WTO và những vấn đề đặt ra cho Việt Nam khi trở thành WTO

CHƯƠNG 1: Tổng quan về Tổ chức thương mại thế giới WTO 1.1. Vũng đàm phán Uruguay và sự ra đời của WTO 1.1.1. Vũng đàm phán Uruguay Vũng đàm phán Uruguay là vũng đàm phán lớn nhất cả về thời gian và cỏc lĩnh vực thương mại. Vũng này kộo dài 7 năm rưỡi, gần bằng 2 lần thời gian dự định ban đầu. Đến cuối vũng đàm phỏn số nước tham dự đă lờn tới 125 nước; đõy thực sự là vũng đàm phán thương mại lớn nhất từ trước tới nay và cú lẽ đõy cũng là cuộc đàm phỏn thuộc loại lớn nhất trong lịch sử. Một số thời điểm chủ chốt của vũng Uruguay: · Tháng 9/86 Punta del Este: bắt đầu. · Tháng 12/88 Montreal: rà soỏt giữa kỳ của cỏc bộ trưởng. · Tháng 4/89 Geneva: Rà soỏt giữa kỳ hoàn thành. · Tháng 12/90 Brussels: bế mạc hội nghị bộ trưởng trong bế tắc. · Tháng 12/91 Genneva: Dự thảo đầu tiờn của "Hiệp định cuối cựng" được hoàn thành. · Tháng 11/92 Washington: Mỹ và EC đạt được mức bột phỏ mang tờn "Blair House" trong lĩnh vực nụng nghiệp. · Tháng 7/93 Tokyo: Nhúm Quad đạt được bước đột phỏ về mở cửa thị trường tại hội nghị thượng đỉnh G7. · Tháng 12/93 Geneva: Phần lớn cỏc cuộc đàm phỏn kết thỳc (một số cuộc thương thảo về mở cửa thị trường được tiếp tục). · Tháng 4/94 Marrakesh: Cỏc hiệp định được ký. · Tháng 1/95 Geneva: WTO được thành lập và cỏc hiệp định bắt đầu cú hiệu lực. Mặc dự tại một số thời điểm, vũng đàm phỏn cú vẻ như thất bại, nhưng cuối cựng vũng Uruguay đó đem lại sự cải tổ lớn nhất từ trước tới nay đối với hệ thống thương mại quốc tế. Cơ sở cho chương trỡnh nghị sự của vũng đàm phỏn Uruguay đó được khởi đầu ngay từ thỏng 11 năm 1982 tại Geneva, tuy nhiờn phải mất đến 4 năm để thăm dũ làm rừ cỏc vấn đề và xõy dựng sự nhất trớ thỡ cỏc bộ trưởng mới đi đến thống nhất trong việc đưa ra 1 vũng đàm phỏn mới. Cuộc đàm phỏn được bắt đầu tại Punta del Este Uruguay (1986). Chương trỡnh đàm phỏn bao gồm hầu hết cỏc vấn đề chớnh sỏch thương mại cũn chưa được điều chỉnh, nhằm mở rộng hệ thống thương mại đa biờn sang một số lĩnh vực mới. Trong đú, quan trọng nhất là: dịch vụ, sở hữu trớ tuệ và cải tổ hệ thống thương mại trong một số lĩnh vực cú tớnh nhạy cảm cao như hàng nụng sản và hàng dệt may, mọi nguyờn tắc về điều khoản ban đầu của GATT đều được rà soỏt lại. Hai năm sau đú, vào thỏng 12 năm 1988, cỏc Bộ trưởng gặp nhau tại Montreal, Canada nhằm mục đớch kiểm điểm lại những tiến triển tại thời điểm giữa vũng đàm phỏn, bờn cạnh đú tiếp tục đề ra mục tiờu cho cỏc cuộc đàm phỏn tiếp theo. Tuy nhiờn, đàm phỏn đó đi đến bế tắc. Mọi vấn đề chỉ được giải quyết tại hội nghị ở Geneva 4 năm sau đú. Mặc dự gặp phải nhiều khú khăn, tại hội nghị Montreal cỏc vị bộ trưởng đều thống nhất thụng qua hầu hết cỏc kết quả ban đầu gồm: cỏc nhượng bộ mở cửa thị trường cho hàng nhiệt đới nhằm mục đớch giỳp đỡ cỏc nước đang phỏt triển; cơ chế giải quyết tranh chấp được đơn giản húa và một cơ chế rà soỏt chớnh sỏch thương mại. Từ trước đến nay, đõy là lần đầu tiờn đưa ra được một cơ chế thường xuyờn, mang tớnh hệ thống và toàn diện để rà soỏt chớnh sỏch và thực hành thương mại đối với cỏc nước thành viờn của GATT. Vũng đàm phỏn này đó dự định kết thỳc tại Brussels vào thỏng 12 năm 1990, nhưng do bất đồng quan điểm giữa cỏc bờn về cỏch thức tiến hành cải cỏch hệ thống thương mại hàng nụng sản nờn đó phải kộo dài. Đõy là thời kỳ vũng Uruguay đang đi vào giai đoạn khú khăn nhất. Cho dự viễn cảnh chớnh trị đen tối, một khối lượng cụng việc kỹ thuật đỏng kể đó được thực hiện và dẫn đến kết quả là cú một dự thảo hiệp định phỏp lý cuối cựng, dự thảo này được gọi là “Dự thảo luật cuối cựng”. Dự thảo này được đệ trỡnh tại Geneva vào năm 1991. Dự thảo đó hoàn tất được tất cả cỏc mục tiờu đề ra tại Punta del Este, ngoại trừ danh mục cam kết cắt giảm thuế quan và mở cửa thị trường dịch vụ của cỏc nước. Dự thảo này đó trở thành cơ sở để cú được sự thống nhất cuối cựng. Trong vũng hai năm tiếp theo, cỏc cuộc đàm phỏn đó đứng giữa hai ngả, một bờn là thất bại cận kề, một bờn là thành cụng với tới được. Một vài thời hạn cuối cựng được đưa ra và bị vượt quỏ. Tại vũng đàm phỏn đó nảy sinh những bất đồng quan điểm bờn cạnh vấn đề nụng nghiệp; đú là dịch vụ, mở cửa thị trường, cỏc qui tắc chống bỏn phỏ giỏ và đề xuất về việc thành lập một tổ chức thương mại mới. Tại đõy, bất đồng quan điểm của Mỹ và EU chớnh là nguyờn nhõn quan trọng nhất khiến cho vũng đàm phỏn chưa thể kết thỳc thành cụng được. Thỏng 11 năm 1992, Mỹ và EU đó thống nhất được phần lớn sự khỏc biệt trong lĩnh vực nụng nghiệp, cả hai đó đưa ra được một thỏa thuận mang tờn “Thỏa thuận Blair House”. Đến thỏng 7 năm 1993, nhúm Quad ( Mỹ, EU, Nhật, Canada ) tuyờn bố đó đạt được những thỏa thuận đỏng kể trong đàm phỏn thuế quan và cỏc vấn đề liờn quan đến mở cửa thị trường. Đến 15 thỏng 12 năm 1993 thỡ tất cả mọi vấn đề đều được giải quyết và đàm phỏn về mở cửa thị trường cho hàng húa và dịch vụ được kết thỳc. Ngày 15/4/1994, thỏa thuận đó được bộ trưởng của phần lớn 125 nước tham gia hội nghị ký kết tại Marrakesh, Marốc. Cuối cựng, vào thỏng 1/1995 hội nghị bộ trưởng tại Geneva đó thống nhất thành lập một tổ chức thương mại mới, tổ chức thương mại thế giới - World Trade Organization - viết tắt là WTO chớnh thức được thành lập; cỏc hiệp định được kớ kết tại vũng đàm phàn Uruguay bắt đầu cú hiệu lực. Nhỡn chung tại một số thời điểm, vũng Uruguay cú vẻ như đó thất bại, tuy nhiờn cuối cựng thỡ vũng Uruguay đó đem lại sự cải tổ lớn nhất, là bước tiến quan trọng nhất đối với hệ thống thương mại thế giới kể từ ngày GATT được thành lập sau Đại chiến thế giới lần thứ hai. Mặc dự cũn gặp phải nhiều vấn đề, vũng Uruguay đó đem lại một số kết quả ngay từ những ngày đầu: Trong vũng 2 năm cỏc nước tham dự đó nhất trớ cắt giảm thuế nhập khẩu với hàng nhiệt đới - những sản phẩm chủ yếu do cỏc nước đang phỏt triển xuất khẩu. Cỏc nước cũng đó nhất trớ điều chỉnh cỏc qui định về giải quyết tranh chấp, trong đú một số biện phỏp đó được thực hiện ngay lập tức. Cỏc nước cũng yờu cầu cần cú bỏo cỏo thường xuyờn về hệ thống chớnh sỏch thương mại của cỏc nước thành viờn, đõy là một bước tiến hết sức quan trọng nhằm làm minh bạch húa hệ thống chớnh sỏch của cỏc nước trờn thế giới. Với kết quả của vũng đàm phỏn Uruguay người ta ước tớnh thuế quan núi chung sẽ giảm đi trung bỡnh khoảng 40%. Dự kiến Mĩ sẽ giảm 35%, Canada 45%, ấn Độ 55%, Nam Triều Tiờn (Hàn Quốc) 41%, Đài Loan giảm khoảng 30 - 50% cho hàng cụng nghiệp và nụng sản. Với mức thuế hàng nụng sản núi riờng, trong vũng 6 năm tới tớnh từ năm 1995 sẽ giảm 36% và mức trợ cấp gõy phương hại cho thương mại bỡnh đẳng cũng sẽ giảm 20%. Do đú, người ta dự đoỏn rằng từ năm 1995 đến năm 2002, buụn bỏn quốc tế sẽ tăng thờm từ 213 - 272 tỷ đụ la mỗi năm, xuất khẩu thế giới mỗi năm tăng 5% nhập khẩu tăng 3,5%. Chương trỡnh nghị sự : 15 chủ đề tại vũng đàm phỏn Uruguay · Thuế quan · Hàng rào phi thuế quan · Sản phẩm tài nguyờn thiờn nhiờn · Hàng dệt may · Nụng nghiệp · Sản phẩm nhiệt đới · Cỏc điều khoản của GATT · Cỏc hệ thống qui định của vũng đàm phỏn Tokyo · Chống phỏ giỏ · Trợ cấp · Tài sản trớ tuệ · Cỏc biện phỏp đầu tư · Giải quyết tranh chấp · Hệ thống GATT · Dịch vụ. 1.1.2. Sự khỏc nhau giữa WTO và GATT WTO là một tổ chức thương mại được thành lập trờn cơ sở kế thừa GATT. GATT sau WTO đó được sửa đổi, bổ sung và là một trong những hiệp định của WTO. Sau đõy là những khỏc biệt chủ chốt : · GATT chỉ mang tớnh chất tạm thời. Hiệp định chung về thương mại và thuế quan chưa bao giờ được quốc hội cỏc nước phờ chuẩn; nú khụng cú qui định nào về việc thành lập một tổ chức nhất định. WTO và cỏc hiệp định của nú mang tớnh thường trực lõu dài. WTO là một tổ chức quốc tế được thành lập bởi sự nhất trớ của cỏc quốc gia thành viờn. WTO cú nền tảng phỏp lý vững chức bởi vỡ cỏc nước thành viờn đó thụng qua cỏc hiệp định và chớnh cỏc hiệp định đó mụ tả phương thức hoạt động của tổ chức. Cỏc quốc gia thành viờn phải thực hiện đỳng theo cỏc qui định, nguyờn tắc của WTO và cỏc hiệp định của nú. · GATT chỉ cú "cỏc bờn tham gia ký kết", điều này cho thấy rừ ràng là GATT chỉ mang tớnh chất một hiệp định. WTO cú cỏc nước thành viờn và WTO là một tổ chức quốc tế. · Hiệp định chung về thuế quan và thương mại GATT chỉ giải quyết cỏc vấn đề liờn quan đến thương mại hàng hoỏ. Trong khi đú WTO là tổ chức kế thừa và phỏt triển GATT, hiệp định GATT tồn tại cựng với cỏc hiệp định khỏc của WTO như hiệp định chung về thương mại và dịch vụ (GATS); hiệp định về quyền sở hữu trớ tuệ liờn quan đến thương mại (TRIPS). WTO đó đưa 3 hiệp định này vào chung một tổ chức. · Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO mang tớnh tự động và nhanh hơn so với cơ chế của GATT. Đõy là đúng gúp lớn nhất của WTO đối với hệ thống thương mại thế giới. Trước đõy việc giải quyết tranh chấp giữa cỏc nước ký kết GATT được dựa vào hai cơ chế chủ yếu : + Theo điều khoản tham vấn và điều khoản Bảo vệ cỏc ưu đói và lợi ớch. + Cơ chế giải quyết tranh chấp của mỗi hiệp định đa phương. Tuy nhiờn, cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT cũn bị những hạn chế : + Cỏc nghị quyết đạt được khụng giải quyết được những tranh chấp phỏt sinh, thường dẫn đến việc cỏc bờn thương lượng hoà giải là chớnh. + Hệ thống giải quyết tranh chấp khụng mang tớnh tự động do vậy bờn bị kiện cú thể dễ dàng gõy khú khăn để ngăn cản một nhúm chuyờn trỏch (Ban hội thẩm) tiến hành hoạt động của mỡnh. + Thời hạn tiến hành qui trỡnh giải quyết tranh chấp quỏ dài. + Hệ thống khụng cú cơ chế bảo đảm cho cỏc nghị quyết được thực hiện. Những khiếm khuyết trờn làm giảm bớt những giỏ trị của tự do hoỏ thương mại mà hệ thống thương mại đa phương đem lại cỏc nước đó vấp phải nhiều khú khăn trong việc giải quyết tranh chấp với cỏc đối tỏc mạnh hơn mỡnh. Đối với WTO, tổ chức thương mại thế giới đó đưa ra được một cơ chế giải quyết tranh chấp hoàn chỉnh hơn, cho phộp cỏc mối quan hệ trong thương mại quốc tế được giải quyết một cỏch cụng bằng hơn, hạn chế được những hành động đơn phương, độc đoỏn của cỏc cường quốc thương mại, cho phộp nhanh chúng thỏo gỡ những ỏch tắc thường xảy ra và khú giải quyết trước đõy. Cỏc thủ tục của WTO dựa trờn qui định luật phỏp và giỳp cho hệ thống thương mại an toàn và dễ dự bỏo hơn. Hệ thống này dựa trờn cỏc qui tắc được xỏc định rừ ràng với cả biểu thời gian để hoàn thành một vụ tranh chấp. Một nhúm chuyờn gia sẽ được thành lập cho mỗi tranh chấp. Nhúm này sẽ đưa ra cỏc qui định đầu tiờn và cỏc thành viờn WTO cú thể ủng hộ hay phản đối, cỏc khỏng cỏo dựa trờn luật là cú thể chấp nhận được. Cỏc thành viờn WTO đều nhất trớ rằng khi mà một nước thành viờn khỏc đang vi phạm qui tắc thương mại, họ sẽ sử dụng hệ thống thương mại đa biờn để giải quyết tranh chấp thay cho việc thực hiện cỏc hành động đơn phương. Trước đõy GATT cú thủ tục để giải quyết tranh chấp nhưng nú chưa đưa ra được thời gian biểu cụ thể, cỏc qui định dễ bị cản trở và nhiều vụ vẫn khụng giải quyết được sau một thời gian dài. WTO đó đưa ra một quy trỡnh giải quyết tranh chấp với thời gian và thủ tục được xỏc định rừ ràng hơn. Khoảng thời gian để giải quyết một vụ tranh chấp dài hơn trước kia. Thời hạn cuối cựng cho mỗi giai đoạn giải quyết tranh chấp rất linh hoạt. Hiệp định nhấn mạnh việc giải quyết nhanh chúng là cần thiết. Cỏc thủ tục và thời gian biểu phải được tuõn theo trong quỏ trỡnh giải quyết. WTO cũng khụng cho phộp cỏc nước thất bại trong vụ tranh chấp ngăn cản việc thi hành quyết nghị. Theo thủ tục của GATT cỏc quyết định chỉ cú thể được thụng qua theo cỏc thoả hiệp. Điều đú cú nghĩa là chỉ cần một sự phản đối nào đú cũng cú thể ngăn việc thi hành quyết nghị. Nhưng hiện nay cỏc quyết nghị được thụng qua một cỏch tự động, trừ khi cú một thoả hiệp để từ chối một quyết nghị. Bất kỳ một nước nào muốn ngăn cản một quyết nghị cũng cần phải thuyết phục cỏc thành viờn khỏc (kể cả đối thủ) đồng ý với quan điểm của mỡnh. Túm lại, hệ thống giải quyết tranh chấp được coi là một trong những thành tựu lớn nhất của WTO. 1.2. Mục tiêu, chức năng và nguyên tắc hoạt động của WTO Tổ chức thương mại thế giới (WTO) là cơ quan quốc tế duy nhất giải quyết cỏc qui định về thương mại giữa cỏc quốc gia với nhau. Nội dung chớnh của WTO là cỏc hiệp định được hầu hết cỏc nước cú nền thương mại cựng nhau tham gia đàm phỏn và ký kết. Cỏc văn bản này qui định cỏc cơ sở phỏp lý làm nền tảng cho thương mại quốc tế. Cỏc tài liệu đú về cơ bản mang tớnh ràng buộc cỏc chớnh phủ phải duy trỡ một chế độ thương mại trong một khuụn khổ đó được cỏc bờn thống nhất. Mặc dự cỏc thoả thuận đạt được là do cỏc chớnh phủ đàm phỏn và ký kết nhưng mục đớch lại nhằm giỳp cỏc nhà sản xuất kinh doanh hàng hoỏ và dịch vụ trong nước; cỏc nhà hoạt động xuất nhập khẩu cú thể tiến hành cỏc hoạt động kinh doanh dễ dàng hơn. 1.2.1. Mục tiờu Mục tiờu chớnh của hệ thống thương mại thế giới là nhằm giỳp thương mại được lưu chuyển tự do ở mức tối đa, chừng nào nú cũn nằm trong giới hạn khụng gõy ra cỏc ảnh hưởng xấu khụng muốn cú. Ngoài ra, WTO cũn cú những mục tiờu sau: · Nõng cao mức sống của con người.

doc84 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2294 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu WTO và những vấn đề đặt ra cho Việt Nam khi trở thành WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
giúp cho xuất khẩu của Việt nam có những cơ hội mới. Chúng ta đã có thể thâm nhập vào các thị trường lớn đặc biệt như thị trường Mỹ trước kia nhóm hàng quần áo may măc nhập vào hoa kỳ hàng năm đạt giá trị 50 tỷ USD trong đó Việt Nam chỉ xuất sang được 35 triệu USD năm 1998 thị phần mà chúng ta dành được trong những năm qua chưa đáng kể( mới chiếm 0.04% kim ngạch nhập khẩu của Hoa kỳ). Việc tham gia WTO giúp chúng ta được hưởng quy chế Tối huệ quốc với các hàng hoá xuất khẩu đặc biệt là các mặt hàng lương thực thực phẩm và hàng tiêu dùng. Những yêu cầu khắt khe về chất lượng sản phẩm cũng đem lại cho chúng ta nhiều cản trở nhưng đây cũng là động lực để hàng hoá Việt nam có những thay đổi theo yêu cầu của thị trường từ đó chúng ta đã hình thành một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực mà trước đây ta chưa thực hiện được. Nhờ chuyển từ cơ chế tập trung sang cơ chế thị trường, cạnh tranh có sự điều tiết bằng các chính sách vĩ mô của nhà nước mà loaị ngành sản xuất của ta như: dệt may, giầy dép, gạo, cà phê, hải sản đã đẩy xuất khẩu của ta từ quy mô hàng triệu lên hàng tỷ USD. Nền kinh tế của ta đã thực sự hướng ngoại đáng kể, hai phần ba nền kinh tế hiện nay là liên quan đến xuất khẩu trong đó 1/ 3 hàng hoá làm ra để xuất khẩu còn 1/3 sản xuất của ta phụ thuộc vào nguồn vật tư thiết bị cung cấp từ nguồn nhập khẩu. Việc hội nhập đã giúp xuất khẩu đạt hàng chục tỷ USD trên 1/3 GDP, tính chúng 5 năm( 2001-2005) tổng kim ngạch xuất khập khẩu đạt 109,1 tỷ USD, tăng trưởng bình quân 5 năm đạt 16,2%( đạt chỉ tiêu tăng trưởng 16% do Đại hội Đảng lần thứ IX đề ra). Kim ngạch xuất khẩu bình quân người năm 2005 đạt gần 370 USD. Về cơ cấu mặt hàng xuất khẩu đều có tốc độ tăng trưởng khá nhanh, tính bình quân 5 năm 2001-2005 nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản tăng 12,7% và chiếm tỷ trọng 32,8% tổng kim ngạch xuất khẩu: nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp tăng 20,8% chiếm tỷ trọng 40,2%; nhóm hàng nông lâm, thuỷ sản tăng 14,6% chiếm tỷ trọng 27%. Nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp có tốc độ tăng trưởng mạnh nhất đã dần chiếm ưu thế trong tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu. Đến năm 2005 ngoài dệt may và dầu thô có kim ngạch xuất khẩu đạt trên 5 tỷ USD còn có thêm 5 mặt hàng đạt kim ngạch nhập khẩu trên 1 tỷ USD là thuỷ sản, giầy dép, hàng điện tử, sản phẩm gỗ và gạo. các mặt hàng gạo và cà phê tiếp tục duy trì vị trí thứ 2 thế giới riêng hạt tiêu đứng đầu thế giới còn hạt điều đứng thứ 3 thế giới. Trong tiến trình hội nhập của mình chúng ta đã bước đầu thực hiện mục tiêu cải tiến cơ cấu xuất khẩu theo hướng tăng các mặt hàng chế biến, giảm tỷ trọng các sản phẩm các sản phẩm thô, tạo một số mặt hàng có khối lượng lớn và thị trường đối ổn định. Chất lượng hàng xuất khẩu từ bước nâng lên, năng lực cạnh tranh được cải thiện. Xuất khẩu dịch vụ thời kỳ 2001-2005 đạt 21,1% tỷ USD tốc độ tăng bình quân 15,7%/năm bằng khoảng 19% so với tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá và xấp xỉ với mức bình quân thế giới( bình quân thế giới là 20%). Trong đó một số ngành dịch vụ xuất khẩu đạt khá như: hàng không, bưu chính viễn thông, hàng hải, tài chính-ngân hàng, du lịch. Trong thời gian qua cơ cấu trị trường xuất khẩu có nhiều chuyển biến tích cực giảm dần sự phụ thuộc vào khu vực thị trường Châu Á, đặc biệt thị trường Châu âu. Việt nam đã có những bước tăng nhanh xuất khẩu vào thị trường Châu Mỹ đặc biệt vào thị trường Mỹ( theo thống kê tổng xuất khẩu của ta vào Mỹ tăng gấp 6 lần trong 5 năm, đặc biệt các mặt hàng tăng mạnh nhất là giày dép, dệt may, máy móc, điện tử, nông sản chế biến) đây là thời kỳ chuyển hướng thị trường và thay đổi cơ cấu kinh tế. Thời kỳ này chủ yếu đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng mà chúng ta có ưu thế về thủ công và lao động giá rẻ như giày dép, dệt may, thủ công mỹ nghệ truyền thống và bước đầu phát triển máy móc và hàng chế biến cao. Biểu: Một số mặt hàng xuất khẩu vào Hoa kỳ năm 2000 và 2005 Đơn vị: tỷ USD Mặt hàng Năm 2000 Năm 2005 So sánh Giày dép 230 1000 435% Hàng may mặc 84 1000 1190% Thuỷ sản 200 200 100% Nông sản chế biến 62 100 161% Cà phê hạt 162 200 123% Tổng 738 2500 339% Chúng ta có thể xem xét qua tình hình xuất khẩu một số mặt hàng vào Hoa kỳ trong hai năm 2000 và 2005. Với mặt hàng chủ lực như giày dép năm 2000 chúng ta đạt 230tỷ USD nhưng đến năm 2005 đạt tổng trị giá 1000 tỷ USD tăng hơn 435%. Tuy nhiên trong giai đoạn hội nhập của mình lĩnh vực xuất khẩu vẫn còn nhiều khó khăn và đối mặt với nhiều nguy cơ thách thức. Tỷ trọng xuất khẩu nhóm hàng nguyên liệu, khoáng sản, hàng nông lâm thuỷ hải sản còn thấp: hàng chế biến chủ yếu vẫn là hàng gia công như dệt may, giầy dép, hàng điện tử và linh kiện máy tính...Do đó hiệu quả xuất khẩu(phần giá trị gia tăng thực thu về cho đất nước) còn thấp. Mặt khác, tăng trưởng xuất khẩu của nước ta không ổn định và phụ thuộc nhiều vào biến động giá cả trên thị trường thế giới, cá mặt hàng có giá trị trên 1 tỷ USD chưa nhiều. Bên cạnh đó với tư cách là thành viên của tổ chức thương mại quốc tế WTO thì các doanh nghiệp xuất khẩu Việt nam cũng phải cạnh tranh với các doanh nghiệp khác trong khi vai trò của khối doanh nghiệp trong nước còn chưa được phát huy tương xứng với tiềm năng đặc biệt là hiệu quả xuất khẩu của các doanh nghiệp nhà nước còn rất thấp. 2.2 Các định hướng chiến lược trong kỳ hội nhập Hội nhập kinh tế với mục tiêu là phát triển xuất khẩu với tốc độ tăng trưởng cao cà bền vững, làm động lực thúc đẩy tăng trưởng GDP. Đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng có lợi thế cạnh tranh đồng thời tích cực phát triển các mặt hàng khác có tiềm năng thành những mặt hàng xuất khẩu chủ lực mới, theo hướng nâng cao hiệu quả xuất khẩu. Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng có giá trị có giá trị gia tăng cao, tăng sản phẩm chế biến và chế tao, sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, giảm dần tỷ trọng hàng thô. Phấn đấu đưa kim ngạch xuất khẩu hàng hoá đạt 59-64 tỷ USD vào năm 2010 và khoảng 232-248 tỷ USD cả thời kỳ 2006-2010, tốc độ tăng trưởng bình quân là 14-16%/ năm. Bên cạnh đó đối với tổng kim ngạch xuất khẩu dự kiến khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài xuất khẩu ( không kể dầu thô) trong 5 năm tới đạt xấp xỉ 8,5% tỷ USD, tăng bình quân 17,0%/năm. Cơ cấu xuất khẩu sẽ chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng xuất khẩu những mặt hàng có giá trị cao, các sản phẩm chế biến và chế tạo, sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao đồng thời giảm dần tỷ trọng xuất khẩu hàng thô. Bằng các chính sách của mình Việt nam dự kiến tăng trưởng cho các nhóm hàng như sau: Nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản dự kiến đạt 72-77 tỷ USD tăng bình quân 13,2-15,2%. Nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp dự kiến đạt 100-107 tỷ USD tăng bình quân 15,6-17,7% Nhóm hàng nông, lâm, thuỷ hải sản dự kiến đạt 60-64 tỷ USD tang biènh quân 12,3-14,3% Đồng thời Việt nam cũng đưa ra định hướng phát triển cho các nhóm và mặt hàng chủ yếu: Nhóm nguyên, nhiên liệu (dầu thô, than đá..): dự kiến lượng khai thác và xuất khẩu sẽ không tăng mạnh được, tiến dần tới việc hạn chế xuất khẩu để sử dụng cho sản xuất trong nước, hoặc chế biến tạo ra giá trị gia tăng cao hơn ( như lọc hoá dầu, sử dụng than đá cho các ngành sản xuất điện, luyện théo, xi măng...). Xu hướng giá dầu thế giới thời kỳ 2006-2010 sẽ tiếp tục tăng ổn định trong khoảng từ 45-55 USD/thùng. Dự kiến lượng xuất khẩu dầu thô của nước ta sẽ giảm dần, thời kỳ 2006-2010 đạt khoảng 90-95 triệu tấn, giảm bình quân 3%/năm. Xuất khẩu than đá cũng giảm dần dự kiến xuất khẩu 10-11 triệu tấn trong 1-2 năm đầu và 8-9 triệu tấn cho những năm cuối kỳ kế hoạch. Nhóm hàng nông, lâm, thuỷ sản ( thuỷ sản, gạo, cà phê..) tập trung thúc đẩy phát triển những sản phẩm lợi thế có năng suất cao, đảm bảo chất lượng quốc tê và giá trị gia tăng cao. Thời kỳ 2006-2010 tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng nông, lâm, thuỷ sản trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá cả nước có xu hướng giảm dần sau khi đạt ở mức cao ở các năm 2006, 2006. Dự kiến đến năm 2010 tỷ trọng này là khoảng 25% cả thời kỳ 2006-2010 tỷ trọng đạt gần 26%. Tăng cường hàm lượng chế biến trong thuỷ sản xuất khẩu để nâng cao giá trị gia tăng dự kiến kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản giai đoạn tới sẽ tăng trưởng bình quân gần 10,6%/năm kỳ vọng tới năm 2010 sữ đạt 5,0 tỷ USD. Mặt hàng gạo khó có khả năng tăng mạnh, cần nâng cao chất lượng và hàm lượng chế biến của gạo xuất khẩu. Đặc biệt là tập trung phát triển các loại gạo có giá trị cao được thị trường nước ngoài ưa chuộng. Theo báo cáo số liệu thống kê được lượng gạo xuất khẩu không tăng hơn so với kỳ trước chỉ giữ mức 4 triệu tấn/năm. Mặt hàng cà phê cần chú trọng nâng cao chất lượng và hàm lượng chế biến đối với cà phê xuất khẩu, đồng thời tích cực áp dụng các phương thức giao dịch kinh doanh cà phê hiện đại của thế giới để giảm thiểu rủi ro giá cả, tránh bị ép cấp, ép giá, nâng cao được giá cà phê xuất khẩu. Tới năm 2010 dự kiến xuất khẩu đạt 0,9 triệu tấn, không tăng về lượng nhưng tăng về kim ngạch. Ngoài ra còn phải tập trung phát triển chè sạch nâng cao chất lượng chè xuất khẩu, đẩy mạnh chế biến để xuất khẩu nhiều hơn các sản phẩm chè. Tích cực gia tăng thị phần tại các thị trường tiêu thụ chè lớn của thế giới như: Anh, Nga, Trung Dông, Trung Quốc,…qua đó nâng cao được giá chè xuất khẩu của nước ta.Dự kiến xuất khẩu chè tăng bình quân khoảng 12,7%/năm, tới năm 2010 đạt 200 nghìn tấn.Mặt hàng cao su cần giảm tỷ trọng xuất khẩu mủ cao su thiên nhiên sơ chế, tập trung đầu tư sản xuất, chế biên trong nước để có thể xuất khẩu các sản phẩm từ cao su nhằm mục đích thu được giá trị gia tăng cao hơn. Dự kiến tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 6,1%/năm tới năm 2010 đạt 0,7 triệu tấn. Hạt điều và hạt tiêu phấn đấu duy trì về sản xuất và xuất khẩu thông qua việc tập trung vào các biện pháp cải thiện xuất khẩu, Dự kiến tới năm 2010 kim ngạch xuất khẩu hạt điều đạt khoảng 900 triệu USD, hạt tiêu khoảng 300 triệu USD, tốc độ tăng trưởng bình quân tương ứng là 14,5%/năm và 13,7%/năm. Nhóm sản phẩm chế biến và chế tạo( dệt may, giầy dép, thủ công mỹ nghệ, sản phẩm gỗ,..)ngoài hai mặt hàng chủ lực là dệt may và giầy dép cần tăng cường phát triển xuất khẩu các mặt hàng mới như đóng tầu, các sản phẩm cơ khí, các sản phẩm có nhiều tiềm năng như thủ công mỹ nghệ, thực phẩm chế biến, sản phẩm nhựa, sản phẩm gỗ,..Mặt hàng dệt may trong bối cảnh Việt nam đã trở thành thành viên chính thức của WTO sẽ gặp nhiều thách thức đặc biệt là cạnh tranh thị trường với Trung Quốc và ấn Độ. Để nâng cao sức cạnh tranh cho ngành dệt may nước ta cần thực hiện nhiều biện pháp đồng bộ, từ hạ giá thành sản xuất, đa dạng hoá kiểu dáng, mẫu mã cho tới liên kết hợp tác trong ngành, Xây dựng thương hiệu, tập trung vào những phân khúc thị trường mà chúng ta có thế mạnh, hình thành các trung tâm giao dịch, các chợ đầu mối cung cấp nguyên, phụ liệu dệt may. Dự kiến xuất khẩu dệt may 2006-2010 tăng trưởng bình quân 14%/năm tới năm 2010 đạt khoảng 10 tỷ USD. Riêng với mặt hàng giầy dép vốn được coi là nhóm hàng chủ lực trong những năm qua, tuy nhiên phần giá trị tăng thêm thu về của nước ta không cao hơn nữa còn phảI cạnh tranh quyết liệt với hàng sản xuất bởi các nước khác đặc biệt là Trung Quốc. Thời kỳ 5 năm tới cần tập trung vào sản xuất nhóm hàng giầy dép cao cấp phục vụ các thị trường lớn nhưa Hoa kỳ, Nhật Bản, EU. Ngoài ra cần tăng tỷ lệ tự chủ về nguyên liệu gia công, cũng như tự chủ về thiết kế kiểu dáng, mẫu mã. Thời kỳ 2006-2010 phấn đấu kim ngạch xuất khẩu giầy dép tăng bình quân 16%/năm tới năm 2010 đạt khoảng 6,5 tỷ USD. Sản phẩm gỗ là nhóm hàng được khuyến khích đẩy mạnh xuất khẩu trong những năm tới tuy nhiên cần chú trọng phát triển nguồn nguyên liệu ổn định, liên kết sản xuất kinh doanh với các doanh nghiệp trong ngành để tăng quy mô và khả năng đáp ứng nhu cầu của thị trường nước ngoài. Cải thiện khả năng thiết kế sáng tạo mẫu mã sản phẩm và kết hợp sử dụng nguyên liệu gỗ với các nguyên liệu khác như (kim loại, gốm sứ, mây tre,..)để đa dạng hoá và tăng giá trị gia tăng cho sản phẩm. Dự kiến thời kỳ 2006-2010 trị giá xuất khẩu sản phẩm gỗ nước ta sẽ tăng trưởng bình quân 21,5%/năm tới năm 2010 đạt 3,7 tỷ USD. Nhóm sản phẩm hàm lượng công nghệ cao cần tập trung xuất khẩu hàng điện tử và tin học, các sản phẩm phần mềm. Dự kiến tốc độ tăng bình quân của nhóm hàng điện tử, vi tính và linh kiện là 18,8%/năm tới năm 2010 đạt kim ngạch 3,2 tỷ USD. Thị trường của mặt hàng này trên thế giới dự báo diễn biến thuận lợi với như cầu ngày càng tăng, năng lực sản xuất của công nghiệp điện tử, linh kiện máy tính của nước ta đã được tăng cường đáng kể nhờ đầu tư nước ngoài( với các tên tuổi lớn như Fujitsu, Canon,..) cũng như trong nước, các Doanh nghiệp Việt nam đang khai thác thị trường khó tính như ĐàI Loan, Singapore, Malaysia thậm chí cả Nhật Bản. Dự kiến kim ngach sản xuất, gia công phần mềm có thể đạt 600 triệu USD vào năm 2010. Song song với những định hướng riêng cho từng nhóm hàng Việt Nam còn đưa ra những định hướng cho từng thị trường xuất khẩu như sau: Khu vực Châu á: Thị trường trọng điểm tại khu vực này sẽ là các nước Asean, Trung Quốc (cả Hông kông), ĐàI Loan, Nhật bản và Hàn quốc. Đối với các nước Asean cần tận dụng những lợi thế của AFTA trên cơ sở phát huy thế mạnh và bổ sung lẫn nhau giữa các nước Asean. Tăng tỷ trọng xuất khẩu sang thị trường Đông Bắc á trong đó đặc biệt chú trọng vào tăng tốc độ xuất khẩu vào Trung Quốc là một thị trường lớn. Đưa ra những sản phẩm có khă năng cạnh tranh cao nhất và tận dụng được chương trình thu hoạch sớm( EHP), phấn đấu giữ vững tốc độ và tỷ trọng xuất khẩu sang thị trường Nhật bản. Tích cực mở rộng các thị trường Tây và Trung Nam á như ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ, các tiểu vương quốc Arập. Phấn đấu xuất khẩu vào khu vực Châu á tăng trưởng bình quân 12%/năm đến năm 2010 đạt khoảng 25 tỷ USD, tỷ trọng giảm nhẹ xuống còn khoảng 46% trong đó thị trường Đông Nam á tăng trưởng bình quân 10%/năm, Nhật bản 9%/năm, Trung quốc 16%/năm Khu vực Châu Âu: Chiến lược thâm nhập và mở rộng thị phần tại Châu Âu sẽ được xác định theo 2 khu vực: Tây Âu và Đông Âu. Tại Tây Âu trọng tâm sẽ là EU( bao gồm 25 nước thành viên) mà chủ yếu là các thị trường lớn như Đức, Anh, Pháp, Hà Lan và Italia. Duy trì tỷ trọng và tốc độ xuất khẩu sang EU bình quân 15%/năm, quan hệ thương mại với các nước Đông Âu và khối SNG nhất là Nga có thể và cần được khôi phục bởi đây là thị trường có nhiều tiềm năng. Tăng cường quan hệ thương mại với các nước Bắc Âu, phấn đấu xuất khẩu vào khu vực Châu Âu tăng trưởng bình quân 15%/năm đến năm 2010 đạt khoảng 13,2 tỷ USD tỷ trọng giữ vững ở mức 22%. Khu vực Châu Mỹ: Ngoài trọng tâm là thị trường Mỹ cần phảI chú trọng đến thị trường Canada kết hợp với việc mở rộng thị trường Trung và Nam Mỹ. Phấn đấu xuất khẩu vào khu vực Châu Mỹ tăng trưởng bình quân 21%/năm đến năm 2010 đạt khoảng 14,7 tỷ USD tỷ trọng ở mức 25%, trong đó xuất khẩu sang thị trường Mỹ tăng bình quân 23%/năm đến năm 2010 đạt khoảng 16,2 tỷ USD. Khu vực Châu Đại Dương: Trọng tâm là thị trương Australia và New Zealand phấn đấu duy trì mức tăng trưởng khá ở khu vực này ổn định ở mức khoảng 10%/năm đến năm 2010 đạt khoảng 3 tỷ USD chiếm tỷ trọng khoảng 5% Khu vực Châu Phi: Tập trung ưu tiên phát triển một số thị trường trọng điểm ổn định và tiềm năng như Nam Phi, ai Cập, Ma Rốc, Tanzania. Mục tiêu xuất khẩu vào thị trường này là phấn đấu tăng trưởng bình quân 20%/năm, đến năm 2010 đạt khoảng 1,5 tỷ USD tỷ trọng khoảng 2%. III/Lợi thế về môi trường đầu tư 1.Vài nét cơ bản về môi trường kinh doanh của Việt Nam Với chủ trương phát huy tối đa nội lực để phát triển kinh tế- xã hội và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế chủ động hội nhập kinh tế trong những năm qua chónh phủ Việt nam không ngừng cố gắng cải thiện môi trường kinh doang và đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Điều này thể hiện qua một số tín hiệu khả quan như tổng vốn đầu tư nước ngoài năm 2004 khoảng 4 tỷ USD đứng thứ 3 trong khu vực chỉ thấp hơn Singapore, Malaysia và tương đương với Thái land. Tuy nhiên bên cạnh đó còn có những tín hiệu đáng lo ngại như chỉ số năng lực cạnh tranh tăng trưởng tụt 17 bậc và là mức tụt hạng mạnh nhất trong tất cả các nền kinh tế được xếp hạng. Điều này gợi lên suy nghĩ phải chăng Việt nam tuy đạt được nhiều cải thiện về môi trường kinh doanh song vẫn chưa đủ để duy trì và nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. Như hệ thống pháp luật yếu kém vẫn còn là một cản trở lớn. Theo điều tra thì các doanh nghiệp kinh doanh vẫn chưa hài lòng về môi trường pháp luật và chính sách hiện tại, hệ thống đó hiện nay còn nhiều mâu thuẫn và thiếu đồng bộ . Mâu thuẫn không chỉ tồn tại trong các luật và chính sách mà còn xuất hiện thêm khi các luật và chính sách mới ra đời tồn tại song song với các văn bản cũ. Hiện nay hệ thống hành chính năng nề làm tăng chi phí cho doang nghiệp: trong năm qua đã có nhiều tến bộ trong lĩnh vực cải cách hành chính công, một ví dụ cụ thể là cho đến tháng 10 năm 2004 mô hình một của-một dấu đã được triển khai ở 40% các tỉnh thành và 46% các huyện. Tuy nhiên các thủ tục hành chính công vẫn được coi là một trong những yếu tố ảnh hưởng chính tới môi trường kinh doanh bên cạnh đó vấn đề chi phí đầu vào cao. Qua khảo sát sơ bộ cộng đồng doanh nhân trong và ngoài nước cho rằng cơ sở hạ tầng yếu kém, chi phí đầu vào sản xuất cao đang làm ảnh hưởng nhiều tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Trong các chính sách đầu tư phát triển và xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế của mình Việt nam luôn chú trọng việc đầu tư phát triển môi trường kinh doanh. Chỉ xét riêng tổng vốn đầu tư được huy động và đưa vào nền kinh tế trong giai đoạn 2001-2005 đạt khoảng 976 nghìn tỷ đồng. Cơ cầu đầu tư đã có sự dịch chuyển theo hướng tích cực có sự tập trung hơn cho những mục tiêu quan trọng về phát triển kinh tế,đầu tư cho lĩnh vực kinh tế chiếm 70,9% tổng mức vốn đầu tư giai đoạn 2001-2005 Biểu: Phân bổ nguồn vốn Chỉ tiêu Tổng vốn ( nghìn tỷ đồng ) Cơ cấu (%) Vốn đầu tư thuộc khu vực nhà nước -Vốn ngân sách nhà nước -Vốn tín dụng đầu tư của nhà nước -Vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước 528 219,9 130,2 178,2 54,1 22,5 13,3 18,3 Vốn đầu tư của khu vực tư nhân và dân cư 259,3 26,6 Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 161,9 16,6 Nguồn khác 26,4 2,7 Tổng đầu tư xã hội 976 100 Trong đó: ngành nông lâm ngư nghiệp chiếm 13,1%, công nghiệp và xây dựng chiếm 43,8%, giao thông bưu điện chiếm 13,9% còn lại lĩnh vực xã hội chiếm 25,6%. Do điều chỉnh chính sách và cơ cấu đầu tư nên quy mô mở rộng đầu tư ở các vùng đều tăng. Tỷ trọng đầu tư ở các vùng miền núi, vung khó khăn cao hơn so với thời kỳ 1996-2000: tỷ trọng vốn đầu tư vùng núi phía bắc chiếm 8,3% so với tổng vốn đầu tư toàn xã hội (1996-2000 là 7,6%), vùng Bắc Trung Bộ là 8%( 1996-2000 là 7,7%), vùng duyên hải miền trung là 12,4% ( 1996-2000 là 11,6%), vùng Tây Nguyên là 5,3%( 1996-2000 là 4,8%). Cơ chế quản lý đầu tư xây dựng, công tác chỉ đạo và điều hành của Chính phủ đã có nhiều đổi mới, tạo quyền chủ động nhiều hơn cho các địa phương và chủ đầu tư. Các chính sách quản lý đầu tư được cải tiến theo hướng tăng cường công tác giám sát giảm sự can thiệp trực tiếp của nhà nước đối với hoạt động đầu tư , phân cấp triệt để cho các Bộ nghành và địa phương về thẩm quyền quyết định, tổ chức quản lý thực hiện dự án đầu tư, Tăng cường trách nhiệm của nhà đầu tư trong việc quyết định, tổ chức thực hiện và phát huy hiệu quả của công rrình. Bên cạnh nguồn vốn trong nước, giai đoạn 2001-2005 việc thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài như vốn ODA và FDI vẫn được chú trọng và góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế. Nguồn vốn ODA được ưu tiên sử dụng để hỗ trợ phát triển hạ tầng kinh tế, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và xoá đói giảm nghèo. Nguồn vốn ODA góp phần tăng cường năng lực và thể chế thông qua các chương trình, dự án hỗ trợ công cuộc cải cách pháp luật, cảI cách hành chính và xây dựng chính sách quản lý kinh tế theo lịch trình phù hợp với chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước và lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Thông qua các dự án ODA nhiều cán bộ Việt nam đã được đào tạo lại nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn. Các hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài được quan tâm đẩy mạnh tập trung chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng chiếm 81,3%, lĩnh vực dịch vụ chiếm 13,3% còn lại là lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp. Vùng đồng bằng Nam Bộ chiếm 68%, vùng đồng bằng sông Hồng chiếm 17%, vùng Trung du và miền núi phía Bắc chiếm 4% việc cấp mới và bổ sung vốn trong giai đoạn 2001-2005 tăng nhanh ước đạt 17,9 tỷ USD. Vốn đăng ký mới tập trung chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng với khoảng 12,6 tỷ USD chiếm 70,5% tổng vốn cấp mới; lĩnh vực dịch vụ khoảng 3,36 tỷ USD chiếm 18,8%; lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp khoảng 1,9 tỷ USD chiếm 10,7%. Tuy nhiên điểm nổi bật về đầu tư trong giai đoạn 2001-2005 là sự tăng lên mạnh mẽ của đầu tư từ khu vực tư nhân. Do tác động tích cực của Luật Doanh nghiệp từ năm 2001 đến năm 2004 đã có khoảng hơn 106 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với số vốn đăng ký 198,2 nghìn tỷ đồng, số doanh nghiệp gia nhập thị trường tăng bình quân mỗi năm khoảng 21,8% về số lượng và tăng 44,1% về vốn đăng ký. Số lượng doanh nghiệp thành lập mới từ năm 2001-2004 bằng 2,6 lần so với giai đoạn 1991-1999 theo luật doanh nghiệp tư nhân và luật công ty với số vốn đăng ký gấp 7,6 lần. Như vậy trong 5 năm 2001-2005 có trên 500 nghìn doanh nghiệp đăng ký với số vốn trên 305 nghìn tỷ đồng đồng thời khu vực kinh tế dân doanh đã tạo thêm 1,5 triệu việc làm mới. Tỷ trọng đầu tư của các doanh nghiệp trong nước liên tục tăng và vượt cao hơn vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước, vốn đầu tư của khu vực dân cư và tư nhân năm 2001 chíêm 23,5% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, dự kiến năm 2005 tăng 27,8%. Doanh nghiệp tư nhân đã đóng góp tích cực và kim ngạch xuất khẩu nhất là mặt hàng thủ công mỹ nghệ, chế biến nông sản, thuỷ sản,.. và đã đóng vai trò quan trọng trong tổng nguồn thu ngân sách nhà nước.Với 99% doanh nghiệp dân doanh là các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã đóng góp khoảng 26% tổng sản phẩm trong nước, 31% giá trị sản lượng công nghiệp, 78% tổng mức bán lẻ, 64% khối lượng vận chuyển hàng hoá và tạo ra khoảng 49% việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ là nơi có khả năng tiếp nhận phần lớn số lao động mới hàng năm và số lao động dôI dư trong quá trình sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước góp phần ổn định xã hội và tăng thu nhập cho người lao động. Nhờ huy động tốt các nguồn lực khối lượng vốn đầu tư đã tăng nhanh cho phép dành một lượng vốn lớn để tập trung đầu tư cho các công trình chủ yếu, quan trọng trong các nghành, lĩnh vực và địa phương, Đầu tư chuyển đổi mạnh theo hướng hiệu quả và phát huy được lợi thế từng vùng, từng ngành từng sản phẩm tăng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn, đầu tư có chiều sâu đổi mới thiết bị công nghệ tiên tiến trong các ngành công nghiệp.Trong những năm qua để cảI thiện môi trường kinh doanh Việt nam tiếp tục duy trì tổng vốn đầu tư cho ngành giao thông vận tảI và bưu điện ở mức 14% vốn đầu tư toàn xã hội. Đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách chiếm khoảng 27,5% tổng nguồn vốn ngân sách. Tập trung đầu tư cho hệ thống đường quốc lộ, đường trục quan trọng, hạ tầng giao thông nông thôn đặc biệt là ở các vùng núi biên giới. Bên cạnh đó việc chú trọng đầu tư nhằm chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn như triển khai chương trình giống cây trồng, vật nuôi có năng suất cao đặc biệt là thuỷ sản để cải thiện các ngành nông lâm, ngư nghiệp. 2.Các yếu tố tạo nên lợi thế của môi trường kinh doanh 2.1 Các định hướng chiến lược trong giai đoạn hội nhập Trong những năm qua đặc biệt là năm 2006 Việt nam đã có những nỗ lực to lớn trong việc xây dựng mới và bổ sung hệ thống pháp luật đáp ứng được yêu cầu chuyển đổi sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cũng như đáp ứng các yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Dẫu rằng hệ thống pháp luật của Việt Nam chưa hoàn toàn đồng bộ nhưng chúng ta đã tạo lập được những điều luật quan trọng nhất. Song một trong những tồn tại lớn hiện nay là nhiều đạo luật đã được ban hành nhưng chưa có những văn bản pháp quy hướng dẫn thực hiện vì thế trong những năm tới cần kiên quyết khắc phục tình trạng chậm ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành các đạo luật đã được Quốc hội thông qua đặc biệt là các luật đầu tư, luật doanh nghiệp thống nhất, luật đấu thầu,… Để thực hiện nhiệm vụ quan trọng này Chính phủ cần chỉ đạo sát sao các cơ quan chức năng có thẩm quyền hướng dẫn thi hành các đạo luật trên cơ sở xác định tiến độ thời gian hợp lý.Điều này càng có ý nghĩa quan trọng hơn khi Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức thương mại quốc tế WTO. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện pháp luật về sở hữu nhằm thể chế hoá đường lối phát triển kinh tế thị trường với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. Làm rõ nội hàm của sở hữu toàn dân và sở hữu nhà nước, các vấn đề cơ chế đảm bảo quyền sở hữu và hạn chế quyền sở hữu. Tách bạch hình thức pháp lý của doanh nghiệp với thành phần kinh tế thông qua Luật doanh nghiệp thống nhất. Hoàn thiện cơ chế bảo vệ quyền tự do kinh doanh, tạo lập môI trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, phù hợp với cam kết quốc tế và lộ trình đã công bố. Hoàn thiện pháp luật thương mại và dịch vụ theo hướng phù hợp với thông lệ quốc tế và các điều ước quốc tế mà Việt nam đã ký kết hoặc tham gia để tạo cơ sở pháp lý đáp ứng các yêu cầu về tự do thương mại-đầu tư-dịch vụ và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ mà Việt Nam đã cam kết.Tiếp tục cải cách pháp luật về thuế theo hướng ổn định và đơn giản hoá có tính đến các định chế kinh tế quốc tế và khu vực cũng như các điều ước quốc tế khác có liên quan. Hoàn thiện khung khổ pháp luật cho việc tạo lập và vận hành có hiệu quả các loại thị trường, tập trung cào các thị trường hàng hoá và dịch vụ, bất động sản, tài chính và khoa học công nghệ. Đối với các loại thị trường hàng hoá và dịch vụ phải tổ chức tốt việc triển khai thực hiện luật cạnh tranh, đổi mới quản lý nhà nước về giá phù hợp với nền kinh tế thị trường. Thực hiện tự do thương mại và đầu tư phù hợp với cam kết song phương, đa phương và theo thông lệ quốc tế. Tập trung phát triển mạnh thị trường dịch vụ nhất là thị trường dịch vụ chất lượng cao và có giá trị gia tăng lớn. Đối với thị trường lao động cần phát triển thị trường lao động đồng bộ, tạo một môi trường thông suốt để tăng sự kết gắn cung-cầu lao động, đa dạng hoá các hình thức giao dịch việc làm, đảm bảo quyền lợi lựa chọn chỗ làm việc. Thực hiện chế độ rộng rãI hợp đồng lao động, đảm bảo quyền lợi cho cả người lao động và người sử dụng lao động, phát triển thị trường nhân lực quản trị kinh doanh, tăng cường hệ thống thông tin thống kê về thị trường lao động.Đẩy mạnh xuất khẩu theo hướng tăng dần tỷ trọng lao động xuất khẩu có kỹ thuật và chuyên gia, tăng cường quản lý nhà nước với hoạt động xuất khẩu lao động. Đối với thị trường tài chính thì phát triển thị trường theo hướng có cơ cấu hoàn chỉnh, quy mô và phạm vi hoạt động rộng, an toàn, được quản lý, giám sát chặt chẽ, bảo vệ lợi ích hợp pháp của mọi đối tượng tham gia đầu tư, chủ động hội nhập thị trường tài chính quốc tế. Phát triển thị trường chứng khoán từng bước làm cho thị trường này thực sự trở thành kênh huy động vốn chủ yếu cho đầu tư phát triển. Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế từng bước phải niêm yết cổ phiếu và huy động vốn qua thị trường chứng khoán. Tăng cường hoàn thiện thị trường tiền tệ, lành mạnh hoá các giao dịch ngắn hạn và mua bán giấy tờ có giá trị trên thị trường, tăng cường liên kết giữa thị trường tiền tệ với thị trường tài chính cả về hoạch định chính sách, cơ chế hoạt động, quản lý điều hành và giám sát hoạt động. Đối với thị trường khoa học công nghệ phải thực hiện các chính sách ưu đãI, công nhận và cấp bằng sáng chế đối với các công trình khoa học và hoạt động sáng tạo, hoàn thiện và ứng dụng công nghệ mới. Hình thành các doanh nghiệp khoa học công nghệ , các tổ chức nghiên cứu ứng dụng và phát triển khoa học và công nghiệp hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp. Tạo điều kiện thúc đẩy thương mại hoá các sản phẩm khoa học công nghệ, tạo môi trường mua bán thuận lợi các sản phẩm công nghệ, gắn kết hoạt động nghiên cứu và ứng dụng công nghệ, phát triển quan hệ hợp đồng giữa doanh nghiệp sản xuất với cơ sở nghiên cứu, triển khai, phát triển công nghệ mới. Tăng cường các dịch vụ hỗ trợ về sở hữu trí tuệ, tư vấn, mua bán công nghệ, giám định, đánh giá, chuyển giao công nghệ. Hình thành các tổ chức trung gian giao dịch công nghệ, chợ công nghệ, vườn ươm công nghệ. Chuyển đổi các tổ chức công nghệ sang chế độ tự chủ tài chính hoặc doanh nghiệp, thực hiện việc công ty hoá các tổ chức nghiên cứu ứng dụng công nghệ. Xóa bỏ độc quyền trong hoạt động khoa học, hoàn thiện cơ chế đặt hàng, đấu thầu để tuyển chọn các dự án, đề tài nghiên cứu và đơn vị thực hiện sản phẩm công ích và khoa học, thương mại hoá hoạt động nghiên cứu triển khai. Bên cạnh đó để thực hiện tốt các cam kết khi tham gia WTO thì Việt Nam cần sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách tạo điều kiện và động lực cho doanh nghiệp chủ động tăng quy mô hoạt động thông qua tự tích luỹ và các biện pháp huy động vốn trên thị trường chứng khoán, phát triển hình thức công ty cổ phần. Ngoài ra Việt nam cũng luôn chú trọng đến việc phát triển các chủ thể tham gia kinh tế thị trường như; tiếp tục đổi mới tổ chức bộ máy quản lý nhà nước bằng việc xác định rõ phạm vi và nội dung quản lý kinh tế của nhà nước, điều chỉnh chức năng của chính phủ. Cơ cầu lại chính phủ theo hướng giảm mạnh các đầu mối, các Bộ quản lý nhà nước ban hành các chính sách, quy định các tiêu chuẩn, định mức chuyên ngành áp dụng cho cả nước, đồng thời kiểm tra, thanh tra việc chấp hành pháp luật.Điều chỉnh lại cơ cấu các cơ quan trong hệ thống bộ máy hành chính nhà nước các cấp theo hướng bỏ các cấp trung gian, chuyển các bộ phận phục vụ sang hình thức hợp đồng. Tăng cường quyền chủ động, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về hoạt động, về tổ chức nhân sự và tài chính qua đó thực hiện đầy đủ nguyên tắc công khai. Xây dựng nền hành chính nhanh chóng đạt trình độ chính quy hiện đại, phát huy sự đa dạng về hình thức và phương thức hoạt động của các tổ chức đoàn thể trong việc tham gia quản lý nhà nước. Việt nam đã đưa ra các chính sách nâng cao chất lượng đội ngũ công chức, cơ cấu lại doanh nghiệp để nâng cao sức cạnh tranh. Thông qua việc sắp xếp đổi mới và áp dụng chế độ quản trị doanh nghiệp hiện đại đối với các doanh nghiệp nhà nước như; hoàn thành cơ bản việc chuyển các doanh nghiệp nhà nước sang chế độ công ty, cùng một mặt bằng pháp lý với các loại doanh nghiệp khác. Đổi mới triệt để mô hình quản trị doanh nghiệp nhà nước nói chung và công ty nhà nước nói riêng trên cơ sở đảm bảo về quyền chủ sở hữu, hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp và cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp tư nhân. Tôn trọng và đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các đồng chủ sở hữu trong các doanh nghiệp, chuyển đổi các tổng công ty sang mô hình công ty mẹ-công ty con. Hình thành và phát triển các tập đoàn kinh tế, chủ yếu là tập đoàn đa sở hữu, trên cơ sở liên kết về vốn giữa các doanh nghiệp. Kiên quyết thực hiện giải thể, phá sản theo đúng quy định pháp luật đối với doanh nghiệp không đủ điều kiện và năng lực tàI chính nhằm lành mạnh hoá và tăng cường khả năng cạnh tranh và cả hệ thống doanh nghiệp Việt nam. Cải thiện môi trường đầu tư để hỗ trợ sự phát triển khu vực khu vực kinh tế ngoài quốc doanh bằng cách xây dựng hệ thống đồng bộ, điều chỉnh các loại hình doanh nghiệp theo một cơ chế chính sách thống nhất trên quan điểm nhà nước tôn trọng và đảm bảo quyền tự do kinh doanh theo pháp luật của mỗi công dân, từng doanh nghiệp trong đó coi khu vực tư nhân là yếu tố quan trọng góp phần tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho dân cư và nguồn thu cho ngân sách, thực hiện xoá đói giảm nghèo. Đẩy mạnh công việc khai hoá các quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch phát triển đô thị, các quy hoạch về phát triển kết cấu hạ tầng dân sinh( nhà ở, cấp nước, bến xe,..) trên phạm vi địa phương để các doanh nghiệp không phân biệt thành phần kinh tế, lựa chọn đầu tư phát triển.Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hợp tác xã, các trang trại và các loại hình doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân phát triển toàn diện và hiệu quả thông qua việc ban hành các cơ chế mới cho phép các doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng hơn với các chính sách khuyến khích và các chương trình hỗ trợ của nhà nước, nhất là trong việc huy động vốn đầu tư và tín dụng, thuê mặt bằng sản xuất kinh doanh, nắm bắt thông tin thị trường, khai thác tư vấn kỹ thuật và đào tạo phát triển nguồn nhân lực cũng như tiếp cận với các dịch vụ phát triển kinh doanh. Nhà nước phải thành lập thêm các quỹ hỗ trợ đầu tư, cho vay trung hạn, dài hạn phục vụ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, lập quỹ bảo lãnh tín dụng, mở rộng hình thức tín dụng thuê mua tàI chính, tín chấp ưu đãi, miễn giảm một số loại thuế và đổi mới công nghệ cho các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động. Khuyến khích phát triển các khu vực có vốn đầu tư nước ngoài bằng cách tiếp tục đơn giản hoá các thủ tục cấp phép đầu tư, mở rộng chế độ đăng ký cấp phép đầu tư cho các dự án không thuộc danh mục cấm hoặc hạn chế đầu tư. Cụ thể hoá và thu hẹp các lĩnh vực không cấp giấy phép đầu tư và điều kiện cấp phép với các lĩnh vực đầu tư có điều kiện. Mở rộng hình thức thu hút vốn đầu tư nước ngoài qua đầu tư gián tiếp, mua lại, sáp nhập. Đa dạng hoá các hình thức pháp lý của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoàI, chủ động thu hút nhiều tập đoàn đa sở hữu của nước ngoàI đầu tư vào Việt nam. Giảm dần và tiến tới xoá bỏ các quy định đặc thù đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Xoá bỏ những hạn chế về vốn góp và huy động vốn của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Sửa đổi, bổ sung các biện pháp hiện hành hạn chế thương mại, những hạn chế về tiếp cận thị trường, trước hết đối với các dự án trong ngành sản xuất chế tạo hoặc có tỷ lệ xuất khẩu, tỷ lệ nội địa hoá cao, phục vụ thay thế xuất khẩu và các dự án phát triển các nguồn nguyên liệu trong nước. Thể chế hoá việc nhà đầu tư nước ngoài thế chấp tài sản gắn liền với đất và giá trị quyền sử dụng đất để vay vốn tại các tổ chức tín dụng được phép hoạt động tại Việt nam. Thời hạn thuê đất được gia hạn tự động nếu nhà đầu tư có nguyện vọng, tiền thuê đất được xác định trên cơ sở thoả thuận. áp dụng thống nhất về phí hàng hoá dịch vụ, giá thuê đất, chi phí đền bù, giải phóng mặt bằng giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. 2.2 Những kết quả đạt được Mặc dù gặp những điều kiện không thuận lợi và đi lên từ một nước có nền kinh tế thị trường hoạt động theo định hướng xã hội chủ nghĩa nhưng với những chính sách phù hợp Việt nam đã và đang từng bước cải thiện môI trường kinh doanh đầu tư. Điều này được phán ánh qua mức tăng trưởng GDP cao nhất trong 8 năm trở lại đây. Tất cả các khu vực kinh tế đều tăng trưởng với tốc độ nhanh so với năm trước, tổng vốn đẩu tư tiếp tục tăng cao ( 21 tỷ USD) chiếm 28,9% GDP. Trong đó đầu tư tư nhân chiếm hơn 32% tổng vốn và được khẳng định là có tốc độ phát triển nhanh nhất tăng 28% so với năm trước. Đầu tư của khu vực tư nhân có hiệu quả cao hơn so với khu vực nhà nước đã giúp tạo ra nhiều công ăn việc làm. Vốn đầu tư tăng ở khu vực này là một dấu hiệ đáng mừng cho thấy tiềm lực trong nước đang tăng lên và khẳng định các chính sách của Việt nam nhằm cải thiện môI trường kinh doanh đang dần phát huy hiệu quả. Vốn FDI năm nay cũng tăng gần 40%, đạt 5,8 tỷ USD mức cao nhất trong 10 năm( trong đó đầu tư mới là 4 tỷ USD, đầu tư bổ sung là 1,9 tỷ USD) . Có thể nhận thấy rằng năm 2006 đã khởi đầu cho một làn sang FDI mới sau khi Việt Nam trở thành một thành viên chính thức của tổ chức thương mại quốc tế WTO trong điều kiện nền kinh tế đang hội tụ những điều kiện thuận lợi: Nền kinh tế tăng trưởng mạnh, trong khi vẫn duy trì được nền kinh tế vĩ mô vững chắc( tỷ lệ nợ thấp, lạm phát ở mức có thể chấp nhận được, tỷ lệ tiết kiệm cao và sự phân hoá giàu nghèo thấp). Môi trường chính trị và xã hội ổn định và là một nước quốc gia yên bình không nằm trong khu vực nhiều thiên tai và chi phí nhân công lại thấp. Các nhà đầu tư nước ngoài cũng đang tìm kiếm cơ hội đầu tư và Việt nam đang xem là một nhân tố quan trọng trong chiến lược “ Trung Quốc +1” của các công ty xuyên quốc gia. Nhật bản đang xếp Việt nam nằm trong số 3 thị trường đầu tư hàng đầu của họ và một số lượng lớn các đầu tư của Nhật đã và đang chuyển dần hoạt động sản xuất sang Việt nam. Cho đến nay Việt nam hiện đã thu hút được hơn 50,5 tỷ USD vốn trong các dự án FDI vẫn còn có hiệu lực trong đó 60,8% nguồn vốn đến từ Châu á, Singapore, Nhật Bản,..Cơ cấu FDI được định hướng chủ yếu vào các ngành công nghiệp xuất khẩu, khai thác lợi thế so sánh của Việt Nam do nguồn nhân công và tài nguyên dồi dào. Tuy nhiên hiện có dấu hiệu gia tăng FDI vào các lĩnh vực dịch vụ điều này phản ánh môI trường kinh tế thông thoáng hơn và đời sống sức mua trong nước ngày càng tăng, Ngành công nghiệp kỹ thuật cao cũng đang tìm đường đến Việt nam khởi đầu bằng việc Intel xây dựng nhà máy sản xuất chíp và linh kiện máy vi tính đầu tiên trị giá 605 triệu USD. Hiện tại có hơn 3.000 doanh nghiệp FDI hoạt động rất tốt tại Việt nam và trong năm 2005 khu vực này đạt doanh thu 21 tỷ USD( tăng 16,7%), tổng giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI đạt 13,3 tỷ USD đóng góp quan trọng trong tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và chiếm một phần đáng kể trong các ngành công nghiệp then chốt. VI. Lợi thế về tài chính Trong những năm đầu của kế hoạch 5 năm 2006-2010, áp lực mục tiêu tăng trưởng đã giảm đáng kể so với những năm trước. Mục tiêu tốc độ tăng trưởng trong năm 2007 mà Quốc hội đặt ra là 8% và kiềm chế lạm phát sẽ là tâpk trung của chính sách trong năm tới khi tốc độ gia tăng giá cả đã ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống của người dân như vậy tình hình lãi suất sẽ rất nóng bỏng theo xu thế kiềm chế tốc độ gia tăng tín dụng và tập trung vào cải thiện chất lượng vốn cho vay của Ngân hàng. Thị trường tàI chính trong năm 2007 sẽ rất sôi động với sự khởi đầu của nhiều công ty bảo hiểm nước ngoài và sự tham gia thị trường của nhiều Ngân hàng quốc tế. Mặc dù thị trường Ngân hàng vẫn chưa được mở cửa cho đến năm 2008 theo lộ trình BTA, nhiều Ngân hàng quốc tế sẽ nỗ lực tìm kiếm đối tác Việt Nam và trở thành các cổ đông chiến lược bằng cách mua lại các cổ phần ngân hàng trong nước, tạo cơ sở cho sự tham gia thị trường của họ trong vài năm tới. Các Ngân hàng thương mại tiếp tục hoạt động có lãi khi nền kinh tế trên đà phát triển mạnh mẽ, dù vậy nhiều rủi ro vẫn đang tiềm ẩn trong thị trường bất động sản. Tình hình khó có thể được cảI thiện đáng kể trong những năm tới khi giá đất đang bị các hoạt động đầu cơ đẩy lên khá cao so với khả năng của đại bộ phận dân chúng. Nếu nhà đầu tư bất động sản bị phá sản hay giá đất giảm xuống mức thực tế một cách quá nhanh thì hệ thống Ngân hàng sẽ bị ảnh hưởng đáng kể. Thị trường chứng khoán trong những năm tới sẽ khởi sắc với sự tham gia thị trường của các công ty lớn và hấp dẫn như Vinamilk, Sacombank,..tạo nên nhiều cơ hội đầu tư và xâm nhập của các nhà đầu tư nước ngoài. Năm 2007 cũng sẽ là năm của các Tổng công ty huy động vốn trên thị trường quốc tế qua việc phát hành cổ phiếu doanh nghiệp nhằm tàI trợ các dự án đầu tư dài hạn. Tăng cường vay tín dụng trên thị trường quốc tế đem lại cho các doanh nghiệp cơ hội huy động vốn dàI hạn với lãi suất cạnh tranh đồng thời gia tăng rủi ro tài chính của nền kinh tế( đặc biệt trong bối cảnh Việt nam đang từng bước tự do hoá các giao dịch vốn) do đó đòi hỏi Chính phủ phải có những nỗ lực nâng cao công tác quản lý vốn và sử dụng vốn có hiệu quả trong giai đoạn hội nhập. Nhà nước phải luôn là thành phần nòng cốt của các Ngân hàng thương mại nhà nước, đồng thời đảm bảo quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm và cạnh tranh lành mạnh của các Ngân hàng thương mại trong toàn hệ thống theo pháp luật. Phát triển và nâng cao chất lượng hệ thống quỹ tín dụng nhân dân để thực sự trở thành tổ chức tín dụng hợp tác động lập trên nguyên tắc tự nguyện, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động. Tạo điều kiện thuận lợi cho công chúng và doanh nghiệp tiếp cận với các dịch vụ Ngân hàng, trên cơ sở đó mở rộng các hình thức thanh toán qua Ngân hàng.Đảm bảo quyền kinh doanh của các Ngân hàng và tổ chức tài chính nước ngoài theo cam kết quốc tế. Loại bỏ các hình thức bảo hộ, bao cấp,ưu đãI và phân biệt đối xử giữa các tổ chức tín dụng. Thực hiện mở của thị trường dịch vụ Ngân hàng và hội nhập quốc tế trong lĩnh vực Ngân hàng theo đúng lộ trình đã cam kết tại các hiệp định song phương và đa phương.Phấn đấu hoàn thành về cơ bản chương trình tái cơ cấu Ngân hàng thương mại đã được Chính phủ phê duyệt. Nâng cao khả năng sinh lời, xử lý dứt điểm nợ tồn đọng và cải thiện bảng cân đối tài sản của các Ngân hàng thương mại. Phát hành cổ phiếu và tráI phiếu dài hạn để tăng vốn tự có theo đúng chuẩn mực quốc tế. Đến năm 2010 hình thành đồng bộ khuôn khổ pháp lý, áp dụng đầy đủ các thíêt chế và chuẩn mực quốc tế về an toàn kinh doanh tiền tệ-ngân hàng, hoàn thiện căn bản Luật Ngân hàng nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng. Qua đó phát triển thị trường tàI chính theo hướng có cơ cấu hoàn chỉnh, quy mô và phạm vi hoạt động rộng, an toàn được quản lý giám sát chặt chẽ, nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của mọi đối tượng tham gia đầu tư, từ đó chủ động hội nhập thị trường tài chính quốc tế. Phát triển mạnh thị trường chứng khoán, từng bước là cho thị trường này thực sự trở thành kênh huy động vốn chủ yếu cho đầu tư phát triển. Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế từng bước phảI niêm yết cổ phiếu và huy động vốn qua thị trường chứng khoán. Tăng cường hoàn thiện thị trường tiền tệ, lành mạnh hoá các giao dịch vốn ngắn hạn và mua bán các giấy tờ có giá trên thị trường, tăng cường liên kết giữa thị trường tiền tệ với thị trường tàI chính cả về hoạch định chính sách, cơ chế hoạt động, quản lý điều hành và giám sát hoạt động. V. Lợi thế về các ngành dịch vụ Vượt qua nhiều khó khăn thách thức xuất khẩu dịch vụ thời kỳ 2001-2005 đạt 21.1 tỷ USD với tốc độ bình quân là 15,7%/năm, bằng khoảng 19% so với kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá, xấp xỉ mức bình quân của thế giới ( bình quân của thế giới là 20%) trong đó một số ngành dịch vụ xuất khẩu đạt khá như: hàng không, bưu chính viễn thông, hàng hải, tài chính-ngân hàng, du lịch. Cơ cấu thị trường xuất khẩu có nhiểu chuyển đổi tích cực, giảm dần sự phụ thuộc vào thị trường Châu á, ổn định xuất khẩu vào thị trường Châu Âu, tăng nhanh xuất khẩu vào thị trường Châu Mỹ đặc biệt là thị trường Hoa Kỳ. Ngoài ra còn mở rộng nhiều thị trường mới có tiềm năng trong những năm tới khi Việt Nam đã là thành viên chính thức của WTO. Về nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ cũng có nhiều biến đổi, đạt khoảng 129,6 tỷ USD trong giai đoạn 2001-2005. Về cơ bản đã thực hiện được chủ trương nhập khẩu đảm bảo phục vụ có hiệu quả cho phát triển sản xuất và đổi mới công nghệ, thúc đẩy nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh hàng hoá đáp ứng nhu cầu cần thiết của đời sống và xuất khẩu. Về cơ cấu nhập khẩu, nhóm hàng nguyên, nhiên vật liệu chiếm tỷ trọng ưu thế, tốc độ tăng bình quân 5 năm đạt 17,9%, chiếm tỷ trọng 61,5% tổng kim ngạch nhập khẩu. Nhập khẩu của khu vực doanh nghiệp trong nước chiếm tỷ trọng chi phối nhưng đang có xu hướng giảm dần bên cạnh đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoàI trong tổng kim ngạch nhập khẩu cả nước có xu hướng tăng dần. Tổng kim ngạch nhập khẩu dịch vụ trong 5 năm 2001-2005 đạt 21,2 tỷ USD tăng bình quân 10,3%. Tuy nhiên trong năm 2006 thị trừơng bảo hiểm tăng thấp hơn kỳ vọng rất nhiều chỉ tăng trưởng ở mức 8,66% giảm sút đáng kể so với mức 20,2% trong năm 2004. Tổng doanh thu đạt mức 980 triệu USD hay chiếm 2,03% GDP trong đó phí bảo hiểm chiếm 850 triệu USD và doanh thu từ hoạt động đầu tư là 130 triệu USD. Số lượng các hợp đồng mới tăng 3,27 % trong khi tổng giá trị các hợp đồng mới chỉ đạt 1,3 tỷ USD( 9,24% của mức năm 2004) với gía trị trung bình của mỗi hợp đồng năm 2005 giảm 8,7%. Trong thị trường bảo hiểm nhân thọ thì Prudential vẫn dẫn đầu chiếm 41% thị phần phí bảo hiểm của tất cả các hợp đồng bảo Việt chỉ đứng thứ 2 với 38% thị phần. Với sự tham gia của các công ty quốc tế, áp lực cạnh tranh sẽ tiếp tục gia tăng và Bảo Việt sẽ phải chịu sức ép lớn mặt dù đã chuyển đổi thành một tập đoàn tài chính và đa dạng hoá các hoạt động của mình.Trong năm 2007 theo lộ trình thực hiên Hiệp định thương mại song phương BTA với Hoa Kỳ thị trường bảo hiểm sẽ được mở cửa hơn cho các công ty của Mỹ mặc dù hiện nay đã có nhiều công ty nước ngoài được cấp phép hoạt động như: AAA, AIG,.. Thị trường phi nhân thọ tiếp tục đạt mức tăng trưởng cao 20%. Tổng giá trị tài sản được bảo hiểm đã tằn 50% và phí bảo hiểm tăng 20%, bảo Việt vẫn giữ vị trí dẫn đầu thị trường này nhưng thị phần bị thu hẹp từ 40% xuống còn 38%, Thị trường này hiện vẫn do các công ty trong nước nắm giữ công ty nước ngoàI chỉ chiếm vào khoảng 7% thị phần. VI. Lợi thế về Nông nghiệp Việt Nam là quốc gia đang phát triển ở trình độ cấp thấp, giá nhân công rẻ do thu nhập người dân còn thấp, bên cạnh đó là lợi thế do thiên nhiên ưu đãi, khí hậu ôn hoà, bờ biển trải dài, tài nguyên phong phú sẽ là nơi hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài trong tất cả các lĩnh vực du lịch, thương mại, dịch vụ và sản xuất công nghiệp. Sự thành công của các khu chế xuất, khu công nghiệp Tân Thuận, Linh Trung, Tân Tạo tại TP Hồ Chí Minh, các khu công nghiệp ở Đồng Nai, Bình Dương..., kim ngạch xuất khẩu và GDP của Việt Nam tăng hàng năm đã minh hoạ cho các lợi thế, và các chủ trương kêu gọi đầu tư của Việt Nam. Là một nước có nguồn lao động dồi dào, giá nhân công rẻ sẽ giúp Việt Nam thu hút được các doanh nghiệp đầu tư vào các ngành sử dụng nhiều nhân công như may mặc, da giầy...Điều này sẽ giải quyết lớn được vấn đề công ăn việc làm cho người lao động. Với bờ biển trải dài và khí hậu ôn hoà sẽ giúp Việt Nam có cơ hội phát triển các sản phẩm nông nghiệp như nuôi trồng thuỷ sản, các cây lương thực như lúa gạo, các cây công nghiệp như cao su, cà phê, tiêu, điều và các vùng rau, hoa, quả, vùng chăn nuôi gia súc, gia cầm. Cơ hội này càng được nhân lên khi Việt Nam tham gia vào WTO, các định chế tự do thương mại được thực hiện thì sẽ không còn các rào cản về hạn ngạch Quota, sản phẩm xuất khẩu từ Việt Nam không chỉ xuất khẩu cho một số thị trường truyền thống như Nhật Bản, Pháp, Đức, Nga.... mà sẽ dễ dàng vào các thị trường Mỹ, các quốc gia Châu Âu và các quốc gia khác trên thế giới. Đây không chỉ là cơ hội mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước mà còn là cơ hội để các nhà đầu tư nước ngoài đến Việt Nam để khai thác các lợi thế xuất khẩu của Việt Nam. Các cam kết mở cửa thị trường, giảm thuế nhập khẩu của Việt Nam sẽ giúp cho sản phẩm hàng hoá Việt Nam giảm giá đáng kể do đầu vào của nguyên liệu được giảm thuế, và khi xuất khẩu theo nguyên tắc có đi có lại của các quốc gia thành viên WTO, sẽ không có sự áp đặt thuế nhập khẩu của các quốc gia nhập khẩu, sẽ tạo cho sản phẩm của Việt Nam dễ cạnh tranh hơn, như thế cũng tạo cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam (kể cả các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài ở Việt Nam). Khi các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam, các sản phẩm của các doanh nghiệp này sẽ ghi xuất xứ “Made in Việt Nam”, kim ngạch xuất khẩu, các chỉ tiêu tính GDP thuộc Việt Nam, nguyên tắc không phân biệt đối xử, luật đầu tư chung của Việt Nam đã khẳng định không phân biệt đối xử với các đối tượng sở hữu doanh nghiệp, vì thế những doanh nghiệp này phải được xem là doanh nghiệp có tư cách pháp nhân ở Việt Nam, chịu trách nhiệm pháp lý về kinh doanh tại Việt Nam và được hưởng các quyền lợi chính đáng của một doanh nghiệp Việt Nam. Điều này sẽ thu hút được một lượng vốn đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam. Kinh tế Việt Nam phát triển và tăng trưởng nhanh trong mấy năm gần đây do lợi thế xuất khẩu, sẽ tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người dân. Người dân có thu nhập cao, sẽ có nhu cầu mua sắm và tạo ra nhu cầu của thị trường và tạo ra sự kích thích sản xuất. Đây là cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam và các nhà đầu tư nước ngoài trong việc chiếm lĩnh thị trường đầy tiềm năng này. Yếu tố chính trị ổn định của Việt Nam cũng là một lợi thế giúp cho các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài yên tâm bỏ vốn kinh doanh. KẾT LUẬN Việc gia nhập WTO là một cơ hội và thách thức đối với Việt Nam. Với tư cách là thành viên chính thức của WTO chúng ta sẽ thu được nhiều lợi ích mà quan trọng nhất là đưa nền kinh tế Việt Nam phát triển,hoà nhập với nền kinh tế chung của thế giới, từ đó dần nâng cao vị thế của kinh tế Việt nam trên trường quốc tế. Khi trở thành thành viên chính thức của WTO sẽ mang đến những cơ hội cho các nhà xuất khẩu cải thiện khả năng tiếp cận thị trường và mang đến nhiều lợi thế trong giảI quyết tranh chấp thương mại cho phép hàng hoá Việt nam được cạnh tranh trêan mặt bằng bình đẳng với các nước thành viên khác. Nhưng là thành viên chính thức Việt nam cũng sẽ gặp nhiều khó khăn do địa vị kinh tế, đặc điểm xã hội-chính trị là một nước đang phát triển. Tuy nhiên với sự nỗ lực của mình, Việt Nam sẽ tiếp tục đổi mới mạnh mẽ hơn nữa về tư duy, tạo sự đồng thuận trong nhận thức ở tất cả các cấp về công cuộc đổi mới nói chung, về hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng đến việc tiếp tục đổi mới hệ thống pháp luật và cơ chế chính sách, đổi mới hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế, nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp. TÀI LIỆU THAM KHẢO Giải pháp các vấn đề về thủ tục gia nhập WTO- NXB Thế giới, Hà Nội Số liệu thống kê tình hình phát triển kinh tế xã hội Việt Nam giai đoạn 2001-2005 Những đặc điểm cơ bản và xu thế phát triển kinh tế của các nước đang phát triển-Tạp trí những vấn đề kinh tế thế giới( t1-2006) Thông tấn xã Việt Nam, Các vấn đề quốc tế(2/2005) Tìm hiểu tổ chức Thương mại quốc tế WTO-NXB Chính trị quốc gia, Hà nội, Kinh tế Việt Nam trong quá trình gia nhập WTO-NXB Thế giới, Hà nội Thông tin kinh tế tại Website Bộ thương mại Thông tin tại Website Tổng cục thống kê Thông tin tại Website Bộ Tài chính

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docWTO và những vấn đề đặt ra cho Việt Nam khi trở thành WTO.doc
Luận văn liên quan