Vụ Đền Preah Vihear (Temple of Preah Vihear, Cambodia v. Thailand) 1962
Phán quyết của Tòa án công lí quốc tế năm 1962 đã phân xử ngôi đền Preah
Vihear thuộc về phía Campuchia. Cho đến nay, biên giới trên bộ giữa hai nước
Campuchia và Thái Lan chưa được phân giới rõ ràng. Quyết định của toà án quốc tế
trong việc trao ngôi đền Preah Vihear cho Campuchia năm 1962 đã được đưa ra trên có
sở không có sự nhất trí của các bên. Phán quyết này phần lớn dựa vào việc Thái Lan
không phản đối đường biên giới do Pháp vẽ nên trước đó nhiều thập kỷ. Tại thời điểm
đường biên giới đó được vẽ nên, cách đây 100 năm, Thái Lan không có những chuyên
gia vẽ bản đồ của riêng mình. Thêm vào đó, do cửa vào ngôi đền nằm trên lãnh thổ Thái
Lan nên Thái Lan vẫn tiếp tục tranh giành với Thái Lan.
Vụ việc tranh chấp biên giới khu vực đền Preah Vihear giữa hai quốc gia Thái Lan
và Campuchia hiện nay đang trong quá trình leo thang căng thẳng, khiến các nước láng
giềng và cộng đồng quốc tế hết sức quan ngại. Hội đồng bảo an Liên Hiệp quốc và
ASEAN đã phải can thiệp giải quyết vụ việc.
11 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4636 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vụ Đền Preah Vihear (Temple of Preah Vihear, Cambodia v. Thailand) 1962, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÀI TẬP THẢO LUẬN LUẬT ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ
Vụ Đền Preah Vihear (Temple of Preah Vihear,
Cambodia v. Thailand) 1962
I – Nội dung vụ việc
1. Giới thiệu đền
Prasat Preah Vihear là một ngôi đền tọa lạc trên một chỏm núi thuộc núi Dangrek
ở Campuchia gần biên giới với Thái Lan. Ngôi đền này được lấy làm tên cho tỉnh Preah
Vihear, nơi nó toạ lạc. Preah Vihear được biết đến không chỉ bởi đây di sản thế giới đã
được UNESCO công nhận (2008) mà còn là điểm nóng tranh chấp giữa Campuchia và
Thái Lan.
Phần nửa đền nằm bên vườn quốc gia Khao Phra Viharn của huyện Kantharalak
thuộc tỉnh Sisaket của Thái Lan, một nửa đền thuộc tỉnh Preah Vihear của Campuchia.
Do ngôi đền được xây trên một mỏm đá thuộc lãnh thổ Campuchia (trước đây được cho
là lãnh thổ Thái Lan), nhưng lối dẫn vào ngôi đền Preah Vihear nằm trên một vách đá
dựng đứng cheo leo và không thể tiếp cận từ phía Campuchia. Điều này có nghĩa là, để
tham quan được di sản này bắt buộc du khách phải đi từ phía cổng của vườn quốc gia
Khao Phra Viharn của Thái Lan.
2. Lịch sử tranh chấp
Năm 1861, Pháp chiếm Đông Dương và trở thành nước bảo hộ của Campuchia.
Năm 1904, Vương quốc Xiêm (tên gọi chính thức của Thái Lan trước năm 1949) và Pháp
thành lập một Ủy ban chung (Franco-Siamese Mixed Commission) thực hiện công việc
phân định biên giới giữa hai nước. Đến ngày 13/2/1904, Pháp và Xiêm ký Hiệp định
phân định biên giới. Trong đó, Điều 3 của Hiệp định quy định rằng việc phân chia những
đường biên giới sẽ được thực hiện bởi Ủy ban chung.
Năm 1907, sau khi điều tra nghiên cứu, người Pháp đã đưa ra bản đồ, trong đó thể
hiện vị trí chính xác khu vực đền Preah Vihear và vùng lân cận. Căn cứ theo tấm bản đồ
này, Preah Vihear nằm bên Campuchia. Đường biên giới cuối cùng được Ủy ban chung
thông qua trong năm 1907 và được tán thành chính thức bởi nghị định thư đính kèm theo
Hiệp định 23/3/1907 giữa Pháp và Xiêm.
Vào 9/5/1941, dưới sự hòa giải của phát xít Nhật, Pháp và Xiêm đã ký Hiệp định
hòa bình. Hiệp định này áp đặt một đường biên giới mới với Campuchia, theo đó ngôi
đền Preah Vihear thuộc về Thái Lan.
Sau khi Nhật đầu hàng, Pháp và Xiêm ký Hiệp định 17/11/1946 bãi bỏ Hiệp định
năm 1941, thiết lập lại hiện trạng trước khi có sự hòa giải của Nhật, tức là công nhận đền
thuộc chủ quyền Campuchia. Theo đó, điều 3 của Hiệp định 1946 nêu ra sự thành lập Ủy
ban hòa giải và quy định nhiệm vụ của Ủy ban là kiểm tra lại những xác nhận của các
điều khoản của Hiệp định 1904 và Hiệp định 1907 được duy trì theo điều 22 của Hiệp
định 1937.
Năm 1954, Thái Lan chiếm giữ ngôi đền sau khi quân đội Pháp rút khỏi
Campuchia, Campuchia phản đối và yêu cầu Tòa án quốc tế phân xử. Tòa án xem xét vụ
việc không chỉ dựa trên những di sản văn hóa, mà còn cân nhắc những biện pháp chuyên
môn kỹ thuật phân định ranh giới. Ngày 15/6/1962, Tòa ra phán quyết phần thắng thuộc
về Campuchia và yêu cầu Thái Lan trả lại mọi di vật (kể cả những bức tượng thờ) đã đưa
ra khỏi ngôi đền.
Ngôi đền đã mở cửa trong một thời gian ngắn cho công chúng năm 1982 và năm
sau bị Khmer Đỏ chiếm đóng. Ngôi đền được mở cửa lại vào cuối năm 1998 và
Campuchia hoàn tất việc xây dựng năm 2003 sau một quãng thời gian dài. Năm 2007
Campuchia đề nghị công nhận Di sản văn hoá cho đền Preah Vihear nhưng đã bị
UNESCO bác bỏ do còn tồn tại những bất đồng với Thái Lan và vì một phần Thái Lan
bác bỏ và phản đối đề nghị này của Campuchia. Tuy nhiên, một năm sau, được Bộ Ngoại
giao Thái Lan ủng hộ, vào ngày 7 tháng 6 năm 2008, Ủy ban Di sản Thế giới họp tại
Canada đã công nhận đền Preah Vihear là Di sản Thế giới.
Sự tranh chấp khu vực đền Preah Vihear trở nên căng thẳng trở lại vào năm 2008,
sau khi ngôi đền được công nhận là Di sản thế giới. Đã có những đụng độ quân sự cũng
như các biện pháp ngoại giao được đưa ra, nhưng cho tới nay khu vực này vẫn đang là
một điểm nóng trong quan hệ giữa hai nước.
II – Tòa Án năm 1962 giải quyết tranh chấp đền Preah Vihear
1. Đệ trình của các bên
a. Đệ trình của Campuchia
Vào tháng 10/1959, Campuchia đã đệ đơn lên Toà án Công lý quốc tế để giải
quyết vấn đề chủ quyền đối với khu vực đền Preah Vihear. Trước đó, năm 1954, Thái
Lan đã tự ý đưa quân đội vào chiếm đóng ngôi đền, vi phạm chủ quyền lãnh thổ của
Campuchia. Nước này đã yêu cầu Toà án xét xử và tuyên bố với 5 luận điểm trong đơn
đệ trình như sau:
1. Xét xử và tuyên bố rằng bản đồ dãy Dangrek ( Bản đồ Annex 1) được vẽ và
xuất bản trên danh nghĩa của Ủy ban Chung - Ủy ban được thành lập dựa trên
Hiệp ước 1904.
2. Xét xử và tuyên bố rằng đường biên giới giữa Thái Lan và Campuchia tại khu
vực tranh chấp xung quanh đền Preah Vihear, được xác định theo bản đồ của
Ủy ban xác định biên giới Chung giữa Đông Dương và Xiêm.
3. Xét xử và tuyên bố Đền Preah Vihear nằm trong lãnh thổ của Vương quốc
Campuchia.
4. Xét xử và tuyên bố phía Thái Lan có nghĩa vụ rút toàn bộ lực lượng vũ trang
đóng tại khu vực Đền Preah Vihear, kể từ năm 1954.
5. Xét xử và tuyên bố phía Thái Lan có nghĩa vụ hoàn trả cho Campuchia mọi tác
phẩm điêu khắc, bia đá, những mảnh còn sót lại của các công trình kiến trúc,
các mô hình đá cát và những đồ gốm cổ đã bị lấy khỏi đền kể từ khi Thái Lan
chiếm giữ ngôi đền vào năm 1954.
b. Đệ trình của Thái Lan
Sau khi Campuchia đệ đơn lên Toà án Công lý quốc tế, Thái Lan đã đưa ra những
luận điểm của mình và yêu cầu Toà:
1. Những cáo buộc của Vương quốc Campuchia là không thể duy trì và nên bị
từ chối;
2. Thái Lan đưa ra những kết luận sau:
a. Bản đồ Annex 1 không được chứng minh là tài liệu có tính ràng buộc hiệu
lực với bản Hiệp ước năm 1904;
b. Trên thực tế, Thái Lan và Campuchia chưa từng coi đường biên giới được
vẽ ở Bản Đồ Annex 1 tại khu vực dãy Dangrek là đường biên giới thực sự
giữa 2 quốc gia này;
c. Vì những nguyên do trên, đường biên giới trên Bản đồ Annex 1 không
được cho là đường biên giới thực sự được 2 quốc gia tuân theo và công
nhận;
3. Thái Lan đưa ra các kết luận trả lời cho luận điểm 2 và 3 trong đơn đệ trình
từ phía Campuchia:
a. Có bằng chứng đầy đủ về khoảng thời gian Thái Lan thực hiện quyền chủ
quyền của mình tại khu vực ngôi đền. Bên cạnh đó, Campuchia không thể
hiện bất cứ chức năng quản lí nào tại khu vực, nếu có thì không thường
xuyên và không rõ ràng;
b. Đường phân nước trong khu vực thực chất tương ứng với đường rìa vách
núi chạy xung quanh đền Preah Vihear và được xác định trong Hiệp ước
năm 1904;
c. Phạm vi đường rìa vách núi có thể không hoàn toàn trùng khớp với đường
phân nước được thế hiện bởi hình thế địa hình khu vực trên thực tế, nhưng
sự sai lệch này là nhỏ và đáng được bỏ qua;
d. Theo địa hình tự nhiên của khu vực, lối vào ngôi đền chỉ có thể tiếp cận từ
phía Thái Lan, hầu như không thể tiếp cận từ phía đồng bằng Campuchia
do dốc núi cao;
e. Không có lý do nào trong trường hợp này mà phía Campuchia có thể áp
dụng các văn bản được hỗ trợ từ phía Luật sư Campuchia (counsel of
Campuchia) để mặc nhận, ngăn cản bào chữa hoặc đề nghị (whether
acquiescence, estopple, or prescription);
Luận điểm 2 và 3 của phía Campuchia trong đơn đệ trình cần thiết phải bị bác bỏ.
2. Lập luận của Thái Lan và Ý kiến của Tòa
a. Lập luận của Thái Lan
Thái Lan đưa ra những lập luận sau trong quá trình tham gia buổi điều trần
về tranh chấp lãnh thổ lại khu vực đền Preah Vihear.
Về sự nhầm lẫn đường biên giới trên bản đồ và đường phân nước của Thái
Lan
Trong đơn đệ trình của Thái Lan tại buổi điều trần ngày 20 tháng 3 năm 1962,
phía Thái Lan có đề cập tới đường phân nước. Thái Lan cho rằng đường phân nước tại
khu vực được nhắc tới hoàn toàn trùng khớp với đường rìa vách đá chạy xung quanh đền
Preah Viheah, và đường phân nước này tạo nên đường biên giới được dựa trên Hiệp ước
về Biên giới năm 1904. Cho đến mức đường rìa của vách đá không trùng lặp chính xác
với đường phân nước được thể hiện bởi hình thế địa hình khu vực trên thực tế, thì sự sai
lệch này là tối thiểu và nên được bỏ qua. Nếu như vậy thì toàn bộ khu vực đền Preah
Vihear sẽ nằm trong lãnh thổ Thái Lan. Thế nhưng trên bản đồ Annex 1, thì đường phân
nước được xác định bởi nhóm các chuyên gia Pháp được trao nhiệm vụ đo đạc khu vực
này lại không hoàn toàn như vậy. Và theo như đường phân nước được vẽ bởi các chuyên
gia Pháp thì khu vực đền Preah Vihear lại nằm hoàn toàn trong lãnh thổ Campuchia.
Phía Thái Lan tranh luận rằng trong khoảng thời gian từ năm 1908 cho đến khi
phía Thái Lan tổ chức một cuộc đo đạc khu vực trong khoảng năm 1934-1935, Thái Lan
đã luôn tin rằng đường biên giới vẽ trên bản đồ và đường phân nước trên thực tế (trùng
với đường vách núi- theo như kết quả đo đạc của bên Thái Lan) thực sự trùng nhau.
Chính vì sự nhầm lẫn này mà Thái Lan đã chấp nhận bản đường biên giới được vẽ trên
bản đồ Annex 1 ( do các chuyên gia Pháp vẽ).
Về sự nhầm lẫn về nhân sự và trình độ nhân sự của Thái Lan
Phía Thái Lan cho rằng Bản đồ Annex 1 không được thực hiện và xuất bản dưới
danh nghĩa của Ủy ban xác định biên giới Chung (Mixed Commission of Delimitaion) –
Ủy ban được thành lập bởi kết quả của Hiệp ước năm 1904. Theo Hiệp ước đó, Ủy ban
chung này gồm một Ủy ban của Pháp và một Ủy ban của Xiêm, có trách nhiệm khảo sát
và xác định biên giới giữa hai quốc gia Thái Lan và Campuchia. Tuy nhiên, Bản đồ
Annex 1 được coi là kết quả từ quá trình khảo sát và vẽ bởi thành viên của Ủy ban Pháp,
đồng thời được công bố dưới danh nghĩa của Ủy ban Pháp.
Trong khi đó, nhà chức trách Pháp chịu trách nhiệm khảo sát, đo đạc và vẽ Bản đồ
Annex 1 không được trao bất cứ quyền nào để đưa ra quyết định dưới danh nghĩa của Ủy
ban chung. Và trên thực tế, không có ghi chép nào về quyết định của Ủy ban chung trong
vấn đề biên giới tại khu vực Preah Vihear. Nếu có, thì quyết định này của Ủy ban chung
không được trình bày rõ ràng trên Bản đồ Annex 1.
Thái Lan có viện dẫn rằng, số bản đồ mà Thái Lan nhận được từ Paris chỉ được
xem xét bởi những viên chức cấp thấp, những người không có chuyên môn về địa đồ,
cũng như không có thông tin về khu vực đền Preah Vihear. Những nhầm lẫn trong nhân
sự được phía Thái Lan thừa nhận trong những buổi điều trần rằng không có ai bên phía
Xiêm biết thông tin về đền Preah Vihear hoặc quan tâm tới khu đền này.
b. Ý kiến của Tòa án
Từ những luận điểm của Thái Lan, Tòa đưa ra những bác bỏ sau:
Bác bỏ lập luận của Thái Lan về sự nhầm lẫn đường biên giới trên bản đồ -
đường phân nước
Trên thực tế, Chính quyền Thái Lan cũng chưa bao giờ bày tỏ sự phản đối, thắc
mắc, cũng như ngờ vực đối với bản đồ Annex 1 kể từ khi nó được công bố cho đến khi
Thái Lan đàm phán với Campuchia vào năm 1958. Mặc dù trong những năm 1934 và
1935, một cuộc khảo sát đã được tiến hành để xác định sự sai lệch giữa đường biên giới
trên bản đồ và đường phân nước trên thực tế. Bên cạnh đó cũng có những bản đồ khác chỉ
rõ khu vực đền Preah Vihear thuộc chủ quyền Thái Lan được chính quyền Thái Lan xuất
bản. Tuy nhiên, phía Thái Lan vẫn tiếp tục sử dụng và xuất bản bản đồ trong đó có chỉ rõ
khu vực đền Preah Vihear nằm ở phía Campuchia. Thêm vào đó, trong những cuộc đàm
phán năm 1925 và năm 1937, Hiệp ước giữa Pháp - Xiêm, Thái Lan hoàn toàn có thể nêu
ra vấn đề tranh chấp và sự nhầm lẫn này nhưng Thái Lan cũng không đưa ra bất kỳ phản
đối nào. Như vậy, có thể suy luận một cách tự nhiên rằng Thái Lan đã chấp nhận biên
giới tại khu vực Preah Vihear như đã vẽ trong bản đổ Annex 1, bất chấp có sự trùng lặp
của đường biên giới trên bản đồ với đường phân nước trên thực tế hay không. Thái Lan
đã không có nhu cầu phản đối, cũng như nêu ra vấn đề này.
Liên quan đến việc Thái Lan viện dẫn sự nhầm lẫn giữa đường biên giới trên bản
đồ và đường phân nước, Tòa còn lập luận rằng: Lập luận được đưa ra của bên Thái Lan
về sự nhầm lẫn này rõ ràng là mâu thuẫn nhau. Thái Lan đã có những hành động thể hiện
chủ quyền của mình đối với khu vực đền Preah Vihear do Thái Lan tin rằng mình hoàn
toàn có đầy đủ chủ quyền hợp pháp với toàn bộ khu vực này. Nếu như Thái Lan thật sự
có sự nhầm lẫn về bản đồ Annex1, tin rằng bản đồ này thực sự vẽ đường phân nước trên
thực tế, và vì sự nhầm lẫn này Thái Lan đã vô tình chấp nhận bản đồ Annex 1; thì Thái
Lan cũng tin tưởng và chấp nhận rằng khu vực đền Preah Vihear nằm trong lãnh thổ
Campuchia (theo như bản đồ Annex 1). Và hành động thể hiện của chủ quyền của Thái
Lan tại khu vực đền có thể coi là sự vi phạm chủ quyền một cách hữu ý đối với khu vực
đền Preah Vihear của Campuchia (dựa trên giả định về việc Thái Lan chấp nhận bản đồ
Preah Vihear là do nhầm lẫn). Vì vậy Tòa kết luận rằng Thái Lan không thể viện vào lý
do Thái Lan chấp nhận bản đồ Annex 1 do sự hiểu nhầm này, do có sự mâu thuẫn với lý
lẽ phía Thái Lan đưa ra cho hành động của mình tại khu vực là vì Thái Lan tin rằng mình
sở hữu chủ quyền đối với khu vực này.
Bác bỏ lập luận của Thái Lan về sự nhầm lẫn về trình độ nhân sự của Thái
Lan
Tòa án tuyên bố rằng không chấp nhận những lập luận của Thái Lan về mặt pháp
lý lẫn trên thực tế. Nếu chỉ có những viên chức cấp thấp trong chính quyền Xiêm xem xét
những bản đồ này, thì rõ ràng phía Xiêm đã tự đưa mình vào những rủi ro. Trên thực tế
lịch sử, rõ ràng những bản đồ này đã được xem xét bởi Hoàng tử Devawongse - Bộ
trưởng bộ ngoại giao Xiêm, Hoàng tử Damrong - Bộ trưởng bộ nội vụ Xiêm, thành viên
của chính quyền Xiêm trong Ủy Ban Chung, thành viên của Ủy ban Sao chép, và cũng có
thể giả định rằng số bản đồ này đã được xem xét bởi Tỉnh trưởng KhuKhan (tỉnh nằm
liền kề ở phía Bắc với khu vực đền Preah Vihear). Hoàng tử còn gửi lời cảm ơn đến Dại
sứ Pháp ở Bangkok, và đồng thời yêu cầu gửi thêm 15 bản sao chép cho mỗi một bản đồ.
Không có một ai trong số những người này là viên chức cấp thấp và hầu hết họ đều có
kiến thức về khu vực Preah Vihear và khu vực dãy Dangrek. Trong tài liệu lưu trữ cũng
chỉ rõ ràng rằng Hoàng tử Damrong cũng đặc biệt quan tâm tới công việc phân định biên
giới tại khu vực này, cũng như có một hiểu biết sâu sắc về những công trình khảo cổ học.
Và rõ ràng rằng tỉnh trưởng của tỉnh Khukhan, nơi mà đền Preah Vihear tọa lạc, không
thể không biết tới sự tồn tại của ngôi đền này.
3. Phán quyết của Toà án
Tòa án đã kết lại đường biên giới sẽ được áp dụng theo sự phân định tại bản đồ
Annex I và không cần thiết để xem xét liệu đường ranh giới như bản đồ vẽ có tương ứng
phù hợp với đường lưu vực sông theo quan điểm của Thái Lan hay không. Toà án đã đưa
ra phán quyết như sau:
1. Đền Preah Vihear nằm trên lãnh thổ thuộc chủ quyền của Campuchia và, do
đó, Thái Lan có nghĩa vụ phải rút tất cả các lực lượng quân đội, cảnh sát hay bảo vệ ở
ngôi đền, hoặc trên các khu vực lân cận thuộc lãnh thổ của Campuchia;
2. Thái Lan có nghĩa vụ hoàn trả cho Campuchia mọi tác phẩm điêu khắc, bia
đá, những mảnh còn sót lại của các công trình kiến trúc, các mô hình đá cát và những đồ
gốm cổ đã bị lấy khỏi đền kể từ khi Thái Lan chiếm giữ ngôi đền vào năm 1954.
Liên hệ với Công ước Vienna 1969
Vụ việc này xảy ra trước khi Công ước Vienna năm 1969 về Luật Điều ước được
ký kết và có hiệu lực. Tuy nhiên, viện dẫn về sự nhầm lẫn này của Thái Lan có nội dung
giống Điều 48 Công ước Vienna 1969. Điều 48 có nội dung như sau (trích dẫn khoản 1
và 2 của Điều này)
“Điều 48. Sai lầm
1. Một quốc gia có thể nêu lên một sai lầm trong một điều ước như là một
khiếm khuyết của sự đồng ý của mình chịu sự ràng buộc của một điều ước, nếu sự sai
lầm liên quan đến một sự kiện hay một hoàn cảnh mà quốc gia đó cho là đã tồn tại
vào thời điểm điều ước được ký kết và được xem là một cơ sở chủ yếu của sự đồng ý
của mình chịu sự ràng buộc của điều ước.
2. Khoản 1 sẽ không được áp dụng nếu quốc gia đề cập đã góp phần vào sai
lầm đó bằng thái độ xử sự của mình khi những hoàn cảnh đặc biệt đó đã ở mức độ
làm cho quốc gia đó phải lưu ý về khả năng xảy ra sai lầm.”
Đây là một trong những nguyên tắc về Hiệu lực của điều ước quốc tế. Theo khoản
1 điều 48 Công ước Vienna 1969, một quốc gia có thể từ bỏ sự ràng buộc của điều ước
quốc tế mà nước đó đã ký kết, nếu nước đó chỉ ra một sai lầm trong điều ước. Điều kiện
là: sai lầm đó phải liên quan đến một sự kiện đã tồn tại vào thời điểm ký kết điều ước; và
sai lầm này là cơ sở quan trọng để quốc gia đó đồng ý ràng buộc với điều ước.
Tuy nhiên khoản 2, trong trường hợp ở thời điểm ký kết điều ước, khả năng xảy ra
sai lầm đã rõ ràng và quốc gia đó có thể nhận ra, nhưng quốc gia đó đã không hề đề cập,
hoặc góp phần tạo nên sai lầm, thì khi đó khoản 1 sẽ không được áp dụng.
Xét về trường hợp của Thái Lan, năm 1904, đường biên giới giữa Thái Lan và
Campuchia được xác định bằng một Hiệp ước, mà theo đó, ranh giới là đường nước chảy
và bản đồ chi tiết sẽ được tiến hành vẽ bởi một Uỷ ban chung. Khi bản đồ ra đời, đền
Preah Vihear nằm ở lãnh thổ Campuchia. Thái Lan đã lập luận rằng bản đồ đã không tuân
theo sự xác lập đã nêu ở Hiệp ước, tức là ranh giới không phải là đường nước chảy.
Toà án đã bác bỏ lập luận của Thái Lan và cho rằng: sự viện dẫn sai lầm không
được chấp thuận để chấm dứt hiệu lực của một điều ước, nếu quốc gia góp phần vào sai
lầm đó bằng thái độ xử sự của mình, hoặc có thể tránh được sai lầm đó. Trên thực tế, vào
thời điểm Uỷ ban chung làm việc, Thái Lan không có đủ chuyên gia, và đã yêu cầu phía
Pháp cử chuyên gia vẽ bản đồ. Sau khi bản đồ được thông qua năm 1907, Thái Lan cũng
không hề có sự phản đối. Vì thế, viện dẫn sai lầm này không được Toà chấp thuận.
Có thể nói, Điều 48 là sự pháp điển hóa các tập quán quốc tế về điều ước từ vụ
việc tranh chấp giữa Thái Lan và Campuchia tại khu vực đền Preah Vihear. Sự biện hộ
của Thái Lan về những nhầm lẫn của mình không được Tòa chấp nhận, do sự nhầm lẫn
đó xuất phát từ chính quốc gia này.
III – Kết luận
Tóm lại, lập luận chính của Thái Lan trong bản phản đối sơ bộ gửi lên Tòa án
công lý quốc tế là dựa vào điều ước đã kí kết với Pháp năm 1904, theo đó đường biên
giới phải được vẽ bởi một Ủy ban chung Pháp – Xiêm. Tuy đường biên giới này về sau
chỉ được vẽ bởi người Pháp, nhưng chính chính quyền Xiêm lúc đó cũng không có động
thái nào phản đối, thậm chí còn thừa nhận sự tồn tại của tấm bản đồ Annex I này trong
một khoảng thời gian dài. Việc Thái Lan đến năm 1962 lại biện hộ cho sự nhầm lẫn điều
ước thực chất là rất vô lí và không thể chấp nhận được. Vì vậy, kết quả là tòa đã bác bản
phản đối sơ bộ của bên Thái Lan, và ra phán quyết đền Preah Vihear thuộc về
Campuchia.
Phán quyết của Tòa án công lí quốc tế năm 1962 đã phân xử ngôi đền Preah
Vihear thuộc về phía Campuchia. Cho đến nay, biên giới trên bộ giữa hai nước
Campuchia và Thái Lan chưa được phân giới rõ ràng. Quyết định của toà án quốc tế
trong việc trao ngôi đền Preah Vihear cho Campuchia năm 1962 đã được đưa ra trên có
sở không có sự nhất trí của các bên. Phán quyết này phần lớn dựa vào việc Thái Lan
không phản đối đường biên giới do Pháp vẽ nên trước đó nhiều thập kỷ. Tại thời điểm
đường biên giới đó được vẽ nên, cách đây 100 năm, Thái Lan không có những chuyên
gia vẽ bản đồ của riêng mình. Thêm vào đó, do cửa vào ngôi đền nằm trên lãnh thổ Thái
Lan nên Thái Lan vẫn tiếp tục tranh giành với Thái Lan.
Vụ việc tranh chấp biên giới khu vực đền Preah Vihear giữa hai quốc gia Thái Lan
và Campuchia hiện nay đang trong quá trình leo thang căng thẳng, khiến các nước láng
giềng và cộng đồng quốc tế hết sức quan ngại. Hội đồng bảo an Liên Hiệp quốc và
ASEAN đã phải can thiệp giải quyết vụ việc.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- final_thao_luan_preah_vihear_nhom_1_6471.pdf