Chính phủ Xiêm và sau này là chính phủ Thái Lan đã không đề cập
đến những thắc mắc về bản đồ phụ lục I đến cuộc hội đàm của họ với
Cambuchia ở Bangkok nữa. Nhưng vào năm 1934-1935 tại một cuộc khảo
sát đã tạo ra 1 sự bất đồng về đường phân giới và những bản đồ được đưa ra
để chỉ rằng ngôi đền cổ này thuộc địa phận của người Thái. Tuy nhiên,
người Thái vẫn tiếp tục và ban bố những tấm bản đồ chỉ ra rằng Preah
Vihear nằm trên địa phận của người Cambuchia. Hơn nữa, trong tiến trình
của những cuộc đàm phán năm 1925 và 1937 trong những hiệp định giữa
Pháp và Xiêm đều đã xác nhận sự tồn tại của đường biên giới và đến năm
1947 tại Washington trước Ủy ban hòa giải người Pháp tại Xiêm, cho phép
Thái Lan được bày tỏ vấn đề của mình một cách tự nhiên, nhưng họ đã
không làm như vậy. Và điều đó dẫn đến một sự kết luận đương nhiên là Thái
Lan đã chấp nhận đường biên giới ở Preah Vihear khi nó được vẽ trên bàn
đồ, bất luận có sự phù hợp với đường lưu vực sông.
17 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2948 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vụ Đền Preah Vihear (Temple of Preah Vihear ,Campodia & Thailand ), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài tập thuyết trình
Vụ Đền Preah Vihear
(Temple of Preah Vihear ,Campodia & Thailand )
Nhóm thực hiện :
Nguyễn Minh Thịnh C33
Đoàn Lê Phương Thúy D33
Trần Tuyết Nhung D33
Đỗ Duy Tuấn C33
2
I. Nội dung vụ việc
1) Lịch sử Đền Preah Vihear
- Ngôi đền toạ lạc trên một chỏm núi thuộc dãy Dangrek ở Campuchia gần biên
giới Thái Lan. Ngôi đền này được lấy làm tên cho tỉnh Preah Vihear nơi nó toạ
lạc.
- Được xây dựng thời hoàng kim của đế chế Angkor trải dài suốt 6 thế kỉ từ
khoảng (802 -> 1431). Ngôi đền Preah Vihear được khởi công xây dựng vào
thế kỉ IX và hoàn thành vào thế kỉ XI thờ thần Shiva của đạo Hindusm.
- Khi đế chế Angkor lụi tàn vào đầu thế kỉ XV, cũng như nhiều ngôi đền
Hinduism khác trong khu vực, Preah Vihear trở thành nơi thờ phụng viếng
thăm của các sư sãi và tín độ đạo Phật vốn được phổ biến rộng rãi cả ở Lào,
Campuchia và Thái Lan.
- Cùng với Angkor Wat, Preah Vihear là biểu tượng của niềm tự hào dân tộc
Campuchia.
- Sau sự sụp đổ của đế chế Angkor, đền Preah Vihear luân phiên thuộc sự cai
quản của người Thái Lan hoặc Campuchia cho tới tận thế kỉ XVIII.
2) Tranh chấp Đền Preah Vihear giữa Thái Lan và Campuchia
-Năm 1904, Vương quốc Xiêm (tên gọi chính thức của Thái Lan trước năm
1949) và thực dân Pháp thành lập một ủy ban chung thực hiện công việc phân
định ranh giới.
-Năm 1907, sau khi điều tra nghiên cứu, người Pháp đã đưa ra bản đồ,
trong đó thể hiện vị trí chính xác khu vực đền Preah Vihear và vùng lân cận.
Căn cứ theo tấm bản đồ này, Preah Vihear nằm bên Campuchia.
- 1941, người Thái đã giành lại quyền kiểm soát với Preah Vihear sau một cuộc
đấu tranh với người Pháp, khi đó đang suy kiệt bởi cuộc chiến tranh thế giới 2
ở Chính quốc.
- 1949 một nhóm nhỏ người Xiêm được gửi bởi những nhà cầm quyền địa
phương tới chiếm giữ ngôi đền với mục đích bảo vệ ngôi đền.
-1954 Thái Lan đã vi phạm Hiến chương LHQ khi đưa quân có vũ trang vào
phần lãnh thổ thuộc chủ quyền của Campuchia.Campuchia đã kìm chế việc đáp
trả bằng vũ trang đối với việc vi phạm nghiêm trọng sự toàn vẹn lãnh thổ của
mình.Tuy nhiên những nỗ lực ngoại giao của Campuchia đối với Thái Lan đã
không phát huy tác dụng. Để bảo đảm những quyền của nó và để buộc Thái
3
Lan phải thực hiện nghĩa vụ Quốc tế của mình,Campuchia buộc phải đưa vấn
đề ra trước ICJ.
II) Tranh cãi của các bên
A) Campuchia
- Những quyền của Campuchia được thiết lập trên 3 điểm sau:
+ Theo những điều ước phân chia lãnh thổ giữa Campuchia và Thái Lan,chủ
quyền trên phần lãnh thổ nơi có đến Preah Vihear ở dãy Dangrek 102◦20 Kinh
độ Đông và 14◦25 Vĩ độ Bắc thuộc về Campuchia.
+ Campuchia chưa bao giờ từ bỏ chủ quyền của nó trên phần đất có đền Preah
Vihear, và đã luôn tiếp tục thi hành quyền làm chủ của khu vực đó một cách có
hiệu quả.
+ Thái Lan đã không có một hành động nào thể hiện chủ quyền tự nhiên của
mình trên vùng đất có đền Preah Vihear để thay thế chủ quyền được thiết lập
bởi những điều ước của Campuchia,chủ quyền đó đã được thực thi một cách có
hiệu quả.
1) Tư cách của Campuchia đối với chủ quyền như được thiết lập bởi
các điều ước
- Từ 1863 đến 1953-1954,Campuchia dưới sự bảo hộ của Pháp.Pháp đại
diện cho Campuchia trong những mối quan hệ quốc tế phù hợp với nguyên tắc
của chế độ bảo hộ,bao gồm những điều ước và văn bản quốc tế phân chia biên
giới giữa Campuchia và Thái Lan.
- Điều ước 13/2/1904 là cơ sở cho việc giải quyết tranh chấp hiện tại.
Article 1.
“The frontier between Siam and Cambodia
starts on the left shore of the Great Lake, from the rnouth of
the river Stung Roluos; it follows the parallel from that point
eastwards until it meets the river Prek Kompong Tiam; then,
turning northwards, it lies dong the meridian from that meeting-
point to the mountain chain of the Phnom Dartgrek.
From there it follows the watershed between the basin of the
Nant Sen and the Mekong, on the one hand, and the Nant
Moun, on the other hand, and rejoins the Phnom Padang chain
the crest of which it follows eastwards to the Mekong. Upstream
from this point, the Mekong remains the frontier of the Kingdom
of Siam, in accordance with Article I of the Sreaty of
3 October 1893."
4
Điều 3 của Điều ước quy định rằng việc phân chia những đường biên giới sẽ
được thực hiện bởi ủy ban gồm người của các bên tranh chấp (Mixed
Commissions) ,nhân viên được chỉ định vởi các bên tranh chấp.
- Công việc phân định ranh giới được tiếp tục tiến hành từ 1904 đến
1907.Liên quan đến việc phân định ranh giới ở dãy Dangrek nơi có đền Preah
Vihear, đường biên giới cuối cùng được thông qua bởi ủy ban phân định ranh
giới trong suốt 1907. Đền Preah Vihear nằm ở phía Bắc của đường biên giới ở
102◦20 Kinh độ Đông và 14◦25 Vĩ độ Bắc.
- Đường biên giới này được tán thành chính thức bởi nghị định thư đính
kèm theo điều ước 23/3/1907 giữa Pháp và Xiêm.Phần lời nói đầu của nghị
định thư : “for the purpose of avoiding every possibility of difficulty in the
delimitation”. Trong phần I, nó miêu tả đường biên giới trong khu vực dãy
Dangrek như sau:
“From the point in the Dang Rek above mentioned the frontier follows
the watershed between the basin of the Great Lake and the Mekong on one side
and the basin of the Nam Mount on the other till it reaches the Mekong below
Pakmoun,at the mouth of the Huei Doue,in conformity with the line agreed to
by the preceding Commission of delimitation on 18/01/1907 .”
- Từ thời gian đó ngoại trừ khoảng thời gian của sự chiếm giữ ĐNÁ bởi
Nhật Bản ,trong suốt thế chiến II , đường biên giới giữa Campuchia và Thái
Lan không có sự thay đổi nào.
- Hiệp định Thương mại,Hữu nghị và Hàng Hải 14/2/1925 ở Bangkok.
Điều 2 qui định : “Các bên tranh chấp xác nhận và bảo đảm tôn trọng đường
biên giới giữa lãnh thổ các bên đã được thiết lập bởi những điều ước trước
đó..”
- Tương tự Hiệp định Thương mại,Hữu nghị và Hàng hải 7/12/1937 giữa
Pháp và Xiêm xác nhận định nghĩa và sự phân định biên giới từ những điều
ước trước đó.
Article 22 :
"The present Treaty shall, as from the date of its entry into
force, replace the Treaty of Friendship, Commerce and Navigation
concluded at Bangkok on rq February 1925. It shall
also annul, as from the same date, the other treaties, conventions
and agreements conclucled between Siam and France,
with the exception, however, of the clauses relating to the
definition and de1imitation.t of the frontiers, the guarantee in
respect thereof, and the demilitaration of the Mekong frontier
(contained in the Treaty of 3 October 1893, the Convention of
13 February 1904, the Treaty of 23 March 1907 and the Protocol
annexed thereto, and the Treaty of 14 February 1925) and
5
also the Convention relating to Indo-China, signed at Bangkok
on 25 August 1926, and the agreements provided for therein.
It is further agreed that the present Treaty shall, as from the date
of its entry into force, replace the Treaty of 14 February 1925, in
regard to the relations between Siam and In do-China in so far as
the provisions thereof are not incompatible with those Of the Convention
in question and of the Agreements provided for therein .'
- Trong suốt thế chiến II, lãnh thổ Indo-China bao gồm Cambodia bị
chiếm giữ bởi Nhật Bản.Xung đột vũ trang xuất hiện ở biên giới Pháp Indo-
China và Thái Lan được hòa giải bởi chính quyền Nhật như lời nói đầu của
“Peace Convention” giữa Pháp và Thái Lan ký ở Tokyo 9/5/1941. Điều 10 nói
rằng bất kỳ tranh chấp nào liên quan đến việc dịch hay ứng dụng những điều
khoản của điều ước mà có thể giải quyết tranh chấp bằng phương tiện ngoại
giao sẽ được đệ trình lên ban hòa giải của chính phủ Nhật.
- Điều ước này áp đặt một đường biên giới mới đối với Campuchia mặc
dù sự sáp nhập nhiều tỉnh mà dân số,ngôn ngữ văn hóa tín ngưỡng của người
Campuchia. Đường biên giới mới được thiết lập ở phía Nam của dãy Dangrek
,theo đó vị trí nơi có đền Preah Vihear thuộc lãnh thổ Thái Lan. Điều đó được
chính thức công nhận bởi Thái Lan.
- Sự sáp nhập này bị áp đặt bởi vũ trang, đã không bao giờ được chính phủ
Pháp công nhận,nằm trong những nhiệm vụ của LHQ chống lại phát xít.Do
đó,sau khi Nhật đầu hàng vô điều kiện, một điều ước hòa giải giữa Pháp và
Xiêm được ký ở Washington 17/11/1946 đã thiết lập lại hiện trạng trước khi có
sự hòa giải của Nhật.Nó đã bãi bỏ Điều ước 1941. Điều 3 của Điều
ước17/11/1946 đưa ra sự thiết lập một Ủy ban hòa giải bao gồm đại diện của
các bên và của 3 thành viên trung lập,phù hợp với General Act of Geneva
26/9/1928.Theo điều 3 : “Ủy ban sẽ có nhiệm vụ kiểm tra những tranh cãi về
dân tộc, địa lý,kinh tế của các bên thiên về việc xem lại những xác nhận của
các điều khoản của Điều ước 13/2/1904 và Điều ước 23/3/1907 được duy trì
hiệu lực theo điều 22 của Điều ước 7/12/1937”
- Việc bắt đầu của ủy ban tùy thuộc vào việc chuyển lãnh thổ liên quan
đến đoạn 2 điều I của Settlement Agreement 1946.Công việc đã có thể bắt đầu
ngày 5/5/1947.Báo cáo của ủy ban hòa giải đặc biệt bao gồm những lời nhận
xét đã được thông qua ở Washington 27/6/1947.Các thành viên trung
gian(Mỹ,Anh,và Peru) và Pháp,Thái Lan đã không bày tỏ bất cứ một quan
điểm bất đồng nào.
Theo những kết luận của bản báo cáo đã được nhất trí này, ủy ban đã không
ủng hộ bất cứ một đòi hỏi nào về lãnh thổ của Thái Lan.Những kết luận này
bao gồm cả đường biên giới ở Dãy Dangrek và phần lãnh thổ nơi có Preah
6
Vihear.Thêm vào đó bản báo cáo còn ghi nhận sự thỏa thuận của Chính phủ
Pháp và Xiêm về đường biên giới là hợp pháp.
“The Commission has noted furthermore that the Agents for the two
Government agreed that the legal status of the boundary between Siam and
Indo-China rests on Article I of Franco-Siamese Agreement of Settlement of
November 17,1946.”
- Đáng chú ý là Thái Lan đã không đưa ra vấn đề về đường biên giới ở
Dãy Dangrek và của Đền Preah Vihear trước Ủy ban Hòa giải Đặc biệt. Yêu
cầu của Xiêm 12/5/1947 đã được trình tới Ủy ban,tuyên bố những đề nghị của
Xiêm như sau:
“The proposals for frontier revision are therefore for the Treaty of 1893,the
restoration of Siamese claims to the left bank of Mekong: for the Convention of
1904,the retrocession of the Provinces of Lan Chang and Champasak north of
the River Se Lam Pao and: for the Treaty of 1907,the restoration of the
Province of Battambang.”
Đủ cho thấy rằng phần bản đồ Thái Lan muốn thêm vào trong yêu cầu này
cho thấy những đề nghị đó không ảnh hưởng tới vị trí của phần lãnh thổ có
Đền Preah Vihear.
- Hơn nữa,bản đồ được thêm vào theo yêu cầu của Xiêm đệ trình ngày
12/5/1947 lên Ủy ban chỉ ra một cách rõ ràng Preah Vihear ở bên phía đường
biên giới Campuchia,không phải ở bên phía biên giới Thái Lan.
- Sự trình bày trên,theo những điều ước,thỏa thuận, những biên bản liên
quan đến việc phân định biên giới,và theo những bản đồ được vẽ bởi thỏa
thuận chung hay bởi bộ phận vẽ bản đồ của một trong các bên được chấp nhận
bởi bên kia,chủ quyền của phần lãnh thổ nơi có Đền Preah Vihear thuộc về
Campuchia.
2) Campuchia thi hành có hiệu quả năng lực lãnh thổ(territorial
powers)
- Từ Điều ước 1904,Pháp đại diện cho Campuchia trong khoảng nửa thế
kỷ đã thi hành không gián đoạn những năng lực lãnh thổ trên vùng đất có Đền .
- Những nhà cầm quyền đến thăm Đền Preah Vihear thường xuyên trong
những chuyến đi của họ.Những nhà quản lý của tỉnh nơi có Đền sắp xếp những
chuyến thăm Đền những nhân vật quan trọng của Pháp và các văn phòng nước
ngoài.1/1930,Công sứ Pháp ở tỉnh Kompong Thom cùng với người đứng đầu
của bộ phận vẽ bản đồ kiêm quản lý những di tích lịch sử Campuchia, ông
Parmentier đã tiếp đón hoàng tử Damrong -một thành viên của hoàng gia
Xiêm ,người mà sau nay là Bộ trưởng.Hoàng tử đã chụp ảnh sau đó gửi tặng
những người tiếp đón mình. Điều đó chỉ ra rằng Preah Vihear ở bên trong lãnh
thổ Campuchia.
7
- Ngay từ 1907, Đền Preah Vihear được đề cập trong số những di tích lịch
sử của Campuchia bởi những đại diện của ban bảo tồn và khảo cổ học.
- Từ 1907,di tích Đền Preah Vihear được đặt dưới thẩm quyền của ban
công cộng thuộc ngành Khảo cổ học của Campuchia.
- Bản đồ Indo-China được vẽ bởi ngành địa lý đã luôn chỉ ra phần lãnh thổ
nơi có Đền Preah Vihear là một phần thuộc lãnh thổ Campuchia.
Những sự thật được viện dẫn đã chứng tỏ rằng Campuchia không bao giờ
mất chủ quyền khẳng định quyền của nó trên phần đất có Đền Preah
Vihear.Hơn nữa,Campuchia chưa bao giờ chấp nhận bất cứ hành động nào
được cho là thực thi chủ quyền của Thái Lan.
3) Thái Lan đã không có một hành động nào thể hiện chủ quyền tự
nhiên của mình trên vùng đất có đền Preah Vihear để thay thế chủ quyền
được thiết lập bởi những điều ước của Campuchia.
- Những tình trạng về mặt pháp lý và thực tế được miêu tả ở trên đã được
chấp thuận bởi Thái Lan mà không có bất cứ một sự tranh cãi hay bảo lưu nào
cho tới năm 1949.
- Về mặt pháp lý,nó đã được chấp nhận và xác nhận bởi các điều ước
1907,1925,1937,1946.Nó đã được xác nhận bởi chính phủ Thái Lan trước Ủy
ban Hòa giải ở Washington.
- Hơn nữa,có một bản đồ của Xiêm trong tỉ lệ I:200000 được vẽ bởi Cơ
quan vẽ bản đồ của Xiêm.Tờ số 44 của bản đồ này liên quan đến đường biên
giới của dãy Dangrek chỉ rõ rằng phía Đền Preah Vihear nằm bên trong lãnh
thổ Campuchia.
- Cuối cùng trước Ủy ban hòa giải Pháp-Xiêm 1947,chính phủ Thái Lan đã đưa
ra bản đồ Indo-China,theo bản đồ này Đền Preah Vihear nằm bên trong lãnh
thổ Campuchia.
- Giữa 1904-1905 ,chính phủ Thái Lan đã không đưa ra sự phản đối hay
bất cứ một sự kháng nghị ngoại giao nào về chủ quyền của Campuchia trên
vùng Đền Preah Vihear.Trái lại chính phủ Thái Lan đã công nhận chủ quyền
của Campuchia khi Hoàng tử Damrong đến thăm Đền và được các nhà cầm
quyền tiếp đón chính thức ở Đền Preah Vihear.
- 14/1/1954 khi trả lời chất vấn,bộ trưởng Ngoại giao –Hoàng thân
Naradhip tuyên bố rằng ông ta coi độc lập của Campuchia quan trọng hơn là
việc sở hữu nhũng tỉnh đã được trao trả lại cho Campuchia 1946 và Chính phủ
Thái Lan không theo đuổi chính sách mở rộng lãnh thổ. Chính phủ Thái Lan
vẫn công nhận chủ quyền của Campuchia.
- Thực tế ngay từ 1949 Thái Lan đã có những hành động xâm phạm trái
với nghĩa vụ Quốc tế của mình .Những hành động xâm phạm chủ quyền lãnh
8
thổ Campuchia đó của Thái Lan đã gặp phai những kháng cự ngoại giao dứt
khoát.
- Những kháng cự ngoại giao đã được chuyển đến Thái Lan bởi công sứ
Pháp tại Bangkok ngày 9/2/1949 khẳng định Preah Vihear nằm trong lãnh thổ
của người Khmer.
- 1953,Campuchia không còn ở dưới chế độ bảo hộ của Pháp.Từ thời gian
đó,công sứ Campuchia ở Thái Lan trở thành người kế nhiệm của Đại sứ quán
Pháp ở Thái Lan.22/1/1954,nó đã kháng cự lại thực tế những người bảo vệ
Campuchia buộc phải rút quân theo lệnh của những người đại diện của chính
quyền Thái.(Chính quyền Campuchia đã quyết định bảo vệ Đền bởi quân đội
Campuchia) Nhưng chính phủ Thái đã hành động trước Campuchia đã đưa lính
tới chiếm giữ đền.
- Việc hòa giải đã được tìm kiếm bằng phương pháp ngoại giao.Các cuộc
đàm phán Khmer-Thái được tiến hành ở Bangkok từ 18/83/9/1958.Những
cuộc đàm phán này không thành công.
- Những thực tế được đề cập ở trên đã chỉ ra rằng Thái đã luôn công nhận
chủ quyền của Campuchia đối với Đền Preah Vihear và Thái đã nỗ lực lấy đi
chủ quyền đó bằng việc thực hiện những hành động chiếm giữ từ 1949.Nhưng
những hành động này đã không thể tạo ra một quyền mới.Thực
tế,Campuchia(trước đó là nước bảo hộ-Pháp) chấp nhận chúng.Nó đã kháng cự
thông qua kênh ngoại giao.Hơn nữa,những hành động này của Thái Lan đã vi
phạm Điều 2 , đoạn 4 của Hiến chương LHQ:
- “All Members shall refrain in their international relations from the threat
or use of force against the territorial …of any State.”
Campuchia đưa đơn lên ICJ yêu cầu Tòa phân xử và tuyên bố:
a) Vương quốc Thái Lan có nghĩa vụ rút quân chiếm đóng ở khu vực đền
Preah Vihear từ năm 1954.
b) Chủ quyền lãnh thổ của đền Preah Vihear thuộc về Cambuchia.
B) Thái Lan
Campuchia đưa ra 3 luận điểm:
Thứ nhất, điều ước ngày 13/2/1904 là cơ sở cho việc phân định biên giới giữa
Thái Lan và Campuchia trong vùng đất có đền PreahVihear. Thái Lan đồng ý
rằng Điều ước là cơ bản. Nó khẳng xác định biên giới vùng đền như đường
phân nước ở núi Dangrek. Hiệu quả thực sự của Điều ước là chứng minh Đền
PreahVihear nằm ở biên giới phía Thái Lan.
Thứ hai, Campuchia cho rằng họ chưa bao giờ bỏ trống chủ quyền tại vùng
lãnh thổ tranh chấp và chứng minh rằng họ đã xác định năng lực lãnh thổ một
cách hiệu quả.
9
Thứ ba, Campuchia tuyên bố rằng, Thái Lan đã không thi hành bất cứ hoạt
động nào khẳng định chủ quyền để thay thế chủ quyền của Campuchia.
Để chống lại luận điểm thứ ba, Chính phủ Thái Lan sẽ chỉ ra rằng trong thực tế,
Thái Lan đã thi hành các hoạt động chủ quyền đa dạng tại đền PreahVihear
trong nhiều năm. Tuy nhiên, chỉ cần Thái Lan chứng minh cho luận điểm đầu
tiên của mình là đúng, thì luận điểm thứ hai và thứ ba của Campuchia sẽ phải
thay đổi.
1)Bác bỏ luận điểm đầu tiên của Campuchia
Về luận điểm đầu tiên, Campuchia cho rằng chủ quyền của mình tại vùng đất
tranh chấp dựa trên cơ sở của Điều ước, nhưng Thái Lan cho rằng Điều ước có
sự nhầm lẫn về việc xác định biên giới của vùng Dangrek. Điều muốn nhấn
mạnh ở đây là đã có một Hội đồng thẩm định chung được thành lập để vẽ một
bản đồ trong đó xác định đường biên giới giữa hai nước. Đường biên giới này
sẽ được xác định trong Điều ước. Công việc tìm hiểu, khảo sát và vẽ bản đồ
được giao cho 2 chuyên gia người Pháp là Keler và Oum. Công việc của Thái
Lan là chứng minh bằng nghiên cứu kỹ lưỡng về bản đồ và các văn bản của
Hội đồng để chỉ ra rằng bản đồ với đường biên giới được xác định trên đó và
sau đó là trong Điều ước đã không được vẽ bởi hai chuyên gia người Pháp và
không được trình ra cho Hội đồng thẩm duyệt. Nó do đó không thể là cơ sở
vững chắc và thuyết phục để xác định điều khoản trong Điều ước.
Dựa trên sự kiểm tra chi tiết về các điều khoản trong Điều ước và tiến trình của
Hội đồng điều tra đối với Điều ước 1904 và 1907, rõ ràng là đường biên giới
xác định trong Điều ước 1904 và đường biên giới xác định trong “Phụ lục I” là
không trùng nhau và không được chấp thuận bởi Hội đồng. Công việc thực tế
được tiến hành bởi Hội đồng thẩm định hay những hạn chế trong hiệp định chỉ
ra rằng quá trình điều tra chỉ là sự lần theo dấu vết cùng thời. Biên giới giữa
Thái Lan và Campuchia trong vùng tranh cãi được xác định trong Hiệp ước
1904 như là đường phân nước và không bao giờ thay đổi. Tại vùng này, đường
phân nước rõ ràng là mép vách đá bao quanh mũi đất nơi đền Preah Vihear tọa
lạc, và do đó, đền này nằm trong lãnh thổ Thái Lan.
1.1“Phụ lục I” không được vẽ bởi hai chuyên gia Keler và Oum
Thực tế chỉ ra rằng, không có tấm bản đồ nào của bất cứ khu vực nào trong
vùng Dangrek( những khu vực được vẽ trong “phụ lục I”) đã được hoàn thành
bởi chuyên gia Oum hay Keler vào tháng 3/1907. Trong cuộc chuyển nhượng
ngày 27/3/1907, Bộ trưởng Pháp tại BăngKôk đã khẳng định rằng không có
tấm bản đồ nào được vẽ cho hội đồng đã được hoàn thành. Hơn nữa, chuyên
gia Oum khảo sát vùng Dangrek từ khu vực Tonle Repou đến đèo Kel, cho nên
vì thế mà phần khảo sát của chuyên gia Keler phải là vùng ranh giới dẫn đến
10
đèo Kel từ phía Nam. Tấm bản đồ chỉ ra rằng vùng này đơn giản hơn nhiều cho
việc khảo sát hơn là vùng của Oum. Keler có trợ lý là Liêutenant Dessemond,
người được đề nghị phải hoàn thành tấm bản đồ và mang đến Korat vào
15/2/1907. Trên thực tế, nó vẫn chưa được hoàn thành vào thời gian đó. Điều
này chỉ ra rằng chuyên gia Oum, người phải khảo sát một vùng khó khăn hơn
sẽ phải làm thế nào để hoàn thành tấm bản đồ vào tháng 3. Rõ ràng đó là điều
không thể.
Đối với tấm bản đồ được sử dụng trong Điều ước, phần chú giải ở cuối bản đồ
bao gồm cả những ký hiệu về những con đường chưa được tìm ra và những con
sông chưa được khảo sát. Phần tham khảo của tấm bản đồ cũng chỉ ra rằng vài
con đường được đánh dấu như là việc các chuyên gia vẫn chưa tìm ra được
chúng. Tương tự, các dòng sông cũng chưa được tìm đến. Như thế thì rõ ràng
là tấm bản đồ không được vẽ đúng các vị trí. Nó được vẽ bởi một ai đó dựa
trên cơ sở những thông tin mà Keler và Oum đã thu thập được, tuy nhiên lại là
những thông tin được bổ sung từ những nguồn khác, mà có thể là những tấm
bản đồ đã có từ trước. Theo đó, phần định nghĩa được đơn phương dựng lên
bởi định nghĩa trong Hiệp ước. Tất cả những gì có thể nói về những tấm bản đồ
của Keler và Oum là đôi lúc họ đã đến Paris và một số người ở đây dùng
những tấm bản đồ của họ như nền tảng của “phụ lục I”
1.2“Phụ lục I” chưa bao giờ được trình ra trước Hội đồng.
Cuộc họp cuối cùng của Hội đồng thẩm định sau Hiệp ước 1904 được tổ chức
ở Pak Moun vào 19/1/1907. Khoản 8 của Điều ước nói về một số vấn đề
nhường quyền sở hữu một số vùng đất giữa Pháp và Xiêm. Khi hội đồng chung
thành lập sau 1904 quay trở lại BăngKôk vào đầu năm 1907, những thỏa thuận
này đang được đàm phán. Hội đồng vẫn thảo luận những vấn đề về việc tìm ra
biên giới giữa Great Lake và vùng Dangrek. Nhưng trong lúc đó, theo như bản
thông điệp gửi đi ngày 27/3/1907 từ phía Bộ trưởng Pháp tại Băngkôk đến Bộ
trưởng Ngoại giao tại Paris thì khi Hội đồng đến Băngkôk tấm bản đồ do 2
chuyên gia Pháp vẫn chưa được hình thành, và Hội nghị của Hội đồng bị trì
hoãn. Sau Hiệp ước 1904, không có bất cứ Hội nghị nào nữa được tổ chức.
Ông Col Bernard, chủ tịch Hội đồng Pháp ngay lập tức bắt đầu cuộc đàm phán
cho Hiệp ước mới được ký kết, kết quả là việc mô phỏng lại biên giới cũ giữa
Great Lake và vùng Dangrek, cái biên giới đã được bố trí từ Hiệp ước 1904.
Điều thứ nhất là Hội đồng này đã giải tán vào tháng 3/1907 trong khi “Phụ lục
I” được in và xuất bản vào mùa hè năm 1908 tại Paris.
Thứ hai là ngày xuất bản “Phụ lục I” cũng được xác định bởi một số dẫn chứng
sau:
11
- Chúng ta có Phụ lục số 14, bức thư được gửi bởi Bộ trưởng Xiêm ở Paris
đến Băngkôk với 11 tấm bản đồ, bao gồm cả “Phụ lục I”, tấm này đã chỉ ra
toàn bộ vùng biên giới theo Hiệp ước 1904. Lá thư chỉ rõ Bộ trưởng đã nhận
được tấm bản đồ ở Paris và ngày của nó là 29/8/1908.
- Bản sao của “Phụ lục I” trong phòng bản đồ của Hội đồng Địa lý Hoàng
Gia tại Luân Đôn được đóng dấu tem nhận ngày 7/9/1908.
- Cuối cùng, năm xuất bản bản đồ đã được chỉ ra rõ ràng bởi một mục
trong cuốn Annales de Geographie là năm 1908.
Như thế là không có tấm bản đồ nào về vùng Dangrek được làm ra trước bất cứ
một Hội nghị nào của Hội đồng chung. Chỉ có một lần duy nhất vào 2/2/1906,
Hội đồng đã thảo luận để chuẩn bị làm ra một tấm bản đồ. Các biên bản của tất
cả các cuộc hội nghị của hội đồng tổ chức sau ngày đó đều được kiểm tra. Hội
nghị không thảo luận về biên giới vùng Dangrek, và cũng chẳng có tấm bản đồ
nào.
Như vậy, rõ ràng rằng đã không có một bản đồ chính xác được vẽ ra và do đó
không thể có cơ sở vững chắc cho việc xác định biên giới giữa hai nước trong
Điều ước.
2)Bác bỏ luận điểm thứ 3 của Campuchia
Để chống lại luận điểm của Campuchia về việc Thái Lan không có một bất cứ
hoạt động nào khẳng định chủ quyền của mình tại khu vực đền PreahVihear,
Chính phủ Thái Lan tuyên bố năng lực chủ quyền của mình trên mọi lĩnh vực.
Chính quyền Thái đã thi hành các chức năng quản lý như được dẫn ra sau đây:
2.1) Y tế sức khỏe
- Phục lục số 17. Tuyên thệ của quan chức y tế người đã mô tả hành trình của
cuộc điều tra vì mục đích kiểm tra và chăm sóc sức khỏe dân số giai đoạn 1908
– 1934.
2.2) Thu thuế
- Phụ lục số 17. Quan chức trên cũng mô tả việc tháp tùng một quan chức
ngành thuế của Nam Om ( nơi có đền Preah Vihear)
- Phụ lục số 18. Tuyên thệ của quan chức ngành thuế năm 1924 trong vai trò
phụ tá cho thủ trưởng ngành thuế địa phương trong việc liên hệ nguồn thuế gạo
và ớt của dân địa phương vùng đồi Phra Viharn.
- Phụ lục 19. Tuyên thệ của thủ trưởng thuế huyện Nam Om, miêu tả số lượng
những biến động giữa năm 1921 và 1928.
2.3) Khảo sát và điều tra dân số
- Phụ lục 20. Báo cáo ngày 19/10/1914 bởi quan chức thuế thứ hai được ủy
quyền trong một cuộc điều tra trong cuộc điều tra dân số về nhà ở và dân cư.
12
- Phụ lục 21. Trích báo cáo thường nhật của chính quyền Khukhan liên quan
đến đặc trưng vùng có đền PhraViharn
- Phục lục 22. Báo cáo điều tra năm 1926 liên quan đến các vấn đề Chính trị và
một số vấn đề khác.
- Phụ lục 23. Thư gửi ngày 26/1/1930 từ Ủy viên Hội đồng, ông Phya Prachakit
cung cấp cho Quốc Vương hình ảnh và kế hoạch xây dựng Phra Viharn được
tiến hành và chuẩn bị trong nhiệm kỳ Chủ tịch tỉnh Khukhan của ông ta.
- Phụ lục 24. Biên bản Chính phủ 1936 bởi Luang Siratcharaksa, tỉnh Khukhan,
miêu tả điều kiện Địa phương bao gồm Preah Vihear.
2.4) Tu sửa đường xá
- Phụ lục 25a – 25l. Yêu cầu gửi 5/1940 về việc sửa đường bao gồm đường đến
đền Phra Viharn của dân địa phương tới người lãnh đạo.
- Phụ lục 26. Tuyên thệ của một nhà kinh doanh gỗ trong việc mô tả công việc
săn bắt voi trong rừng vào những năm 1920 trong vùng Phra Viharn.
- Phụ lục 27. Tuyên thệ của một nhân viên lâm nghiệp, liên quan đến việc diều
tra rừng năm 1922.
2.5) An ninh
- Phụ lục 32a. Báo cáo 28/6/1924 từ Lãnh đạo huyện Nam Om đến lãnh đạo
tỉnh Khukhan báo cáo về các hoạt động của công dân Pháp trong 6 ngày ở Phra
Viharn.
- Phụ lục 32b. Báo cáo từ lãnh đạo tỉnh Khukhan đến Ngài Đại úy Hải quân
của Ubon Ratchathani về cùng sự việc.
2.6)Các cuộc viếng thăm của nhân vật quan trọng.
- Phụ lục 37a – 37i. Tài liệu liên quan đến cuộc viếng thăm Phra Viharn năm
1925 Quan chức Ngoại giao.
- Phụ lục 38. Thư gửi lãnh đạo huyện Nam Om của người đứng đầu tỉnh
Khukhan liên quan đến việc Đại Úy Hải quân Phya Thewet Wongwiwat đến
thăm Phra Viharn.
Từ những lập luận trên, Chính phủ Thái Lan đệ trình:
1. Những cáo buộc của Vương quốc Campuchia là không thể duy trì và nên
bị từ chối.
2. Tòa xét xử và tuyên bố đền Phra Viharn nằm trong lãnh thổ Thái Lan.
III, Phán quyết của Tòa Án Tư Pháp quốc tế trong vụ liên quan đến
tranh chấp đền Preah Vihear ngày 15/6/1962
13
Những trình tự trong vụ việc liên quan đến đền PV giữa Cambuchia và
Thái Lan được tiến hành (bắt đầu) vào ngày 6/10/1959 khi Cambuchia đưa
đơn kiện lên tòa án quốc tế; chính phủ Thái Lan đã đưa ra 2 lý do phản đối
sơ bộ, xong dựa vào những phán quyết vào ngày 26/5/1961 tòa án nhận thấy
rằng họ có quyền xét xử trong vụ trên.
Trong lời phán quyết về vấn đề này, tòa án đã tìm ra được rằng đề tài
của sự tranh cãi chính là vấn đề chủ quyền đối với vùng đất của đền Preah
Vihear nằm trên đường biên giới giữa Cambuchia và Thái Lan. Cuộc tranh
cãi về vấn đề đặt đường biên giới đã diễn ra trong thời kỳ những năm 1904-
1908 giữa Pháp và Thái Lan. Vấn đền này thì có liên quan đặc biệt đến việc
áp dụng của hiệp định 13/2/1904. Hiệp định đó đã thiết lập những quy định
chung của việc phân đường ranh giới chính xác đã được định sẵn dựa vào sự
ủy nhiệm của người Xiêm dành cho thuộc địa Pháp ở quốc gia này.
Phía đông của dãy Dangrek nơi mà đền Preah Vihear tọa lạc nằm ngay
trên đường biên giới theo lưu vực sông (dốc có nước chảy) Để phục vụ cho
mục đích của việc phân định ranh giới, có sự chấp thuận một buổi hội nghị
vào ngày 2/12/1906 Ủy ban hỗn hợp ( Mixed Commission) đã tham quan
dọc theo dãy núi Dangrek thực thi những thăm dò cần thiết và đó chính là
bản khảo sát của những nhà chức trách Pháp trong Ủy ban đã xem xét
nghiên cứu kỹ toàn bộ khu vực phần gian đền chính trên dãy núi này.
1, Tòa lập luận về tính hợp pháp của đường phân định.
- Lập luận của Thái Lan: cho rằng bản đồ không được vẽ bởi những thành
viên của Mixed Commission, không có bất kỳ một điểm trói buộc nào ở đây
( tức là họ cho rằng bản vẽ không hợp lệ) và đường ranh giới chuẩn của việc
phận định nay là ngôi đền phải thuộc địa phận nước họ, và rằng bản đồ này
chưa bao giờ được người Thái chấp nhận, như một sự lựa chọn, rằng người
Thái Lan đã chấp nhận đường ranh giới kia lúc trước chỉ bởi vì họ đã sai lầm
khi tin tưởng rằng đường biên giới đó đã chỉ ra là phù hợp tương ứng với
đường lưu vực sông( watershed line).
- Lập luận của tòa: Không thể tranh cãi được nữa bởi tổng thống Pháp và
vua của vương quốc Xiêm đã có sự chia cắt phân định đúng đắn trong quá
trình đo đạt họ đã thăm dò kỹ địa thế của đền Preah Vihear. Vào tháng 1 và
2 năm 1907. sự phân chia của tổng thống Pháp( của những nhà đo đạt Pháp)
đã được báo cáo lên Vương quốc Xiêm rằng đường biên giới đã được thiết
lập. Bởi vậy mà dường như nó rất rõ ràng rằng đây là đường phân định biên
giới đ ã được xem xét và ấn định mặc dù không có bản ghi lại của sự quyết
định này và cũng không có sự thăm dò ý kiến về vùng đất Dangrek trong
14
những buổi họp của ủy ban sau ngày 2/12/1906. Hơn nữa, tại thời điểm lúc
bấy giờ khi mà ủy ban có cuộc gặp vì mục đích tập trung vào công việc của
nó, sự quan tâm được hướng vào chủ yếu là kết quả cuối cùng của Hiệp định
biên giới 23/3/1907.
Bước cuối cùng của sự phân định là việc chuẩn bị vẽ lên bản đồ. Vương
quốc Xiêm đã không có phương tiện kỹ thuật đầy đủ và đã yêu cầu những
nhà đo đạt của Pháp vẽ bản đồ phân định phân định vùng biên giới. Bản đồ
đã được hoàn thành vào mùa Thu năm 1907 bởi những nhà chức trách đo đạt
của Pháp và một vài người trong số họ là thành viên của ủy ban hỗn tạp
(Mixed Commission), và họ đã có sự thông qua từ chính phủ vương quốc
Xiêm năm 1908. Họ đã vẽ bản đồ phân định của dãy núi Dangrek chỉ ra rằng
ngôi đền Preah Vihear nằm trên địa phận của người Camphuchia. Trong bản
đồ (phụ lục 1 của bản báo cáo phân chia ranh giới) thì Cambuchia có chủ
quyền đối với ngôi đền này.
2, Tòa bác bỏ sự biện bộ cho những sai sót và tự mình làm vô hiệu lực
thực tế phân định mà họ chấp nhận từ trước đó.
- Lập luận của Thái Lan: họ cho rằng phụ lục 1 chưa bao giờ nhận được sự
chấp thuận chính thức từ phía ủy ban hỗn tạp (Mixed Commission), ủy ban
này đã ngừng chức năng một vài tháng trước khi đưa ra nhận định của mình.
- Lập luận của Tòa: Trong khi không có sự nghi ngờ hợp lý nào về công
việc khảo sát chung của những nhà chức trách tại khu vực dãy Dangrek, tuy
nhiên tòa án đã kết luận rằng việc vẽ bản đồ là do Thái yêu cầu Pháp thực
hiện. Biên bản ghi nhận từ phụ lục I đã được thông qua bởi chính phủ Xiêm
như ngụ ý để đại diện cho kết quả của sự phân định, từ khi đó, không có bất
kỳ một phản ứng nào từ phía những quan chức của Xiêm, ngày sau đó hoặc
những năm sau, điều đó thể hiện sự chấp thuận, sự ngầm bằng lòng. Hơn
nữa bản đồ đã được thông qua bởi những thành viên Xiêm thuộc Ủy ban hỗn
tạp, những người mà không có ý kiến gì phản bác và bộ trưởng bộ nội vụ
Xiêm đã cảm ơn tổng thống Pháp ở Bangkok về việc phân định bản đồ và
những người thống trị cấp tỉnh của Xiêm, một vài người trong họ đã biệt về
sự phân định đền Preah Vihear. Nếu như trước đó những nhà chức trách
Xiêm chấp nhận bản đồ phụ lục I mà không cần phải kiểm tra lại thì bây giờ
họ không thể biện hộ cho những sai sót và tự mình làm vô hiệu lực cái thực
tế phân định mà họ đã chấp nhận trước đó.
Chính phủ Xiêm và sau này là chính phủ Thái Lan đã không đề cập
đến những thắc mắc về bản đồ phụ lục I đến cuộc hội đàm của họ với
Cambuchia ở Bangkok nữa. Nhưng vào năm 1934-1935 tại một cuộc khảo
sát đã tạo ra 1 sự bất đồng về đường phân giới và những bản đồ được đưa ra
để chỉ rằng ngôi đền cổ này thuộc địa phận của người Thái. Tuy nhiên,
15
người Thái vẫn tiếp tục và ban bố những tấm bản đồ chỉ ra rằng Preah
Vihear nằm trên địa phận của người Cambuchia. Hơn nữa, trong tiến trình
của những cuộc đàm phán năm 1925 và 1937 trong những hiệp định giữa
Pháp và Xiêm đều đã xác nhận sự tồn tại của đường biên giới và đến năm
1947 tại Washington trước Ủy ban hòa giải người Pháp tại Xiêm, cho phép
Thái Lan được bày tỏ vấn đề của mình một cách tự nhiên, nhưng họ đã
không làm như vậy. Và điều đó dẫn đến một sự kết luận đương nhiên là Thái
Lan đã chấp nhận đường biên giới ở Preah Vihear khi nó được vẽ trên bàn
đồ, bất luận có sự phù hợp với đường lưu vực sông.
3, Tòa bác bỏ về việc chứng minh những hành động phản đối của Thái
trong quá khứ là sự không chấp nhận đường phân định.
- Lập luận của Thái:Thái Lan đã tuyên bố rằng tất cả những tư liệu của thời
gian trong việc sở hữu đến Preah Vihear, họ không cần đến để đưa ra vấn đề,
họ thực sự chứng minh những hành động của những nhà chức trách thuộc
chính quyền họ trên mảnh đất như một bằng chứng rằng họ chưa bao giờ
chấp nhận phụ lục I trong vấn đề bản đồ phân định Preah Vihear.
- Lập luận của tòa: Nhưng tòa án thấy điều đó khó có thể coi những hành
động của địa phương như một thái độ phản đối chung của những nhà chức
trách chính. Hơn nữa vào năm 1930 trong chuyến thăm đền của Prince
Damrong đã chính thức thừ nhận đường phân định mà do chính phủ Pháp
cho tiếp giáp địa phận người Cambuchia, Xiêm đã thua trong việc phản ứng
lại.
4, Những luận điểm kết luận của tòa:
Từ thực tế trên, Tòa án đã kết luận rằng Thái Lan đã chấp nhận phụ lục I
của bản đồ. Thậm chí nếu có bất kỳ điều nghi ngờ trong việc thông qua đó từ
khi Pháp và Cambuchia hồi âm chống lại sự chấp thuận của họ và họ đã
hưởng những ưu đãi ( lợi nhuận) trong vòng 15 năm khi bản Hiệp định 1904
ban bố ở quốc gia này. Hơn nữa, sự chấp nhận bản đồ phụ lục I đã khiến
Thái Lan vào hiệp định hòa giải; các đảng phái lúc bấy giờ đã thừa nhận sự
giải thích hòa giải mà khiến những đường trên bản đồ chiếm ưu thế (đánh
bại) những điều khoản của hiệp định và như không có lý do gì để nghĩ rằng
những đảng phái đã gia nhập một vài điểm quan trọng đặc biệt đến đường
phân định lưu vực sông như trên. Khi so sánh với đường phân định quan
trọng thường xuyên cuối cùng của Thái Lan thì tòa án đã thấy rằng sự sáng
tỏ được đưa ra bây giờ là giống nhau.
Vì thế tòa đã kết lại đường biên giới sẽ được áp dụng theo sự phân định
tại bản phụ lục I và không cần thiết để xem xét liệu đường ranh giới như bản
16
đồ đã vẽ có tương ứng phù hợp với đường lưu vực sông theo quan điểm của
Thái Lan hay không?
Từ những lý do đó, tòa án xác nhận ý kiến đệ trình của Cambuchia
liên quan đến chủ quyền ngôi đền cổ Preah Vihear là thuộc về nước này. Bởi
vậy mà Thái Lan phải:
- Phải thực hiện bổn phận của mình là rút lực lượng quân đội, cảnh sát hoặc
bất kỳ những người bảo vệ trông giữ ra khỏi ngôi đền hoặc những vùng lân
cận thuộc địa phận của Cambuchia.
- Cần phải có nghĩa vụ hoàn lại những bức tượng, bia, những mảnh cổ vật,
mẫu sa thạch và những đồ gồm cổ xưa mà Thái Lan đã lấy ra khỏi ngôi đền
trong thời gian nước này chiếm cứ Preah Vihear vào năm 1954.
IV, Bài học rút ra:
Theo điều 48 khoản 2 công ước Viên năm 1962,
“ 1. Một quốc gia có thể viện dẫn một nhầm lẫn về một điều ước để từ bỏ
việc chấp nhận sự ràng buộc của điều ước đó, nếu sự nhầm lẫn có liên quan
đến một thực tế hay một hoàn cảnh mà quốc gia đó cho là đã tồn tại khi ký
kết điều ước và lại là một cơ sở chủ yếu để quốc gia chấp nhận sự ràng buộc
của điều ước.
2. Khoản 1 sẽ không được áp dụng nếu quốc gia đó góp phần vào sự nhầm
lẫn này bằng chính hành vi của mình, hoặc đã có những hoàn cảnh rõ ràng
hơn cho quốc gia đó nhận thấy khả năng xảy ra nhầm lẫn”
Như vậy theo những điều khỏan trên việc Thái Lan biện hộ cho những
nhầm lẫn của mình là không được chấp nhận bởi những nhầm lẫn đó là xuất
phát từ phía quốc gia này.
17
Mục lục
I) Nội dung vụ việc……………………………………………..........................2
1)Lịch sử Đền Preah Vihear…………………………………………..…….2
2)Tranh chấp Đền Preah Vihear giữa Thái Lan và Campuchia…………......2
II) Tranh cãi của các bên……………………………………….........................3
A) Campuchia………………………………………….……………….……...3
1)Tư cách của Campuchia đối với chủ quyền như được thiết lập bởi các
điều ước ……….................... ………………………………………...…….….3
2)Campuchia thi hành có hiệu quả năng lực lãnh thổ (territorial powers) ....6
3)Thái Lan đã không có một hành động nào thể hiện chủ quyền tự nhiên của
mình trên vùng đất có đền Preah Vihear để thay thế chủ quyền được thiết lập
bởi những điều ước của Campuchia……………….. ……………………….…7
B) Thái Lan………………………...…………………………………………..8
1)Bác bỏ luận điểm đầu tiên của Campuchia………………………………..9
2)Bác bỏ luận điểm thứ 3 của Campuchia………………………………….14
III)Phán quyết của Tòa Án Tư Pháp quốc tế trong vụ liên quan đến tranh chấp
đền Preah Vihear ngày 15/6/1962…… ……………………………….……. 12
1)Tòa lập luận về tính hợp pháp của đường phân định…................................12
2)Tòa bác bỏ sự biện bộ cho những sai sót của Thái Lan và tự mình làm vô
hiệu lực thực tế phân định mà họ chấp nhận từ trước đó…………………..…14
3)Tòa bác bỏ về việc chứng minh những hành động phản đối của Thái trong
quá khứ là sự không chấp nhận đường phân định… …………………………15
4) Những kết luận của Tòa…………………………………………………...15
IV)Bài học rút ra………………………………………………………………16
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- templepreahvihear_3542.pdf