Vị trí, vai trò của đảng trong hệ thống chính trị theo pháp luật hiện hành

Trong hệ thống chính trị của các nước xã hội chủ nghĩa có thể có nhiều đảng phái chính trị cùng tồn tại và hoạt động. Mỗi đảng phái đóng vai trò nhất định trong đời sống xã hội và giữ một vị trí quan trọng trong hệ thống chính trị, song thực tiễn cho thấy đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động luôn giữ vai trò lãnh đạo. Đảng của giai cấp công nhân luôn là đội tiên phong, là đại biểu trung thành với quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Ở Việt Nam, Đảng cộng sản- đội tiên phong của giai cấp công nhân cũng là lực lượng đóng vai trò lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị của nước ta. Tuy nhiên, vị trí to lớn đó được thể hiện như thế nào, phương thức lãnh đạo của Đảng có những điểm tích cực gì, còn tồn tại những hạn chế gì, phương hướng khắc phục ra sao chính là những vấn đề đang cần được quan tâm. I. CƠ SỞ LÝ LUẬN. 1. Khái niệm. 2. Nền tảng chính trị-tư tưởng về vai trò lãnh đạo của Đảng. II. VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA ĐẢNG TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ THEO PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH. 1. Cơ sở pháp lý về vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng. 2. Vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị theo pháp luật hiện hành. 3.Ý nghĩa chính trị, pháp lý về vị trí, vai trò của Đảng trong HTCT. III. THỰC TIỄN VÀ PHƯƠNG HƯỚNG ĐỔI MỚI TRONG CÁCH THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG.

doc10 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 26676 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vị trí, vai trò của đảng trong hệ thống chính trị theo pháp luật hiện hành, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU. Trong hệ thống chính trị của các nước xã hội chủ nghĩa có thể có nhiều đảng phái chính trị cùng tồn tại và hoạt động. Mỗi đảng phái đóng vai trò nhất định trong đời sống xã hội và giữ một vị trí quan trọng trong hệ thống chính trị, song thực tiễn cho thấy đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động luôn giữ vai trò lãnh đạo. Đảng của giai cấp công nhân luôn là đội tiên phong, là đại biểu trung thành với quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Ở Việt Nam, Đảng cộng sản- đội tiên phong của giai cấp công nhân cũng là lực lượng đóng vai trò lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị của nước ta. Tuy nhiên, vị trí to lớn đó được thể hiện như thế nào, phương thức lãnh đạo của Đảng có những điểm tích cực gì, còn tồn tại những hạn chế gì, phương hướng khắc phục ra sao…chính là những vấn đề đang cần được quan tâm. B. NỘI DUNG. I. CƠ SỞ LÝ LUẬN. 1. Khái niệm. a. Đảng (đảng phái chính trị, chính đảng) Đảng (đảng phái chính trị, chính đảng) là một tổ chức chính trị tự nguyện với mục tiêu được một quyền lực chính trị nhất định trong chính quyền, thường là bằng cách tham gia các chiến dịch bầu cử. Các đảng thường có một hệ tư tưởng hay một đường lối nhất định, nhưng cũng có thể đại diện cho một liên minh giữa các lợi ích riêng rẽ. Các đảng thường có mục tiêu thực hiện một nhiệm vụ, lý tưởng của một tầng lớp, giai cấp, quốc gia để bảo vệ quyền lợi của tầng lớp, giai cấp hay quốc gia đó. b.Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa. - Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa là liên minh các thiết chế chính trị, chính trị-xã hội được thành lập, hoạt động trong mối liên hệ chặt chẽ mà vai trò lãnh đạo thuộc về đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động nhằm thực hiện triệt để quyền lực nhân dân, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị (HTCT) của nước ta gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam. Ngoài ra, trong hệ thống chính trị của nước ta còn có các tổ chức chính trị-xã hội hợp pháp khác của nhân dân được thành lập, hoạt động trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức làm nền tảng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thực hiện và đảm bảo đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. - Đặc trưng của hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay: Một là ,các tổ chức trong HTCT ở nước ta đều lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động. Hai là ,HTCT ở nước ta đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng là một tổ chức trong HTCT nhưng có vai trò lãnh đạo các tổ chức trong HTCT. Đây là đặc trưng cơ bản của hệ thống chính trị ở nước ta. Ba là, hệ thống chính trị ở nước ta được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Nguyên tắc này được tất cả các tổ chức trong hệ thống chính trị ở nước ta thực hiện. Bốn là ,hệ thống chính trị bảo đảm sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân và tính nhân dân, tính dân tộc rộng rãi. 2. Nền tảng chính trị-tư tưởng về vai trò lãnh đạo của Đảng. Trong hệ thống chính trị Việt Nam, vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) đối với Nhà nước và xã hội không phải là một thực tế lịch sử ngẫu nhiên mà là một thực tế lịch sử có tính quy luật. Bởi vì: Thứ nhất, ĐCSVN là lực lượng xã hội tiên tiến nhất được vũ trang bằng những quan điểm khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin. Từ đó, ĐCSVN có thể vạch ra chiến lược, chính sách phát triển xã hội phù hợp với quy luật, có sức thuyết phục, động viên lớn đồng thời có khả năng biến các chiến lược, các chủ trương, chính sách của mình thành hiện thực. Thứ hai, bằng thực tiễn đấu tranh kiên cường của mình, ĐCSVN chiếm được lòng tin của đại đa số quần chúng nhân dân. Chính lòng tin này đã làm cho vai trò lãnh đạo của Đảng không mang dấu ấn của sự áp đặt đối với quần chúng. Thứ ba, là một chính đảng kiên trì đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng, chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân cũ, thực dân mới, ĐCSVN đã tạo được uy tín quốc tế lớn cũng như tình đoàn kết và sự giúp đỡ từ phía phong trào cộng sản vvà công nhân quốc tế. Điều này cũng có tác dụng lớn đối với việc khẳng định vai trò lãnh đạo của ĐCSVN đối với hệ thống chính trị trong nước. II. VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA ĐẢNG TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ THEO PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH. Cơ sở pháp lý về vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng. Trải qua quá trình đấu tranh đầy khó khăn trong lịch sử dân tộc, ĐCSVN không ngừng lớn mạnh, đồng thời, cơ sở pháp lý về vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị cũng đã được khẳng định rõ nét hơn. Nếu như trong Hiến pháp năm 1946 vị trí, vai trò của Đảng chưa được ghi nhận, trong Hiến pháp 1959 được đưa vào lời nói đầu, thì đến Hiến pháp 1980, vị trí, vai trò của Đảng đã được ghi nhận bằng một điều luật (Điều 4). Kế thừa điều đó, Hiến pháp 1992 của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa cũng quy định: “Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” (Điều 4). Sự ghi nhận này mang một ý nghĩa đặc biệt, nó thể hiện vị trí của Đảng trong đạo luật cơ bản của Nhà nước, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị nước ta. Vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị theo pháp luật hiện hành. Phương thức lãnh đạo của Đảng. Đảng là một bộ phận của HTCT nhưng lại là hạt nhân lãnh đạo của toàn bộ HTCT. Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo của mình thông qua những phương thức chủ yếu sau: Thứ nhất, Đảng đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối, chiến lược, những quan điểm, chủ trương phát triển kinh tế-xã hội; đồng thời Đảng là người lãnh đạo và tổ chức thực hiện Cương lĩnh, đường lối mà mình vạch ra. Thứ hai, Đảng lãnh đạo xã hội chủ yếu thông qua Nhà nước và các đoàn thể quần chúng. Đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng được Nhà nước tiếp nhận, thể chế hoá cụ thể bằng pháp luật và những chủ trương, chính sách, kế hoạch, chương trình cụ thể. Vì vậy, Đảng luôn quan tâm đến việc xây dựng Nhà nước và bộ máy của Nhà nước, đồng thời kiểm tra việc Nhà nước thực hiện các Nghị quyết của Đảng. Thứ ba, Đảng lãnh đạo xã hội thông qua hệ thống tổ chức Đảng các cấp và đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng. Đảng lãnh đạo công tác cán bộ bằng việc xác định đường lối, chính sách cán bộ, lựa chọn, bố trí, giới thiệu cán bộ có đủ tiêu chuẩn vào các cơ quan lãnh đạo của Nhà nước và các đoàn thể quần chúng và các tổ chức chính trị - xã hội. b. Phương pháp lãnh đạo của Đảng. Trong HTCT, phương thức lãnh đạo của Đảng là đề ra cương lĩnh, chiến lược, đường lối lớn trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đó là những quan điểm, những nguyên tắc, những tư tưởng chỉ đạo để Nhà nước và các tổ chức trong hệ thống chính trị vận dụng sáng tạo phù hợp với chức năng của từng tổ chức…Tuy nhiên, khác với Nhà nước, Đảng là một tổ chức chính trị, phương pháp lãnh đạo của Đảng không phải là phương pháp hành chính hay cưỡng chế. Phương pháp lãnh đạo của Đảng là bằng thuyết phục, bằng công tác tư tưởng, công tác tổ chức, bằng vai trò gương mẫu của đảng viên và tổ chức đảng, bằng phát huy vai trò làm chủ của quần chúng. Đảng không bao biện, làm thay, lạm quyền, nhưng cũng không buông lỏng sự lãnh đạo của mình. Đảng không quyết những vấn đề thuộc chức năng của NN và các tổ chức khác. Đảng tôn trọng tính độc lập của các tổ chức đó. c. Mối quan hệ giữa Đảng với Nhà nước trong hệ thống chính trị. Trong HTCT nước ta, Nhà nước Việt Nam là trụ cột, là công cụ tổ chức thực hiện ý chí và quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân quản lý toàn bộ hoạt động của đời sống xã hội. Đó chính là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Mặt khác, Nhà nước chịu sự lãnh đạo và thực hiện đường lối chính trị của Đảng. Nhưng trước hết phải khẳng định sự lãnh đạo của Đảng là một tất yếu khách quan phù hợp với quy luật của chủ nghĩa xã hội, được ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật của NN. Đảng lãnh đạo Nhà nước thực hiện và đảm bảo đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Sự lãnh đạo của Đảng đối với NN thể hiện qua một số phương diện sau: + Đảng đề ra đường lối chính sách để NN thể chế hoá thành pháp luật, làm cơ sở pháp lí cho tổ chức và hoạt động của bộ máy NN và quản lí xã hội. + Đảng lãnh đạo xã hội thông qua NN bằng hệ thống pháp luật do NN ban hành. + Đảng luôn lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ để giới thiệu với NN bố trí sắp xếp vào các vị trí, chức vụ trong bộ máy NN. Ở nước ta, trong bộ máy NN các vị trí quan trọng đều do đảng viên của ĐCS nắm vị trí lãnh đạo. + Bên cạnh sự hoạt động của các cơ quan hành chính NN luôn luôn có các tổ chức của ĐCS hoạt động song song để lãnh đạo việc tổ chức và hoạt động của bộ máy NN một cách thường xuyên. Nhà nước Việt Nam có vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng trong HTCT, được quy định bởi chức năng và nhiệm vụ của nó trong HTCT, trong đời sống xã hội và được thể hiện trong mối quan hệ giữa Nhà nước với Đảng và các tổ chức chính trị - xã hội trong HTCT. Nhà nước thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng thành hiến pháp, pháp luật và chính sách làm công cụ quản l‎ý nhà nước đối với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đồng thời NN kiểm nghiệm tính đúng đắn, sự phù hợp của những đường lối, chính sách của Đảng. Thông qua sự thể chế hoá đường lối, chính sách của Đảng, NN tổ chức và đảm bảo việc thực hiện pháp luật ấy trong đời sống xã hội. NN đảm bảo, bảo vệ cho ĐCS tổ chức, hoạt động và phát triển, phát huy vai trò lãnh đạo của mình. Đảm bảo nguồn tài chính, vật chất cần thiết không chỉ cho sự hoạt động của NN mà còn cho cả HTCT, trong đó có ĐCS. Ngoài ra NN còn thực hiện việc thanh tra giám sát việc tuân theo pháp luật của các đảng viên và các tổ chức đảng, kiểm soát sự hoạt động của Đảng trong khuôn khổ của hiến pháp và pháp luật. Như vậy sự lãnh đạo của ĐCS đối với NN là rất lớn, nhưng sự lãnh đạo này là sự lãnh đạo chính trị, tức là vạch ra đường lối, chính sách để NN thể chế hoá thành pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật ấy, chứ Đảng không làm thay vai trò của NN. Sự hoạt động của NN trong lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp là nhằm thực hiện đường lối, chính sách của Đảng trong thực tế cuộc sống, đem lại ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. d. Mối quan hệ giữa Đảng với Mặt trận tổ quốc trong hệ thống chính trị. Mặt trận tổ quốc là một bộ phận quan trọng không thể thiếu cấu thành cấu thành hệ thống chính trị. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Điều 9 Hiến pháp 1992 ghi nhận: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tằng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, cùng Nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức nhà nước. Nhà nước tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên hoạt động có hiệu quả.” Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo. Trải qua các thời kỳ cách mạng với những hình thức tổ chức và tên gọi khác nhau, Mặt trận đã không ngừng lớn mạnh, đã có những đóng góp to lớn vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc và cùng với Đảng, Nhà nước hợp thành những trụ cột cơ bản trong hệ thống chính trị nước ta. Trong mối quan hệ giữa Đảng và Mặt trận thì điểm đáng chú ý nhất là Đảng vừa là thành viên vừa là người lãnh đạo. Là một tổ chức thành viên trong Mặt trận, Đảng tham gia Mặt trận bình đẳng, có nghĩa vụ như các thành viên khác, đồng thời Đảng vừa là người lãnh đạo Mặt trận. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận không phải là sự áp đặt mà là đòi hỏi khách quan từ thực tiễn lịch sử đấu tranh cách mạng, từ tổ chức và hoạt động của mặt trận. Đây là một tất yếu, xét cả về phương diện thực tiễn lịch sử lẫn phương diện pháp lý. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo tốt công tác mặt trận cũng chính là lãnh đạo tốt đối với toàn xã hội và làm cho Đảng luôn gắn bó mật thiết với nhân dân. Để lãnh đạo Mặt trận, Đảng phải ở trong Mặt trận, Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo bằng cách đề ra đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn, đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng và lợi ích chính đáng của tầng lớp nhân dân. Đảng tiến hành công tác tuyên truyền, vận động, thuyết phục, tổ chức kiểm tra và bằng sự gương mẫu của Đảng viên. Thực tiễn lịch sử từ ngày thành lập Mặt trận đến nay đã chứng tỏ các thành viên tham gia Mặt trận đều tự giác thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng. Đảng lãnh đạo Mặt trận thông qua Đảng đoàn Mặt trận thông qua Đảng đoàn các tổ chức thành viên của Mặt trận và thông qua đại diện của cấp ủy Đảng tham gia Ủy ban Mặt trận cùng cấp. Đảng chăm lo bồi dưỡng cán bộ và giới thiệu những Đảng viên có phẩm chất, có tín nhiệm, trong các tầng lớp nhân dân, có năng lực làm công tác Mặt trận, để Mặt trận chọn cử theo đúng điều lệ. Đảng lãnh đạo sự phối hợp và thống nhất hành động giữa các thành viên, sự phối hợp giữa Mặt trận với chính quyền. Đảng tôn trọng tính độc lập về tổ chức và họat động sáng tạo của Mặt trận; Đảng lắng nghe ý kiến đóng góp của Mặt trận đối với sự lãnh đạo của Đảng và đối với cán bộ Đảng viên. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận là vấn đề cố tính nguyên tắc, đảm bảo cho Mặt trận không ngừng được củng cố và mở rộng. Mặt trận có nhiệm vụ tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng và đạo đức mới, động viên các tầng lớp nhân dân thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mặt trận có trách nhiệm tổ chức, vận động nhân dân thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc xây dựng mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và Nhà nước, trong việc xây dựng mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Vì mối liên hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước là yếu tố cực kì quan trọng bảo đảm sự vững mạnh của chế độ. e. Mối quan hệ giữa Đảng với các tổ chức chính trị khác. Các tổ chức trong HTCT của nước ta là các tổ chức chính trị-xã hội hợp pháp được tổ chức để tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản đại diện cho lợi ích của nhân dân, tham gia vào hệ thống chính trị, tuỳ theo tính chất, tôn chỉ, mục đích của mình nhằm bảo vệ quyền lợi dân chủ của nhân dân. Các tổ chức chính trị - xã hội, các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ đất nước; phát huy dân chủ, nâng cao trách nhiệm công dân của các hội viên, đoàn viên, giữ gìn kỷ cương phép nước, thúc đẩy công cuộc đổi mới, thắt chặt mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước. Các tổ chức chính trị, các đoàn thể nhân dân là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí và nguyện vọng; phát huy khả năng tham gia bầu cử Quốc hội và Hội đồng Nhân dân; tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; thực hiện giám sát của nhân dân với cán bộ, công chức và giải quyết những mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân. Các tổ chức chính trị - xã hội của nhân dân có nhiệm vụ giáo dục chính trị tư tưởng, động viên và phát huy tính tích cực xã hội của các tầng lớp nhân dân, góp phần thực hiện nhiệm vụ chính trị; chăm lo bảo vệ lợi ích chính đáng và hợp pháp của nhân dân; tham gia vào công việc quản lý Nhà nước, quản lý xã hội, giữ vững và tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, góp phần thực hiện và thúc đẩy quá trình dân chủ hoá và đổi mới xã hội, thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Hệ thống chính trị ở nước ta được tổ chức theo một hệ thống từ Trung ương đến cơ sở. Cơ sở phân cấp theo quản lý hành chính gồm có xã, phường, thị trấn. Hệ thống chính trị ở cơ sở bao gồm: Tổ chức cơ sở Đảng, Hội đồng Nhân dân xã, phường; Uỷ ban Nhân dân xã, phường; Mặt trận Tổ quốc xã, phường và các tổ chức chính trị-xã hội khác như: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh xã, phường, thị trấn… Tất cả các tổ chức trên đều có vị trí, vai trò và nhiệm vụ được quy định trong Luật Tổ chức của hệ thống chính trị ở nước ta. Ngoài Đảng và NN, thì các tổ chức chính trị khác có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế-xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư. 3.Ý nghĩa chính trị, pháp lý về vị trí, vai trò của Đảng trong HTCT. a.Ý nghĩa chính trị. - Nhằm mục đích khẳng định công lao to lớn của đảng đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc, của nhân dân ta. - Thể hiện tình cảm trân trọng, lòng biết ơn của nhân dân ta đối với Đảng. - Nâng cao hơn nữa uy tín của Đảng. - Phản ánh đúng quy luật khách quan của chủ nghĩa xã hội mà chúng ta đang tiến hành. - Khẳng định sự lãnh đạo của đảng là một tất yếu khách quan của cách mạng Việt Nam, và vai trò đó đã được pháp luật hoá. b. Ý nghĩa pháp lý. - Việc ghi nhận vai trò lãnh đạo của Đảng dã là một nguyên tắc Hiến định. - Đòi hỏi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đều phải thể chế hoá kịp thời đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng thành pháp luật. Phải luôn tuân thủ nguyên tắc Đảng lãnh đạo trong tổ chức và hoạt động của mình. - Tổ chức Đảng, đảng viên phải thường xuyên chủ đọng trong việc tuyên truyền chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, phpá luật của nhà nước cho nhân dân, gương mẫu và tích cực vận động nhân dân thực hiện. - Tổ chức Đảng, đảng viên phải luôn tôn trọng Hiến pháp và pháp luật, hoạt đọng trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật. - Đảm bảo cho chủ trương, đường lối của Đảng được thực hiện bằng sức mạnh của nhà nước. III. THỰC TIỄN VÀ PHƯƠNG HƯỚNG ĐỔI MỚI TRONG CÁCH THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG. 1. Thực tiễn. a.Tích cực. Sự lãnh đạo của Đảng thể hiện ở nội dung; phương thức lãnh đạo; lề lối làm việc, tác phong công tác của Đảng. Ba điểm này có quan hệ biện chứng với nhau, trong đó, phương thức lãnh đạo có vai trò rất quan trọng thực hiện mục đích đề ra. Phương thức lãnh đạo là một hệ thống các hình thức, biện pháp, phương pháp mà Đảng sử dụng để tác động đến đối tượng lãnh đạo nhằm thực hiện nhiệm vụ chính trị do Đảng đề ra. Phương thức lãnh đạo phụ thuộc trước hết vào đối tượng lãnh đạo, vào hoàn cảnh, điều kiện lịch sử trong nước và thế giới, vào sự phát triển của khoa học và công nghệ trong đó có khoa học và công nghệ lãnh đạo, vào nhiệm vụ chính trị thực tiễn của Đảng trong từng giai đoạn và cả vào chủ thể lãnh đạo là Đảng (trình độ, năng lực, bản lĩnh, nghệ thuật lãnh đạo...). Do đó, phương thức lãnh đạo của Đảng không phải là bất biến mà cũng thay đổi theo thời gian, theo từng giai đoạn cách mạng. Trong những năm đổi mới, trên cơ sở đổi mới tư duy và cùng với đổi mới về kinh tế, về HTCT, văn hóa - xã hội, phương thức lãnh đạo của Đảng cũng có những bước tiến mới thể hiện ở một số điểm sau: + Đảng và các cấp ủy ngày càng coi trọng và quan tâm đến đổi mới phương thức lãnh đạo - một yêu cầu cơ bản và cấp bách của đổi mới, chỉnh đốn Đảng cho phù hợp với tình hình đã thay đổi. + Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội được đổi mới theo hướng không ngừng mở rộng dân chủ và công khai; các phương tiện thông tin đại chúng ngày càng phát huy vai trò tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục nhân dân và vai trò người phản biện đối với các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. + Đảng và các tổ chức đảng ngày càng coi trọng và tôn trọng vai trò các cơ quan nhà nước. Vai trò của các tổ chức Nhà nước ngày càng được phát huy, được đổi mới về tổ chức và phương thức hoạt động, tính chủ động, hiệu lực và hiệu quả ngày càng được nâng cao. Ngày càng phân định rõ hơn chức năng của các tổ chức đảng và các cơ quan nhà nước, nhất là ở Trung ương, giảm bớt sự chồng chéo, lấn sân của nhau + Đảng đã bố trí cán bộ, đảng viên của mình giữ những cương vị chủ chốt trong bộ máy chính quyền các cấp, nhờ đó, giữ vững được sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của Đảng đối với hệ thống chính trị. + Ngày càng xác định rõ hơn nội dung, phạm vi lãnh đạo, mối quan hệ lãnh đạo của cấp ủy với cơ quan nhà nước, nhất là ở Trung ương. Đã xây dựng được quy chế làm việc của Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và cấp ủy các cấp, cũng như xây dựng chương trình công tác của cấp ủy toàn khóa, hằng năm. + Quá trình xây dựng và ban hành Nghị quyết của Đảng đã được cải tiến, việc phổ biến nghị quyết cũng giảm bớt tính hình thức, tăng tính thiết thực, ngắn gọn, gắn với chương trình hành động. b. Hạn chế. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, vướng mắc làm hạn chế cả vai trò lãnh đạo của Đảng lẫn hiệu lực quản lý của Nhà nước và vai trò làm chủ của nhân dân như: bao biện, làm thay, lấn sân công việc của chính quyền, can thiệp quá sâu vào công việc của chính quyền. Vẫn còn tình trạng cơ quan chính quyền thụ động, ỷ lại vào cấp ủy, né tránh không dám chịu trách nhiệm, ôm đồm nhiều việc của cấp dưới mà không dám mạnh dạn phân cấp, nên cấp trên không còn thời gian và sức lực để đầu tư suy nghĩ những vấn đề lớn, quan trọng hơn hoặc có tầm chiến lược. Đồng thời, cũng vẫn còn tình trạng cấp ủy buông lỏng lãnh đạo chính quyền, không phát huy được vai trò lãnh đạo… 2. Phương hướng đổi mới. Một số vấn đề cần giải quyết khi đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Thứ nhất: đổi mới phương thức lãnh đạo không chỉ ở phong cách, lề lối làm việc mà ở cả nhận thức, quan điểm, chủ trương lẫn cơ chế vận hành. Ðổi mới phương thức lãnh đạo của Ðảng phải đồng bộ với đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị, đổi mới kinh tế. Phải thường xuyên đảm bảo sự thống nhất giữa phương thức lãnh đạo của Đảng và đường lối chính trị của Đảng. Thứ hai: đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn về phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Thứ ba: tiếp tục thực hiện việc kiện toàn tổ chức, tiếp tục xác định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức đảng và tổ chức nhà nước, tránh chồng chéo, lấn sân. Nâng cao vai trò công tác tham mưu của ban đảng các cấp. Thứ tư: bổ sung, hoàn thiện hệ thống các quy chế về sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đối với Quốc hội, Chính phủ, sự lãnh đạo của cấp ủy và tổ chức đảng đối với cơ quan chính quyền cùng cấp. Cần cụ thể hóa và bổ sung một số quy định về quan hệ và lề lối làm việc của Bộ Chính trị, Ban Bí thư với Đảng đoàn Quốc hội, Ban Cán sự đảng Chính phủ trong lãnh đạo công tác an ninh, quốc phòng, đối ngoại và tổ chức cán bộ,... Thứ năm: cần cụ thể hóa nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ sao cho vừa giữ vững nguyên tắc này vừa bảo đảm quyền hạn và trách nhiệm pháp lý của người đứng đầu các tổ chức chính quyền. Cần có quy chế về trách nhiệm và thẩm quyền của người đứng đầu tổ chức về công tác cán bộ. Thứ sáu: tăng cường công tác kiểm tra, nâng cao chất lượng và hiệu quả kiểm tra, nhất là kiểm tra thường xuyên để phục vụ cho sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm minh các vụ việc tiêu cực, tham nhũng, vi phạm nguyên tắc... Thứ bảy: tiếp tục mở rộng và phát huy dân chủ, trước hết là dân chủ nội bộ Đảng cho đến dân chủ ngoài xã hội, đẩy mạnh thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở, xây dựng và thực hiện các cơ chế, quy chế dân chủ, mở rộng dân chủ trong bầu cử và hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Thứ tám: tích cực đổi mới phong cách lãnh đạo của các cấp ủy, hoàn thiện quy trình xây dựng, ra nghị quyết và triển khai thực hiện nghị quyết; tăng cường chế độ làm việc có tính khoa học, có quy chế, chương trình, kế hoạch; cán bộ lãnh đạo cần sâu sát quần chúng, cơ sở, coi trọng tổng kết thực tiễn, coi trọng tính thiết thực, hiệu quả, tránh bệnh hình thức, bệnh thành tích trong công tác. C. KẾT LUẬN.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docVị trí, vai trò của đảng trong hệ thống chính trị theo pháp luật hiện hành.doc
Luận văn liên quan