Vị trí và tầm quan trọng của vận chuyển trong nền kinh tế và tại các doanh nghiệp - Giải pháp phát triển năng lực vận chuyển của các công ty kinh doanh dịch vụ logistics Việt Nam

Logistics không chỉ là ngành đem lại nguồn lợi khổng lồ mà còn có vai trò to lớn, liên quan mật thiết tới sự cạnh tranh sống còn của doanh nghiệp. Khái niệm logistics, theo ESCAP, là quá trình tối ưu hóa về vị trí, lưu trữ và bao gồm cả vận chuyển các tài nguyên - yếu tố đầu vào và đầu ra từ nhà cung cấp, nhà sản xuất, nhà phân phối và đến tay người tiêu dùng cuối cùng thông qua hàng loạt các hoạt động kinh tế. Đối với nền kinh tế quốc dân, logistics đóng một vai trò quan trọng không thể thiếu trong sản xuất, lưu thông, phân phối. Các nghiên cứu gần đây cho thấy, chỉ riêng họat động logistics đã chiếm từ 10 đến 15% GDP của hầu hết các nước tại Châu Âu, Bắc Mỹ và Châu á Thái Binh Dương.Vì vậy nếu nâng cao hiệu quả họat động logistics sẽ góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội của đất nước. Đối với doanh nghiệp, logistics đóng vai trò to lớn trong việc giải quyết bài tóan đầu vào và đầu ra một cách có hiệu quả. Logistics có thể thay đổi nguồn tài nguyên đầu vào hoặc tối ưu hóa quá trình chu chuyển nguyên vật liệu, hàng hóa, dịch vụ logistics còn giúp giảm chi phí, tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.

doc19 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5898 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vị trí và tầm quan trọng của vận chuyển trong nền kinh tế và tại các doanh nghiệp - Giải pháp phát triển năng lực vận chuyển của các công ty kinh doanh dịch vụ logistics Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC LỜI MỞ ĐÂU……………………………………………………………….. A. CƠ SỞ LÝ LUẬN …………………………………………… 1. Vận chuyển trong logistics…………………………………………………… 1.1. Khái niệm vận chuyển…………………………………………………… 1.2. Chức năng của vận chuyển trong logisics……………………………… 1.3. Các loại hình vận chuyển hàng hoá và vai trò của nó…………………… 2. Vị trí và tầm quan trọng của vận chuyển trong nền kinh tế và tại các doanh nghiệp. ………………………………………………………………………. 2.1. Đối với nền kinh tế…………………………………………………… 2.2. Đối với các doanh nghiệp. ……………………………………………… B. CƠ SỞ THỰC TIỄN…………………………………………… 1. Năng lực vận chuyển của các công ty kinh doanh dịch vụ logistics Việt Nam 1.1. Năng lực vận chuyển là gì ? . ……………………………………………… 1.2. Năng lực vận chuyển của các công ty kinh doanh dịch vụ logistics Việt Nam………………………………………………………………………….. 2. Giải pháp phát triển năng lực vận chuyển của các công ty logistics Việt Nam C. KẾT LUẬN…………………………………………………………………. LỜI MỞ ĐẦU Hiện nay nền kinh tế đang trong đà phát triển mạnh, các lĩnh vực kinh tế đều được phát huy hết với công suất của nó. Đối với doanh nghiệp, logistics đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết đầu vào và đầu ra một cách hiệu quả., thay đổi nguồn tài nguyên đầu vào và đầu ra hoặc tối ưu hóa quá trình vận chuyển nguyên nhiên vât liệu, hàng hóa, dịch vụ giúp giảm chi phí và làm tăng khả năng cạnh tranh của DN. Logistics là một ngành mới mẻ đối với Việt Nam tuy nhiên nó lại là ngành mang lại nguồn lợi lớn cho các nước phát triển. Trong logistics thì khâu quan trọng nhất là vận tải, nó chiếm từ 40-60% chi phí logistics. Như vậy để phát triển năng lực dịch vụ logistics thì vận chuyển đóng vai trò cốt yếu. Nhận thức được những điều đó nhóm 5 đã cùng nhau đi tìm hiểu và lựa chọn đề tài: “Vị trí và tầm quan trọng của vận chuyển trong nền kinh tế và tại các doanh nghiệp. Giải pháp phát triển năng lực vận chuyển của các công ty kinh doanh dịch vụ logistics Việt Nam”. Do hạn chế về thời gian và khả năng tiếp cận thực tế nên đề tài thảo luận không tránh khỏi thiếu sót . Kính mong thầy cô và các bạn sinh viên quan tâm đóng góp, bổ sung ý kiến để giúp cho đề tài thảo luận được hoàn thiện hơn . Xin chân thành cảm ơn ! Hà nội, ngày 17 tháng 12 năm 2010 Sinh viên thực hiện Nhóm 5 – HQ1D - K5 A.CƠ SỞ LÝ LUẬN 1. Vận chuyển trong logistics 1.1. Khái niệm vận chuyển Vận chuyển hàng hóa, xét theo quan điểm quản trị logistics, là sự di chuyển hàng hóa trong không gian bằng sức người hay phương tiện vận tải nhằm thực hiện các yêu cầu của mua bán, dự trữ trong quá trình sản xuất kinh doanh. Dưới góc độ của toàn bộ nền kinh tế, sự cần thiết của vận chuyển hàng hóa xuất phát từ sự cách biệt về không gian và thời gian giữa sản xuất và tiêu dùng, mà chủ yếu là quá trình tập trung hóa và chuyên môn hóa của sản xuất và tiêu dùng, do đó yêu cầu vận chuyển tăng lên cùng với sự phát triển của nền kinh tế. Hệ thống vận tải là cầu nối để xóa đi những mâu thuẫn khách quan đó., . Chức năng của vận chuyển trong logisics. Xuất phát từ bản chất logistics, vận chuyển có 2 chức năng: chức năng di chuyển và chức năng dự trữ. - Chức năng di chuyển: Đây là chức năng chủ yếu của vận chuyển. Thực hiện chức năng này, vận chuyển tiêu tốn các nguồn lực: Thời gian, tài chính và môi trường. + Thời gian là nguồn lực chính mà vận chuyển tiêu tốn và do đó vận chuyển hợp lý khi chi phí thời gian vận chuyển ít nhất. Chi phí thời gian vận chuyển là một trong những chỉ tiêu cơ bản đánh giá trình độ dịch vụ logistics. Tăng tốc độ vận chuyển đảm bảo duy trì dự trữ hợp lý, giảm dự trữ trên đường và trong mạng lưới logistics, đồng thời cung cấp kịp thời hàng hoá cho khách hàng. Và do đó, tăng tốc độ vận chuyển hợp lý sẽ đảm bảo nâng cao hiệu quả kinh doanh cho doanh nghiệp thương mại. + Vận chuyển hàng hoá gắn liền với các chi phí: phương tiện vận tải, lao động, quản lý, hao hụt... .,có nghĩa vận chuyển hàng hoá tiêu tốn các nguồn lực tài chính. Một phương án vận chuyển hợp lý phải đảm bảo giảm chi phí vận chuyển đến mức thấp nhất. + Vận chuyển hàng hoá cũng đồng nghĩa với tiêu tốn các nguồn lực môi trường. Vận chuyển trực tiếp tiêu tốn nguồn tài nguyên thiên nhiên đang dần bị cạn kiệt như dầu mỏ, than đá..., đồng thời làm ô nhiễm môi trường không khí, gây tiếng ồn, làm tắc nghẽn giao thông... Chính vì vậy, nhà nước rất quan tâm đến ngành giao thông vận tải nhằm giảm đến mức thấp nhất ảnh hưởng của vận chuyển đến môi trường. - Chức năng dự trữ hàng hoá : Đây là chức năng không cơ bản gắn liền với việc tồn trữ hàng hoá trong quá trình vận chuyển. Dự trữ hàng hoá trong vận chuyển phụ thuộc vào tốc độ và cường độ vận chuyển. Phương tiện vận tải có tốc độ càng cao thì dự trữ trênđường càng nhỏ. Đồng thời có thể lợi dụng chức năng này để sử dụng phương tiện vận tải dự trữ hàng hoá thay cho kho trong những trường hợp nếu sử dụng phương tiện vận tải để dự trữ tốt hơn kho: do thiếu kho, thay kho dự trữ ngắn ngày để tiết kiệm chi phí bốc dỡ...Nguyên tắc dự trữ trên phương tiện là đảm bảo chất lượng hàng hoá, giảm thời gian vận động của hàng hoá với chi phí thấp. Các loại hình vận chuyển hàng hoá và vai trò của nó Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, các loại hình vận chuyển càng phong phú. Có thể phân loại vận chuyển hàng hoá theo một số tiêu thức sau: - Theo đặc trưng của con đường và phương tiện vận tải, có các loại hình vận chuyển : vận chuyển đường sắt, đường thuỷ, đường bộ (ôtô), đường không (máy bay), đường ống.Đặc điểm cơ cấu chi phí của các loại hình vận chuyển này như sau: + Đường sắt: Chi phí cố định cao, chi phí biến đổi thấp + Đường thuỷ: Chi phí cố định trung bình, chi phí biến đổi thấp + Đường bộ: Chi phí cố định thấp, chi phí biến đổi trung bình + Đường không: Chi phí cố định thấp, chi phí biến đổi cao + Đường ống: Chi phí cố định rất cao, chi phí biến đổi thấp nhất. * Các đặc trưng dịch vụ và chi phí của các loại hình phương tiện vận tải được thể hiện ở bảng : Những đặc điểm dịch vụ và chi phí của các phương tiện vận tải Đặc điểm Phương tiện Tốc độ Tính liên tục Độ tin cậy Khả năng bảo quản nhiều loại hàng Tính linh hoạt Chi phí 1- Đường sắt 3 4 4 2 2 3 2- Đường thủy 4 5 5 1 4 1 3- Đường bộ (Ôtô) 2 2 2 3 1 4 4- Đường không (máy bay) 1 3 3 4 3 5 5- Đường ống 5 1 1 5 5 2 Ghi chú: Từ 1 đến 5- Từ tốt nhất đến kém nhất - Theo đặc trưng sở hữu và mức độ điều tiết của nhà nước, có các loại hình vận chuyển : vận chuyển riêng, vận chuyển hợp đồng và vận chuyển chung. + Vận chuyển riêng là loại hình vận chuyển trong đó, các doanh nghiệp (không phải kinh doanh vận tải) có phương tiện vận tải và tự cung cấp dịch vụ vận chuyển cho riêng mình. Vận chuyển riêng ít bị điều tiết bởi luật kinh tế, tuy nhiên phải tuân thủ những điều luật liên quan đến di chuyển những hàng hoá nguy hiểm, đến an toàn lao động, phương tiện, và các điều luật xã hội khác do nhà nước ban hành. + Vận chuyển hợp đồng: Người vận chuyển hợp đồng cung cấp dịch vụ vận tải cho khách hàng có chọn lọc. Cơ sở của hợp đồng là sự thoả thuận về chi phí và dịch vụ giữa người vận chuyển và chủ hàng mà không bị nhà nước chi phối. Trong từng thời kỳ, người vận chuyển hợp đồng bị hạn chế tuyến đường và hàng hoá vận chuyển, do đó hạn chế lượng khách hàng và khả năng cạnh tranh trực tiếp với những người vận chuyển chung (vận chuyển công cộng). + Vận chuyển chung (công cộng): Cơ sở căn bản của hệ thống vận chuyển chung là những người vận chuyển chung (common carriers). Vận chuyển chung có trách nhiệm cung cấp dịch vụ với mức giá chung(được qui định)cho công chúng. Quyền hạn vận chuyển chung có thể cho mọi hàng hoá, hoặc giới hạn chuyên môn hoá cho các loại hàng. Đồng thời người vận chuyển chung được định rõ khu vực địa lý hoạt động. - Theo số lượng phương tiện và mức độ tập trung vận chuyển: + Vận chuyển đơn thức: Chỉ sử dụng một phương tiện và với một người vận chuyển + Vận chuyển đa phương thức (đa phương tiện tập trung): sử dụng nhiều phương tiện vận tải, nhưng chỉ với một chứng từ vận tải và do một tổ chức chịu trách nhiệm. +Vận chuyển đứt đoạn (đa phương tiện phân tán): sử dụng nhiều phương tiện vận tải, với nhiều chứng từ vận tải và do nhiều tổ chức chịu trách nhiệm. - Các thành phần tham gia quá trình vận chuyển hàng hoá: Dịch vụ vận chuyển là một loại sản phẩm đặc biệt và do đó có nhiều thành phần tham gia, bao gồm: Người giao và người nhận hang, Người vận chuyển, Chính phủ và, công chúng. Người nhận ĐV vận tải Người gửi Chính phủ Công chúng Dòng hàng hóá Dòng chứng từ/thanh toán Dòng thông tin + Người giao hàng (shipper, còn gọi là chủ hàng): là người yêu cầu vận chuyển hàng hoá đến địa điểm nhất định trong khoảng thời gian cho phép. Thành phần này thực hiện các hoạt động như tập hợp lô hàng, đảm bảo thời gian cung ứng, không để xẩy ra hao hụt và các sự cố, trao đổi thông tin kịp thời và chính xác,.... Mục tiêu của người giao hàng là sử dụng dịch vụ vận chuyển sao cho có thể tối thiểu hoá tổng chi phí logistics (gồm chi phí vận chuyển, dự trữ, thông tin, và mạng lưới) trong khi đáp ứng tốt mức dịch vụ khách hàng yêu cầu. Bởi vậy, người giao hàng cần hiểu biết về những cơ hội và khó khăn của các phương án vận chuyển khác nhau, đồng thời cần có kĩ năng đàm phán và thương lượng để có được chất lượng vận chuyển cao với các điều khoản hợp lí. Người gửi và đơn vị vận tải cần xây dựng được mối quan hệ hợp tác, gắn bó trên cơ sở hai bên cùng có lợi và phát triển bền vững. + Người nhận hàng (consignee, còn gọi là khách hàng): là người yêu cầu được chuyển hàng hoá đến đúng địa điểm, đúng thời gian, đúng số lượng, chất lượng và cơ cấu với mức giá thoả thuận như theo đơn đặt hàng đã thông báo với người gửi. Người nhận hàng quan tâm tới chất lượng dịch vụ trong mối tương quan với giá cả. + Đơn vị vận tải (carrier): là chủ sở hữu và vận hành các phương tiện vận tải (ô tô, máy bay, tàu hoả, tàu thuỷ...) vì mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận và nhanh chóng hoàn trả vốn đầu tư. Mức độ cạnh tranh trên thị trường dịch vụ vận tải sẽ quyết định giá cả, tính đa dạng và chất lượng dịch vụ của từng loại hình vận chuyển hàng hoá. Đơn vị vận tải phải đạt được tính chuyên nghiệp cao trong việc nhận biết nhu cầu của người gửi và người nhận, hỗ trợ ra quyết định về phương án và lộ trình vận chuyển tối ưu, quản lí tốt nguồn lực và nâng cao hiệu quả chuyên trở hàng hoá. Đơn vị vận tải và người giao hàng / người nhận hàng phải trao đổi kĩ lưỡng với nhau về các phương án để nâng cao năng lực vận chuyển. Trong đó cần rút ngắn thời gian vận chuyển bình quân, tăng hệ số sử dụng trọng tải của phương tiện, nâng cao hệ số sử dụng phương tiện theo thời gian, nâng cao hệ số sử dụng quãng đường xe chạy có hàng, tăng vòng quay của xe, cải tiến thủ tục giấy tờ và lề lối làm việc, v.v. + Chính phủ: thường là người đầu tư và quản lí hệ thống hạ tầng cơ sở giao thông cho con đường vận chuyển (đường sắt, đường bộ, đường ống) và các điểm dừng đỗ phương tiện vận chuyển (sân bay, bến cảng, bến xe, nhà ga, trạm bơm và kiểm soát,...). Chính phủ xây dựng và qui hoạch các chiến lược giao thông dài hạn cùng các chính sách và luật lệ nhằm cân đối hài hoà giữa các mục tiêu kinh tế, xã hội và môi trường. Dịch vụ vận chuyển hàng hoá có nhiều ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế quốc dân, môi trường xã hội, môi trường sinh thái và chất lượng cuộc sống của cộng đồng, bởi vậy chính quyền thường can thiệp và kiểm soát ở nhiều mức độ khác nhau. Sự can thiệp của chính phủ thể hiện dưới nhiều hình thức trực tiếp và gián tiếp như: luật và các văn bản dưới luật, chính sách khuyến khích hoặc giới hạn quyền sở hữu các phương tiện vận tải, giới hạn hoặc mở rộng thị trường, qui định giá, hỗ trợ phát triển ngành GTVT, v.v. Chính sách đổi mới kinh tế của Việt Nam từ 1986 đến nay đã có tác động rất lớn đến sự phát triển của ngành GTVT. Có sự thay đổi cơ bản về cơ cấu hàng hoá vận chuyển giữa khu vực nhà nước và khu vực tư nhân theo xu hướng khu vực kinh tế vận tải tư nhân ngày càng phát triển. Mặc dù còn rất nhiều hạn chế, nhưng ngành GTVT nói chung và vận chuyển hàng hoá nói riêng đang phát triển theo hướng tích cực, góp phần quan trọng trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. + Công chúng: Là thành phần rất quan tâm đến hoạt động vận chuyển hàng hoá nói riêng và giao thông vận tải nói chung vì vận chuyển liên quan đến chi phí, môi trường và an toàn xã hội. Công chúng tạo nên dư luận xã hội và gây sức ép để chính phủ và chính quyền các cấp ra các quyết định vì mục tiêu an sinh của địa phương và quốc gia. Như vậy, trong vận chuyển hàng hoá phát sinh mâu thuẫn giữa những lợi ích cục bộ của người giao, người nhận, người vận chuyển, và lợi ích xã hội tổng thể (chính phủ và công chúng) dẫn đến sự đối lập, điều hoà và kiểm soát dịch vụ vận tải. 2. Vị trí và tầm quan trọng của vận chuyển trong nền kinh tế và tại các doanh nghiệp. Đối với nền kinh tế Khi so sánh nền kinh tế của các nước phát triển với các nước đang phát triển sẽ nhận thấy rõ ràng vai trò của vận chuyển hàng hóa trong việc tạo ra trình độ kinh tế phát triển cao. Đặc trưng của các nước đang phát triển là quá trình sản xuất và tiêu thụ hàng hóa diễn ra gần nhau, phần lớn lực lượng lao động ở khu v ực sản xuát nông nghiệp (70% ở Việt Nam), và tỷ lệ dân số sống ở thành thì thấp. Với sự hiện diện của hệ thống vận chuyển tiên tiến, đa dạng, vừa khả năng thanh toán và luôn sẵn sàng phục vụ, toàn bộ cấu trúc của nền kinh tế sẽ có điều kiện thuận lợi để chuyển đổi theo cấu trúc của nền kinh tế công nghiệp phát triển. Hay nói cách khác, một hệ thống vận chuyển chi phí thấp và năng động sẽ góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trên thị trường toàn cầu, tăng tính hiệu quả của sản xuất và giảm giá cả hàng hóa. Ngành vận chuyển đóng một vị trí và vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế. - Tạo nên một phần đáng kể trong tổng thu nhập xã hội và thu nhập quốc dân. - Vận tải đáp ứng nhu cầu di chuyển ngày càng tăng của hàng hóa và hành khách trong xã hội . - Góp phần khắc phục sự phát triển không đồng đều giưã các địa phương ,mở rộng giao lưu,trao đổi hàng hóa,trong nước và quốc tế. - Rút ngắn khoảng cách giữa thành thị và nông thôn,giữa đồng bằng và miền núi ,góp phần cải thiện đời sống nhân dân. - Mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài. - Đóng góp đáng kể với nước ngoài - Khắc phục sự khác biệt ngày càng lớn về không gian và không gian giữa sản xuất và tiêu dùng. - Tăng cường khả năng quốc phòng và bảo vệ đất nước. 2.2. Đối với các doanh nghiệp. - Dưới góc độ chức năng quản trị Logistics trong doạnh nghiệp, hoạt động vận chuyển hàng hóa được ví như sợi chỉ liên kết các tác nghiệp sản xuất kinh doanh tại các địa bàn khác của doanh nghiệp. Vận chuyển để cung cấp nguyên vật liệu, bán thành phẩn và hàng hóa đầu vào cho các cơ sở trong mạng lưới logistics. Vận chuyển để cung ứng hàng hóa tới khách hàng đúng thời gian và địa điểm họ yêu cầu, đảm bảo an toàn hàng hóa trong mức giá thỏa thuân. Do vậy, vận chuyển hàng hóa phải thực hiện cả 2 nhiệm vụ logistics trong doanh nghiệp: nâng cao chất lượng dịch vụ logistics và giảm tổng chi phí của toàn bộ hệ thống. - Quản trị vận chuyển là một trong ba nội dung trọng tâm của hệ thống logistics trong doanh nghiệp, có tác động trực tiếp và dài hạn đến chi phí và trình độ dịch vụ khách hàng, đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Bất kỳ lợi thế cạnh tranh nào của doanh nghiệp nói chung và của logistics nói riêng cũng đều có mối liên hệ mật thiết với hệ thống vận chuyển hàng hóa hợp lý. - Nhìn chung, vận chuyển hàng hóa có ảnh hưởng to lớn đến quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nên các nhà quản trị phải luôn quan tâm, cân nhắc và lựa chọn tối ưu về mạng lưới, phương thức vận tải, tuyến đường, đơn vị vận tải, v,v… để có được quyết định đúng đắn, góp phần nâng cao hiệu quả và hiệu suất kinh doanh. B. CƠ SỞ THỰC TIỄN 1. Năng lực vận chuyển của các công ty kinh doanh dịch vụ logistics Việt Nam 1.1. Năng lực vận chuyển là gì ? - Năng lực vận chuyển (capability ): cho biết khối lượng hàng hóa và địa bàn hoạt động mà đơn vị vận tải có thể chuyên trở được trong một khoảng thời gian nhất định thể hiện qua số lượng phương tiện vận tải và các thiết bị đi kèm. Năng lực vận chuyển còn thể hiện ở khả năng tiếp cận đúng địa điểm và vị trí theo yêu cầu của khách hàng. Vận tải đường bộ có chi phí tương đối cao nếu vận chuyển khối lượng lớn trên quãng đường dài nhưng lại rất linh hoạt và có khả năng đáp ứng được đến đúng địa điểm theo yêu cầu, đến tận cửa kho hàng hóa của khách hàng. 1.2.Năng lực vận chuyển của các công ty kinh doanh dịch vụ logistics Việt Nam - Theo đánh giá của các chuyên gia thì hiện nay tại Việt Nam quy mô của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics nhỏ, kinh doanh manh mún. Nguồn lợi hàng tỷ đô này lại đang chảy vào túi các nhà đầu tư nước ngoài. Các DN Việt Nam mới chỉ có một phần rất nhỏ trong miếng bánh khổng lồ và đang ngày càng phình to của thị trường dịch vụ logistics. Theo tính toán mới nhất của Cục Hàng hải Việt Nam, lĩnh vực quan trọng nhất trong logistics là vận tải biển thì DN trong nước mới chỉ đáp ứng chuyên chở được 18% tổng lượng hàng hóa xuất nhập khẩu, phần còn lại đang bị chi phối bởi các DN nước ngoài. Điều này thực sự là một thua thiệt lớn cho DN Việt Nam khi có đến 90% hàng hóa xuất nhập khẩu được vận chuyển bằng đường biển. Năm 2006 lượng hàng qua các cảng biển Việt Nam là 153 triệu tấn và tốc độ tăng trưởng lên đến 19,4%. Đây thực sự một thị trường mơ ước mà các tập đoàn nước ngoài đang thèm muốn và tập trung khai phá. - Hiện tại, trên cả nước có khoảng 800-900 doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực logistics. Trong đó, VIFFAS có 97 hội viên (77 hội viên chính thức và 20 hội viên liên kết). Thời gian hoạt động trung bình của các doanh nghiệp là 5 năm với vốn đăng ký trung bình khoảng 1,5 tỷ đồng/doanh nghiệp. Tuy nhiên, các doanh nghiệp logistics tại Việt Nam hiện chỉ đáp ứng được 1/4 nhu cầu thị trường logistics, và mới chỉ dừng lại ở việc cung cấp dịch vụ cho một số công đoạn của chuỗi dịch vụ khổng lồ này. Ngành công nghiệp logistics của Việt Nam hiện vẫn đang ở thời kỳ phôi thai, phần lớn của hệ thống logistics chưa được thực hiện ở một cách thức thống nhất. - Hiện nay hạ tầng cơ sở logistics tại VN nói chung còn nghèo nàn, qui mô nhỏ, bố trí bất hợp lý. Hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông của VN bao gồm trên 17.000 km đường nhựa, hơn 3.200 km đường sắt, 42.000 km đường thuỷ, 266 cảng biển và 20 sân bay. Tuy nhiên chất lượng của hệ thống này là không đồng đều, có những chỗ chưa đảm bảo về mặt kỹ thuật. Hiện tại, chỉ có khoảng 20 cảng biển có thể tham gia việc vận tải hàng hoá quốc tế, các cảng đang trong quá trình container hóa nhưng chỉ có thể tiếp nhận các đội tàu nhỏ và chưa dược trang bị các thiết bị xếp dỡ container hiện đại, còn thiếu kinh nghiệm trong điều hành xếp dỡ container. - Đường hàng không hiện nay cũng không đủ phương tiện chở hàng (máy bay) cho việc vận chuyển vào mùa cao điểm. Chỉ có sân bay Tân Sơn Nhất là đón được các máy bay chở hàng quốc tế. Các sân bay quốc tế như TSN, Nội Bài, Đà nẳng vẫn chưa có nhà ga hàng hóa, khu vực họat động cho đại lý logistics thực hiện gom hàng và khai quan như các nước trong khu vực đang làm. Khả năng bảo trì và phát triển đường bộ còn thấp, dường không dược thiết kế để vận chuyển container, các đội xe tải chuyên dung hiện đang cũ kỹ, năng lực vận tải đường sắt không đựơc vận dụng hiệu quả do chưa được hiện đại hóa. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, lượng hàng hoá vận chuyển đường sắt chiếm khoảng 15% tổng lượng hàng hoá lưu thông. Tuy nhiên, đường sắt VN vẫn đang đồng thời sử dụng 2 loại khổ ray khác nhau (1.000 và 1.435 mm) với tải trọng thấp. Chuyến tàu nhanh nhất chạy tuyến Hà Nội - TP Hồ Chí Minh (1.630 km) hiện vẫn cần đến 32 tiếng đồng hồ. Và khá nhiều tuyến đường liên tỉnh, liên huyện đang ở tình trạng xuống cấp nghiêm trọng. - Theo dự báo, trong tương lai không xa, dịch vụ giao nhận kho vận (logistics) sẽ trở thành một ngành kinh tế quan trọng tại Việt Nam, đóng góp tới 15% GDP cả nước. Đặc biệt, trong 10 năm tới, khi kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam có thể đạt mức 200 tỉ USD/năm thì nhu cầu sử dụng dịch vụ logistics lại càng lớn. Dự báo, đến năm 2010, hàng container qua cảng biển Việt Nam sẽ đạt từ 3,6-4,2 triệu TEU. Con số này đến năm 2020 chắc chắn sẽ lên đến 7,7 triệu TEU. - Song hành cùng sự phát triển kinh tế là tăng trưởng trong hoạt động xuất nhập khẩu, do đó, ngành logistics lại thêm nhiều cơ hội phát triển. Theo dự báo của Bộ Thương Mại, trong 10 năm tới kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước sẽ đạt tới 200 tỷ USD. Điều đó cho thấy tiềm năng phát triển dịch vụ logistics Việt Nam còn khá lớn. 2. Giải pháp phát triển năng lực vận chuyển của các công ty logistics Việt Nam - Để giảm thiểu chi phí, nâng cao hiệu quả kinh doanh, việc tạo điều kiện cho hoạt động logistics phát triển có ý nghĩa rất quan trọng. Các doanh nghiệp logistics cần có nguồn nhân lực và phải được tổ chức chuyên nghiệp, quy mô hơn.    - Dịch vụ logistics là hàng loạt hoạt động kinh doanh trải dài trong các khâu cung ứng nguyên liệu đầu vào, phân phối sản phẩm, đóng gói, tiếp thị, giám sát lưu thông… nhằm cung cấp giải pháp vận tải dựa trên việc lập kế hoạch, thực thi và quản lý chặt chẽ các luồng hàng hóa, ứng dụng công nghệ thông tin để nâng cao chất lượng phục vụ của hệ thống giao thông, vận tải truyền thống, thỏa mãn nhu cầu của khách hàng. Dịch vụ này cũng góp phần giảm chi phí vận chuyển, tăng tổng thu nhập quốc doanh. Ước tính nếu giảm 10% chi phí vận chuyển thì GDP quốc gia sẽ tăng 0,5%. - Để lộ trình được thực hiện nhanh và hiệu quả, vấn đề dịch vụ logicstics được đặt lên hàng đầu. Có 3 phương thức vận chuyển hàng hóa đó là đường bộ, hàng không và đường biển. + Đối với vận tải biển, phát triển cảng biển bao gồm việc phát triển hệ thống cầu cảng, kho bãi, cảng thông quan nội địa (ICD), đầu tư các phương tiện xếp dỡ, phương tiện vận chuyển hàng hoá trong cảng cũng như phương tiện vận chuyển hàng hoá từ ICD đến cảng và ngược lại, áp dụng các công nghệ thông tin. Phát triển logistics cũng gắn với quá trình phát triển hàng hải, với sự phát triển của phương thức vận chuyển bằng container, đáp ứng yêu cầu nhanh chóng, an toàn và hiệu quả. Các cảng cần đầu tư, hiện đại hóa để đủ sức tiếp nhận các tàu container thế hệ mới phù hợp với xu hướng phát triển hàng hải của thế giới. + Trong lĩnh vực giao thông vận tải, đường sắt, đường bộ, đường sông... cũng phải phát triển theo hướng này để đồng bộ hoá các khâu trong quá trình vận chuyển, giảm chi phí dịch vụ logistics, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ Việt Nam. Với vai trò điều phối lộ trình hội nhập ngành logistics của ASEAN, Việt Nam mong muốn thúc đẩy sự phát triển của dịch vụ logistics trong khu vực, qua đó, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp logistics, đóng góp tích cực vào sự phát triển của nền kinh tế quốc gia. Hiện nay, dịch vụ logistics ở Việt Nam chiếm 15%-20% GDP (khoảng 12 tỷ USD) mỗi năm với trên 800 doanh nghiệp logistics đang hoạt động. Đa số doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, tổ chức kinh doanh còn thể hiện sự manh mún, thiếu chuyên nghiệp, năng lực cạnh tranh thấp và nguồn nhân lực hạn chế. Hệ thống giao thông vận tải là cơ sở hạ tầng quan trọng trong việc phát triển dịch vụ logistics. Hiện nay cơ sở hạ tầng giao thông vận tải của Việt Nam còn yếu kém, kể cả đường sắt, đường bộ, đường hàng không, đường sông và đường biển. Điều này đã làm cho chi phí của dịch vụ logistics cao lên, làm ảnh hưởng đến sự phát triển cũng như hiệu quả của dịch vụ logistics ở Việt Nam.Giải pháp về đầu tư cơ sở hạ tầng giao thông vận tải làm nền tảng cho hoạt động logistics: + Thực hiện theo Quy hoạch cảng biển 2020 và định hướng 2030, Quy hoạch phát triển giao thông vận tải đường bộ đến năm 2020, định hướng 2030, đặc biệt Dự án Nghiên cứu toàn diện về phát triển hệ thống GTVT bền vững VITRANSS2 (sắp được công bố và bàn giao cho Bộ GTVT). Ưu tiên đầu tư các chương trình trọng điểm logistics như phần trên. + Hạ tầng logistics còn có hệ thống thông tin, viễn thông… Nhà nước có chính sách hỗ trợ, khuyến khích đầu tư tư nhân, chủ động đầu tư của doanh nghiệp và áp dụng mở rộng các mô hình PPP ( hợp tác công tư)… Giải pháp về đào tạo, nguồn nhân lực:Quá trình nhận thức, xây dựng kỹ năng quản trị, kỹ năng thực hành logistics cần thời gian và công tác vận động, hướng nghiệp. Nhà nước có chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp, các trường, để đẩy mạnh công tác đào tạo với nhiều hình thức linh hoạt, cung cấp nhân lực đáp ứng cho ngành. Các hiệp hội ngành cần tranh thủ tài trợ, hợp tác đào tạo từ nước ngoài. Giải pháp về mặt thể chế Nhà nước:Cần có “bàn tay hữu hình” của Nhà nước, thành lập Ủy ban quốc gia Logistics trong giai đoạn hiện nay để gắn kết, thống nhất quản lý, tổ chức thực hiện những chương trình trọng điểm và phối hợp các ngành hiệu quả hơn. Tái cấu trúc logistics, khuyến khích áp dụng rộng rãi quản trị chuỗi cung ứng, quản trị logistics trong các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần, khuyến khích việc thuê ngoài (outsourcing) logistics, điều chỉnh và bổ sung luật, chính sách nhằm tạo điều kiện phát triển hoạt động dịch vụ logistics cũng như các doanh nghiệp 3PL trong nước; gỡ bỏ các hạn chế, cản trở để các công ty 3PL, 4PL nước ngoài hoạt động thuận lợi hơn; có chính sách hỗ trợ đào tạo các chuyên viên logistics; triển khai các hệ thống EDI và hệ thống giao dịch không giấy tờ tại các điểm hải quan, cửa khẩu, cải cách hành chánh và minh bạch trong các dịch vụ công… Giải pháp về phía các hiệp hội ngành: - Tạo mối gắn kết giữa hiệp hội và thành viên, hỗ trợ tư vấn thiết thực và giúp đỡ doanh nghiệp nâng cao tính chuyên nghiệp, đạo đức trong cạnh tranh. - Khuyến khích sự cộng tác giữa các thành viên trên cơ sở sử dụng lợi thế từng doanh nghiệp (cơ sở vật chất, trang thiết bị, hệ thống thông tin…) để thực hiện dịch vụ trọn gói (one stop shop), mở rộng tầm hoạt động trong nước và quốc tế. - Có chương trình đẩy mạnh quá trình liên kết, xúc tiến phát triển thị trường mua bán sáp nhập doanh nghiệp (M&A) trong các doanh nghiệp dịch vụ logistics. Hiệp hội cần làm tốt vai trò cầu nối với Nhà nước, quan hệ đối ngoại để hội nhập khu vực và quốc tế; đồng thời phải là nơi nghiên cứu phát triển (R&D), quản lý các chuẩn mực, tài liệu, mẫu biểu, thống kê, tiêu chí đánh giá… của ngành. Việc đổi tên Hiệp hội Logistics Việt Nam thay cho Hiệp hội Giao nhận Kho vận Việt Nam hiện nay, thành lập Viện Nghiên cứu Phát triển Logistics Việt Nam thuộc Hiệp hội là những bước đi đúng hướng. KẾT LUẬN Logistics không chỉ là ngành đem lại nguồn lợi khổng lồ mà còn có vai trò to lớn, liên quan mật thiết tới sự cạnh tranh sống còn của doanh nghiệp. Khái niệm logistics, theo ESCAP, là quá trình tối ưu hóa về vị trí, lưu trữ và bao gồm cả vận chuyển các tài nguyên - yếu tố đầu vào và đầu ra từ nhà cung cấp, nhà sản xuất, nhà phân phối và đến tay người tiêu dùng cuối cùng thông qua hàng loạt các hoạt động kinh tế. Đối với nền kinh tế quốc dân, logistics đóng một vai trò quan trọng không thể thiếu trong sản xuất, lưu thông, phân phối. Các nghiên cứu gần đây cho thấy, chỉ riêng họat động logistics đã chiếm từ 10 đến 15% GDP của hầu hết các nước tại Châu Âu, Bắc Mỹ và Châu á Thái Binh Dương.Vì vậy nếu nâng cao hiệu quả họat động logistics sẽ góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội của đất nước. Đối với doanh nghiệp, logistics đóng vai trò to lớn trong việc giải quyết bài tóan đầu vào và đầu ra một cách có hiệu quả. Logistics có thể thay đổi nguồn tài nguyên đầu vào hoặc tối ưu hóa quá trình chu chuyển nguyên vật liệu, hàng hóa, dịch vụ…logistics còn giúp giảm chi phí, tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Hiện nay, các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics Việt Nam đang cố gắng hết sức để phát triển ngành công nghiệp mới mẻ này. Nghiên cứu và đưa ra các biện pháp nhằm nâng cao năng lực vận chuyển cũng là một bài toán khó đối với các doanh nghiệp logistics Việt Nam.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docĐề tài - Vị trí và tầm quan trọng của vận chuyển trong nền kinh tế và tại các doanh nghiệp Giải pháp phát triển năng lực vận chuyển của các công ty lo.doc
Luận văn liên quan