các yếu tố cá nhân của Thẩm phán và Hội thẩm. Ngoài những yếu tố về chính sách, cơ chế thì các yếu tố thuộc về cá nhân Thẩm phán, Hội thẩm có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện nguyên tắc đảm bảo Thẩm phán, Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật khi xét xử. Đó là những yếu tố sau: - Nhiệm kỳ của Thẩm phán: Nhiệm kỳ của Thẩm phán là một trong những yếu tố có ảnh hưởng đến sự độc lập của cá nhân Thẩm phán. Nếu Thẩm phán được bổ nhiệm suốt đời hoặc với nhiệm kỳ dài thì tính độc lập của họ sẽ được bảo đảm hơn. Nếu Thẩm phán trong suốt thời gian công tác của mình luôn phải đối mặt với việc tái nhiệm hoặc bầu lại thì họ thường chịu nhiều ảnh hưởng từ phía các cơ quan có quyền bổ nhiệm đối với họ nhiều hơn. Vì vậy, có xu hướng nhiều quốc gia đang phát triển ở các nước Châu Á, châu Phi và Mỹ la tinh đang dần tiến tới cách thức bổ nhiệm chức danh Thẩm phán suốt đời hoặc kéo dài nhiệm kỳ làm việc của Thẩm phán. - Tiền lương và chế độ đãi ngộ: Tiền lương của Thẩm phán, Hội thẩm cũng là một trong những điều kiện để đảm bảo tính độc lập xét xử của cá nhân Thẩm phán, Hội thẩm. Các nguyên tắc cơ bản của lien hợp quốc về độc lập tư pháp quy định phải đảm bảo mức lương thỏa đáng để họ có thể đưa ra một phán quyết công tâm, không thiên vị, không tư lợi. Thẩm phán phải được đảm bảo có mức lương thỏa đáng, không chỉ đảm bảo mức sống tối thiểu mà phải có mức sống khá trong xã hội. Ở các nước phát triển trên thế giới, mức lương của Thẩm phán cao hơn mức lương của bất kỳ một công chức nào khác. Khó có thể đòi hỏi Thẩm phán phải độc lập trong xét xử khi mức lương của họ không đủ đảm bảo cho bản than và gia đình. Hiện nay, ở nhiều quốc gia đang phát triển, cho dù luôn gặp phải các vấn đề về kinh tế nhưng cũng đảm bảo mức lương thỏa đáng đối với việc nâng cao chất lượng và đảm bảo độc lập xét xử của Thẩm phán. - Cơ chế đảm bảo tính mạng, sức khỏe, danh dự của Thẩm phán và thành viên gia đình họ. Thẩm phán là một trong những “nghề nguy hiểm”, do tính chất hoạt động xét xử mà Thẩm phán có thể bị tước bỏ mạng sống, bị thương tích, hoặc bị xâm phạm danh dự, nhân phẩm bởi những người có lien quan đến vụ án. Vì vậy, đa số các quốc gia đều thiết lập một cơ chế bảo vệ Thẩm phán để họ có thể yên tâm đưa ra các phán quyết công tâm. Điều 40 Tuyên bố Bắc Kinh về các nguyên tắc độc lập tư pháp năm 1993 đã chỉ ra “ Các cơ quan hành pháp có thẩm quyền phải luôn luôn bảo đảm an ninh và an toàn thân thể cho Thẩm phán và gia đình của họ”. Ở Việt Nam trong một vài năm trở lại đây cũng đã xuất hiện nhiều vụ Thẩm phán bị hành hung, bị tạt axit và bị đe dọa tính mạng khiến những người cầm cân nảy mực không thể yên tâm hoàn thành nhiệm vụ. Vì vậy, cũng cần sớm hình thành cơ chế bảo vệ Thẩm phán để họ có thể thực thi tốt nhiệm vụ xét xử của mình. - Trình độ, năng lực, phẩm chất của Thẩm phán và Hội thẩm: Trình độ của Thẩm phán và Hội thẩm có quan hệ mật thiết với tính độc lập xét xử của Tòa án, họ chỉ có thể độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, không bị phụ thuộc vào ai khác khi họ tự tin vào khả năng, trình độ chuyên môn của mình. Yếu tố này đặc biệt cần thiết đối với các Hội thẩm ở các nước theo truyền thống pháp luật Châu Âu lục địa – nơi mà Hội thẩm được ngang quyền với Thẩm phán khi xét xử. 3. Một số biểu hiện của việc vi phạm nguyên tắc “khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật ” trong thực tiễn: Qua nghiên cứu, tìm hiểu hoạt động xét xử của Tòa án trên thực tế có thể thấy rằng, việc chưa tuân thủ nguyên tắc “khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” được biểu hiện khá đa dạng, song có thể khái quát ở những biểu hiện chủ yếu sau: Thứ nhất, theo quy định của Hiến pháp và pháp luật thì Thẩm phán và Hội thẩm phải độc lập với nhau và chỉ tuân theo pháp luật, nhưng trên thực tế họ lại “không thể” độc lập với nhau. Tại phiên tòa, cũng như Thẩm phán, Hội thẩm được quyền xét hỏi để làm rõ các tình tiết khách quan của vụ án, được thảo luận và biểu quyết các vấn đề giải quyết vụ án. Tuy nhiên, trên thực tế, Hội thẩm chưa phát huy được quyền riêng của mình đã được pháp luật ghi nhận. Thông thường, đối với những vụ án không phức tạp. Hội thẩm chỉ đến nghiên cứu hồ sơ một buổi trước sát ngày mở phiên tòa, thậm chí có những vị Hội thẩm chỉ đến nghiên cứu cáo trạng hoặc là không nghiên cứu hồ sơ nhưng vẫn tiến hành hoạt động xét xử tại phiên tòa. Những trường hợp này, Hội thẩm sẽ không bị lệ thuộc vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án nhưng lung túng không triển khai được mô hình để điều tra, đánh giá chứng cứ tại phiên tòa, không xác định được những vấn đề cần phải chứng minh của vụ án. Chính vì thế, Thẩm phán lại phải tóm tắt nội dung vụ án, gợi ý cho Hội thẩm những vấn đề cần hỏi. Khi tham gia xét hỏi, do nắm chắc nội dung của vụ án nên chủ tọa là người “độc diễn”, hỏi hết các vấn đề, Hội thẩm không có gì để hỏi. Khi nghị án, Thẩm phán cũng là người đưa ra gợi ý là nên giải quyết theo hướng này hướng khác, Hội thẩm là người biểu quyết theo. Sau đó chủ tọa thay mặt Hội đồng xét xử tuyên án. Sự “quá chủ động” của Thẩm phán làm cho Hội thẩm ở vào tình trạng lệ thuộc. Như vậy, tính độc lập xét xử không được đảm bảo. Thứ hai, khi xét xử, Thẩm phán xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Đây là quy định cũng như lời thề của nghề Thẩm phán. Nhưng trên thực tế Hội đồng xét xử luôn phải “thích nghi” với những mối quan hệ nhạy cảm – những sự tác động từ các yếu tố bên ngoài. - Sự tác động của Chánh án: Thông qua hoạt động họp bản án, nhiều Chánh án đã can thiệp cụ thể vào việc xét xử. Ngoài ý nghĩa tích cực hạn chế được sai sót trong xét xử thì việc tác động của Chánh án đến hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm đều vi phạm nguyên tắc “khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Nếu chỉ đạo đúng thì không sao, nhưng có trường hợp lạm dụng sự chỉ đạo để tác động trái pháp luật vào hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm. - Sự tác động của cấp ủy Đảng, các “lãnh đạo tòa”: Sự tác động này không mang tính chất thường xuyên nhưng rõ rang trong thực tế có nhiều vụ án, sự tác động của cấp ủy Đảng đã dẫn đến việc xét xử không chính xác nếu không muốn nói là sai pháp luật. Vụ án Nông trường Sông Hậu ( Ba Sương ) là một ví dụ điển hình. Hiện nay, chưa có con số thống kê về số vụ án xét xử có sự tác động của cấp ủy Đảng, của các “lãnh đạo Tòa” nhưng trên thực tế cấp ủy Đảng và “ lãnh đạo Tòa” có nhiều biểu hiện về can thiệp vào hoạt động xét xử của Tòa án. Đó là sự can thiệp của cá nhân, vì quyền lợi cá nhân, nhân danh Đảng, nhân danh tổ chức để tác động mà hoàn toàn không theo nguyên tắc lãnh đạo của Đảng và vì lợi ích của quốc gia. Sự tác động là vi phạm nguyên tắc xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. - Sự tác động của các cá nhân, tổ chức khác: Đây là sự tác động thường xuyên đến hoạt động xét xử của Tòa án. Trước hết là sự tác động của những người tham gia tố tụng. Họ có thể tác động trực tiếp hay gián tiếp thông qua các cá nhân có chức vụ quyền hạn. - Sự tác động của cơ quan báo chí, dư luận: Càng ngày báo chí và dư luận có tác động rất lớn đến các hoạt động của đất nước và đặt biệt là hoạt động tư pháp. Xét cho cùng, báo chí cũng chỉ là những quan điểm tranh luận của cá nhân, thậm chí đó là quan điểm của tập thể, quan điểm đó có thể đúng và cũng có thể chưa chính xác. Nếu Tòa án xét xử không theo luật và bị tác động bởi dư luận, báo chí thì rõ rang vi phạm nguyên tắc “khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Thứ ba, có sự thống nhất và định hướng trước việc xét xử. Đó là việc họp án ban ngành, họp bản án trong nội bộ cơ quan “duyệt án”. Pháp luật tố tụng hoàn toàn không quy định việc báo cáo án, duyệt án. Tuy nhiên, trong thực tế xét xử thì việc báo cáo án, duyệt án trước khi xét xử đã trở thành một thông lệ của các Tòa án địa phương. Thông lệ này được đánh giá là lợi bất cập hại. III. Một số giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện nguyên tắc “khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” trong giai đoạn hiện nay: Về hệ thống pháp luật: Cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và các quy định có lien quan trực tiếp đến việc thực hiện nguyên tắc “khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Cần có một cơ chế pháp lý hoàn chỉnh, rõ rang và thống nhất để tạo cơ sở cho Thẩm phán và Hội thẩm khi xét xử chỉ tuân theo pháp luật. Cần có những văn bản hướng dẫ kịp thời để có cách áp dụng pháp luật thống nhất trong xét xử. Cần trao cho Tòa án quyền giải thích pháp luật, phán xét tính hợp pháp, hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước ban hành. Kinh nghiệm của các nước trong việc giải quyết vấn đề này là chuyển việc giám sát và tuyên bố tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản quy phạm pháp luật cho Tòa án. Cần ban hành Luật bảo vệ Thẩm phán. Có lẽ trước hết là có Nghị định của Chính phủ, sau đó nâng lên thành Pháp lệnh, thành luật. Cần có những quy định pháp luật phù hợp về chế tài áp dụng dành riêng cho các Thẩm phán theo nguyên tắc khoa học, chế độ trách nhiệm rõ rang, thể hiện rõ nguyên tắc dân chủ và bình đẳng, bảo đảm cả chất và lượng hoạt động, về uy tín của hệ thống tư pháp trong nhà nước XHCN để ngăn chặn hiện tượng tiêu cực. Về trình độ chuyên môn nghiệp vụ: Cần phải có sự đổi mới căn bản về công tác đào tạo, bồi dưỡng Thẩm phán, thực hiện từng bước tiêu chuẩn hóa cán bộ ở trình độ cao để đội ngũ Thẩm phán của nước ta ngang tầm với yêu cầu đòi hỏi của xã hội. Nội dung đào tạo cần được xây dựng theo hướng hiện đại hóa nhằm trang bị kiến thức về hệ thống pháp luật Việt Nam của một số nước trên thế giới. Về đạo đức Thẩm phán: Hiện tại, việc giảng dạy đạo đức Thẩm phán tại cơ sở đào tạo nghề và các trường luật còn chưa được chú trọng, thậm chí còn chưa được đề cập đến. Các thẩm phán tương lai chưa hình thành được ý thức về đạo đức nghề nghiệp, chưa có long tự hào về nghề của mình. Vì vậy, để nâng cao tinh thần trách nhiệm của Thẩm phán, Hội thẩm trước hết cần đưa đạo đức nghề nghiệp Thẩm phán vào chương trình đào tạo nghiệp vụ xét xử tại cơ sở đào tạo nghề như là một phần cơ bản của nội dung đào tạo. Về tổ chức hoạt động của cơ quan Tòa án: Ngành Tòa án nên bỏ hình thức họp bàn án trong nội bộ cũng như họp ba ngành. Bỏ hình thức thỉnh thị án cấp trên, duyệt án. Một số kiến nghị khác: +Hiện nay, nhiệm kỳ của Thẩm phán được quy định là năm năm, sau năm năm, Thẩm phán được xem xét để tái bổ nhiệm. Nhưng về lâu dài, nên xem xét nhiệm kỳ của Thẩm phán lâu hơn, có thể tiến đến nhiệm kỳ suốt đời. +Đảng và Nhà nước cần có sự quan tâm về vật chất hơn đối với ngành Tòa án nói chung và cán bộ Tòa án nói riêng. Khi ngành được trang bị vật chất đầy đủ không phải phụ thuộc kinh phí địa phương, khi đời sống của “ Quan tòa” được quan tâm đúng mức đảm bảo cuộc sống thì cán bộ Tòa án có thể yên tâm để làm nhiệm vụ mà không phải vướng bận chuyện “cơm, áo, gạo, tiền” như vậy khi xét xử sẽ công bằng hơn. C. KẾT LUẬN: Về cơ bản, việc quy định nguyên tắc “khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” đã đáp ứng được yêu cầu đối với hoạt động xét xử, hạn chế oan sai, xử sai. Tuy nhiên, thực tiễn thi hành nguyên tắc này vẫn còn những hạn chế nhất định. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả của việc thực hiện nguyên tắc cần có những giải pháp đồng bộ, khả thi. Các giải pháp này cần phải xác định phù hợp với yêu cầu của cải cách tư pháp, quan điểm về Nhà nước pháp quyền được đề ra trong các chủ trương chính sách của Đảng. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO - Bàn về nguyên tắc độc lập xét xử của tòa án và việc tang cường tranh luận tại phiên tòa xét xử hình sự/ Ths. Đỗ Thị Ngọc Tuyết/ Tạp chí Kiểm sát. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Số 7/2004, tr. 16 - 18, 32. - Độc lập xét xử ở các nước quá độ: một góc nhìn so sánh/ Lưu Tiến Dũng/ Tạp chí Toà án nhân dân. Toà án nhân dân tối cao, Số 20 và 21/2006, tr. 5 - 14 và 12 – 19. - Trọng tâm của công tác cải cách tư pháp hiện nay là đảm bảo cho nguyên tắc tòa án độc lập/ PGS.TS.Nguyễn Đăng Dung/ Dân chủ & pháp luật. Bộ Tư Pháp, Số 01/ Năm 2007, tr. 23 - 25 - Nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”: Khóa luận tốt nghiệp/ Nguyễn Hữu Quảng - H.: Trường Đại học Luật Hà Nội, 1997 . - 32 tr.; 28 cm. - Nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”:Khóa luận tốt nghiệp/ Vũ Văn Sang - H.: Trường Đại học Luật Hà Nội, 1997 . - 31 tr.; 28 cm MỤC LỤC - A.PHẦN MỞ BÀI…………………………………………………………….….1 - B.PHẦN THÂN BÀI…………………………………………………………..…1 - I. Một số vấn đề lý luận và pháp lý về nguyên tắc “ Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”…………………………………….……..1 - 1. Cơ sở pháp lý của nguyên tắc “ Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”………………………………………………………………1 - 2. Mục đích, ý nghĩa……………………………………………………………….1 - 3. Nội dung của nguyên tắc………………………………………………………2 - II. Thực tiễn thực hiện nguyên tắc “ khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” hiện nay………………………………………………..…..3 - 1. Khái quát chung về thực trạng đảm bảo nguyên tắc “ khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” hiện nay………………………….....3 - 2. Một số yếu tố tác động tới sự độc lập của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân trong thực tế hiện nay……………………………………………………………………...…4 - 3. Một số biểu hiện của việc vi phạm nguyên tắc “khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật ” trong thực tiễn……………………….…...6 - III. Một số giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện nguyên tắc “khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” trong giai đoạn hiện nay…….…..7 - C. PHẦN KẾT LUẬN……………………………………………………….…….8

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docVề nguyên tắc khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật - thực trạng và phương hướng hoàn thiện.doc