Một lần nữa, các nhà quản lý đã thiết lập một môi trường khuyến khích hơn và mở
rộng hơn. Họ có thể tạo ra các diễn đàn nghiên cứu. có những chư ơng trình hoặc sự kiện
được thiết kế với mục tiêu nghiên cứu kích thích và chúng có thể thực hiện ở nhiều dạng :
sự cân nhắc chiến lược mà thử nghiệm thay đổi môi trường cạnh tranh và danh mục vốn đầu
tư công ty, công nghệ và vị trí thị trường, sự thẩm tra hệ thống nhìn nhận lại tình trạng sức
khỏe, các quy trình chức năng ngang và hệ t hống phân phối; các báo cáo chuẩn trong nội bộ
nhận dạng và so sánh các hoạt động phân lớp tốt nhất cùng với tổ chức; nhiệm vụ nghiên
cứu mà điều phối việc dẫn dắt tổ chức xung quanh thế giới để hiểu tốt hơn những biểu hiện
của chúng và các kỹ năng riêng biệt; và các buổi liên hoan hay hội nghị chuyên đề mang
khách hàng và nhà cung ứng cùng các chuyên gia bên ngoài hay các nhóm bên trong lại với
nhau chia sẽ ý tưởng và n ghiên cứu từ người khác. Mỗi một hành động này cổ vũ nghiên
cứu bằng cách đòi hỏi nhân viên đấu tranh với kiến thức mới và sự xem xét hàm ý của nó.
Mỗi cái cũng có thể hoàn toàn thích hợp với nhu cầu kinh doanh. Ví dụ 1 công ty khách
hàng tiêu thụ tốt có thể tài trợ một nghiên cứu để châu âu phát triển hệ thống phân phối
trong bối cảnh thị trường chung hợp nhất.trong khi các công ty công nghệ cao có thể lao
vào kiểm tra hệ thống để xem xét lại quy trình phát triển sản phẩm của chúng
22 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2970 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Xây dựng một tổ chức học tập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DẪN
o TS. NGUYỄN HỮU LAM
o ThS. TRẦN HỒNG HẢI
NGUYỄN DIỆU NGUYÊN KHANH
TRƯƠNG THỊ HỒNG NGUYỆT
TRẨN THỊ ÁNH NGUYỆT
NGUYỄN ĐÌNH MINH TÂM
TP. Hồ Chí Minh – 2010
Những chương trình cải tiến liên t ục xuất hiện ở khắp nơi vì các tổ chức phấn đấu để
trở nên tốt hơn và đạt được vị thế nhất định. Một danh sách các chủ đề dài và da dạng, thỉnh
thoảng có vẻ như cần phải có một tháng một chương trình mới có thể theo kịp sự phát triển
chung. Không may, đến nay chương trình đã thất bại nhiều hơn thành công, và tỷ lệ cải tiến
vẫn thấp. Tại sao? Bởi vì hầu hết các công ty đã thất bại trong việc nắm bắt một sự thật cơ
bản. Việc cải t iến liên tục đòi hỏi một sự cam kết học tập.
Tuy nhiên sau tất cả những điều đó, một tổ chức có thể cải tiến mà không cần một
điều gì mới không? Giải quyết một vấn đề, giới thiệu một sản phẩm, và thiết kế lại một quy
trình tất cả đòi hỏi phải nhìn thế giới trong một ánh sáng mới và hành động theo. Trong điều
kiện thiếu vắng sự học tập, các công ty, cá nhân chỉ đơn giản lặp lại thông lệ cũ. Thay đổi
mỹ phẩm đang có và cải tiến chúng có thể là do tình cờ hay sản phẩm có đời sống ngắn.
Một vài nhà quản trị nhìn xa trông rộng, như Ray Stata của Analof Device, Gordon
Forward của Chaparral Steel, Paul Allaire của Xerox đã nhận ra được mối liên kết giữa học
tập và cải tiến liên tục và bắt đầu t ập trung các công ty của họ xung quanh vấn đề này. Các
học giả đã hô hào cho “tổ chức học tập” và “công ty tạo dựng kiến thức”. Trong các doanh
nghiệp thay đổi nhanh chóng như chất bán dẫn và tiêu dùng điện tử, các ý tưởng này đang
nhanh chóng chiếm vị trí cao. Mặc dù chưa có dấu hiệu được khuyến khích, phần lớn chủ
đề vẫn còn âm u, bối rối và khó khăn để xâm nhập.
Ý nghĩa, quản lý và đo lường
Các học giả cũng một phần có trách nhiệm. Thảo luận của họ về tổ chức học tập
thường mang tính chất xa vời và không tưởng, chứa đầy những thuật ngữ bí hiểm. Họ làm
cho bạn tin là thiên đường chỉ đâu quanh đây. Pet er Senge, người phổ biến tổ chức học tập
trong cuốn sách của ông Nguyên tắc thứ năm mô tả các tổ chức học tập là nơi mà “ con
người liên tục mở rộng khả năng của họ để t ạo ra được kết quả mà họ thật sự mong muốn,
nơi mà các mẫu tư duy mở rộng được nuôi dưỡng, nơi mà hàng loạt khát vọng được tự do
và nơi mà mọi người liên tục học hỏi cách cùng nhau học tập. Để đạt được các mục đích
này Senge đã đề nghị sử dụng năm “kỹ thuật chi tiết” : suy nghĩ hệ thống, khả năng cá nhân
hoàn hảo, các mô hình tư duy, tầm nhìn chung và học t ập theo nhóm. Trong tinh thần
tương tự, Ikujiro Nonaka đã phác họa các công ty hình thành kiến thức là nơi mà “tạo ra
kiến thức mới không phải là một họat động đặc biệt… đó là một cách hành xử, một cách tồn
tại trong đó mọi người đều là công nhân tri t hức”. Nonaka đã đề nghị rằng các công ty sử
dụng nguồn lực dư t hừa của tổ chức để t ập trung vào tư duy, khuyến khích đối thoại và làm
cho các ý tưởng được bộc lộ.
Nghe có vẻ bình dị phải không? Hoàn toàn đúng. Có vẻ tha thiết phải không? Không
còn nghi ngờ gì nữa. Nhưng nó có cung cấp một khuôn khổ cho các hành động? H ầu như
không. Các khuyến nghị quá trừu tượng, và quá nhiều câu hỏi vẫn chưa được trả lời. Ví dụ
như làm thế nào các nhà quản lý sẽ biết khi nào công ty của họ đã trở thành tổ chức học
tập? Những thay đổi cụ thể nào trong hành vi cần phải có? Những chính sách và chương
trình gì phải được thực hiện? Làm thế nào để bạn đi được từ đây đến đó?
Hầu hết các cuộc thảo luận của các tổ chức học tập đều đề cập đến những vấn đề
này. Tập trung của họ là triết lý cao và chủ đề lớn, phép ẩn dụ sâu rộng hơn là các chi tiết
thực hành. Ba vấn đề quan trọng vẫn chưa được giải quyết, và mỗi cái lại cần thiết cho việc
tiến hành công việc hiệu quả. Đầu tiên là câu hỏi về ý nghĩa. Chúng ta cần một định nghĩa
chính đáng, có căn cứ của tổ chức học tập, nó phải thực hiện được và dễ dàng để áp dụng.
Thứ hai là câu hỏi về quản lý. Chúng ta cần nhũng hướng dẫn rõ ràng hơn cho việc thực
hành, có những lời khuyên rõ ràng hơn là khát vọng cao. Và thứ ba là câu hỏi về đo lường.
Chúng tôi cần có công cụ tốt hơn để đánh giá tỷ lệ và mức độ học tập của tổ chức để bảo
đảm là tổ chức thật sự học được nhiều điều.
Một khi “3M” (meaning, management, measurement) được xác định, các nhà quản
lý này sẽ có một nền tảng vững chắc hơn cho việc tổ chức phát động học tập. Nếu không có
nền tảng này, thì không thể có tiến bộ. Để học tập trở thành mục tiêu có ý nghĩa của công
ty, mọi người cần phải hiểu nó một cách thấu đáo.
Tổ chức học tập là gì?
Thật đáng ngạc nhiên, qua bao nhiêu năm vẫn chưa có một định nghĩa rõ ràng về học
tập. Các nhà lý thuy ết về tổ chức đã nghiên cứu vấn đề học tập trong một thời gian dài, và
các báo cáo đi kèm cho thấy vẫn còn có sự bất đồng đáng kể. Hầu hết các học giả cho là
việc học tập theo tổ chức là một quá trình phát triển theo thời gian và có liên hệ với việc
tiếp nhận kiến thức và thưc hiện công việc. Nhưng chúng khác nhau về những vấn đề quan
trọng khác.
Một số ví dụ tin rằng thay đổi hành vi là cần thiết cho học tập, những người khác
nhấn mạnh rằng cách suy nghĩ mới là đủ. một số trích dẫn xử lý thông tin như cơ chế mà
qua đó học t ập diễn ra, những người khác đề xuất chia sẻ những hiểu biết, thói quen tổ
chức, ngay cả bộ nhớ. Và một số suy nghĩ cho rằng tổ chức học tập là phổ biến, trong khi
những người khác tin rằng thiếu sót, giải thích tự - phục vụ là những chỉ t iêu
Làm thế nào chúng ta có thể phân biệt giữa các câu nhiễu âm của giọng nói này mà
chưa xây dựng trên những hiểu biết trước đó? Bước đầu tiên, hãy xem xét các định nghĩa
sau đây
Một tổ chức học tập là một tổ chức có k ỹ năng sáng tạo, mua lại, chuyển giao kiến
thức, và đôi lúc phải sửa đổi hành vi để phản ánh kiến thức và những hiểu biết mới
Định nghĩa này bắt đầu với sự thật đơn giản: Nếu việc học tập diễn ra thì những ý
tưởng mới rất cần thiết. Đôi khi chúng được t ạo ra thông qua cái nhìn t hoáng qua hay cái
nhìn sâu sắc hoặc s áng tạo, vào các thời điểm khác họ đến từ bên ngoài tổ chức, được
truyền đạt bởi người trong kiến thức. Dù nguồn gốc của họ được kích hoạt những ý tưởng
để cải tiến tổ chức. Nhưng họ có thể không tự tạo ra một tổ chức học tập. Nếu không có
thay đổi đi kèm trong cách làm việc được thực hiện, chỉ có tiềm năng để cải tiến tồn tại.
Đây là một thử nghiệm đáng ngạc nhiên cho quy tắc nghiêm ngặt trong một số ứng
cử viên rõ ràng cho việc học t ập, tổ chức. Nhiều trường đại học không đủ điều kiện, cũng
như nhiều công ty tư vấn. Ngay cả General M otors, bất chấp những nỗ lực gần đây của
mình để cải thiện hiệu suất, được tìm thấy muốn. Tất cả các tổ chức này đã được hiệu quả
tạo ra hoặc mua lại những kiến thức mới nhưng đáng chú ý là không thành công trong việc
áp dụng kiến thức đó để hoạt động của mình. Tổng số quản lý chất lượng, ví dụ, hiện đang
giảng dạy tại các trường kinh doanh nhiều, nhưng số lượng sử dụng nó để hướng dẫn việc
ra quy ết định riêng của họ là rất nhỏ. Tổ chức tư vấn tư vấn cho khách hàng về tính năng
động xã hội và hành vi nhóm nhỏ nhưng nổi tiếng cho bè phái riêng và của họ. Và GM với
một vài ngoại lệ, đã có chút thành công trong cải tạo thực tiễn sản xuất của mình, mặc dù
các nhà quản lý của nó là những chuyên gia về sản xuất lean. Sản xuất đúng lúc, và các y êu
cầu về chất lượng công việc cuộc sống được cải thiện.
Các tổ chức làm vượt qua Honda thử nghiệm, Corning, và General Eletric đến một
cách nhanh chóng để tâm trí - có, ngược lại, trở thành lão luyện dịch kiến thức mới vào
cách thức mới để hành xử. Các công ty này chủ động quản lý quá trình học tập để đảm bảo
rằng nó xảy ra bởi thiết kế hơn là do cơ hội. chính sách riêng biệt và thực hành có trách
nhiệm thành công của họ, chúng t ạo thành các khối xây dựng của t ổ chức học t ập.
Các định nghĩa về tổ chức học tập
Nhiều nhà học giả đã đưa ra rất nhiều định nghĩa khác nhau về tổ chức học tập, Đây
là các ví dụ nhỏ.
Tổ chức học tập nghĩa là quá trình của các hành động cải tiến thông qua các k iến
thực và sự hiểu biết tốt hơn. C. M arlene Fiol và Marjorie A. Lyles, “Organiz ational
learning” Academy of M anagement review, tháng 10 năm 1985.
Một thực thể học nếu, thông qua quá trình của thông tin, phạm vi của hành vi tiềm
năng được thay đổi. George P. Huber, “Organiz ational learning:. The Contributing
Pricesses and the Literarures,” Organization Science, tháng 2, 1991
Một tổ chức được xem như là học tập bằng việc mã hóa suy luận từ lịch sử đến các
thói quen mà t ạo các hành vi. Barbara Levitt va James G. March, “ Organizational
Learning,” Americam review of Sociology, Vol 14, 1988
Tổ chức học tập là một quá trình phát hiện và làm đúng các lỗi sai. Chris Argyris,
“Double Loop Learning in Organization” Harvard Business Review, Tháng 8-9, 1977
Tổ chức học t ập xuất hiện thông qua sự chia sẻ các hiểu biết, kiến thức và các mô
hình tâm linh… được xây dựng từ các kiến thức và kinh nghiệm từ quá khứ trong trí nhớ.
Ray Stat a, “ Organizational Learning” The key to M anagemnent Innovation, “ Sloan
Management review, Spring 1989.
Xây dựng khối
Học tập các tổ chức có kỹ năng 5 hoạt động chính: hệ thống giải quyết vấn đề, thử
nghiệm với phương pháp tiếp cận mới, học hỏi từ kinh nghiệm riêng của họ và lịch sử vừa
qua, học hỏi từ những kinh nghiệm và t hực hành tốt nhất của những người khác, và kiến
thức chuy ển giao một cách nhanh chóng và h iệu quả của tổ chức. Mỗi kèm theo một bộ
riêng biệt, tâm trí, bộ công cụ, và mô hình của hành vi. Nhiều công ty thực hành các hoạt
động này ở mức độ nào. Nhưng ít được luôn thành công bởi vì họ dựa phần lớn vào sự việc
diễn ra và ví dụ cô lập. Bằng cách tạo ra các hệ thống và quy trình có hỗ trợ các hoạt động
này và tích hợp chúng vào cơ cấu hoạt động hàng ngày, các công ty có thể quản lý học tập
của mình hiệu quả hơn.
1. Các hệ thống giải quyết vấn đề: Hoạt động này đầu tiên thuộc rất nhiều vào triết lý và
phương pháp của phong trào chất lượng. ý tưởng cơ bản của nó, bây giờ chấp nhận rộng
rãi, bao gồm:
Phụ thuộc vào phương pháp khoa học, hơn là phỏng đoán, để chẩn đoán các vấn đề
(những gì gôi là vòng tròn Deming “kế hoạch , làm, kiểm tra, hành động" chu kỳ, và
những người khác gọi là "tạo-giả thuyết, giả thuyết - kiểm tra" kỹ thuật).
Nhấn mạnh trên dữ liệu, chứ không phải là giả định, như là nền tảng cho việc ra
quyết định (những gì các học viên chất lượng gọi là "quản lý dựa trên thực tế".
Sử dụng các công cụ thống kê đơn giản (Giản đồ, Biểu đồ Pareto, biểu đồ tương
quan, nguy ên nhân và kết quả) để tổ chức các dữ liệu và vẽ các suy luận.
Hầu hết các chương trình đào t ạo t ập trung chủ yếu vào các kỹ thuật giải quyết vấn
đề, bằng cách sử dụng các bài tập và ví dụ thực tế. Những công cụ này tương đối đơn giản
và dễ dàng truyền đạt, tâm cần thiết - thiết lập, tuy nhiên, là khó khăn hơn để thiết lập. Độ
chính xác và độ chính xác là rất cần thiết cho việc học. Nhân viên do đó phải trở t hành kỷ
luật hơn trong suy nghĩ của họ và nhiều hơn nữa chú ý tới chi tiết. Họ liên tục phải hỏi:
"Làm thế nào để chúng ta b iết đó là đúng?" , Công nhận rằng gần đủ là không đủ t ốt, nếu
thực sự học tập là để diễn ra. Họ phải đẩy xa hơn những triệu chứng rõ ràng để đánh giá
nguyên nhân, thường thu thập chứng cứ khi sự khôn ngoan thông thường nói rằng đó là
không cần thiết
Xerox đã nắm vững được phương pháp này khi nó được ứng dụng trên công ty có
quy mô lớn. Trong năm 1983, những quản lý cấp cao đã giới thiệu sáng kiến lãnh đạo công
ty thông qua chất lượng, kế từ đó, tất cả công nhân được huấn luyện làm việc và kỹ thuật
giải quyết vấn đề trong những nhóm nhỏ. Ngày nay, quy trình 6 bước đã được sử dụng hầu
như cho tất cả các quy ết định.(xem quy trình giải quyết vấn đề của Xerox). Những người
công nhân được cung cấp dụng cụ trong bốn lĩnh vực:
Sáng t ạo những ý tưởng và chọn lọc thông tin (Vận dụng trí tuệ tập thể để giải quy ết vấn
đề phức tạp, phỏng vấn, khảo sát);
Đạt được sự nhất trí cao (liệt kê sự biến đổi theo chiều hướng giảm, phân loại mẫu, chọn
yếu tố nghiêm trong;
Phân tích và trình bày dữ liệu (biểu đồ nguyên nhân và hiệu quả., phân tích lĩnh vực có
tác động mạnh mẽ);
Và cuối cùng là lên kế hoạch thực hiện (biểu đồ phát triển, sơ đồ gantt).
Và họ đã thực hành những công cụ này trong suốt khóa huấn luyện mà đã diễn ra
trong nhiều ngày. Sự huấn luyện đã được đưa ra cho các nhóm được gọi là “ gia đình”,
những thành viên của những lĩnh vực giống nhau hoặc đội đơn vị kinh doanh, và những
công cụ này đã được áp dụng để giải quyết những vấn đề thực tế mà nhóm đang phải đối
mặt. Kết quả của quy trình này đã tạo nên một ngôn ngữ thông dụng và nhất quán để công
ty với quy mô lớn t iếp cận và giải quyết vấn đề. Một khi người công nhân đã được huấn
luyện, họ mong đợi được sử dụng những kỹ thuật trong tất cả các trường hợp và không có
chủ đề nào bị giới hạn. Khi một nhóm quản lý cấp cao được hình thành để xem xét lại cấu
trúc tổ chức của X erox và đưa ra những khả năng lực chọn khác, họ cũng sử dụng những
quy trình và công cụ tương tự.
2. Sự thử nghiệm: Hoạt động này liên quan đến việc nghiên cứu và kiểm tra thử kiến thức
mới một cách có hệ thống. Sử dụng phương pháp khoa học là cần t hiết, và hiển nhiên
phải được sử dụng song song trong giải quyết vấn đề. Nhưng không giống như giải
quyết vấn đề, sự thử nghiệm bị thúc đẩy bởi cơ hội và mở rộng tầm nhận thức, chứ
không phải do sự khó khăn hiện tại. Có hai dạng thử nghiệm: chương trình liên tục và
một loại dự án chứng minh.
Chương trình liên tục: thường giải quy ết những loạt thử nghiệm nhỏ liên
tục, thiết kế để tạo ra sự gia tăng về kiến thức. Chương trình này là trụ cột của chương
trình cải thiện liên tục và đặc biệt thông dụng cho dạng công ty nhiều tầng nấc.
Corning, Ví dụ, thử nghiệm liên tục với những nguyên liệu thô thay đổi và những công
thức mới sẽ làm tăng lợi tức và cung cấp loại thủy tinh tốt hơn. Allegheny Ludlum, một
người làm thép đặc biệt, thường xuyên kiểm tra phương pháp cuộn mới và cải thiện kỹ
thuật đã làm tăng sản lượng và giảm chi phí.
Thành công của “chương trình liên tục” đã chia sẽ rất nhiều nét tiêu biểu.
Đầu tiên, họ làm việc chăm chỉ để đảm bảo sự kiên đinh của ý tưởng mới.ngay cả
nếu họ phải cập nhật từ bên ngòai tổ chức. Chaparral Steel đã gửi đợt giám sát đầu tiên ở
các kỳ nghỉ phép trên toàn cầu, nơi mà họ học t ập các lãnh đạo của học thuật và công
nghiệp. Phát triển sự hiểu biết của những kỹ thuật và sự thực hành trong công việc, sau đó
họ mang về công ty những gì học đư ợc và tích hợp nó vào hoạt động của công ty. Trong
phần lớn kết quả của sáng kiến này, Chaparral là một trong năm nhà máy sản xuất thép có
chi phí thấp nhất trên thế giới. Chương trình tác động của GE như sau: lúc ban đầu họ gửi
quản lý sản xuất đến Nhật để học cách cách tân nhà máy, như là vòng chất lượng và thẻ
Kanban, và sau đó tích hợp những kiến thức này vào chính tổ chức của họ; và ngày nay, thì
châu Âu là điểm đến, để thực hành việc cải tiến năng suất mục tiêu. Chương trình này là
một nguyên nhân đã giúp cho GE đạt được năng suất trung bình tăng thêm hơn 5% so với 4
năm trước.
Sự thành công của chương trình liên t ục cũng đòi hỏi một hệ thống động viên đó là
sự yêu thích rủi ro. Các công nhân nên cảm thấy rằng lợi ích từ kinh nghiệm vượt hơn chi
phí, nói cách khác, là họ không bị lôi cuốn vô.
Điều này tạo ra những thách thức khó khăn cho nhà quản lý, người bị mắc kẹt giữa
hai thái cực. Họ phải duy trì sự trãi nghiệm và kiểm soát các cuộc thử nghiệm mà không t ạo
ra sự ngột ngạt bởi sự trừng phạt không đáng đối với sai lầm của công nhân. Allegheny
Ludlum có những mánh khóe hoàn hảo: nó tốn kém, những kinh nghiệm có tầm ảnh hưởng
cao hơn là những thang điểm đã từng đánh giá những người quản lý nhưng lại đòi hỏi sự
phê chuẩn trước của những lãnh đạo cấp cao. Kết quả đã được trở thành một lịch sử của
việc cải t iến năng suất hàng năm lên đến 7% đến 8%.
Cuối cùng, chương trình liên tục cần những người lãnh đạo và những người công
nhân đã được huấn luyện kỹ năng phải thực hành và đánh giá kinh nghiệm. Những kỹ năng
này hiếm khi trực quan và phải thường xuyên học tập. Nó bao hàm khả năng rất lớn,
phương pháp phân tích, giống như thiết kế kinh nghiệm, có hiệu quả khi so sánh một số
lượng lớn của nhiều khả năng lựa chọn., kỹ thuật đồ họa, giống như phân tích quy trình
những điều này rất cần thiết để tái thiết kế luồng công việc, và những kỹ thuật sáng t ạo,
giống như storyboarding và đóng vai, tất cả những điều này làm cho các sáng kiến đi theo.
Chương trình huấn luy ện hiệu quả nhất là tập trung chặt chẽ và đề cao một tập hợp nhỏ
những kỹ thuật “may đo” những nhu cầu của công nhân. Huấn luyện là thiết kế những kinh
nghiệm, ví dụ, huấn luyện thì hữu dụng cho kỹ sư s ản xuất, trong khi những kỹ thuật sáng
tạo lại thích hợp cho phát triển nhóm.
Dự án trình diễn: thì luôn luôn lớn hơn và phức tạp hơn những kinh nghiệm liên
tục. Chúng liên quan đến chỉnh thể luận, thay đổi hệ thống trên diện rộng, giới thiệu ở một
phía và thường gắn liền với mục tiêu của năng lực phát triển tổ chức mới. Bởi vì những dự
án này sẽ trình bày lại sự thay đổi sắc bén trong quá khứ, họ thường thiết kế từ sự hỗn t ạp,
sử dụng biện pháp tiến gần tới việc giũ bỏ trách nhiệm. Nhà máy thực phẩm TOPeka, là
một trong những hệ thống có lối làm việc tận tâm cao của nước này là một dự án trình diễn
tiên phong đã được khởi xướng để giới thiệu những ý tưởng của nhóm quản lý an toàn và
công nhân tự quản ở mức độ cao, ví dụ gần đây nhất là thiết kế ra ý tưởng suy nghĩ về việc
phát triển một chiếc xe hơi có kích cỡ nhỏ, chế tạo nó và bán nó là GM/Staturn Division.
Dự án trình diễn chia số lượng bộ phận cấu thành của sự phân biệt.
Các bộ phận cầu thành thông thường là dự án đầu tiên bao gồm các nguy ên
tắc và các cách tiếp cận mà một tổ chức hy vọng chấp nhận sau đó trên một thang đo
rộng.Vì lý do này, nó ảnh hưởng ở tầm tiếp tiếp hơn là điểm cuối cùng và liên quan đến
việc xem xét “ học bằng thực hành” . Thông thường thì khóa giữa sẽ được hiệu chỉnh.
Các bộ phận phận cấu thành này thiết lập đường lối chính sách và những quyết
định luật lệ cho những dự án sau đó. N gười quản lý phải vì thế mà thông cảm cho
những t iền lệ trước đó mà những tiền lệ đó đã được t hiết lập và gửi những dấu hiệu
mạnh mẽ nếu họ mong đợi thiết lập ra những qui tắc mới.
Những bộ phận cấu thành chạm trán với những đợt kiểm tra khó khăn của lòng
trung thành từ người công nhân, những con người mong đợi ngay khi có luật trong
thực t ế đã thay đổi.
Những bộ phận cấu thành này thông thường được phát triển bởi những đội đa chức
năng báo cáo trực tiếp cho lãnh đạo cấp cao.
Những bộ phận này có khuynh hướng giới hạn sự ảnh hưởng lên phần còn lại của
tổ chức nếu họ không được hỗ trợ từ những chiến lược cụ thể để chuyển giao học
tập.
Tất cả những đặc trưng này xuất hiện trong dự án trình diễn đã được đưa ra bởi công
ty Copeland, nhà sản xuất máy nén thành công ở giữa thập niên 70, sau đó người lãnh đạo
cao nhất của công ty là Matt Diggs đã muốn chuyển đổi phương pháp tiếp cận của công ty
sang sản xuất. Trước đây copeland đã có những máy móc và lắp ráp t ất cả các sản phẩm
trong điều kiện đơn lẻ. Chi phí cao và chất lượng có giới hạn. Vấn đề là Diggs đã thất bại
vì có quá nhiều vấn để phức tạp.
Khả năng kiểm soát nhiệt độ và áp suất để xếp các hạt silicon thẳng hàng và hình
thành silicon cứng là ví dụ của việc làm như thế nào; hiểu được quá trình lý hóa t ạo ra được
sự thẳng hàng là ví dụ cho việc biết được t ại sao.
Sự khác biệt hơn nữa đều có thể xảy ra theo như “các giai đoạn của k iến thức” đề
cập đến. Kiến thức về việc vận hành có thể được sắp xếp theo một trật tự nhất định, từ hiểu
biết hạn chế và khả năng tạo ra ít sự khác biệt đến hiểu biết hoàn thiện hơn trong đó có cả
những t ình huống ngẫu nhiên được dự đoán trước và kiểm soát chặt. T rong bối cảnh này,
thí nghiệm và việc giải quyết vấn đề thúc đẩy việc học tập bằng cách thúc đẩy tổ chức tiến
lên phía trước, từ giai đoạn kiến thức thấp đến giai đoạn kiến t hức cao.
3. Học tập từ kinh nghiệm trong quá khứ. Công ty phải xem xét lại những thành công
và thất bại của mình, tiếp cận chúng một cách có hệ thống, và ghi nhận các bài học dưới
hình thức mà nhân viên thấy chúng cởi mở và có thể t iếp cận được. Một chuy ên gia đã
gọi quá trình này là “Bài phê bình của Santayana” trích lời của nhà triết học nổi tiếng
George Santayana, người đã phát biểu “Những ai không thể nhớ được quá khứ thì bị
buộc phải lập lại quá khứ.” Thật không may, hiện nay, rất nhiều nhà quản lý thờ ơ, hay
thậm chí thù nghịch với quá khứ vì không thể phản ánh được quá khứ họ để những kiến
thức quí báu mất đi.
Một nghiên cứu về hơn 150 sản phẩm mới đã đưa đến kết luận là “Kiến thức có được
từ những thất bại thường là phương tiện để đạt những thành công kế tiếp… Nói một cách
đơn giản nhất, thất bại chính là người thầy tuyệt vời.” Ví dụ như hàng loạt máy vi tính 360
của IBM, một tronh những sản phẩm phổ biến và đem lại lợi nhuận nhiều nhất từ trước đến
giờ cho IBM, là dựa vào kỹ thuật của dòng máy vi tính St retch bị thất bại trước đó. Trong
trường hợp này cũng giống như nhiều trường hợp khác học tập diễn ra một cách tình cờ hơn
là được chuẩn bị chu đáo. Tuy nhiên, có một số công ty đã thiết lập được một số qui trình
đòi hỏi các nhà quản lý của họ đều đặn suy nghĩ về quá khứ và học hỏi từ chính sai lầm của
họ.
Boeing cũng đã ngay lập tức thực hiện như vậy sau khi họ gặp khó khăn với chương
trình máy bay 737 và 747. Cả hai máy bay đều được giới thiệu đình đám và cũng gặp những
vấn đề nghiêm trọng. Để đảm bảo rằng sai lẩm như vậy không lập lại nữa, các nhà quản lý
cấp cao đã thành lập nhóm “nhân viên cấp cao”, được gọi là Dự án Làm việc tại Nhà, để so
sánh quá trình phát triển máy bay 737 và 747 với 707 và 727, là hai trong số những máy
bay mang lại lợi nhuận nhiều nhất cho công ty. Nhóm dự án cũng được yêu cầu phát triển
một bộ “các bài học” có t hể được sử dụng cho những dự án trong tương lai. Sau khi làm
việc được 3 năm, họ đưa ra hàng trăm đề nghị và một quyển sách nhỏ dày gần 2 cm. M ột
vài thành viên của nhóm đư ợc chuyển sang chương trình khởi động 757 và 767, và nhờ vào
kinh nghiệm họ đã sản xuất ra thế hệ máy bay không hề có lỗi và thành công nhất trong lịch
sử của Boeing.
Các công ty khác cũng sử dụng phương pháp tương tự như vậy. Giống như Boeing,
Xerox cũng nghiên cứu quá trình phát triển sản phẩm của họ, xem xét 3 sản phẩm bị lỗi
trong nổ lực tìm hiểu tại sao những sáng kiến của công ty lại thất bại thường xuyên đến vậy.
Athur D. Little (ADL), một công ty tư vấn, t ập trung vào những thành công trong quá khứ
của họ. Ban quản lý cấp cao mời các nhà tư vấn của ADL trên toàn thế giới đến “tiệc liên
hoan” kéo dài hai ngày, đưa ra các quầy và các bài trình bày mô tả lại những thực hành, ấn
phẩm và kỹ thuật thành công nhất của công ty.Hãng BP thậm chí còn đi xa hơn nữa và
thành lập đơn vị đánh giá hậu dự án nhằm điểm lại những dự án đầu tư chủ chốt, viết ra
những t ình huống học t ập, và đưa những bài học này cho các nhà lập kế hoạch và những
người này sẽ tổng kết lại và đưa vào nguyên tắc hư ớng dẫn lập kế hoạch của công ty. M ột
đơn vị gồm 5 người báo cáo cho ban giám đốc và xem xét lại 6 dự án mỗi năm. M ột lượng
lớn thời gian đã được sử dụng để phỏng vấn các nhà quản lý. Loại phỏng vấn này bây giờ
được t iến hành đều đặn ở cấp độ dự án.
Boeing sử dụng các bài học từ việc phát triển các mô hình trước đó để sản xuất
ra chiếc 157 và 767 - thế hệ máy bay không hề có lỗi và thành công nhất trong lịch sử
của công ty.
Một chuyên gia đã quan sát tại điểm chính của phương pháp này, “chính là tư tưởng
có thể giúp cho công ty nhận ra được giá trị của những thất bại hữu ích đối lập với những
thành công vô ích. M ột thất bại hữu ích chính là cái có thể dẫn dắt đến những hiểu biết sâu
sắc và chính là phần bổ sung vào sự thông thái của tổ chức. M ột thành công vô ích xuất
hiện khi việc gì đó tiến triển tốt nhưng không ai biết bằng cách nào và t ại sao”.
Nhà sáng lập huyền thoại của IBM , Thomas Watson, Sr., hiểu được sự khác biệt này
rất rõ. Công ty đã có được trải nghiệm này khi một nhà quản lý trẻ tuổi, sau khi làm thua lỗ
10 triệu đô la trong một thương vụ mạo hiểm, được gọi vào văn phòng của Watson. Viên
quản lý trẻ tuổi này hoàn toàn rụt rè nói, “ tôi đoán là ông muốn tôi từ chức.” W atson trả
lời, “ anh không đùa đó chứ? Chúng tôi vừa t ốn 10 triệu đô la để giáo dục anh.”
May mắn thay, quá trình học hỏi không cần phải đắt đỏ như t hế. Những tình huống
học tập và những tóm tắt sau mỗi dự án giống như của Xerox và BP có thể được thực hiện
với chi phí thấp hơn là chi phí cho các nhà quản lý. Công ty cũng có thể đưa vào danh sách
sự trợ giúp của các khoa và sinh viên tại trường đại học địa phương, họ đưa vào những quan
điểm trong sáng, thực tập và đưa ra những tình huống học t ập như là cơ hội để có được kinh
nghiệm và gia tăng việc học hỏi của chính bản thân họ. Một số công ty đã thành lập được
ngân hàng dữ liệu được vi tính hóa nhằm đẩy nhanh quá trình học tập. Tại công ty bảo hiểm
nhân thọ Paul Revere, ban quản lý yêu cầu t ất cả các đội giải quyết vấn đề điền vào m ẫu
đăng ký mô tả dự án đề nghị của họ nếu họ hy vọng ứng cử cho chương trình tưởng thưởng
của công ty. Sau đó công ty sẽ nhập các đơn đăng ký này vào hệ thống vi tính và có thể
ngay lập tứ truy xuất một danh sách có những nhóm khác đã hoặc đang thực hiện chủ đề đó
cùng với tên của ngư ời liên lạc. Những kinh nghiệm tương ứng như vậy có thể có được chỉ
cần một cú điện thoại.
4. Học tập từ người khác. Dĩ nhiên không phải tất cả việc học t ập chỉ xuất phát từ
sự phản ánh và tự phân tích. Đôi khi cách mạnh mẽ nhất lại xuất phát từ việc nhìn ra môi
trường bên ngoài nhằm có được quan điểm mới. Các nhà quản lý biết rằng ngay cả công ty
trong những ngành khác nhau cũng có thể là nguồn ý tưởng phong phú và chất xúc tác cho
suy nghĩ sáng tạo. Tại những tổ chức này, việc vay mượn năng động thay thế cho hội chứng
“không phát minh ở đây”. Milliken gọi quá trình SIS là “Steal Ideas Shameless ly” (“Ăn cắp
ý tưởng không đáng xấu hổ”), từ rộng hơn cho nó là điểm mốc.
Theo một chuyên gia, “Điểm mốc là một cuộc đ iều tra đang được tiến hành và kinh
nghiệm học t ập đảm bảo cho việc thực h iện tốt nhất của ngành được tiết lộ, phân tích, áp
dụng và thực hiện.” Lợi ích lớn nhất có được từ việc học tập quá trình thực hiện công việc,
cách mà công việc được thực hiện hơn là kết quả của nó, và từ việc thu hút các nhà quản lý
theo tuyến tham gia vào quá trình. Gần như bất kỳ cái gì cũng có thể được đánh dấu mốc.
Thật không may vẫn còn những nhầm lẫn đáng kể về các yêu cầu của một điểm mốc
thành công. Đánh dấu điểm mốc không phải là “du lịch của ngành” hay hàng loạt các
chuyến viếng thăm những công ty có được danh tiếng hoặc đạt được những giải thưởng
chất lượng. Nó là một quá trình nghiêm ngặt bắt đầu bằng một nghiên cứu toàn diện để xác
định những tổ chức nào có được thực hành tốt nhất theo sau là một nghiên cứu cẩn thận về
việc thực hành và thực hiện công việc, sự tiến triển thông qua các chuyến viếng thăm và
phỏng vấn tại công ty, và đi đến kết luận bằng một phân tích kết quả, phát triển các đề nghị
và thực hiện. Quá trình này tốn nhiều thời gian nhưng không đắt đỏ. Điểm mốc của công ty
AT&T dự báo là mất khoảng 6 tháng để thực hiện một dự án cỡ trung và có chi phí bên
ngoài túi là 20.000.000 đô la (khi có chi phí nhân sự kèm theo thì con số này gấp 3 hay 4
lần).
Đánh dấu điểm mốc là một cách để có được quan điểm bên ngoài; một nguồn ý kiến
phong phú khác là khách hàng. Các cuộc đối thoại với khách hàng kích thích sự học hỏi,
bởi vì khách hàng chính là các chuyên gia trong những gì mà họ thực hiện. Khách hàng có
thể cung cấp thông tin cập nhật nhất của s ản phẩm, các so sánh đầy tính cạnh tranh, sự hiểu
biết trong việc thay đổi các ưu tiên và phản hồi về dịch vụ cũng như các mẫu sử dụng.Và
công ty sử dụng những hiểu biết này ở tất cả các cấp độ từ hệ thống t hực hiện cho tới cửa
hàng. Tại công ty Motorola, các thành viên của ủy ban vận hành và chính sách bao gồm cả
CEO đi gặp khách hàng thường xuyên. Ở công ty Thép Worthington, tất cả nhân viên vận
hành máy đều đặn đi đến nhà máy của khách hàng để thảo luận về nhu cầu của họ.
Đôi khi khách hàng không thể diễn đạt rõ ràng nhu cầu của họ hay ngay cả không thể
nhớ vấn đề gần nhất mà họ gặp phải với một sản phẩm hay dịch vụ nào đó. N ếu là trường
hợp đó, các nhà quản lý phải quan sát hành động của họ. Nếu là trường hợp đó thì Xerox đã
thuê một số nhà nhân chủng học tại Palo Al của họ đến Trung tâm Nghiên cứu nhằm quan
sát các người t iêu dùng sử dụng sản phẩm của họ trong văn phòng. Thiết bị kỹ thuật số phát
triển quá trình tương tác được gọi là “yêu cầu theo ngữ cảnh” và quá trình tương tác này
được các kỹ sư phần mềm sử dụng để quan sát người sử dụng kỹ thuật mới của họ khi họ
muốn tìm hiểu về sản phẩm của mình. M illicam đã tạo ra “đội giao hàng đầu tiên” đi theo
các chuyến giao hàng đầu t iên của tất cả các sản phẩm: các thành viên của đội đi theo sản
phẩm thông qua qui trình sản xuất của khách hàng nhằm xem các sản phẩm được sử dụng
như thế nào và sau đó phát triển các ý tưởng để cải tiến sản phẩm nhiều hơn nữa.
Khách hàng có thể cung cấp thông tin cập nhật nhất của sản phẩm, các so sánh
đầy tính cạnh tranh, sự hiểu biết trong việ c thay đổi các ưu tiên và phản hồi về dị ch vụ
cũng như các mẫu sử dụng.Và công ty sử dụng những hiểu biết này ở tất cả các cấp độ
từ hệ thống thực hiện cho tới cửa hàng.
Cho dù nguồn ý kiến bên ngoài là gì đi nữa, việc học tập chỉ xuất hiện trong môi
trường tiếp nhận. Các nhà quản lý không thể cứ bảo thủ và họ phải cởi mở với các chỉ trích
hoặc tin tức xấu. Đây là một thách đố khó khăn nhưng rất cần thiết cho thành công. Các
công ty tiếp cận khách hàng mà cho là “chúng t a chắc chắn đúng và họ chắc chắn sai” hay
viếng thăm các công ty khác mà nghĩ “họ chẳng dạy được chúng ta điều gì cả” ít khi học
được nhiều. N gược lại một tổ chức học tập luôn khai thác việc lắng nghe cởi mở và chăm
chú.
5. Chuyển giao kiến thức. Để học tập hơn là một công việc nội bộ, kiến thức cần
phải được truyền bá nhanh chống và hiệu quả trong toàn tổ chức. Ý tưởng chứa đựng ảnh
hưởng lớn nhất khi chúng được chia sẻ một cách rộng rãi chứ không phải giữ trong tay của
vài người. Một vài cơ chế thúc đẩy quá trình này bao gồm các báo cáo bằng miệng hoặc
được viết ra, các chuyến viếng thăm tận nơi và các chuyến đi hay các chương trình luân
chuyển nhân sự, chương trình giáo dục và huấn luyện và các chương trình được tiêu chuẩn
hóa. M ỗi cái đều có những điểm m ạnh và điểm yếu riêng biệt.
Báo cáo và các chuyến đi là các phương tiện phổ biến nhất. Các báo cáo phục vụ cho
nhiều mục đích: nó tóm tắt các phát hiện, cung cấp các danh sách liệt kê những việc nên
làm và không nên làm và mô tả các quá trình hay sự kiện quan trọng. Nó đề cập đến nhiều
chủ đề, từ các nghiên cứu điểm mốc đến các hội ngị giới thiệu kỹ t huật tiếp thị mới phát
hiện. Ngày nay các báo cáo bằng văn bản thường được bổ sung bằng băng video t ạo ra
được sự trung thực và cấp thời hơn.
Các chuyến đi cũng là phương tiện phổ biến tương tự cho việc truyền bá kiến thức,
đặc biệt là đối với những tổ chức có nhiều phòng ban và có nhiều địa điểm. Chuyến đi hiệu
quả nhất sẽ được điều chỉnh theo nhiều đối tượng người tham gia và nhu cầu khác nhau. Để
giới thiệu các nhà quản lý về qui trình thực hiện sản xuất chuyên biệt của công ty sản xuất
xe hơi New United, một liên doanh với Toyota, General Motor, đã phát triển hàng loạt các
chuyến đi chuyên biệt. M ột số chuyến đi dành cho các nhà quản lý cấp cao và cấp trung,
một số dành cho nhà quản lý cấp thấp hơn. Mỗi chuyến đi mô t ả chính sách, phương thức
thực hành và hệ thống tương ứng nhất với cấp độ quản lý của người tham gia.
Mặc cho tính phổ biến của hình thức báo cáo và chuyến đi, chúng lại khá bất tiện
trong việc truyền bá kiến thức. Các chi tiết ẩn sau các quan niệm về quản lý khó mà có thể
truyền tải lại lần nữa. Hiểu được các sự kiện bằng cách đọc hoặc thấy chúng được minh họa
là một chuyện, trải nghiệm chúng lại là chuyện khác. Theo lời của một nhà khoa học hàng
đầu thì “rất khó để có thể trở nên thông thái theo cách t hụ động. Trải nghiệm một điều gì đó
sẽ có giá trị nhiều hơn là biết nó qua mô tả.” Vì lý do này mà chương trình luân chuy ển
nhân sự là một trong những phương pháp mạnh mẽ nhất trong việc truyền bá kiến thức.
Trong nhiều tổ chức, hiểu biết về chuyên môn chỉ được giữ riêng trong nội bộ: một
kỹ thuật viên vi tính có kỹ năng chuyên môn, một giám đốc nhãn hàng toàn cầu hay một
trưởng bộ phận đã thành công trong các liên doanh. Những ai tiếp xúc hàng ngày với những
chuyên gia này có thể học hỏi rất nhiều từ những kỹ năng của họ nhưng mức độ ảnh hưởng
của họ lại khá hạn hẹp. Chuyển họ đến các bộ phận khác trong tổ chức có thể giúp chia sẻ
được nguồn lực. Sự luân chuyển có thể từ bộ phận này sang bộ phận khác, phòng ban này
sang phòng ban khác. Những người này có thể là các nhà quản lý cấp cao, cấp trung hoặc
cấp một. Một giám sát có kinh nghiệm trong sản xuất đúng lúc (just-in-time) có thể chuy ển
đến nhà máy khác để áp dụng phương pháp này tại nhà máy đó, hay giám đốc của một bộ
phận thành công có thể chuyển đến một bộ phận chậm chạp để t iếp thêm sinh lực cho bộ
phận đó bằng những ý tưởng đã được chứng minh. CEO của công ty Time Life đã sử dụng
phương pháp này khi ông chuyển giám đốc bộ phận âm nhạc của công ty, người có vài năm
tạo ra sự t ăng trưởng nhanh chóng và lợi nhuận cao thông qua những sáng kiến tiếp thị, đến
bộ phận sách vở, nơi mà lợi nhuận không hề tăng vì chỉ biết dựa vào những quan niệm tiếp
thị truy ền thống.
Luân chuyển nhân viên lại là một lựa chọn khác. Đây là cách hiệu quả nhất khi nó
cho phép các nhà quản lý đầy kinh nghiệm chia sẻ những điều mà họ đã học hỏi được và
khuếch tán chúng trong toàn công ty dưới các hình thức tiêu chuẩn, chính sách hoặc chương
trình huấn luyện mới. Hãy xem công ty PPG đã sử dụng sự luân chuyển như vậy nhằm đẩy
mạnh nguồn nhân lực của họ xung quanh quan niệm hệ thống làm việc tận tâm. Trong năm
1986, công ty PPG đã xây dựng một nhà m áy thổi thủy tinh ở Chehalis, Washington, nhà
máy đã sử dụng những kỹ thuật mới cũng như những cải tiến trong việc quản lý nhân sự do
giám đốc nhà máy và nhân viên của ông phát triển. Tất cả các công nhân được xếp thành
những đội tự quản nhỏ với trách nhiệm là phân công công việc, lập thời gian biểu, giải
quyết vấn đề, cải thiện công việc và điểm lại hoạt động. Sau vài năm quản lý nhà máy, vị
giám đốc này được thăng tiến lên làm giám đốc nhân sự của toàn bộ nhóm thủy tinh. Rút từ
những kinh nghiệm ở Chehalis, ông đã phát triển một chương trình huấn luyện dành cho
giám sát cấp một. Chương trình này đã dạy những hành vi cần t hiết để quản lý nhân viên
trong môi trường tự quản có các thành viên đều hăng hái tham gia các hoạt động.
Theo một ví dụ của công ty PPG, chương trình huấn luyện và giáo dục là công cụ
mạnh mẽ để truyền bá kiến thức. Nhưng để có được hiệu quả tối đa nó cần được gắn liền
với việc thực hiện. Thông thường các chuyên viên huấn luyện cho là áp dụng các kiến thức
mới thì không cần phải thực hiện các bước cụ thể để đảm bảo là các học viên thực sự theo
kịp. Ít khi nào các chuyên viên huấn luyện t ạo cơ hội cho việc thực t ập và có ít chương trình
đẩy mạnh việc áp dụng những gì được dạy sau khi nhân viên quay trở lại công việc của họ.
Xerox và GTE thì ngoại lệ. Như đã ghi chú phía trước, khi Xerox giới thiệu kỹ thuật
giải quyết vấn đề về nhân viên của họ vào thập niên 1980, mọi người từ các vị trí cao đến
thấp của tổ chức được giản dạy trong những nhóm hành chính dẩn đầu bởi các nhà lãnh đạo
cấp trung. Sau khi được giới thiệu về ý tưởng và kỹ thuật, mỗi nhóm ứng dụng cái mà họ đã
học vào giải quyết những vấn đề thực tế trong công việc. Trong với một tinh thần tương tự,
Chất lượng của GTE: Chương trình khía cạnh đối t hủ được đưa ra cho các nhóm của của
các nhà lãnh đạo và trưởng phòng kinh doanh báo cáo lại cho họ. Vào ba ngày đầu tiên của
khóa học, mỗi nhóm được nhận một yêu cầu từ nhân viên của công ty phải chuẩn bị một kế
hoạch hoàn chỉnh về chất lượng cho phòng ban của họ, dựa trên ý tưởng của khóa học,
trong vòng chỉ 60 ngày. Thời đoạn tranh luận cho trong vòng từ hai đến ba giờ trong suốt
chương trình do đó các nhóm có thể bắt đầu làm việc với kế hoạch của họ. Sauk hi các
nhóm đã đệ trình các báo cáo của họ và sau đó các nhóm phải trình bài các bài báo cáo đó.
Chương trình GTE tạo ra sự cải thiện một cách năng động về chất lượng.
Ví dụ của GTE đã đề nghị một đường lối quan trọng: sự hiểu biết thì có khả năng
hơn trong hiệu quả khi sự động viên đúng lúc được thực hiện. Nếu các nhân viên biết rằng
các hoạch định của họ sẽ được xem xét và đánh giá, mặt khác đó là sự học tập của họ sẽ
được ứng dụng, các quy trình thì có khả năng là xa hơn thế. Trong hầu hết các công ty,
trạng thái Quo được chuẩn bị tốt chỉ khi các trưởng phòng và nhân viên thấy được những ý
kiến mới có sự thích thú đối với họ sẽ được chấp nhận một cách vui vẻ. AT&T đã phát triển
một tiếp cận sáng tạo chứa đựng các thông tin trao đổi. Được gọi Phần thưởng chất lượng
của chủ tịch viết tắt (CQA), nó là một mô hình đấu tranh nội bộ về chất lượng trong phần
thưởng của Baldrige nhưng với sự quan trọng gấp bội: những phần thưởng được trao không
chỉ dựa vào sự thực hiện tốt mà còn sự hoàn thiện trong công việc trong năm đó. Phần
thưởng Vàng, Bạc, Đồng về sự cải tiến được trao tặng theo đơn vị mà đã thực hiện cải tiến
với số điểm được chờ đợi là 200, 150, 100. Các phần thưởng nài cung cấp cho sự động viên
thay đổi. Mỗi năm, nó được nhận dạng cho từng đơn vị trong công ty mà có số điểm ít nhất
là 60% đạt được theo chương trình và sau đó được công bố tên của chương trình, tên người
viết theo các báo cáo và thư điện tử.
HỌC CÁCH ĐO LƯỜNG:
Các nhà quản lý có hiểu biết rằng “ nếu bạn không thể đo lường, thì bạn không thể
thành công được” câu nói này là đúng cho việc học như các vấn đề khác. Về mặt truyền
thống mà nói, các cách giải quyết “ đường cong học tập” và “chức năng quy trình sản xuất”.
cả hai ý tưởng được tìm ra vào những thập niên 1920 và 1930, là chi phí của sản xuất rơi
xuống một cách có thể dự đoán đượcvowis sự gia tăng tích lũy về thể tích. N hững sự gia
tăng này được xem xét như là sự hiểu biết vĩ đại về sản xuất và một nghiên cứu mới đã là
một ví dụ cho sự ảnh hưởng đến chi phí của lao động trực t iếp. Sau đó nghiên cứu lang rộng
trong các góc nhìn khác, về chi phí tổng trong sản xuất và ảnh hưởng của kinh nghiệm này
trong các ngành công nghiệp khác, bao gồm công nghiệp đóng tàu, khai thác dầu, và ngành
điện tử dân dụng, T iêu biểu thì, mức động học tập đã tăng trưởng trong khoản 80% đến
85%, mặc dầu có nhiều sự biến khác biệt rộng lớn.
Các công ty như Boston Consulting Group cho ra đời các ý kiến của họ ở mức độ
cao hơn vào thập niên 1970. Vẽ ra một logic về đường cong học tập, họ tranh cải rằng công
nghiệp như là toàn bộ bộ mặt “ của đường cong kinh nghiệm”, chi phí và giá cả suy giảm
bởi sự dự đoán sự tăng trưởng của ngành công nghiệp và sự tăng trưởng của tổng cung sản
phẩm. Với cách tiếp cận này, các nhà từ vấn đã đề nghị về các quy luật cạnh tranh. Để thích
thú cho lợi ích của kinh nghiệm này, các công ty phỉa t ăng trưởng sản phẩn của họ một cách
đều đặng vược lên đối thủ đẻ giảm chi phí và mở rộng t hị trường.
Cả hai đường cong học t ập và kinh nghiệm vẩn được sử dụng rộng rải, đặt biệt
trong, các ngành như hàng không, công nghiệp điện tử. Boeing, đã nhanh chống t hành lập
các đượng cong học tập cho mọi nhà xưởng trong các quy trình lắp ráp, họ hướng dẩn cách
theo dõi hiệu quả, thành lập các quy trình công việc và xắp xếp, và xác định giá cũng như
mức lợi nhuận của một máy bay mới. Đường cong kinh nghiệm được ứng dụng chung trong
ngành bán dẩn và công nghiệp điện tử dân dụng, mơi mà chúng được ướng dụng để dự đoán
chi phí và giá cả.
Đối với các công ty hi vọng trưở thành các tổ chức học hỏi, hơn thế nửa các thước đo
này là hoàn thiện. Chúng tập trung vào chỉ một thước đo đơn lẽ của đầu ra (như giá, chi phí)
và không quan t âm đến vấn đề học tập mà có thể ảnh hưởng đến các giá trị khác của đối
thủ, như chất lượng, phân phối hay việc giới thiệu các sản phẩm mới. Họ đề xuất chỉ mộ
động lược học tậm có thể có ( tổng dung lượng sản phẩm) và bỏ qua hai khả năng của sự
học hỏi trong công nghiệp, nơi mà đầu ra là phẳng và khả năng học hỏi có thể bị dẩn đường
bởi các nguồn lực khác, như là công nghệ mới hay sự đấu tranh với các sản phẩm đối thủ.
Có lẽ vấn đề quan trọng nhất, chúng đã chỉ cho chúng t a một ít về các nguồn lực học tập và
các mức độ của sự thay đổi.
Một thước đo khác được nổi lên trong sự phản ứng lại các vấn đề liên quan, được gọi
là đường cong “nửa chu kỳ sống”, chúng được phát triển bởi Analog D evices , và nền công
nghiệp bán dẩn, như là một phương hướng so sánh các mức độ cải t hiện nội bộ. đường cong
nửa chu kỳ sống đo lường thời gian mà thành công một nửa của quy trình cải thiện trong
các đo lường thực hiện đặt biệt. Khi các đo lường thực hiện (mức độ cạnh tranh, phân phối
đúng lúc, thời gian của t hị trường) được vẽ trên một trục thẳng đứng, sử dụng một thước đo
logarit, và thời gian là ngày tháng hay nămddwowcj vẽ theo trục ngang. Và đường cong
dược vẽ sau đó thể hiện sự học tập nhanh chóng hơn ( có thể thấy đường cong nửa vòng đời
minh họa trong hình).
Logic thì dễ hiểu. Các công ty , sự chia tách, hay các phòng ban có thể cần ít thời
gian để hoàn thiên phải được học nhanh hơn các đối tác ngang hàng khác. Về lâu dày, quy
trình học tập ngắn của chúng sẽ chuyển đổi thành sự thực hiện quan trọng. 50% mục đích
được đo lường của sự tiện lợi, nó được chia ra từ các nghiên cứu của quy trình cải thiện
thành công t ại các mức độ rộng lớn của các công ty. Đường cong nửa vòng đời cũng rất
mềm dẽo. Không giống như đường cong học t ập và kinh nghiệm, chúng thực h iện trên các
thước đo đầu ra và chúng không xác đ ịnh đến giá cả và chi phí. Hơn thế nửa, chúng là một
quy trình dễ hiểu, chúng cung cấp một thước đo đơn giản và chúng cho phép các phép so
sánh giữa các nhóm với nhau.
Tuy nhiên ngay cả những đường cong của nữa vòng đời sản phẩm cũng có những
điểm yếu quan trọng: chúng tập trung trên những kết quả duy nhất. Một vài loại kiến thức
phải cần nhiều năm để thấu hiểu, với một vài thay đổi hữu hình trong việc thực h iện suốc
các chu kỳ dài. Chẳng hạn như: tạo ra nét văn hóa chung hoặc là phát triển những tiếp cận
mới trong việc phát triển sản phẩm thì rất khó khăn trong thay đổi hệ thống. Bời vì những
chu kỳ thai nghén dài của chúng . Các đường cong nữa vòng đời sản phẩm hoặc là bất kỳ
phương pháp nào khác t ập trung duy nhất vào kết quả không giống như việc nắm bắt một
khóa học ngắn hạn nào đã từng có. Hiểu biết nhiều về khung công việc thì cần thiết để t ạo
ra sự tiến bộ.
Tổ chức học tập thường có thể t ìm thấy thông qua 3 giai đoạn chồng chéo: Bước đầu
tiên là nhận thức. Các thành viên của tổ chức bộc lộ ra những ý tưởng mới mở rộng ra kiến
thức của họ và bắt đầu suy nghĩ khác nhau theo hướng khác nhau.
Bước thứ hai là vấn đề hành vi, các công nhân bắt đầu nội hóa các hình ảnh mới và
thay đổi các hành vi của họ.
Và bước thứ ba là thực hiện cải t iến, với những thay đổi về hành vi dẫn đến những
tiến bộ trong kết quả có thể lượng hóa được như chất lượng thượng hạng, giao hàng tốt hơn,
thị phần đư8ợc gia t ăng hoặc là những thức hữu hình khác. Bời vì những thay đổi về hành
vi và nhận thức thường phải đi trước v iệc cải thiện cách thực hiện. Kiểm soát hoàn thành
khóa học phải bao gồm cả 3 giai đoạn trên.
Khảo sát, bảng câu hỏi, và phỏng vấn thì rất hữu dụng cho mục đ ích này. Ở mức độ
nhận thức, họ phải tập trung vào thái độ, và hiểu biết sâu. Có nhân công nhân hiểu thật sự
hiểu ý nghĩa của việc tự định hướng và làm việc nhóm. Hoặc là những hạn mục chưa rõ
rang.? Ở PPG một đội các chuyên gia về nguồn nhân lực kiểm tra định kỳ mọi nhà máy sản
xuất, bao gồm phỏng vấn rộng rãi với những công nhân trực tiếp, để đảm bảo các thuật ngữ
được hiểu đúng. Những tiếp cận mới đoối với khách hàng có được tiếp nhận không? Ỡ
cuộc họp của cấp quản lý tiêp thị trên thế giới vào năm 1989, Ford đã trình bày với các đối
tác về hàng loạt các giả thuyết về những trường hợp than phiền của khách hàng dẩn đến sự
xung đột với cac đại lý trong ngắn hạn hoặc là mục tiêu lợi nhuận của công ty và họ đáp lại
như thế nào.
Các cuộc khảo sát nhuu thế này là những bước đầu tiến tới làm rõ những thái độ thay
đổi và những cách suy nghĩ mới
Để đánh giá các thay đổi về hành vi các cuộc khảo sát và những bản câu hỏi phải
được bổ sung bởi việc khảo sát trực tiếp. Ở đây, bằng chứng là torng quá trình t hực hiện,
không có người thay thế cho việc thấy các hành động của nhân viên.
Pizza của Domino đã dùng những người mua hàng bí ẩn để đánh giá sự cam kết của
các nhà quản ly đối với dịch vụ khách hàng ở những cửa hiệu riêng lẻ. Những công ty khác
mời tư vấn bên ngoài đến tham quan, tham dự buổi gặp gỡ, quan sát hành động của công
nhân và sao đó báo cáo lại những gì mà họ học được.
Cách tiếp cận này là những tấm gương cho các nhà t hẩm tra cho phần thưởng
Bldrige, người đã thực hiện nhiều ngày tham quan các nhà bán kết để xem các hành vi của
công ty có khớp với các ứng dụng của họ hay không.
Cuối cùng, 1 kiểm tra nghiên cứu toàn diện cũng đo lường năng suất vận hành. Đồ
thị half-life hay các phương pháp đo lường năng suất khác là thiết yếu cho việc bảo đảm
rằng sự thay đổi hành vi và nhận thức mang lại kết quả thực sự. Không có chúng, các công
ty sẽ thiếu cơ sở pháp lý trong việc nghiên cứu và đảm bảo trong đầu tư mà nghiên cứu
đang phục vụ cho các mục tiêu tổ chức.
Nghiên cứu tổ chức không phải được làm chỉ trong môt sớm một chiều. Hầu hết
những thành công điển hình là thành quả của thái độ miệt mài cẩn thận, sự t ận tâm và các
quy trình quản lý được tích lũy từ từ và vững chắc theo thời gian. M ặc dù vậy , thay đổi có
thể được thực h iện ngay lập tức. Bất cứ công ty nào có nguyện vọng trở thành 1 tổ chức
nghiên cứu có thể bắt đầu bằng 1 vài bước đơn giản.
Bước đầu tiên là để t húc đẩy một môi trường dẫn dắt đến nghiên cứu. cần phải có
thời gian cho sự phản hồi và phân tích, để suy nghĩ về các kế hoạch chiến lược, khảo sát tỉ
mỉ nhu cầu khách hàng ước định hệ thống công việc hiện t ại và phát minh ra các sản phẩm
mới. Việc nghiên cứu sẽ trở nên khó khăn khi các nhân viên phiền nhiễu hay vội vã.Nó có
khuynh hướng bị lệch đi bởi áp lực thời tại. Chỉ khi cấp quản lý tối cao rõ ràng dứt khoát
dành thời gian cho nhân viên để tự do nghiên cứu. Thời gian này sẽ được nhân đôi nếu
nhân viên tự chủ được các kỹ năng để sử dụng một cách thông thạo. Do đó việc đào tạo
phương pháp vận dụng trí tuệ tập thể để giải quyết vấn đề phức tạp, giải quy ết vấn đề, đánh
giá thực nghiệm và những kỹ năng nghiên cứu cốt lõi khác là thiết yếu.
Một đòn bẫy mạnh mẽ khác để mở lên những ranh giới và các kích thích cho việc
trao đổi ý tưởng. Những ranh giới ngăn cản dòng chảy thông tin; cô lập nhóm và các cá
nhân và t ăng thêm các ý kiến. Mở ra các ranh giới với các cuộc họp và cuộc hội t hảo và các
đội dự án cho lựa chọn hoặc đối lập mức độ tổ chức hoặc liên kết công ty và khách hàng
cùng các nhà cung cấp của nó đảm bảo cho 1 luồng ý tưởng tươi mới và cơ hội để xem xét
viễn cảnh cạnh tranh. CEO của G eneral Electric: Jack Welch xem xét vấn đề này như là
một chất kích thích mạnh mẽ của sự thay đổi mà ông ấy thực hiện “sự không biên giới” đó
là viên đá đặt nền móng cho chiến lược công ty những năm 1990
Một lần nữa, các nhà quản lý đã thiết lập một môi trường khuyến khích hơn và mở
rộng hơn. Họ có thể tạo ra các diễn đàn nghiên cứu. có những chương trình hoặc sự kiện
được thiết kế với mục tiêu nghiên cứu kích thích và chúng có thể thực hiện ở nhiều dạng :
sự cân nhắc chiến lược mà thử nghiệm thay đổi môi trường cạnh tranh và danh mục vốn đầu
tư công ty, công nghệ và vị trí thị trường, sự thẩm tra hệ thống nhìn nhận lại tình trạng sức
khỏe, các quy trình chức năng ngang và hệ t hống phân phối; các báo cáo chuẩn trong nội bộ
nhận dạng và so sánh các hoạt động phân lớp tốt nhất cùng với tổ chức; nhiệm vụ nghiên
cứu mà điều phối việc dẫn dắt tổ chức xung quanh thế giới để hiểu tốt hơn những biểu hiện
của chúng và các kỹ năng riêng biệt; và các buổi liên hoan hay hội nghị chuyên đề mang
khách hàng và nhà cung ứng cùng các chuyên gia bên ngoài hay các nhóm bên trong lại với
nhau chia sẽ ý tưởng và nghiên cứu từ người khác. M ỗi một hành động này cổ vũ nghiên
cứu bằng cách đòi hỏi nhân viên đấu tranh với kiến thức mới và sự xem xét hàm ý của nó.
Mỗi cái cũng có thể hoàn toàn thích hợp với nhu cầu kinh doanh. Ví dụ 1 công ty khách
hàng tiêu thụ tốt có thể tài trợ một nghiên cứu để châu âu phát triển hệ thống phân phối
trong bối cảnh thị trường chung hợp nhất.trong khi các công ty công nghệ cao có thể lao
vào kiểm tra hệ thống để xem xét lại quy trình phát triển sản phẩm của chúng
Cùng với những nổ lực loại trừ các hàng rào cản trở nghiên cứu và bắt đầu dịch
chuyển nghiên cứu cao hơn trong chương trình nghị sự tổ chức.Họ cũng đề nghị một sự
thay đổi tinh vi tiêu điểm, tránh các cải tiến liên tục và hướng đến cam kết nghiên cứu.Cặp
đôi với sự hiểu biết tốt hơn cặp 3, ý nghĩa, sự quản lý , và sự đo lường nghiên cứu, sự thay
đổi này cung cấp một nền t ảng vững chắc cho việc xây dựng học hỏi tổ chức.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- building_and_learning_v1_6705.pdf